
vietnam medical journal n01&2 - FEBRUARY - 2019
126
dụng corticoid bôi.
Tạp chí Y dược Học quân sự
(3),
tr. 104 - 109.
7. Nguyễn Minh Long, Nguyễn Văn Thường
(2010). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của bệnh
trứng cá thông thường.
Tạp chí Y học thực hành
(705), tr. 85-87.
8. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Lê Ngọc Diệp
(2014). Đặc điểm lâm sàng và chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân mụn trứng cá tại bệnh viện
Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh.
Tạp chí Y học
Thành phố Hồ Chí Minh
, 18, tr. 89-96.
TẬP TÍNH DINH DƯỠNG TẠI 300 HỘ GIA ĐÌNH
Ở MIỀN BẮC NƯỚC TA NĂM 2017
Lê Trần Ngoan1,5, Phm Văn Phú1, Nguyễn Quang Dũng1,
Trần Hiếu Học1, Phm Thị Oanh2, Nguyễn Thanh Bình3,
Đinh Thị Minh1, Nguyễn Thu Hoài1, Phm Thị Hà Phương1,
Trịnh Thị Đức Hnh1, Lâm Văn Chiến1, Lê Xuân Hưng1, Phan Văn Cần4
TÓM TẮT36
Mục tiêu: Mô tả tập tính dinh dưỡng tại các hộ gia
đình ở một số tỉnh ở miền bắc nước ta năm 2017 và
phân tích mức tiêu thụ một số chất dinh dưỡng chính
cho các nhóm thực phẩm. Phương pháp: Điều tra
mô tra cắt ngang bằng phiếu hỏi ghi tiêu thụ thực
phẩm trong 24 giờ cho 3 ngày liên tục trong tuần làm
việc. Chọn nhà liền nhà, kể từ nhà đầu tiên ở 3 xã.
Toàn bộ các loại thực phẩm sống sạch của 1 khẩu
phần/ngày được chuyển đổi sang 86 chất dinh dưỡng
theo bảng thành phần các chất dinh dưỡng năm 2007.
Kết quả: Gạo là thực phẩm cung cấp năng lượng rất
cao 57,7%, đạm 31,5%, mỡ 7,7%, tinh bột 80,5%,
canxi 19,5%. Thịt đỏ cung cấp năng lượng 12,3%,
đạm 26,2%, mỡ 40,5%, tinh bột 0,1%, canxi 2,2%,
kali 14,2%, natri 11,2%, B1 50%, vitamin A 13,4%.
Rau các loại cung cấp năng lượng 2,5%, đạm 5,6%,
mỡ 0,9%, tinh bột 2,1%, canxi 30,6%, kali 23,4%,
natri 7,9%, vitamin C 64,3%, B1 14,3%, vitamin E
54,5%. Kết luận: Thịt đỏ nên được dùng có cân đối
và giảm thiểu để phòng các bệnh ung thư, tim mạch
và đái tháo đường.
Từ khóa:
Điều tra dinh dưỡng, hộ gia đình, mô tả
cắt ngang, chất dinh dưỡng
SUMMARY
NUTRITION STATUS OF 300 HOUSEHOLDS
IN THE NORTH VIET NAM IN 2017
Objectives: To examine nutrition status by
conducting nutritional household survey in the North
Viet Nam in 2017 and analyze some nutrients intake
by food groups. Methods: Cross-sectional household
1Trường Đại học Y Hà Nội;
2Bệnh viện K, cơ sở Tam Hiệp,
3Ban quản lý An toàn Thực phẩm tỉnh Bắc Ninh,
4Tổng cục Thống kê;
5School of Medicine, International University of Health
and Welfare, Japan
Chịu trách nhiệm chính: Lê Trần Ngoan
Email: letngoan@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 8.12.2018
Ngày phản biện khoa học: 21.01.2019
Ngày duyệt bài: 28.01.2019
survey of 24-hour recall food intake for a consecutive
3-day by using the designed data collection form.
House to house sampling was conducted in three
communes. Average intake amount of each food items
were estimated per person per day. Nutrients (86
types) were converted from all food items based on
the Vietnamese food composition table version 2007.
Results: Rice majority contributed to energy as much
as 57.7%, protid 31.5%, lipid 7.7%, glucid 80.5%,
calcium 19.5%. Red meat contributed to energy
12.3%, protid 26.2%, lipid 40.5%, glucid 0.1%,
calcium 2.2%, kalium 14.2%, natrium 11.2%, vitamin
B1 50%, vitamin A 13.4%. All vegetables contributed
to energy 2.5%, protid 5.6%, lipid 0.9%, glucid 2.1%,
calcium 30.6%, kalium 23.4%, natrium 7.9%, vitamin
C 64.3%, vitamin B1 14.3%, vitamin E 54.5%.
Conclusion: Red meat intake would be well balanced
and minimized to a safe level to prevent against
cancer, cardiovascular diseases and diabetes.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh ung thư, tim mạch, đái tháo đường là
nguyên nhân tử vong của hơn 50% người Việt
Nam trong 1 năm, số lượng ước tính trên
200.000 ngàn người trong 1 năm. Ngân hàng thế
giới (WB) và tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã kết
luận, thói quen dinh dưỡng không an toàn
(Unhealthy Diet) là nguyên nhân chính của các
nhóm nguyên nhân bệnh này1. Ngân hàng thế
giới và WHO đã đề nghị các nước tập trung ưu
tiên, nguồn lực cho nghiên cứu về mối liên quan
giữa dinh dưỡng và các bệnh ung thư, tim mạch,
đái tháo đường để có biện pháp phòng bệnh
hiệu quả ở mi quốc gia, mi địa phương.
Nghiên cứu dinh dưỡng, theo truyền thống2,
cân đo hoặc hỏi ghi mức tiêu thụ thực phẩm tại
hộ gia đình, cá nhân trong 24 giờ cho 3 ngày
hay 1 tuần liên tục, để phân tích thực trạng dinh
dưỡng. Phương pháp này cho kết quả tốt nhất
cho khoảng thời gian ngắn, trong khoảng 1 tuần,
có thể đánh giá tốt tình trạng suy dinh dưỡng trẻ
em, bà mẹ, người lao động, người cao tuổi.