
Thận Nhân Tạo- Lọc Máu
Thận có hình dẹp của một hạt đậu, chiều dài khoảng 10cm, bề ngang khoảng 5cm và dày
khoảng 2,5 cm.
Khi sinh ra, mỗi người thường có hai trái thận. Tuy nhiên, theo thống kê, cứ 4000 người
thì một người tạo hóa chỉ trao cho một trái thận, và họ vẫn sống khỏe mạnh. Thận trái hay bị
thiếu, nam giới một thận nhiều hơn nữ giới. Một số rất ít người khác có tới ba trái thận mà
không gặp khó khăn gì.
Thận nằm ở hai bên cột sống, dựa vào các bắp thịt lưng ở phần trên của bụng và được
che trở ở phía trên bằng hoành cách mô và xung quanh bằng các xương sườn. Thận được neo
vào thành bụng để khỏi di động. Ðôi khi, dây neo lỏng lẻo, thận lắc lư vô hại trong bụng.
Mỗi thận được bọc trong một bao xơ và gồm có một lớp vỏ bên ngoài và phần tủy ở bên
trong. Thành phần hoạt động chính yếu của thận là cả triệu những đơn-vị-thận (nephron) ở
trong vỏ và tủy thận. Ðây là một hệ thống những ống lọc tuy nhỏ li ti nhưng có khả năng gạn
lọc rất tinh vi, công hiệu mà chỉ tạo hóa mới tạo ra được.
Dưới con mắt thường, đơn-vị-thận nom giống như những hạt cát. Khi nhìn qua kính hiển
vi, chúng có hình dáng của những con sâu, đầu to với nhiều ống vòng soắn suýt lấy nhau (cuộn
tiểu cầu-glomerulus) và một thân đuôi dài, rỗng ruột. Cuộn tiểu cầu là nơi lọc sơ bộ các chất
thải trong máu vào các tiểu quản (tubule) của thận. Mỗi ngày, cả một tấn máu được hai trái
thận liên tục thanh lọc. Khả năng này nhiều gấp đôi nhu cầu của cơ thể. Vì thế, khi một trái
thận bị suy thì trái thận khỏe mạnh còn lại có đủ sức làm việc nhiều hơn để giúp cơ thể hoạt
động bình thường.
Nhiệm vụ của thận

Với cả triệu những đơn vị thận để thanh lọc máu, thận có những nhiệm vụ quan trọng
như sau:
a-Thải ra khỏi cơ thể những phần tử cặn bã của sự chuyển hóa thực phẩm, những chất
độc hại, muối khoáng dư thừa…Nếu không được loại ra ngoài, các chất này sẽ gây ra nhiều
bệnh tật cho nhiều cơ quan, bộ phận con người, đôi khi đưa tới tử vong.
Ure là chất thải chính của sự tiêu hóa chất đạm và được sản xuất ở gan, chuyển sang
máu rồi được thận bài tiết ra ngoài cơ thể. Số lượng trung bình của ure trong máu là từ 8-
25mg/100cc. Trên mức độ này là có hại cho cơ thể, một tình trạng mà khoa học gia Hy lạp khi
xưa gọi là “Nước tiểu máu”(uremia).
b-Duy trì mức độ nước trong cơ thể cố định dù là nước luôn luôn ra, vào cơ thể theo
nhịp điệu khác nhau, lúc nhiều lúc ít. Nếu nhiệm vụ này bị rối loạn, nước sẽ được giữ lại, đưa
tới phù nước dưới bàn chân, hoặc ứ nước trên vùng bụng.
Mỗi ngày có khoảng từ 160 tới 180 lít nước chạy qua thận nhưng chỉ có từ 1- 1.5 lít
được thải ra ngoài (nước tiểu). Khoảng 98% nước được thận tái hấp thụ, đưa trở lại máu.
c-Giữ lại các huyết bào và các chất dinh dưỡng trong huyết tương như acid amine, chất
đạm, glucose, khoáng chất..
d-Ðiều hòa sự cân bằng giữa acid và kiềm trong các dung dịch cơ thể. Chất acid đến từ
thực phẩm, kiềm từ các loại thuốc như thuốc chống acid bao tử….
e-Duy trì sự cân bằng của các khoáng chất như potassium, sodium… Nếu chỉ hơi cao là
potassium đã đủ làm cho tim ngưng đập
f-Sản xuất các chất kích thích tủy tạo hồng huyết cầu, như chất erythropoietin
g-Giữ huyết áp bình thường. Rất nhiều trường hợp cao huyết áp là hậu quả của thận suy.

Nguyên nhân thận suy
Thận suy khi khả năng lọc máu của tiều cầu thận bị rối loạn hoặc ngưng hoạt động. Suy
thận có thể là cấp tính hoặc mãn tính.
Suy cấp tính xẩy ra rất nhanh vì huyết áp đột nhiên xuống rất thấp sau khi cơ thể bị chấn
thương trầm trọng hoặc do biến chứng của phẫu thuật, trong trường hợp nhiễm khuẩn hoặc
trong các bệnh nặng.. Ðây là một tình trạng rất nghiêm trọng cần được điều trị liên tục tại bệnh
viện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thận có thể phục hồi được khả năng vài tuần hoặc vài
tháng, sau cơn hiểm nghèo.
Trong suy thận kinh niên, khả năng lọc máu của thận giảm từ từ và thường là do hậu quả
cùa một số bệnh như viêm thận tiểu cầu, tiểu đường, cao huyết áp, đa nang thận… Khi khả
năng lọc của thận chỉ còn từ 5 tới 10% thì thận đi vào giai đoạn cuối và cần thận nhân tạo hoặc
thay ghép thận.
Sau đây là một số nguyên nhân có thể đưa tới suy thận:
a.Nguyên nhân ở phía trên thận như sự giảm khối lượng nước ngoài tế bào trong các trường
hợp phỏng nặng, đi tiểu nhiều, xuất huyết, trướng bụng nước, giảm dung lượng máu vì bệnh
tim hoặc do nhiễm độc máu, suy chức năng gan, tác dụng hại của một số hóa chất, dược
phẩm…
b.Từ trái thận trong các bệnh của bệnh thận, do nhiễm trùng thận, thương tích thận, do tác dụng
xấu của hóa chất dược phẩm lên thận, trong bệnh tiểu dường, cao huyết áp ..Sử dụng quá nhiều
và quá lâu các loại thuốc chống đau như aspirin, phenacetin…là một trong những nguyên nhân
thường thấy.
1. Các yếu tố tới từ phía dưới thận như sạn tiết niệu, tắc nghẽn ống dẫn tiểu, rối loạn các khả năng
của bàng quang, sưng nhiếp tuyến…Hậu quả của suy thận:

a.Khi thận suy, chất thải ure, creatinine sẽ tràn ngập máu, mất cân bằng giữa nước và các chất
điện phân, kali lên cao, calci giảm, chất đạm thất thoát…Ure là sản phẩm phân hủy chính trong
sự chuyển hóa của chất đạm và được thận lọc bài tiết ra ngoài.Tích tụ ure trong máu khi bị suy
thận sẽ đưa tới buồn nôn, ngủ lịm, suy nhược cơ thể …và có thể tử vong nếu không được điều
trị
b-Thiếu hồng cầu: Thận tiết ra hormon erythropoietin để kích thích tủy sản xuất hồng huyết
cầu. Khi thận suy, hormon nay giảm và đưa tới thiếu hồng cầu. Hồng cầu chở oxy tới các tế
bào. Thiếu oxy, tế bào không sử dụng được năng lượng từ thực phẩm, do đó người bệnh dễ bị
mệt mỏi, da xanh nhợt.Thận nhân tạo không phục hồi được khả năng sản xuất kích thích tố này
của thận.
c-Loạn dưỡng xương thường thấy ỏ 90% bệnh nhân suy thận đặc biệt là người cao tuổi và phụ
nữ trong thời kỳ mãn kinh. Nguyên do đưa tới rối loạn là thận không duy trì được mức độ bình
thường của calcium và phosphore trong máu. Xương trở nên mỏng, yếu, thay đổi hình dạng và
dễ gẫy.
d-Rối loạn giấc ngủ. Rối loạn này rất thường thấy ở người suy thận, lọc máu. Bệnh nhân luôn
luôn ở trong tình trạng mệt mỏi, nhức đầu, ngây ngất, buồn rầu, rối loạn giờ giấc ngủ, đau nhức
cơ thể, bồn chồn…
đ-Ngứa ngoài da trong khi hoặc sau khi lọc máu, vì ure huyết quá cao
e-Ðau nhức xương khớp vì chứng thoái hóa dạng tinh bột amyloidosis: chất đạm trong máu lên
cao, đóng vào khớp xương và gân gây đau nhức, cứng khớp..
Lọc máu
Phương pháp lọc máu với thận nhân tạo được áp dụng .khi khả năng loại bỏ chất phế thải và
nước dư trong máu của thận chỉ còn khoảng từ 5 tới 10% so với mức độ bình thường.

Suy thận cấp tính không đáp ứng với điều trị thì lọc máu có thể được áp dụng trong một thời
gian ngắn cho tới khi thận hoạt động trở lại. Suy thận kinh niên thì phải lọc máu suốt đời, nếu
không được thay ghép thận.
Mục đích của thận nhân tạo là để mang lại sức khỏe cho cơ thể, bằng cách:
-Loại bỏ chất thải, muối khoáng và nước dư trong máu, tránh ứ đọng trong cơ thể
-Duy trì huyết áp ở mức bình thường
-Giữ thăng bằng một số hóa chất trong máu..
Hệ thống lọc máu thận nhân tạo đầu tiên được thành hình trong thế chiến thứ II. Máu được dẫn
qua một ống làm bằng màng bán thấm, nhúng trong dung dịch nước rửa máu. Màng bán thấm
để các phân tử nhỏ như chất thải ure chạy qua và máu sạch được truyền trở lại cơ thể.
Trong những thập niên vừa qua, thận nhân tạo đã được cải tiến với nhiều hiệu năng và dễ dàng
sử dụng hơn.
Nguyên tắc của sự lọc máu thực ra rất giản dị:
Máu từ cơ thể được dẫn vào một hệ thống lọc đặc biệt gọi là dialyser hoặc “thận nhân
tạo”. Dung dịch rửa máu (dialysate) được cho lưu hành xung quanh thận nhân tạo để lấy ra các
chất phế thải ure, creatinine … Máu sạch chứa tế bào máu, chất dinh dưỡng được đưa trở lại cơ
thể.
Việc đưa máu ra vào cơ thể hơi phức tạp hơn.
Thường thường là có hai kim: một để lấy máu ra khỏi cơ thể và một kim dẫn máu trở lại cơ thể.
Có ba cách để tạo ra nơi cắm kim cho việc lọc máu:
-Tạo ra một lỗ rò vĩnh viễn (fistula) giữa môt động mạch và một tĩnh mạch, máu sẽ vào tĩnh
mạch nhiều hơn, trở nên mạnh hơn và lớn hơn và chịu đựng được sự cắm kim chích thường
xuyên trong việc lọc máu. Hai kim được cắm vào lỗ rò: một để hút máu từ cơ thể đưa tới máy
lọc, một để đưa máu sạch trở lại cơ thể.

