
1
BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Trần Huy Hùng Cường
Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh duyên hải thuộc miền Đông Nam bộ, là một
trong ba tỉnh của miền Nam tiếp giáp với phần đất của miền Trung tổ
quốc là tỉnh Bình Thuận về phía đông. Phía nam và đông nam của tỉnh
giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển 100 km, trong đó có 72 km là bãi
cát có thể khai thác làm bãi tắm. Phần đất liền giáp với Đồng Nai ở phía
bắc và một huyện duyên hải của thành phố Hồ Chí Minh ở phía tây. Vùng
đất này được xem là nơi đón nhận đoàn quân Nam tiến đầu tiên từ hai
miền Trung và Bắc vào khai hoang, lập làng.
Trước năm 1979, Vũng Tàu thuộc tỉnh Đồng Nai. Sau đó được gọi là Đặc
Khu Vũng Tàu Côn Đảo. Từ ngày 08/10/1991, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
được thành lập. Hiện nay, tổng diện tích của tỉnh có khoảng 1.979 km
2
.
Địa hình gồm đồi, núi, đồng bằng nhỏ, các đồi cát và dải cát dọc theo bờ
biển. Thềm lục địa của tỉnh tiếp giáp với quần đảo Trường Sa, nơi chứa
đựng hai nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước là dầu mỏ và hải sản.
Dân số đạt khoảng 885.000 người, gồm có các dân tộc đang sinh sống
như Kinh, Hoa và Khmer. Thành phố Vũng Tàu là trung tâm hành chính
của tỉnh, được thành lập cách nay 110 năm với danh hiệu thành phố du
lịch đầu tiên của cả nước, nơi có nhiều bãi tắm đẹp và nhiều thắng cảnh
tham quan, các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa bên cạnh núi Nhỏ và
núi Lớn.
Ngoài ra, Bà Rịa – Vũng Tàu còn có các khu du lịch nổi tiếng thu hút rất
nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế từ nhiều năm nay như bãi biển
Long Hải, suối nước Nóng Bình Châu, bãi biển Hồ Cốc và Côn Đảo….
Kinh tế Bà Rịa – Vũng Tàu rất phong phú. Bên cạnh việc khai thác du lịch,
biển vẫn là tiềm năng vô tận để phát triển nghề đánh bắt hải sản của Bà
Rịa – Vũng Tàu. Phước Tỉnh được xem là cảng cá lớn nhất của tỉnh, có thể
cung cấp nguồn hải sản cho thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành
khác thuộc miền Đông Nam bộ và miền Trung. Nghề sản xuất muối cũng
là một nghề truyền thống lâu đời ở Bà Rịa.
Là vùng đất đầu tiên tiếp nhận người Việt từ miền Trung và Bắc vào, là nơi
tiếp giáp với mảnh đất miền Trung nên Bà Rịa – Vũng Tàu được xem là nơi

2
giao thoa, kết hợp hài hòa nền văn hóa của dân tộc cả ba miền Bắc –
Trung – Nam. Các loại hình âm nhạc, các lễ hội truyền thống được người
Việt mang theo trong quá trình tiến về phương Nam mở đất, hòa quyện
vào nét văn hóa của người dân bản địa tạo nên một sắc thái văn hóa mới
hình thành một nền văn hóa đầy bản sắc dân tộc.
+Km 43: núi Thị Vải. Tương truyền có người cô gái con nhà họ Lê, giàu có
nhưng lỡ thì. Sau khi cha mẹ mất, nàng mới lập gia đình. Sống với nhau
trong thời gian ngắn thì chồng chết, nàng quyết định đi tu và lập một am
nhỏ ở đỉnh núi này, nên ngừoi dân gọi là núi Thị Vãi hay núi Bà Vãi.
+Km 54: núi Dinh
+Km 57: ngã ba, quẹo phải, qua cầu Ba Nanh, tiếp tục đi vào khoảng năm
km đến núi Nứa và khu di tích Nhà Lớn – đền ông Trần.
NÚI NỨA
Núi Nứa thuộc xã đảo Long Sơn, thành phố Vũng Tàu. Quần thể núi Nứa
nằm ở phía đông của đảo, dài hơn sáu km. Chiều ngang có nơi rộng nhất
khoảng hai km. Quần thể núi Nứa chiếm gần 1/3 diện tích của đảo.
Đây là đoạn cuối cùng của dãy núi Phước Hòa nhô ra biển. Nơi đây có
những tảng đá lớn với nhiều hình dáng và nhiều cột đá chọc thẳng lên trời.
Quần thể núi Nứa có ba đỉnh, cao nhất là đỉnh Bà Trao 183 mét, đỉnh Hố
Rồng 120 mét và đỉnh Hố Vông ở phía nam cao trên 100 mét.
Trên đỉnh Bà Trao có một cột đá cao năm mét, có tên là Hòn Một. Trong
khu vực này còn có hai khối đá dài bắc ngang tựa như con tàu biển, nên
được gọi là Hòn Tàu. Dưới chân quần thể núi Nứa có hồ Mang Cá chứa
nước ngọt, có trồng nhiều sen, tỏa hương thơm ngát ở phía tây và đền
ông Trần ở phía đông.
DI TÍCH NHÀ LỚN – ĐỀN ÔNG TRẦN
Di tích nhà Lớn – đền ông Trần là một khu di tích kiến trúc bề thế, tọa lạc
tại thôn 5, thuộc xã đảo Long Sơn – thành phố Vũng Tàu. Ông Trần là
người sáng lập ra một tín ngưỡng và thành lập khu dân cư ấp Bà Trao tại
đảo Long Sơn từ năm 1898. Ông Trần tên thật là Lê Văn Mưu, là một tín
đồ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có nguồn gốc từ vùng Bảy Núi, An Giang.
Nhưng người dân thích gọi theo kiểu miền Nam, ông Trần, vì ông hay ở
trần khi lao động nặng nhọc.

3
Năm 1898, ông Trần cùng đoàn người trên năm chiếc thuyền lớn đã cập
bến cù lao Núi Nứa, trên hành trình trốn chạy cuộc truy nã của giặc Pháp
vì tội tham gia lực lượng khởi nghĩa. Đảo Long Sơn ngày ấy rất hoang
vắng, xung quanh là rừng ngập mặn, ông đã ra sức phát quang tạo ruộng
lập ấp, khai thác gỗ và đánh bắt hải sản để đoàn người được tồn tại và
hình thành một cộng đồng dân cư trên đảo cho đến nay.
Tín ngưỡng ở đền ông Trần kết hợp nhiều tôn giáo khác nhau như đạo
Phật, Nho giáo, đạo thờ ông bà tổ tiên…. Tất cả các vị Phật, thánh thần
của các tôn giáo đều được thờ cúng trong nhà Lớn và tại nhà dân theo tín
ngưỡng của ông Trần. Giáo phái này không có kinh kệ, giáo lý, chuông mõ
và cũng không có giáo luật bắt buộc ăn chay, kiêng kỵ. Tín đồ tuân theo
lời dạy của ông Trần được truyền khẩu trong dân gian. Việc cúng bái cũng
rất đơn giản, có thức ăn gì cũng cúng được, không bắt buộc hay phân biệt
chay mặn. Nếu không thức ăn, có thể cúng cơm và muối. Nhưng thời kinh,
cúng bái phải giữ nghiêm. Mỗi ngày cúng bốn thời: 5 giờ sáng, 7 giờ 30
phút sáng kỉnh cơm, 2 giờ chiều, 5 giờ chiều kỉnh nhang.
Khu di tích kiến trúc nhà Lớn rộng hơn hai hecta do ông Trần tự thiết kế,
gồm có các công trình như khu đền thờ, nhà Long Sơn hội, trường học,
dãy phố chợ, nhà hát, lăng mộ ông Trần. Khu đền thờ được khởi công xây
dựng từ năm 1910 và hoàn thành vào năm 1935. Toàn bộ công trình này
gồm có cổng tam quan, hai nhà khách, lầu, vườn hoa, trụ phướn, lầu Cấm
hai tầng tám mái, nhà Thánh có bàn thờ Khổng Tử, bàn thờ ông Trần…,
lầu Trời, lầu Tiên, lầu Phật (chánh điện), nhà hậu thờ dòng họ trong thân
tộc của ông Trần, lầu Dài, nhà kho, nhà máy đèn, hồ chứa nước mưa, nhà
ghe sấm còn lưu giữ một trong năm chiếc ghe đầu tiên đoàn người theo
ông Trần về Long Sơn lập nghiệp và nhà mát là trạm dành cho ghe thuyền
bà con tránh mưa nắng…. Tất cả được làm bằng gỗ quý và được gìn giữ
gần như nguyên vẹn.
Khu di tích đền ông Trần còn lưu giữ nhiều cổ vật quí giá trong khu nhà
Thánh như bộ bàn ghế bát tiên gồm tám ghế và một bàn hình chữ nhật.
Bộ bàn ghế này đã trên 200 năm tuổi, có thông tin cho biết đây là bộ bàn
ghế của vua Thành Thái. Bên cạnh đó, còn có nhiều cổ vật trang trí nội
thất thờ tự như bao lam, hoanh phi, câu liễn sơn son thếp vàng…. Đặc
biệt, bộ tủ thờ gồm 33 cái, được cẩn xà cừ, chạm khắc tinh xảo. Mỗi một
tủ thờ là một bàn thờ Phật, thánh thần… của các tôn giáo khác. Tất cả cổ
vật nơi đây thể hiện khả năng nghệ thuật điêu khắc, trang trí của các
nghệ nhân từ nhiều nơi trên đất nước khoảng 100 năm nay.
Việc quản lý di sản đền ông Trần đều do người dân và con cháu của ông
điều hành hoàn toàn tự nguyện. Việc cúng kỉnh, quét dọn, bảo trì hằng
ngày do một phiên gồm năm người đảm nhiệm trong ba ngày. Hiện nay, ở
đền ông Trần có 68 phiên và sau sáu tháng mới đáo lại một lần. Đây là dịp
mà những người trực phiên muốn chủ yếu là xuất gia tu tâm dưỡng tánh
trong ba ngày ở đây. Việc cưới hỏi của người dân theo tín ngưỡng ông trần
cũng rất đơn giản, không xem ngày tháng. Họ chỉ chọn hai ngày trong

4
thánh là mồng một hoặc ngày 16 để tổ chức đám cưới, và giờ hành lễ vào
lúc tám giờ sáng.
Hiện nay khu di tích nhà Lớn – đền ông Trần là một điểm tham quan thu
hút rất nhiều du khách trong nước và quốc tế, cũng như những nhà
nghiên cứu, khảo cổ. Tín đồ ở đền ông Trần rất hiếu khách và ngoan đạo.
Họ giữ lễ nghi rất nghiêm khắc trong bộ trang phục nguyên nét xưa là bộ
bà ba đen và tóc búi củ hành. Hằng năm, con cháu ông Trần và tín đồ tổ
chức hai lễ hội lớn: lễ vía ông vào ngày 20/02 âm lịch và cúng trùng cửu
vào ngày 09/9 âm lịch. Năm 1991, quần thể kiến trúc Nhà Lớn đã được Bộ
Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa của quốc gia.
+Km 65: thị xã Bà Rịa.
BÀ RỊA
Theo quyển “Monographie de Baria” của một tác giả người Pháp viết năm
1902, cho biết địa danh Bà Rịa xuất phát từ tên của người đàn bà là
Nguyễn Thị Rịa. Người đã có công khai phá đất hoang, lập làng Phước Liêu
vào năm 1789.
Tuy nhiên, theo tài liệu Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, địa
danh Bà Rịa là do đọc trại từ tên của một tiểu vương quốc là Bà Lỵ hay Bà
Lợi. Tiểu vương quốc này tồn tại khoảng trước thế kỷ thứ bảy. Sau đó, họ
bị quân Chân Lạp thôn tính.
Vùng Bà Rịa xưa còn được gọi là vùng Mô Xoài hay Muỗi Xụy, là nơi tiếp
nhận những người Việt đầu tiên từ miền Trung vào khai phá vùng đất Nam
bộ. Truyền thuyết dân gian kể rằng: “Vào khoảng thế kỷ 18, có người đàn
bà giàu có tên Nguyễn Thị Rịa, từ Phú Yên – Bình Định vào khai khẩn vùng
đất này. Bà đã bỏ tiền thuê dân vào khai khẩn đất hoang, lập làng mạc,
mở nhiều nông trại. Bà đối xử rất tốt với những người đi khẩn hoang, giúp
đỡ những người mới đến định cư, lập nghiệp. Bà Rịa mất năm 1803. Do bà
không có con, nên tài sản để lại cho người dân vùng Tam Phước. Người
dân nhớ ơn, nên lập miếu thờ bà và lấy tên bà đặt cho vùng đất này – Bà
Rịa”. Hiện nay, ngôi mộ của bà vẫn còn ở ngọn núi Tam Phước (còn gọi là
núi Cố).]
+km 69: ranh giới thị xã Bà Rịa và thành phố Vũng Tàu.

5
THÀNH PHỐ VŨNG TÀU
Thành phố Vũng Tàu được xem là trung tâm du lịch biển đầu tiên của cả
nước, được thành lập ngày 01/5/1895. Sau năm năm, kể từ ngày thành
phố này được thành lập, dân số tăng lên 14 lần và trở thành vùng đất hội
tụ người từ nhiều nơi khác đến và là một trong những địa phương có nhiều
người nước ngoài làm việc và đến nghỉ ngơi, chữa bệnh.
Trước khi được thành lập, thành phố Vũng Tàu chỉ là phần đất của một
tổng được gọi là làng Tam Thắng với ba làng Thắng Nhất do ông Phạm
Văn Dinh chỉ huy, Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc chỉ huy và Thắng Tam do
ông Ngô Văn Huyền. Kinh tế dựa vào những mảnh ruộng gầy, những cánh
đồng khoai, bắp chỉ có thể có củ, có trái vào mùa mưa.
Sau thời điểm được thành lập, bộ mặt thành phố Vũng Tàu có nhiều thay
đổi. Ngoài dinh thự của Toàn Quyền Đông Dương Pháp là Bạch Dinh, còn
có nhiều khách sạn, biệt thự, nhà nghỉ và khu du lịch… được xây dựng. Về
ý nghĩa tên gọi Vũng Tàu, có ý kiến cho rằng vùng đất này có ba mặt giáp
biển, rất thuận lợi cho tàu bè đậu tránh gió trước khi vào Gia Định, nên
được gọi là Vũng Tàu. Khi người Bồ Đào Nha đến đây, thấy hình dáng mũi
đất này giống mũi của thánh Jacques nên gọi là “Cap Saint Jacques”. Còn
người Pháp gọi là AUCAP, người Việt đọc trại thành Ô Cấp.
Hiện nay, Vũng Tàu là một trung tâm du lịch tuyệt đẹp, đầy quyến rũ được
kết hợp hài hòa giữa quần thể thiên nhiên biển, núi cùng các kiến trúc đô
thị và các công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà thờ, am miếu…. Nhiều
bãi tắm đẹp như bãi Dâu, bãi Dứa, bãi Nghinh Phong, bãi Trước và bãi
Sau…, mỗi bãi có một vẻ đẹp riêng. Khí hậu Vũng Tàu không có mùa đông
nên thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế quanh năm.
+Từ ngã tư cuối đường 30/4 có bùng binh quẹo phải, theo đường Nguyễn
An Ninh và đường Trần Phú đi đến Thích Ca Phật Đài khoảng 1,5 km. Hoặc
từ bãi Dâu đi theo đường ven bờ biển đến Thích Ca Phật Đài khoảng 6 km.
THÍCH CA PHẬT ĐÀI
Thích Ca Phật Đài là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Vũng Tàu,
cách trung tâm thành phố khoảng ba km. Ngôi chùa tọa lạc trên sườn núi
lớn, trong khuôn viên có diện tích sáu ha, kết hợp giữa kiến trúc tôn giáo
do bàn tay khéo léo của con người tạo nên các tác phẩm điêu khắc nghệ
thuật kiệt tác và phong cảnh thiên nhiên để Thích Ca Phật đài và không
gian nơi đây thêm hoành tráng và uy nghiêm, trở thành thắng cảnh nổi
tiếng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

