VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒNG QUÂN
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MÀ BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒNG QUÂN
THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MÀ BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu do
chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Võ Khánh Vinh.
Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 06 năm 2019
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ................ 8
1.1. Lý luận về thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi ...... 8
1.2. Pháp luật về thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ...................................................................... 17
Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TẠI TỈNH
QUẢNG NINH ........................................................................................................ 26
2.1. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tại tỉnh Quảng Ninh ..................................... 26
2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
trong việc thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh ...................................... 41
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MÀ BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ........................................................................ 51
3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử vụ án
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi ............................................................................ 51
3.2. Tăng cường triển khai, hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử án hình sự đối với
người dưới 18 tuổi ................................................................................................ 55
3.3. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác xét xử
- giỏi về chuyên môn, hoàn thiện về nhân cách và đạo đức nghề nghiệp ............ 59
3.4. Các giải pháp khác ......................................................................................... 65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 72
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS :
Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS :
Tòa án nhân dân TAND :
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao :
Tố tụng hình sự TTHS :
Viện kiểm sát nhân dân VKSND :
: VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
: XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số lượng vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018 ................................................ 33
Bảng 2.2: Thống kê số lượng bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tổng số bị cáo
bị xét xử từ năm 2013 đến 2018 tại tỉnh Quảng Ninh. ....................................... 34
Bảng 2.3: Cơ cấu các loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đã được xét
xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2013 đến 2018 ................................... 35
Bảng 2.4: Thống kê mức hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018 ..................................................... 36
Bảng 2.5: Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
theo nhóm tuổi .................................................................................................... 39
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang bước vào giai đoạn đổi mới, phát triển hội
nhập quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn bao giờ hết. Kinh tế thị trường phát
triển mạnh mẽ trên cơ sở đời sống chính trị ổn định, một nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc là cơ sở để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân cả
về vật chất lẫn tinh thần, xây dựng một nước Việt Nam là một nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế thì những góc khuất mảng tối trong xã hội xuất hiện ngày
càng nhiều. Tệ nạn xã hội xuất hiện ngày càng nhiều với tính chất nguy hiểm
hơn trước, các giá trị xã hội bị đảo lộn, quan liêu, tham nhũng rồi công bằng
xã hội bị vi phạm. Trong đó, một vấn đề đáng lo ngại đang xảy ra trong xã hội
Việt Nam hiện nay đó là tình hình vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi
đang ngày một gia tăng, các hành vi vi phạm pháp luật của nhóm chủ thể này
không còn chỉ là những vi phạm nhỏ, hành chính mà những hành vi nguy
hiểm, là đối tượng xử lí của pháp luật hình sự cũng ngày một nhiều.
Là “chủ nhân tương lai của đất nước” nên hành vi phạm tội của người
dưới 18 tuổi không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các nạn nhân mà nó còn
quyết định đến sự phát triển, đến tương lai của cả một quốc gia, dân tộc.
Chính vì vậy, việc giải quyết tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội là một
vấn đề cấp bách mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm giải quyết triệt trước
khi hướng tới những mục tiêu xa hơn là xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, với những đặc điểm
đặc biệt về chủ thể phạm tội nên việc giải quyết hành vi vi phạm pháp luật nói
chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng của người dưới 18 tuổi có phần
phức tạp hơn rất nhiều. Vấn đề không chỉ dừng lại ở xử lí một vụ án, xử phạt
1
một chủ thể vi phạm mà làm sao để thông qua hoạt động xử lí hành vi phạm
tội của người dưới 18 tuổi có thể giáo dục, răn đe, ngăn ngừa và giảm thiểu
hành vi vi phạm pháp luật, duy trì sự ổn định, trật tự an toàn xã hội mới là
mục tiêu cuối cùng mà cơ quan xét xử cần hướng tới. Theo tinh thần đó, Bộ
Luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) đã xây dựng chương XXVIII “
Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”, thuộc Phần thứ bảy (thủ tục đặc
biệt), một chương riêng biệt quy định về thủ tục trong tố tụng đối với người
dưới 18 tuổi.
Những quy định trong BLTTHS 2015 và các văn bản luật liên quan là
cơ sở pháp lí cho việc xác định thủ tục trong tố tụng đối với người dưới 18
tuổi. Những quy định này của BLTTHS là yêu cầu bắt buộc phải tuân theo đối
với các chủ thể, đặc biệt là cơ quan xét xử khi tiến hành xử lý vụ việc có bị
cáo là người dưới 18 tuổi để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các chính bị
cáo và các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định
về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi quy định trong BLTTHS 2015
nảy sinh một số vướng mắc, bất cập nhiều nội dung chưa rõ ràng, chưa có văn
bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, thủ tục trong tố tụng đối với người dưới
18 tuổi đôi khi còn chưa được tôn trọng thực hiện trong quá trình tố tụng do
sự lạm quyền, coi thường pháp luật của cơ quan xét xử, điều này ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của bị cáo, nguyên đơn và những người khác có liên quan
cũng như tính hiệu lực của pháp luật khi xử lí các vụ việc án hình sự có bị cáo
là người dưới 18 tuổi.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh, diễn biến
tình hình trẻ em vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây
có xu hướng giảm, song chưa rõ rệt. Các vụ án không chỉ ở các thành phố, thị
xã, mà còn xảy ra ở các huyện vùng sâu, vùng xa, tính chất mức độ nghiêm
trọng, phức tạp. Hiện nay, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm dưới 18 tuổi đang
trở thành mối quan tâm hàng đầu của xã hội hiện nay, đòi hỏi những giải pháp
2
phù hợp, hiệu quả. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, hành vi phạm tội của người
dưới 18 tuổi có tính chất ngày càng nguy hiểm, đáng lo ngại. Nếu như trước
kia, người vị thành niên thường chỉ “dính” tới các hành vi trộm cắp, gây rối
trật tự công cộng, cố ý gây thương tích không gây nguy hại lớn, thì một vài
năm trở lại đây, hành vi tội phạm mở rộng theo chiều hướng nguy hiểm hơn:
Giết người cướp của, hiếp dâm, mua bán ma túy... Tình trạng người vị thành
niên tụ tập thành băng nhóm, dùng hung khí để giải quyết mâu thuẫn khá phổ
biến. Hành vi phạm tội của người vị thành niên ngày một hung hãn, phương
thức, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, tinh vi, nhiều vụ rất dã man và mất hết tính
người. Một điều đáng lo ngại nữa là về lứa tuổi, tình trạng người phạm tội có
xu hướng ngày càng trẻ hóa, tuy ở độ tuổi còn rất trẻ, song hành vi phạm tội
của các bị cáo là rất nguy hiểm và quyết liệt, có sự chuẩn bị về công cụ,
phương tiện với thủ đoạn tinh vi. Do vậy, hậu quả để lại là rất nặng nề, gây lo
ngại trong nhân dân và gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến tình hình
trật tự chung tại địa phương.
Những căn cứ lí luận và yêu cầu thực tiễn nêu trên là lí do thúc đẩy tác
giả lựa chọn đề tài “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới
18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” cho luận văn tốt nghiệp của mình
nhằm tìm hiểu và đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi và thực
trạng hoạt động áp dụng các quy định đó vào xử lí các vụ án trên thực tế. Trên
cơ sở đó để tìm ra những hạn chế tồn tại trong quy định của pháp luật và đưa
ra những giải pháp để khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu lực pháp luật trên
thực tế, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích chính đáng của người dưới 18
tuổi và những người khác có liên quan.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước khi chọn đề tài “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” cho luận văn của mình, tác giả đã
3
tham khảo một số nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp đối với người chưa thành
niên như: Nguyễn Thu Huyền, “Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ
luật học 2006, Đại học quốc gia Hà Nội; Đỗ Xuân Hồng , “Xét xử vụ án có bị
cáo là người chưa thành niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn
thạc sĩ luật học 2014, Đại học quốc gia Hà Nội; Quách Hữu Thái: “Những
vướng mắc trong thực tiễn xét xử người chưa thành niên phạm tội”; Trần
Hưng Bình: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”,...[18,tr6]
Từ việc tìm hiểu những sản phẩm nghiên cứu trên, tác giả đã có sự tiếp
thu, tận dụng một số nội dung đã được công nhận vào triển khai và làm cơ sở
nền tảng cho công trình nghiên cứu của mình. Qua những phân tích đánh giá,
tác giả nhận thấy rằng thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới
18 tuổi nói chung và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa thực sự
hiệu quả và tổn tại những hạn chế nhất định.
Do vậy, để tìm hiểu những hạn chế đó cũng như có giải pháp hiệu quả
để khắc phục, việc tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện luận văn tác giả với mong muốn tìm hiểm và phân tích để có
cái nhìn toàn diện về các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ
tục xét xử sơ thẩm các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi cụ thể là trên
địa cấp địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Để từ đó có thể đưa ra giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Thực hiện luận văn, tác giả hướng tới thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm thủ tục xét xử
sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi; đặc điểm tâm lý lứa tuổi của người dưới
18 tuổi;
- Phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật về nhữn nội dung:
Người dưới 18 tuổi; trình tự, thủ tục xét xử hình sự sơ thẩm đối với vụ án mà
bị cáo là người dưới 18 tuổi;
- Phân tích và đánh giá thực trạng xét xử hình sự sơ thẩm đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những kết quả đạt
được, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của nó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả tập trung vào những đối tượng
chính sau:
- Quy định của pháp luật về thủ tục xét xử hình sự sơ thẩm đối với
người dưới 18 tuổi.
- Thực trạng xét xử hình sự sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội tại tỉnh Quảng Ninh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
Về không gian: Để phân tích được tập trụng, chi tiết tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu về công tác xét xử sơ thẩm của Tòa án hai cấp trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh, đối với các cấp xét xử khác như phúc thẩm, giám đốc thẩm
hay tái thẩm và với những người tham gia tố tụng khác như người bị hại,
người làm chứng dưới 18 tuổi tác giả không đi sâu mà sẽ nghiên cứu ở những
công trình về sau.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động xét xử hình sự
sơ thẩm vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
5
trong thời gian 6 năm từ 2013 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu tác giả có sử dụng một số phượng pháp
luận như:
- Thứ nhất, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với các quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, ngoài phương
pháp luận, trong quá trình nghiên cứu để thực hiện khóa luận, tác giả đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp bình luận, diễn giải;
phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê...
- Phương pháp bình luận, diễn giải...được sử dụng để nghiên cứu tổng
quan về lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử
sơ thẩm các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn phân tích và tổng kết lại
những kết quả của các công trình nghiên cứu và thực tiễn thực hiện pháp luật
về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. Từ đó
nhận xét, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế tồn tại và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện thực hiện pháp luật về thủ tục
xét xử sơ thẩm các vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận.
Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi và phân tích của mình tác giả đã có
những đóng góp riêng vào những nội dụng lí luận về thủ tục xét xử sơ thẩm
vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Vì trong nội dụng nghiên cứu của mình
6
không dừng lại ở việc tìm hiểu, tác giả còn đưa ra những nhận đinh về những
ưu, hạn chế, đồng thời từ đó đưa ra những giải pháp mang tính quan điểm cá
nhân để góp phần hoàn thiện những nội dung lí luận và pháp luật về thủ tục
xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã có những tìm hiểu và nghiên
cứu từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Với những số liệu cụ thể này tác giả đã
phát hiện ra những bất hợp lí còn tồn tại trong quy định của pháp luật về
những thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi cùng như
những khó khăn khi áp dụng chúng vào việc giải quyết xử lí những vụ án thực
tế. Qua đó, đưa ra những đề xuất về giải pháp làm sao có thể nâng cao được
hiệu quả thực hiện hủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18
tuổi, góp phần bao vệ quyền lợi cra người dưới 18 tuổi và những chủ thể khác
liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn có kết cấu gồm những phần sau:
- Phần mở đầu,
- Nội dung chính của gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận và lịch sử quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự mà bị cáo lài người dưới 18 tuổi.
Chương 2: Tình hình thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp
luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
7
- Phần Kết luận.
Chương 1
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Lý luận về thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi
Theo quy định của BLHS năm 2015 thì người chưa thành niên là những
người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn
người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. [27,tr9]
Theo Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “ Bị cáo là
người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa
vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này [27,tr86]”. Đồng thời
theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 về tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, thì có thể hiểu bị cáo là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.[27,tr9]
Từ phân tích trên có thể hiểu: “Bị cáo dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
8
quy định là tội phạm bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
Việc xác định tuổi của bị cáo là người dưới 18 tuổi rất quan trọng vì đây
là căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, áp dụng các thủ tục đặc biệt đối
với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người phạm tội dưới
18 tuổi. Việc xác định tuổi của bị cáo còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác
định việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi.
18 tuổi là độ tuổi mà chủ thể vẫn còn non nớt về nhận thức và đôi khi
chịu tác động rất lớn từ những yếu tố bên ngoài. Chính vì vậy, trong xét xử
với người dưới 18 tuổi Đảng và Nhà nước ta không đặt nặng mục đích trừng
phạt mà mục tiêu cuối cùng hướng tới là nhằm giáo dục, tạo điều kiện để họ
được sửa chữa phát triển theo đúng độ tuổi của mình. Vì vậy, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 đã có một chương riêng (Chương XXVIII) quy định về thủ
tục tố tụng trong xét xử sơ thẩm đối với vụ án mà người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được chia thành 02 giai đoạn là
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và phiên tòa hình sự sơ thẩm. Còn thủ
tục xét xử là cách thức tiến hành giải quyết một vụ án hình sự. Từ sự phân
tích trên ta có thể đưa ra khái niệm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi như sau: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà
bị cáo là người dưới 18 tuổi là cách thức tiến hành giải quyết vụ án hình sự
đối với người dưới 18 tuổi đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử ở cấp xét xử
thứ nhất (cấp sơ thẩm) bằng việc ra bản án, quyết định bị cáo có tội hay
không có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp hoặc các quyết định tố tụng
khác theo quy định của pháp luật”.
Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy định về thủ tục đặc
biệt theo hướng hoặc mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là người dưới 18
9
tuổi nhằm mục đích xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện và tuân thủ
theo đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người
dưới 18 tuổi.
1.1.2. Đặc điểm thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi
Qua nghiên cứu các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, chúng ta có thể hiểu: Các quy định về thủ tục
tố tụng đối với người chưa thành niên có những đặc trưng so với thủ tục tố
tụng áp dụng đối với người thành niên. Cụ thể như sau:
* Thứ nhất, phạm vi áp dụng thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 đã dành một chương
(chương XXVIII) quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi.
Phạm vi áp dụng của Chương này được thể hiện tại Điều 413 Bộ luật tố tụng
hình sự như sau: “Thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội, người bị hại,
người làm chứng là người dưới 18 tuổi được áp dụng theo quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái
với quy định của Chương này”.
Như vậy, có thể hiểu phạm vi áp dụng thủ tục xét xử đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi bao gồm các quy định tại Chương XXVIII Bộ luật tố tụng
hình sự (từ Điều 413 đến Điều 430); Thông tư số: 01/2016/TT-CA ngày
21/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC
ngày 28/07/2017 của tòa án nhân dân tối cao; Thông tư số: 02/2018/TT-
TANDTC ngày 21/09/2018 của Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư số:
06/2018/TTLH-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp, Bộ Lao động thương binh xã hội, cùng những văn bản hướng dẫn và
các văn bản pháp luật liên quan.
* Thứ hai, những vấn đề cần xác định rõ trong vụ án mà bị cáo là
10
người dưới 18 tuổi
Khi tiến hành xét xử với những vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi,
ngoài những vấn đề bắt buộc phải chứng minh đối với các vụ án hình sự nói
chung, thì theo quy định tại Điều 416 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Tòa án
cần phải xác định rõ các vấn đề sau đây:
Một là, tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ
nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi phạm tội: Việc xác
định tuổi của bị cáo đặc biệt quan trọng vì đây là căn cứ để truy cứu trách
nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như việc xác định trình độ phát
triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội giúp
cho người tiến hành tố tụng có thể đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm
cho xã hội do hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi gây ra để có thể áp
dụng biện pháp tư pháp hay hình phạt thích hợp, bảo đảm chế độ thi hành
án theo quy định của pháp luật.
Hai là, Điều kiện sống và giáo dục: “Hành vi phạm tội của người dưới
18 tuổi thường bắt nguồn từ điều kiện sống và giáo dục trong gia đình, nhà
trường và xã hội”.
Ba là, cơ quan xét xử cần phải quan tâm đến yếu tố xúi giục phạm tội
của người thành niên: Vì bản thân những người dưới 18 tuổi vẫn chưa thực sự
ý thức được mức độ nguy hiểm trong hành vi của mình và đôi khi còn chịu sự
ảnh hưởng, xúi giục từ người khác, đặc biệt là người thành niên.
Bốn là, xác định chính xác những yếu tố nguyên nhân, điều kiện, hoàn
cảnh phạm tội của người dưới 18 tuổi. Muốn khắc phục khó khăn phải tìm ra
được nguyên nhân. Vì vậy muốn hoạt động xét xử đạt hiệu quả cũng như
đúng mục đích, ý nghĩa thì trước tiên cần xác định được nguyên nhân, điều
kiện, hoàn cảnh phạm tội của người dưới 18 tuổi để đưa ra được hướng xử lí
11
phù hợp và hiệu quả nhất.
* Thứ ba, về người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên)
Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ, khả năng nhận thức
của người dưới 18 tuổi, pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp
dụng riêng đối với những trường hợp mà người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi. Theo quy định tại khoản 1, điều 423, BLTTHS 2015 quy định: “1.
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là giáo viên
hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý
người dưới 18 tuổi”[27,tr62]. Như vậy, trong Hội đồng xét xử bắt buộc phải
có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
* Thứ tư, bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa.
So với thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người thành niên thì
thủ tục xét xử sơ thẩm đối vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, bắt
buộc phải có sự tham gia của người bào chữa.
Trong BLTTHS 2015 quy định bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa.Tuy nhiên cũng trong BLTTHS 2015 lại có quy định
riêng về sự tham gia của người bào chữa khi bị cáo là người dưới 18 tuổi. Đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi, nếu họ không thể mời được người bào chưa
cho mình thì khi ấy cơ quan xét xử có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư, Trung
tâm trợ giúp pháp lý nhà nước hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cử
người bào chữa cho họ. Đây là trường hợp đặc biệt khi Tòa án chỉ định người
bào chữa và nó có những điểm đặc trưng sau:
Một là, cơ sở pháp lý đầu tiên để người bào chữa tham gia vào vụ án là
sự chủ động thực hiện nghĩa vụ bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo từ phía
các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua hình thức yêu cầu hoặc đề nghị cơ
12
quan có thẩm quyền cử người bào chữa cho bị cáo.
Hai là, quyết định quản lý của cơ quan có thẩm quyền
Ba là, bị cáo là người dưới 18 tuổi vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa đã được cử cho họ những quyền này không có tính
tuyệt đối.
Bốn là, chi phí cho người bào chữa do Nhà nước chịu.
* Thứ năm, sự tham gia của người đại diện, nhà trường hoặc tổ chức
* Thứ sáu, Cân nhắc lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp với bị cáo
dưới 18 tuổi.
Hiện nay, theo LTTHS có các biện pháp ngăn chặn sau: “giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh..”. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
nào sẽ do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định dựa trên kết quả nghiên cứu về tính
chất, mức độ và hậu quả trong hành vi của người dưới 18 tuổi.
Trong đó biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ,
tạm giam đối với người dưới 18 phạm tội là biện pháp đặc biệt và được uy
định rất chi tiết trong BLTThS cụ thể như sau:
Về các trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi:
- Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam chỉ có thể áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong
trường hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng;
- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bị bắt, tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý,
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Đối với bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xét xử về tội nghiêm
13
trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù
đến 02 năm thì có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp tục phạm tội, bỏ
trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. “
Về thời hạn tạm giam, đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
Về việc giám sát đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, nếu
xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người dưới 18 tuổi là
không cần thiết, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi cho người đại diện của họ giám sát để bảo
đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát
chặt chẽ người dưới 18 tuổi, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.
Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về việc người đại diện
có quyền từ chối không thực hiện nghĩa vụ giám sát của mình khi được yêu
cầu, mặt khác theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 1991, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha mẹ, ông bà, các thành
viên lớn tuổi khác trong gia đình và người đỡ đầu có trách nhiệm về việc
chăm sóc, nuôi dạy con chưa thành niên, cho nên họ phải có nghĩa vụ giám
sát, giáo dục, chăm sóc người dưới 18 tuổi. Như vậy, có nghĩa là trong mọi
trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu thì việc giám sát người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi, người đại diện phải thực hiện. Hay nói cách khác,
việc giám sát người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi vừa là quyền vừa là
nghĩa vụ của người đại diện.
1.1.3. Nguyên tắc tiến hành tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự đối với người dưới 18 tuổi
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi,
đặc biệt là vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phải đảm bảo tuân thủ đầy đủ
14
những nguyên tắc sau:
* Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi,
mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất
của người dưới 18 tuổi.
Người dưới 18 tuổi nói chung và người dưới 8 tuổi phạm tội nói riêng
đều là những người đang trong thời kì phát triển cả về vật chất lẫn tâm sinh lí.
Tâm lí những người ở đọ tuổi này vẫn còn nhiều thay đôi và thường chịu tác
động của rất nhiều yếu tố bên ngoài, của môi trường cũng như những mối
quan hệ xung quanh họ. Vì vậy, mà hành vi phạm tội của những người ở đô
tuổi này đôi khi xảy ra do sự bất ổn về mặt tâm lí, sự trẻ con háo thắng của
tuổi trẻ. Hơn nữa, đây là lứa tuổi sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự pháp triển của
cả tương lai đất nướ, họ rất cần có cơ hội được giáo dục, được tạo điều kiện
để sửa chữa sai lầm, hoàn thiện và trường thành bản thân. Vì vậy, trong khi
xét xử sơ thẩm những bị cáo dưới 18 tuổi cơ quan xét xử phải luôn đề cao
mục tiêu giáo dục răn đe, để người dưới 18 tuổi nhận thức được hành vi, mức
độ nguy hiểm trong hành vi của mình để từ đó sửa chữa mình, rền luyện hoàn
thiện bản thân, ý thức tôn trọng pháp luật, đạo đức xã hội. Để họ trở thành lớp
trẻ, là chủ nhân tương lai của đất nước như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
Bất cứ ai cũng có những bí mật đời tư riêng, đặc biệt là đối với người
dưới 18 tuổi, đang ở lứa tuổi trưởng thành, việc giữ những bí mật trong quá
trình xét xử có ý nghĩa và ảnh hưởng rất nhiều đếnh tâm lí của người dưới 8
tuổi phạm tội Hiện nay, trong một số trường hợp, Tòa án xét xử quyết định vụ
án ra xét xử công khai nhằm mục tiêu răn đe, giáo dục công chúng, đây là
hình thức xét xử lưu động để mở rộng sức ảnh hưởng vào trong nhân dân.
Tuy nhiê, như một con dao hai lưỡi, việc xét xử công khai trong nhân dân đối
với người dưới 18 tuổi tác độnbg ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lí bị cáo, sẽ gây
15
cho người dưới 18 tuổi tâm lí e dè, mặc cảm về bản thân và rất khó có thể hòa
nhập lại với người thân bạn bè khi nghĩ rằng bạn bè đều biết về tội lỗi của họ
gây ra.
* Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới
18 tuổi, nhà trường, Ðoàn thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm
lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
Người dưới 18 tuổi là người chưa thực sự phát triển hoàn thiện cả về
tinh thần lẫn thể chất, đặc biệt là về nhận thức. Đôi khi, người dưới 18 tuổi
không nhận thức được quyền, nghĩa vụ của mình, họ không biết cần làm gì và
phải làm gì. Vì vậy, trong trường hợp này cần phải có ựu tham gia của người
đại diện và những người khác có liên quan hoặc kinh nghiệm hiểu biết để
tham gia bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi một cách tốt nhất theo đúng
quy định của pháp luật. Tuy nhiên việc người đại diên và những người khác
có liên quan đến người 18 tuổi phạm tội tham gia tố tụng phải tuân thủ theo
quy định của pháp luật, tránh tình trạng lạm quyền, vi phạm điều cấm của
pháp luật.
* Tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18
tuổi.
Điều 20 Khoản 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 quy định:
“Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển
của trẻ em, được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan
tâm”. Từ quy định này có thể nhận thấy, nguyên tắc trên đã được Đảng và
nhà nước ta cụ thể hóa bằng quy định trong pháp luật hình sự, thể hiện chính
sách và chủ trương tôn trọng và bảo vệ quyền công dân theo ghi nhận của
Hiến pháp và Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
* Bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người
dưới 18 tuổi.
Theo quy định cua BLTTHS 2015 đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
16
thì trong trường hợp người đại diện hay người được người dưới 18 tuổi ủy
quyền mà không thể mời người bào chữa thì Tòa án sẽ có trách nhiệm cử
người bào chữa cho người dưới 18 tuổi. Nguyên tắc này xuất phát từ đjăc
điểm nhận thức chưa thực sự hoàn hiện của người dưới 18 tuổi, họ chưa thể tự
bào chữa được cho mình và đôi khi điều kiện gia đình cùng những điều kiện
khach quan khác mà họ không theer mời được người bào chữa cho mình. Vì
vậy, để hỗ trợ và bảo đảm tốt nhất cho người dưới 18 tuổi Tòa án sẽ chỉ định
người bào chữa nến trong trường hợp ngưởi dưới 18 tuổi không thêt tự bào
chữa cho mình
* Bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến
người dưới 18 tuổi.
Đây là nguyên tắc đặt ra với việc xét xử một vụ án hình sự nói chung,
đặc biệt là với người dưới 18 tuổi nói riêng vì mục tiêu cuối cùng hướng tới
với xét xử người dưới 18 tuổi là giáo dục răn đ echo họ nhận ra lối của mình
từ đó đưa ra phương án, biện pháp để họ khắc phục và tiếp tục phát triển bản
thân. Yêu cầu giải quyết nhanh chóng ,kịp thời còn hướng tới hạn chế những
thủ tục dài dòng sự tắc trách của cơ quan tiến hành tố tụng gây ảnh hưởng đến
quyền lợi của người dưới 18 tuổi, những người khác liên quan cũng như lợi
ích của nhà nước, xã hội.
1.2. Pháp luật về thủ tục xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
1.2.1. Vài nét về việc xét xử vụ án hình sự
Xét xử là giai đoạn trung tâm, quyết định quá trình giải quyết vụ án từ
khi khởi tố điều tra đến khi đưa bị cáo ra trước Tòa án. Một người dù phạm
tội bị bắt quả tang, bị bắt khẩn cấp, bị cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố
và bị Viện kiểm sát truy tố thì họ cũng chưa bị coi là có tội nếu như chưa bị
Tòa án kết án và bản án có hiệu lực pháp luật.
Trong quá trình xét xử, mọi chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra thu
17
thập trong quá trình điều tra được xem xét một cách công khai, những người
tham gia tố tụng được tranh luận, đối đáp với nhau trước Tòa án, người này
biết người khác khai như thế nào? Tại phiên tòa, Tòa án còn kiểm tra tính hợp
pháp trong hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và những người
tham gia tố tụng khác khác. Để đạt được mục đích yêu cầu của hoạt động xét
xử, Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khâu chuẩn bị
đến việc xét xử tại phiên tòa và cuối cùng là tuyên án. Một phiên tòa công
khai, xét xử đúng người, đúng tội, bảo đảm tranh tụng dân chủ với người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác là một thành công của hoạt động
xét xử.
Một phiên tòa hình sự dù chỉ có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù bị cáo
bị truy tố về tội phạm ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng; thời gian xét xử
có thể chỉ xảy ra trong một ngày hay nhiều ngày, cũng đều phải tuân theo một
trình tự nhất định bao gồm các bước (các giai đoạn): Thủ tục bắt đầu phiên
tòa, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Việc
xét xử tại phiên tòa đòi hỏi những người tiến hành tố tụng mà trước hết là
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không chỉ cần trình độ chuyên môn giỏi mà phải
có kinh nghiệm xét xử, kinh nghiệm điều khiển phiên tòa, xử lý tốt các tình
huống xảy ra tại phiên tòa v.v... Có thể nói, điều khiển phiên tòa là một nghệ
thuật, nó là thước đo đánh giá trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác của người
tiến hành tố tụng. Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều phiên tòa được công
chúng khen ngợi là công minh, nhưng cũng không ít phiên tòa không đạt yêu
cầu thậm chí gây sự bất bình cho những người dự phiên tòa, mặc dù bản án
không trái pháp luật nhưng tính thuyết phục không cao, không được nhân dân
đồng tình chỉ vì những người tiến hành tố tụng, nhất là Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa và Kiểm sát viên thiếu tôn trọng những người tham gia tố tụng và
công chúng dự phiên tòa. Vì vậy, nghiên cứu các quy định của pháp luật về
18
thủ tục tại phiên tòa để vận dụng trong thực tiễn xét xử là rất cần thiết, không
chỉ đối với người tiến hành tố tụng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với
người tham gia tố tụng và mọi công dân để thực hiện việc kiểm tra giám sát
hoạt động xét xử của Toà án và Viện kiểm sát.
1.2.2. Thủ tục xét xử sơ thẩm đối với những vụ án mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
1.2.2.1. Thủ tục lấy lời khai, hỏi cung, đối chất đối với người dưới 18 tuổi.
Về thủ tục xét xử đối với người dưới 18 tuổi, BLTTHS năm 2015 quy
định nhiều nội dung mới theo hướng cụ thể hóa, bảo đảm phù hợp với người
dưới 18 tuổi và thống nhất với quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014.
Đối với việc lấy lời khai của người dưới 18 tuổi thì trước khi tiến hành
cơ quan tiến hành tố tụng phải có thông báo cho người bào chữa, người đại
diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền lợi cho người dưới 18 tuổi về những
nội dung: Thời gian, địa điểm… Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can phải có mặt người bào
chữa hoặc người đại diện của họ.
Đồng thời, pháp luật TTHS 2015 còn quy định riêng đối với việc thực
hiện thủ tục lấy lời khai trong vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi, theo đó
khi lấy lời khai buộc phải có người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi tham dự.
Khi được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì Người bào chữa,
hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi cũng có thể hỏi người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can là người dưới 18 tuổi. Việc thực hiện đặt câu hỏi của
người bào chữa, người đại diện hợp pháp đói với người bị bắt, bị tạm giữ sẽ
được tiến hành sau khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện lấy lời khai, hỏi cung.
Thời gian lấy lời khai người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 1
ngày và mỗi lần không quá 2 giờ, trừ trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức
tạp. Thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 1
19
ngày và mỗi lần không quá 2 giờ, trừ các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; Để
truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn; Ngăn chặn người khác phạm tội;
Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án;
hoặc vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, luật sư bào chữa.
Chỉ tiến hành đối chất giữa bị hại là người dưới 18 tuổi với bị can, bị
cáo để làm sáng tỏ tình tiết của vụ án trong trường hợp nếu không đối chất thì
không thể giải quyết được vụ án.
BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn về quyền bào chữa và cơ chế bảo
đảm quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi (Điều 422). Trong BLTTHS
2015 đã quy định rõ hơn quyền bào chữa cho người dưới 18 tuổi: “Người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa”, trong khi BLTTHS 2003 vẫ còn quy định rất chung chung tại khoản 1,
Điều 305 “có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa…”
Không chỉ quy định về quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi,
BLTTHS 2015 còn có quy định cụ thể trong trường hợp người 18 tuổi hoặc
người đại dện hợp pháp không thể mời được người bào chữa cho người bị
dưới 18 tuổi bị buộc tội thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm cử
người bào chữa cho người dưới 18 tuổi. Cụ thể được quy định tại Điều 76 của
BLTTHS 2015.
1.2.2.2. Thủ tục xét xử tại phiên tòa đối với người dưới 18 tuổi.
Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/07/2017 của tòa án nhân
dân tối cao “Quy định về phòng xử án”:
Vị trí của Hội đồng xét xử (Hội đồng giải quyết việc dân sự hoặc Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa, chủ trì phiên họp) được bố trí ở giữa, phía dưới Quốc
huy;
Vị trí của Thư ký phiên tòa, phiên họp được bố trí phía trước, bên phải
của Hội đồng xét xử (Hội đồng giải quyết việc dân sự hoặc Thẩm phán chủ
20
tọa phiên tòa, chủ trì phiên họp).
Vị trí của người phiên dịch, dịch thuật được bố trí ngang hàng vị trí của
Thư ký phiên tòa, phiên họp phía bên trái của Hội đồng xét xử (Hội đồng giải
quyết việc dân sự hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, chủ trì phiên họp).
Vị trí của đại diện Viện kiểm sát và vị trí của người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bố trí đối diện với nhau,
ở phía dưới vị trí của Thư ký phiên tòa, phiên họp và vị trí của người phiên
dịch, dịch thuật.
Vị trí của bị cáo hoặc đương sự là người dưới 18 tuổi, đại diện người
dưới 18 tuổi và những người tham gia tố tụng khác (tham gia tố tụng khác
gồm nguyên đơn, bị đơn, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan...)
được bố trí phía dưới vị trí của đại diện Viện kiểm sát và vị trí của người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Vị trí hàng rào đặt giữa khu vực của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng với người tham dự phiên tòa, phiên họp.
Vị trí của người tham dự phiên tòa, phiên họp được bố trí ngay sau
hàng rào theo sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, chủ trì phiên
họp.
Vị trí của Cảnh sát bảo vệ phiên tòa, phiên họp được bố trí ngay sau vị
trí của người tham dự phiên tòa, phiên họp theo sự điều hành của Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa, chủ trì phiên họp.
Vị trí của phóng viên, nhà báo được bố trí sau cùng của phòng xử án
21
theo sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, chủ trì phiên họp.
Phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa
gia đình và người chưa thành niên
(Nguồn: Thông tư 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/07/2017)
Phiên tòa xét xử sơ thẩm gồm các bước:
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa.
- Thủ tục hỏi tại phiên tòa.
- Tranh luận tại phiên tòa.
- Nghị án.
- Tuyên án.
BLTTHS năm 2015 quy định nhiều nội dung mới về thủ tục xét xử đối
22
với người dưới 18 tuổi theo hướng cụ thể hóa, bảo đảm phù hợp với người
dưới 18 tuổi và thống nhất với quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014,
đó là:
Một là, mở rộng đối tượng tiến hành tố tụng với tư cách là Hội thẩm,
theo đó: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án phải có một Hội thẩm là
giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc là người có kinh nghiệm, hiểu
biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
Hai là, Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành thì cơ quan tiến
hành tố tụng được quyền tổ chức xét xử kín trong một số trường hợp đặc biệt.
Đối với việc xét xử người dưới 18 tuổi, khi Tòa án xét thấy cần thấy phải tiến
hành xét xử kín để bảo vệ quyền lợi của bị cáo, bị hại dưới 18 tuổi thì Tòa án
quyết định xét xử kín. Đồng thời, Tòa án còn quy định sự bắt buộc phải có
mặt của một số chủ thể như: Người đại diện hợp pháp của bị cáo, đại diện của
nhà trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, …
Ba là, Các hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên xét xử sơ thẩm cụ thể
như sau:
- Công tác xét hỏi, tranh luận phải được thực hiện đúng và phù hợp với
lứa tuổi của bị cáo cũng như những quy định của pháp luật tố tụng hính sự.
- Về tổ chức phòng xử án: Đảm bảo bố trí một phòng xét xử phù hợp
tiêu chuẩn, thân thiện, phù hợp với người dưới 18 tuổi nói riêng. Tạo cho
những người tham gia xét xử một tâm lí thoải mái trong suốt quá trình tổ chức
phiên tòa.
- Đồng thời đảm bảo tâm lí cho những người tham gia phiên tòa đặc
biệt là người bị hại, người là chứng với bị cáo cơ quan tiến hành tố tụng phải
hạn chế việc tiếp xúc riêng giữa những đối tượng này để không ảnh hưởng
đến lời khai của họ trong quá trình xét xử.
- Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa còn có thể
yêu cầu người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích cho
23
người dưới 18 tuổi hỏi bị hại, người làm chứng.
Bốn là, BLTTHS 2015 còn có quy định mới về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục khi áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục với người dưới 18 tuổi
được miễn trách nhiệm hình sự, đây là một nội dung mới quan trọng của
BLTTHS 2015 khi mà trong BLTTHS 1999 và BLTTHS năm 2003 không
quy định.
Năm là, Về việc miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội:
- Người dưới 18 tuổi có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi:
+ Có nhiều tình tiết giảm nhẹ;
+ Tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả và thuộc một trong các
trường hợp quy định tại điểm a,b,c khoản 1, Điều 91.
- Về điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi
phạm tội:
+ Thứ nhất, người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp
của họ phải đồng ý áp dụng biện pháp này;
+ Điều kiện, thời hạn, đối tượng cụ thể khi áp dụng miễn trách nhiệm
hình sự với người dưới 18 tuổi quy định được quy định từ điều 92 đến điều 95
BLTTHS 2015
Sáu là, Ngoài quy định về miễn trách nhiệm hình sự với người dưới 18
tuổi phạm tội BLTTHS năm 2015 còn có quy định về các biện pháp giám sát,
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Cụ thể điều 426, BLTTHS
2015 uy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án có thẩm quyền
áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, bao gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại
24
xã, phường, thị trấn”.
Tiểu kết chương 1
Thủ tục xét sử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi là
các quy định của pháp luật về cách thức tiến hành xử lí xét xử sơ thẩm đối với
nhưng bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là những quy định riêng đặc
biệt mà pháp luật đặt ra với những người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội, trên cơ
sở căn cứ vào những đặc điểm vể điều kiện tâm sinh lí của người chưa thành
niên. Đây là những quy định hướng tới mục tiêu cuối cùng là răn đe, giáo dục,
đặc biệt là tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi cải tạo, tiếp tục cố gắng hoàn
thiện và phát triển toàn diện.
Chính vì những điểm đặc biệt mà yêu cầu đối với những cá nhân, tổ
chức tham gia và quá trình xét xử cũng phải tuân theo những yêu cầu riêng
biệt. Trước hết là cơ quan tiến hành tố tụng khi sử dụng quyền lực của nhà
nước vào xét xử vụ án có bị cáo dưới 18 tuổi phải tuyệt đối tuân thủ theo
những trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, tránh lạm quyền, cẩu thả gây
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người dưới 18 tuổi và những người
tham gia tố tụng khác. Với bị cáo là người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng
phải trung thực trong lời khai, tự giác trong việc tuân thủ chấp hành những
yêu cầu của hội đồng xét xử cũng như những quy định của pháp luật. Còn đối
với người địa diện hợp pháp và nhứng người tham gia tố tụng khác như nhà
trường, thầy cô giáo bạn bè của bị cáo, người làm chứng đều phải tuân thủ và
làm đúng những yêu cầu mà pháp luật đặt ra khi tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, việc thực tiện những thủ tục trong xét xử sơ thẩm những
vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi vào xử lí những vụ việc thực tế của cơ
quan tiến hành tố tụng vẫn bị một số yếu tố chi phối. Để tìm hiểu thêm về
thực tiễn áp dụng những thủ tục cùng những yếu tố chi phối việc thực hiện thủ
tục ấy tác giả đã lựa chọn tỉnh Quảng Ninh để đánh giá. Thực trạng thực hiện
thủ tục xét xử sở thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi diễn ra
tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh như nào sẽ được trình bày đầy đủ trong nội dung
25
chương 2 của bài nghiên cứu.
Chương 2
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
TẠI TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tại tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Khái quát về tình hình tỉnh Quảng Ninh
2.1.1.1. Về tự nhiên, kinh tế, xã hội
- Về vị trí địa lí: Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam,
cách thủ đô Hà Nội 153 km về phía Đông Bắc. Tỉnh Quảng Ninh là tỉnh thành
có nhiều thành phố nhất cả nước khi có tới có 4 thành phố là Hạ Long, Móng
Cái, Cẩm Phả, Uông Bí, 2 thị xã và 8 huyện trực thuộc,
- Về dân số: Tính đến năm 2016, dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt gần
1.224.600 người, mật độ dân số đạt 198 người/km².
- Về Kinh tế: Quảng Ninh có thể nói là một trong những trung tâm
kinh tế hàng đầu của miền Bắc cũng như của cả nước. Với điều kiện tự nhiên
thuân lợi kinh tế Quảng Ninh phát triển đa dạng về nghành nghề thuộc các
lĩnh vực khác nhau. Được thiên nhiên ban tặng, tỉnh Quảng Ninh phát triển
mạnh trong lĩnh vực du lịch. Với nhiều điểm đến đến hấp dẫn khách du lịch
cả trong và ngoài nước, đặc biệt tỉnh Quảng Ninh có có điểm tới hấp dẫn thu
hút hàng triệu lượt khác tới mỗi năm là Vịnh Hạ Long – địa điểm được
UNESCO công nhận là kì quan thiên nhiên thế giới. Đồng thời, tại các thành
phố của tỉnh Quảng Ninh đều hội tụ đầy đủ những yếu tố phát triển các
nghành công nghiệp, thương mại: Giàu tài nguyên, khoáng sản, có cửa khẩu
tại Móng Cái là đầu mối giao thương giữa nước ta với Trung Quốc…
Là tỉnh thành hội tụ đầy đủ những điều kiện cả về tự nhiên lẫn kinh tế
xã hội, tỉnh Quảng Ninh hứa hẹn sẽ trở thành một trong những tỉnh thành dẫn
26
đầu cả nước về kinh tế, văn hóa, du lịch và xã hội.
2.1.1.2. Về Cơ cấu tổ chức và nhân sự Tòa án các cấp có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
* Cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Ninh hiện nay gồm Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh và có 9 Tòa án nhân dân huyện, thành phố trực thuộc tỉnh.
Trong đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có:
Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương1
Tòa chuyên trách
Các Tòa chuyên trách có nhiệm vụ, quyền hạn:
1. Sơ thẩm những vụ việc theo quy định của pháp luật;
2. Phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tương đương bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Bộ máy giúp việc
1. Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
1 http://quangninh.toaan.gov.vn
27
trung ương gồm có Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương.
2. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng, phòng và các đơn vị tương đương thuộc
bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trong bộ máy tổ chức của tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh thì tòa có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi
gồm Tòa hình sự tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Tòa gia đình và người
chưa thành niên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh:
- Tòa hình sự tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
- Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh: Chánh án TANDTC có ý kiến chỉ đạo Tòa án các cấp về công tác nhân
sự, yêu cầu về cơ sở vật chất, chuyên môn, về sự phối hợp với các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức phúc lợi xã hội, cơ quan y tế, giáo dục ở trung ương
và địa phương trong việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa
Gia đình và Người chưa thành niên.
Thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao đã quy định về thẩm quyền của Tòa án gia đình và người
chưa thành niên, theo đó Khoản 6 Điều 3 Thông tư 01 quy định: Tòa gia đình
và người chưa thành niên giải quyết các vụ việc như sau:
Các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc các vụ án hình
sự mà bị cáo là người đã đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới
18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện
sống, học tập do không có môi trường lành mạnh như những người dưới 18
tuổi khác.
Có thể nói, việc ra đời của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong
tổ chức bộ máy của TAND tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện nay là dấu
ấn quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp là bước đi cụ thể nhằm triển
khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về phát triển gia đình, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và
28
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Thể hiện nguyên tắc hiến định về
việc xét xử kín đối với người chưa thành niên được quy định tại Khoản 3
Điều 103 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tòa gia đình và người chưa thành niên TAND tỉnh Quảng Ninh được
thiết lập theo mô hình mới, phòng xử án được tổ chức theo hướng thân thiện.
Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của Tòa gia đình và
người chưa thành niên (không mặc áo choàng khi xét xử). Thông tư số
02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Tòa án nhân dân tối cao.
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố
tụng và người tham dự phiên tòa phải ngồi đúng vị trí trong phòng xử án.
Tòa án ghi âm, ghi hình, ghi hình có âm thanh về diễn biến phiên tòa
được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng.
Ở các Tòa cấp huyện, thị xã, công tác xét xử các vụ án đối với bị cáo là
người dưới 18 tuổi không thành lập tòa chuyên trách mà giao cho một thẩm
phán có kinh nghiệm phụ trách.
Tòa gia đình và người chưa thành niên vừa mới thành lập không lâu,
các thẩm phán vừa phải xử án Hôn nhân và gia đình và vừa phải xử các vụ án
liên quan đến người dưới 18 tuổi. Qua đó cũng gây khó khăn trong việc bảo
đảm quy định xét xử đối với người dưới 18 tuổi.
Xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án
nhân dân đối với người người dưới 18 tuổi.
Như vậy, với đặc thù là một tỉnh thành lớn, tỷ lệ giải quyết án hình sự
cao, tổng số vụ án hình sự được TAND tỉnh Quảng Ninh đưa ra xét xử từ năm
2013 đến năm 2018 xét xử tổng cộng 150 vụ có bị cáo là người dưới 18 tuổi
với tổng cộng 203 bị cáo thì với điều kiện biên chế như hiện nay vẫn chưa
thực sự có thể đáp ứng được những yêu cầu đặt ra.
Tuy nhiên trong công tác xét xử án hình sự lãnh đạo Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh luôn đảm bảo việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải
29
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho họ, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục ưu tiên cải tạo tại công đồng, trở
thành công dân có ích cho xã hội.
2.1.2. Các yếu tố có ảnh hưởng đến xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh
Cùng với những điều kiện tự nhiên tuận lợi, kinh tế xã hội phát triển
mạnh mẽ tạo nên tảng cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân
tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, xét trên phương diện trật tự, an ninh xã hội thì
trên đại bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn tồn tại những mặt trái khi các tệ nạn xã hội
vẫn có dấu hiệu gia tăng cả về số lượng lẫn tính chất. Đặc biệt, điều đáng lo
ngại là số lượng người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật hình sự ngày càng
tăng, xét trong mức độ nguy hiểm của hành vi thì việc xem xét và xử lí tội
phạm dưới 16 tuổi là một vấn dề có ý nghĩa quan trọng đến sự ổn định và phát
triển của cả tỉnh cũng như của cả nước.
Đối tượng phạm tội là người dưới 18 tuổi ngày càng phức tạp trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh do nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến tình trạng trẻ em VPPL hiện nay trước hết là do:
Thứ nhất, Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt về tâm sinh lí của
người dưới 18 tuổi. Người dưới 18 tuổi là độ tuổi mà con người vẫn chưa
hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần. Trong độ tuổi này hầu hết vẫn đều
đang ngồi trên ghế nhà trường. Tuy nhiên, chính vì sự chưa ổn định về mặt
tâm lí là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hành vi phạm tội của
người dưới 18 tuổi. Trước hết, người dưới 18 tuổi vẫn còn chưa hoàn thiện về
mặt nhận thức, đó là sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm sống. Họ chưa biết
được thế nào là đúng là sai, hành vi nào được phép, nên hay không nên thực
hiện. Hơn nữa, ở độ tuổi non trẻ này, con người rất hay tò mò, háo thắng nên
rất dễ chịu tác động từ bên ngoài và bị các phần từ xấu xúi giục hay lợi dụng.
Thứ hai, do hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ mải đi làm kiếm
sống không có thời gian quản lý, quan tâm đến con cái nên trẻ dễ bị lôi kéo.
Gia đình bất hòa, ly hôn tác động đến tâm lý của trẻ, làm trẻ dễ có hành vi
30
tiêu cực hoặc giao kết bạn xấu.
Thứ ba, do sự phối hợp trong quản lý, giáo dục giữa gia đình và nhà
trường còn có những hạn chế, chưa được sâu sát, thường xuyên. Một số trẻ do
đua đòi, lười lao động, thích hưởng thụ, thích thể hiện bản thân đã dẫn đến
hành vi phạm tội. Công tác phòng ngừa VPPL chưa được chú trọng. Việc
quản lý của các ngành chức năng trong công tác quản lý nhà hàng, khách sạn,
quán karaoke, cửa hàng internet còn hạn chế, đã tạo thành các điểm ăn chơi,
trốn học của trẻ em hư… Công tác quản lý đối tượng, quản lý an ninh trật tự
trên địa bàn còn có những sơ hở, như quản lý nhân hộ khẩu, quản lý tạm trú,
tạm vắng… để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội. Công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên trong trường
học, cộng đồng dân cư cũng còn hạn chế.
+ Về phía gia đình: Gia đình là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu quyết định đến nhân cách của các bạn trẻ. Hiện nay, trong guồng
quay cuộc sống sự quan tâm giáo dục con trẻ vẫn chưa thực sự được quan
tâm. Ở khu vực thành thị, các bậc cha mẹ quá bận rộn với công việc nên
những vấn đề quan tâm, chia sẻ và giáo dục con trẻ gần như đều giao cho nhà
trường, người giúp việc. Mặt khác, ở khu vực nông thôn miền núi đời sống
còn khó khăn vẫn đề giáo dục, học tập của con trẻ chưa được coi trọng, rất
nhiều em phải học từ rất sớm để đi làm kinh tế kiếm sống. Hơn nữa, một thực
tế hiện nay, lối sống và quan niệm sống thay đôi, việc kết hôn rồi chia tay của
các cặp đôi có vẻ rất dễ dàng, điều này đã khiến cho các em phải chịu cảnh
chia ly từ nhỏ. Chính những điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
bình thường của giới trẻ. Các em không được sự quan tâm, giáo dục của cha
mẹ rất dễ dẫn tới lối sống buông thả và đi vào con đường phạm tội.
+ Về phía nhà trường: Cùng với gia đình, nhà trường là môi trường
quan trọng thứ hai quyết định đến sự phát triển toàn diện của lớp trẻ. Trẻ em
bắt đầu tới trường từ khi 4 tuổi và tiếp tục học tập cho tới 18 tuổi. Vì vậy, mà
nhà trường là yếu tố quyết định đến việc xây dựng và định hình nhân cách con
người cũng như tạo dựng nền tảng tri thức cơ bản cho con người. Tuy nhiên,
31
thực tế giáo dục của Việt Nam hiện nay ta thấy rằng các nhà trường đều quá
chú trọng đến việc giáo dục những kiến thức cơ bản thông qua các môn học
nhưng lại chưa thực sự chú trọng đến việc giáo dục và định hình nhân cách,
cách sống và những kỹ năng sống cần thiết cho các em. Điều nay khiến cho
các em khi ra cuộc sống phải va chạm với những khó khăn, cản trở rất dễ vấp
ngã và đi vào con đường phạm tội. Hiện nay, các hiện tượng tiêu cực trong
học đường đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí của các em. Khi các bậc giáo
viên – vốn được coi như cha mẹ thứ hai của các em lại nhẫn tâm hành hạ,
chửi mắng đánh đập các em, những người bạn cùng trang lứa học chung lớp,
chung trường lại đánh đập hành hạ nhau một cách nhẫn tâm, rồi tiêu cực trong
thi cử…khiến cho các em nhận thức sai về những chuẩn mực của xã hội, dần
dần hình thành lối sống sai lầm, ỷ lại, vô cảm và rất dễ thực hiện những hành
vi vi phạm pháp luật.
+ Về phía xã hội: Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, mở cửa hội nhập sâu rộng quốc tế và phát triển kinh tế thị
trường năng động. Chính sự phát triển này của đất nước đã tạo ra nhiều điều
kiện, cơ hội phát triển năng động cho các bạn trẻ. Tuy nhiên, chính lối sống
nhanh ấy đã tạo cho con người lối sống thực dụng, ích kỉ và vô cảm. Hơn nữa,
xã hội phát triển nhưng phức tạp lại là đòn bẩy cho những tệ nạn xã hội hoành
hành và đôi khi trẻ em lại trở thành đối tượng bị lợi dụng, xúi giục của những
hành vi trái pháp luật, phi đạo đức. Một bộ phận lớn giới trẻ hiện nay xây dựng
cho mình lối sống buông thả, đua đòi, tự mình lao vào những tệ nạn, chất cấm
với những chất kích thích như bóng cười, cần cỏ thậm chí là ma túy..
2.1.3. kết quả thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, du lịch, văn
hóa thì những tệ nạn xã hội tên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng đang có chiều
hướng gia tăng nhanh chóng. Đáng lo ngại hơn nữa là lứa tuổi tội phạm tại
tỉnh Quảng Ninh đang có chiều hướng mở rộng, khi có cả tình trạng trẻ em
32
phạm tội. Đặc biệt là số lượng hành vi vi phạm pháp luật của người dưới 18
tuổi ngày càng tăng. Thông qua công tác tìm hiểu, thống kê những báo cáo
của tỉnh Quảng Ninh về kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm tại tỉnh
Quảng Ninh từ năm 2013 đến năm 2018 có thể thấy được kết quả hoạt động
xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi địa bàn tỉnh như sau:
Từ năm 2013 đến năm 2018, trên toàn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Tòa
án nhân dân hai cấp đã thụ lý tổng cộng 170 vụ án có bị cáo là người dưới 18
tuổi với tổng cộng 227 bị cáo. Trong đó, đã đưa ra xét xử 150 vụ án (tỷ lệ
88.24%) với 203 bị cáo là người dưới 18 tuổi (tỷ lệ 89.43%).
Bảng 2.1: Thống kê số lượng vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018
Thụ lý Đã xét xử Tỷ lệ % án đã xét xử so với án thụ lý Năm
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
59 88 52 77 88.14 87.5
31 39 31 39 100 100 2013
17 22 12 17 70.59 7.7.27 2014
19 25 16 22 84.21 88.00 2015
22 26 17 21 77.27 80.77 2016
22 27 22 27 100 100 2017
2018 170 227 150 203 88.24 89.43
Tổng
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Nhìn vào bảng thống kê số lượng vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018 ta thấy số
lượng vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện qua các năm không ổn định.
Điều này kéo theo Tỷ lệ % án đã xét xử so với án thụ lý cũng không ổn định
33
mà có nhiều biến động qua các năm.
Bảng 2.2: Thống kê số lượng bị cáo là người dưới 18 tuổi trong tổng số bị
cáo bị xét xử từ năm 2013 đến 2018 tại tỉnh Quảng Ninh.
Năm Tổng số bị cáo đã bị xét xử Tỷ lệ %
Số bị cáo là người dưới 18 tuổi
2013 2000 77 3.85
2014 1098 39 3.55
2015 872 17 1.95
2016 1105 22 1.99
2017 1009 21 2.08
2018 1273 27 2.12
Tổng 7357 203 2,76
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Nhìn vào Bảng Thống kê số lượng bị cáo là người dưới 18 tuổi trong
tổng số bị cáo bị xét xử từ năm 2013 đến 2018 tại tỉnh Quảng Ninh thì từ năm
2013 đến năm 2018 số bị cáo đã bị xét xử có sự giảm tăng giảm không ổn
định qua các năm.. Số bị cáo là người dưới 18 tuổi có sự tăng giảm thất
thường. Trong đó, năm 2014 số lượng bị cáo đã bị xét xử cũng như bị cáo là
người dưới 18 tuổi giảm mạnh so với năm 2013. Trong các năm từ 2014 đến
2018 các con số trong bảng thông kê diễn biến thay đổi thất thường. Điều đó
chứng minh tình hình các vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt
là tội phạm dưới 18 tuổi có nhiều diễn biến phức tạp.
Không chỉ thay đổi thất thường về số lượng mà điều đáng lo ngại và
quan tâm hơn đó là cơ cấu tội phạm cũng có những thay đổi đáng lo ngại. Khi
mà những người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc nhiều nhóm tội khác nhau như:
- Xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe thậm chí là tính mạng
của người khác
- Tội phạm xâm phạm tới tài sản, quyền sử hữu của người khác như:
34
Trộm cắp, cướp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
- Các tội phạm khác xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật
hình sự bảo vệ
Tình hình các loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh được thể hiện trong bảng thống kê sau:
Bảng 2.3: Cơ cấu các loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện đã
được xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2013 đến 2018
Tội danh Số vụ án Số bị cáo
25 45
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Cướp tài sản 28 38
Cướp giật tài sản 25 32
Trộm cắp tài sản 36 39
12 15
Tội tàng trữ vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma túy
Các tội danh khác 24 34
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Thông qua bảng thống kê trên ta có thể thấy được rằng các tội phạm
mà người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thực hiện tập trung chủ
yếu ở nhóm tội phạm về xâm phạm tài sản (Cướp, cướp giật, trộm cắp) và các
tội phạm xâm phạm tới sức khỏe của người khác. Nhóm tội liên quan tới ma
túy tuy không cao như các nhóm tội phạm khác nhưng rất đáng quan tâm vì
số lượng trẻ em bị lôi kéo, dụ dỗ, xúi giục và liên quan tới mà túy “cái chết
trắng” ngày càng nhiều. Tình trạng này nếu không được quan tâm xử lí kịp
thời sẽ gây ảnh hưởng rất lớn về sau, đặc biệt là tác động đến cả quá trình
phát triển ổn định của cả quốc gia.
Trong công tác xét xử sơ thẩm nói chung và xét xử các vụ án hình sự
có bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng luôn đặt ra mục tiêu xét xử không
35
chỉ là răn đe mà mục đích cuối cùng mà hoạt động xét xử hướng tới là giáo
dục, định hướng nhân cách và cách nhìn nhận đúng đắn cho người dưới 18
tuổi, từ đó xây dựng nền tảng để người 18 tuổi phạm tội nhìn nhận lại bản
thân, khắc phục lỗi lầm, điều chỉnh hành vi để lựa chọn cho mình con đường
đi đúng đắn và phát triển hoàn thiện bản thân. Chình vì vậy, khi áp dụng các
hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng
phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật TTHS để đưa ra hình phạt phù
hợp, tránh oan sai hay lạm quyền. Pháp luật hiện nay quy định nhiều mức
hình phạt khác nhau đối với người dưới 18 tuổi, thực tế được áp dụng trong
xét xử sơ thẩm người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh được thể hiện qua
bảng thống kê dưới đây:
Bảng 2.4: Thống kê mức hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018
Năm Tổng số
Cảnh cáo Phạt tiền Án treo
Cải tạo không giam giữ Số bị cáo bị phạt tù giam
bị cáo là người dưới 18 tuổi
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt
Đưa vào trường giáo dưỡng hoặc giáo dục tại xã, phường
2013 77 0 2 0 0 1 17 57
2014 39 0 0 0 0 0 12 27
2015 17 0 0 0 0 0 5 12
2016 22 0 0 0 0 0 8 14
2017 21 1 0 0 0 0 13 7
2018 27 1 2 0 0 4 15 5
Tổng 203 2 4 0 0 5 70 122
36
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Kết quả xét xử hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018 chúng ta có thể rút ra một số
nhận xét sau:
Từ năm 2013 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh việc áp
dụng quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với trường hợp người dưới 18
tuổi phạm tội tuy đã được áp dụng nhưng số lượng rất ít. Đồng thời, tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh cũng chưa áp dụng hình phạt tiền và hình phạt
cảnh cáo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn áp dụng rất ít. Việc áp dụng hình
phạt tù giam có thời hạn chiếm số lượng rất lớn so với số bị cáo phạm tội.
Về áp dụng hình phạt cho hưởng án treo, có thể thấy qua bảng thống
kê, các năm 2013 đến năm 2018 trên toàn địa bàn tỉnh Quảng Ninh việc áp
dụng hình phạt cho hưởng án treo có sự biến động qua các năm.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “đề cao hiệu quả phòng
ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù,
mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ…”. Tuy
nhiên, qua Bảng Thống kê mức hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ 2013 đến năm 2018 nêu trên, chúng ta thấy
thực tiễn công tác xét xử vụ án hình sự sơ thẩm đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa đáp ứng được
yêu cầu cải cách tư pháp, hình phạt tù có thời hạn luôn chiếm tỷ lệ cao trong
việc quyết định hình phạt của tòa án các cấp. Trong khi đó, các hình phạt
không tước tự do cho người dưới 18 tuổi hoặc các biện pháp tư pháp, các biện
pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt chưa được mạnh dạn áp dụng.
Vấn đề này xuất phát từ một số lý do sau:
Một là, Các thẩm phán xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là
37
người dưới 18 tuổi là những Thẩm phán dày dặn kinh nghiệm. Tuy nhiên, các
biện pháp miễn TNHS, miễn hình phạt còn quy định khá chung chung, chưa
có hướng dẫn cụ thể, chẳng hạn: theo BLHS năm 2015 hiểu thế nào là “do
chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa”, tình hình thuộc người phạm tội hay người bị xâm hại, hay tình hình trật
tự xã hội như thế nào thì được coi “người phạm tội không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa” tại thời điểm điều tra, truy tố, xét xử… để áp dụng hiệu quả
thống nhất thì yêu cầu cần có hướng dẫn chung khi áp dụng. Vì chưa rõ ràng
trong quy định của luật mà đôi khi nhiều Thẩm phán ngại áp dụng vì lo lắng
gặp phải áp lực dư luận khi căn cứ pháp lí chưa rõ ràng.
Hai là, các biện pháp tư pháp được áp dụng riêng cho người dưới 18
tuổi bao gồm giáo dục tại xã phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng
hiếm khi được áp dụng trên tỉnh Quảng Ninh thực tế. Điều này nhận thấy khi
từ năm 2013 đến 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chỉ có 04 trường hợp áp
dụng biện pháp tư pháp này. Nguyên nhân đến từ hiệu quả của các biện pháp
này. So với các hình phạt khác thì các biện pháp giáo dục hay đưa vào trường
giáo dưỡng chưa thực sự đủ tính răn đe, hiệu quả tác động thay đổi thái độ,
nhận thức người phạm tội chưa thực sự hiệu quả.
Ba là, hình phạt tù có thời hạn vẫn là hình thức xử lí nhiều nhất trong
xét xử sở thẩm bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội tại tỉnh Quảng Ninh.
TRong khi đó, hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo lại chưa
được sử dụng nhiều. Nguyên nhân chính vẫn nằm ở hiệu quả răn đe đối với
người phạm tội của chúng. Khi mà hình phạt tù bao giờ cũng có sức răn đe
cao hơn rất nhiều so với hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.
Từ thực tiến hoạt động và kết quả của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh như trên ta thấy
rằng việc áp dụng uy định của pháp luật về các hình thức xử phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn khá lung
38
túng và hiệu quả chưa cao. Khi mà hình thức được áp dụng chủ yếu vẫn là tù
có thời hạn, còn đối với các biện pháp mang tính giáo dục, nhân đạo mà Đảng
và Nhà nước ta khuyến khích như miễn TNHS, miễn hình phạt vẫn bị hạn
chế và được được áp dụng nhiều trong xét xử trên địa bàn tỉnh.
Theo BLHS năm 2015 thì người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được
phân chia thành hai nhóm căn cứ theo lứa tuổi: Thứ nhất, từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi và thứ hai, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cách phân chia này
chủ yếu căn cứ vào khả năng nhận thức, sự phát triển của thể chất lẫn tinh
thần, kinh nghiệm sống,…Qua thực tiễn xét xử hình sự sơ thẩm đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2013 đến năm
2018 cho thấy người phạm tội chủ yếu nằm trong độ tuổi từ đủ 16 đến dưới
18 tuổi, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ thấp, được thể hiện qua
bảng thống kê sau:
Bảng 2.5: Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh theo nhóm tuổi
Năm
Nhóm tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 Nhóm tuổi từ đủ 16 đến dưới 18
Tổng Tỷ lệ % Tổng Tỷ lệ % Tổng số người dưới 18 tuổi phạm tội
2013 77 5 6.49 72 93.50
2014 39 3 7.69 36 92.31
2015 17 1 5.88 16 94.12
2016 22 2 9.09 20 91.01
2017 21 1 4.76 20 95.24
2018 27 2 7.41 24 92.59
6.90 189 93.10 Tổng 203 14
39
(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh)
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
chủ yếu tập trung vào độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi luôn chiếm tỷ lệ rất cao
(93.10%) so với độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Tình trạng này xảy ra đến từ
nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó có hai nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, Có thể nói ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi là độ tuổi của
sự giao thoa tính cách giữa trẻ em và người trường thành. Vì ở độ tuổi này các
em dần hoàn thiện về mặt nhận thức nhưng vẫn chưa toàn diện. Sự hiếu động
và tò mò sẽ kích thích các em tìm tòi và phát triển. Tuy nhiên, độ tuổi này
cũng gắn với tính cách nông nổi, hiếu thắng và hành động còn bộc phát rất
thiếu kiểm soát. Đặc biệt, với sự kết nối mạnh mẽ thông qua mạng xã hội đã
tạo cho các em lối sống xa rời thực tế, ỷ lại và muốn trải nghiệm cái mới. Từ
những yếu tố trên mà các em ở độ tuổi đủ 16 đến dưới 18 tuổi thường dễ bị
kích động hơn, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống và những người xung
quanh nên dễ dẫn tới hành vi vi phạm pháp luật hay là đối tượng để những
phần tử xấu lợi dụng, xúi giục điều khiển thực hiện những hành vi vi phạm
pháp luật cho chúng chuộc lợi cá nhân.
Thứ hai, Cũng xét trên góc độ tâm lí và nhận thức thì những người ở
độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì phần tính cách vãn mang màu sắc của trẻ
em, vẫn đang trong giai đoạn bồi dưỡng và định hình về tính cách, đặc biệt
các em trong độ tuổi này vẫn nằm trong vòng “kiểm soát” của gia đình và nhà
trường. Vì vậy, mà hành vi của các em thường ít và mức độ nguy hiểm không
ca bằng các em ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Hơn nữa, trong BLHS
2015 quy định các en từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về các tội
rất nghiêm trọng do cố ý, hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nên số lượng các em
trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS cũng bị thu hẹp hơn
40
nhóm tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi
2.2. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn
chế, vướng mắc trong việc thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh
Quảng Ninh
2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc
2.2.1.1. Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi vẫn còn những lỗ hổng, thiếu sót
Thực tiễn xét xử những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nhìn chung là không có nhiều khó khăn vì tính
chất phức tạp của vụ án thường không cao và các quy định của pháp luật về tố
tụng đối với người dưới 18 tuổi tương đối chi tiết và chỉ dành riêng cho đối
tượng đặc biệt này. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi, công tác xét xử vẫn nảy sinh một số hạn chế,
vướng mắc nhất định:
Trong thông tư số 01/2016/TT-CA ngày 12/4/2016 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao đã có quy định về hướng dẫn tổ chức phiên tòa xét xử nói
chung và xét xử sơ thẩm bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng. Tuy nhiên,
thông tư lại không dự liệu được trường hợp phiên phiên tòa có sự phức tạp
hơn về đối tượng bị cáo. Cụ thể, đối với phiên tòa vừa có bị cáo là người dưới
18 tuổi, vừa có bị cáo là người thành niên nên vẫn chưa có hướng dẫn cách tổ
chức phiên tòa xét xử trong trường hợp này.
Mặt khác vệc thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo
là người dưới 18 tuổi còn gặp khó khăn khi thực tế vẫn chưa có sự phối hợp
giữa Tòa án nhân dân có thẩm quyền trong địa bàn tỉnh Quảng Ninh với các
cơ quan tổ chức, chính trị - kinh tế- xã hội khác trong tỉnh. Đồng thời, việc
thành lập Hội đồng tư vấn giải quyết các vụ án về người dưới 18 tuổi phạm
tội trên thực tế vẫn chưa được tiến hành vì thiếu quy chế hướng dẫn.
41
Về thành phần Hội đồng xét xử đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
Theo Điều 423 BLTTHS năm 2015 quy định “Thành phần Hội đồng
xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định
xét xử kín”.
Như vậy theo quy định của BLTTHS 2015 thì hội đồng xét sử sơ
thẩm vụ án hình sự có bị cáo là ngời dưới 18 tuổi bắt buộc phải có một Hội
thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong nội dung này của luật lại không quy định rõ “là giáo viên
hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” là ở thời điểm nào.
Có nghĩa là, nếu trong trường hợp người đã từng là giáo viên hoặc là cán bộ
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có thể được tham gia vào hội đồng
xét sử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là ngời dưới 18 tuổi hay không? Chính
quy định chưa đầy đủ và rõ ràng này đôi khi đã gây khó khăn và lung túng
cho cơ quan tiến hành tố tụng này khi lựa chọn người phù hợp để tham gia
vào hội đồng xét xử.
Trong thực tiễn xét xử tại các Tòa án cấp sơ thẩm, đa số không quan
tâm đến vấn đề nói trên mà chỉ quan tâm tại thời điểm được bầu làm Hội
thẩm họ là giáo viên hoặc cán bộ đoàn. Có trường hợp người được bầu làm
Hội thẩm làm giáo viên hoặc cán bộ đoàn chẳng bao lâu đã không còn là giáo
viên hoặc cán bộ đoàn nữa hoặc đã làm nghề tự do nhưng chưa hết nhiệm kỳ,
họ vẫn tham gia xét xử các vụ án là người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ thực
trạng đó dẫn đến Hội thẩm không phải là người am hiểu về tâm sinh lý của
người dưới 18 tuổi phạm tội, gây ảnh hưởng đến quyền của bị cáo là người
dưới 18 tuổi [35,tr4].
Việc bảo đảm sự có mặt của người đại diện của bị cáo
Khoản 3 Điều 423 BLTTHS năm 2015 quy định “ Phiên tòa xét xử bị cáo
42
là người dưới 18 tuổi phải có mặt người đại diện của bị cáo, đại diện của nhà
trường, tổ chức nơi bị cáo học tập, sinh hoạt, trừ trường hợp những người này
vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”.
Có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã thay thế cụm từ “Đại diện gia
đình” trong khoản 3 Điều 306 BLTTHS năm 2003 thành “người đại diện”.
Người đại diện đợc hiểu là cha, mẹ hoặc người giám hộ của người dưới 18
tuổi. Người đại diện cho bị cáo khi tham gia tố tụng là đại diện theo pháp luật,
không phải là đại diện theo ủy quyền. Theo quy định này của pháp luật TTHS
và các văn bản pháp luật có liên quan thì việc tham gia tố tụng trong xét sử sơ
thẩm vụ án hình sự có bị cáo là ngời dưới 18 tuổi , vừa là quyền vừa là nghĩa
vụ của người đại diện cua bị cáo.
Tại thực tiễn xét sử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là ngời dưới 18
tuổi tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng cũng như thực tiễn xét sử ở nước ta hiện
nay nói chung thì nội dung về sự tham gia của người đại diện là một trong
những nội dung gây rất nhiều vướng mắc khi áp dụng thực hiện trên thực tiễn
Cụ thể gặp phải một số vướng mắc trong quy định của luật như sau:
- Tại mục 16 phần II Công văn 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002
của TAND Tối Cao có hướng dẫn:“Đối với trường hợp không xác minh được
lý lịch của bị cáo thì tại phiên tòa xét xử không nhất thiết phải có mặt đại diện
gia đình của bị cáo, đại diện nhà trường hoặc tổ chức xã hội”. Đó là trường
hợp không xác định được lý lịch của bị cáo, còn nếu trong trường hợp xác
định được lý lịch của bị cáo, nhưng người đại diện vẫn không thể tham gia tố
tụng vì một lí do bất khả kháng như người đai diện ốm đau, bệnh tật, hoặc ở
quá xa như ở nước ngoài mà không thể tống đạt giấy triệu tập thì trong những
trường hợp đó phải xử lí như thế nào ?.
Điều này đã thực sự gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Vì
trong những trường hợp mà người đại diện của bị cáo ở quá xa thì Tòa không
thể tống đạt giấy triệu tập một cách trực tiếp mà thường phải gửi giấy triệu tập
43
cho người đại diện thông qua bưu điện hoặc những phương thức chuyển phát
khác. Hình thức này không thể đảm bảo được khả năng có hay không tham
gia phiên tòa xét xử của người đại diện cho bị cáo. Thực tiễn xét xử cho thấy
có rất nhiều trường hợp, người đại diện không có mặt tại phiên tòa xét xử. Và
đương nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành thì Thẩm phán phải ra
quyết định hoãn phiên xét xử vì không đảm bảo điều kiện về thành phần bắt
buộc phải tham gia phiên tòa. Điều này khiến cho hoạt động xét xử bị kéo dài
vì có những trường hợp phiên tòa bị hoãn rất nhiều lần vì người đại diện
không thể tham gia. Điều này dễ dẫn tới vi phạm nguyên tắc xét xử nhanh
chóng hiệu quả trong xử lí các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Đồng thời, còn gây áp lực cho cơ quan tiến hành tố tụng, gây mất thời gian
cho những người tham gia tố tụng và tiêu tốn tiền của của Nhà nước.
Vì chưa có quy định về phương án xử lí trường hợp người đại diện
không thể tham gia phiên tòa xét xử sở thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người
dưới 18 tuổi nên yêu cầu các Thẩm phán phải chủ động, linh hoạt khi áp dụng
quy định của pháp luật vào xử lí khi tình huống trên xảy ra. Điều này đôi khi
khiến cho các Thẩm phán lúng túng hoặc xử lí một cách tùy tiện, đi ngược lại
hoặc vi phạm những nguyên tắc, thủ tục trong xét xử sở thẩm vụ án hình sự
có bị cáo là người dưới 18 tuổi mà LTTHS quy định.
Về vấn đề người bào chữa và cấp giấy chứng nhận bào chữa: Khoản 2
Điều 38 BLTTHS năm 2003 quy định việc cấp giấy chứng nhận bào chữa là do
Chánh án quyết định. Từ thực tiễn xét xử cho thấy nội dung quy định này của
pháp luật trong nhiều trường hợp có phần thừa và không thực sự cần thiết. Không
những vậy, trong một số trường hợp còn gây khó khăn trong xét xử. Cụ thể như:
Có những trường hợp Người bào chữa tham gia bào chữa với tư cách
là cộng tác viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nhưng vẫn yêu cầu Tòa
án cấp lại giấy chứng nhận bào chữa sau khi đã có giấy chứng nhận bào chữa
của Cơ quan điều tra cấp. Và trong trường hợp này còn bộc lộ sự thiếu thống
44
nhất trong quy định của pháp luật vì yêu cầu Tòa án cấp lại giấy chứng nhận
bào chữa của Người bào chữa là phù hợp với quy định của BLTTHS năm
2015 nhưng lại vi phạm quy định trong Luật trợ giúp pháp lý. Vì tại Khoản 3
Điều 39 Luật trợ giúp pháp lý quy định:“Giấy chứng nhận tham gia tố tụng
của Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng, trừ
trường hợp bị thu hồi...”, Nếu căn cư theo quy định này của Luật trợ giúp
pháp lý thì Người bào chữa có quyền tham gia tố tụng đến khi xét xử khi họ
có giấy chứng nhận bào chữa của Cơ quan điều tra cấp. Tuy nhiên thực tế áp
dụng lại không dễ dàng như vậy, vì nếu không được Tòa án giấy chứng nhận
bào chữa thì họ sẽ rất khó khăn và đôi khi còn không thể tiếp xúc bị can, bị
cáo trong trại giam để thu thập những dữ liệu cần thiết cho công tác bào chữa
tại tòa của mình.
Những mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong quy định này của luật đã
được khắc phục trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo quy định tại
Điều 79 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa cho bị áo là người dưới
18 tuổi trong phiên tòa xét xử sơ thẩm chỉ phải làm thủ tục đăng ký bào chữa
mà không phải yêu cầu Tòa án cấp lại giấy chứng nhận bào chữa. Điều này
không những khắc phục được tình trạng chồng chéo trong quy định của pháp
luật mà còn tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng
dễ dàng hơn, giảm thiểu được những thủ tục rườm rà, tiết kiệm thời gian và
công sức để tập trung vào công tác thu thập dữ liệu, chứng cứ và bào chữa của
mình.
2.2.1.2. Trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công
tác xét xử còn thấp.
Hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm đối với vụ án
có bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử.
Trong đó, quan trọng hàng đầu phải kể đến vai trò của Thẩm phán và hội
45
đồng xét xử.
Hiện nay, pháp luật quy định chi tiết về quy trình, thủ tục tiến hành
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, các
quy định về thủ tục ấy có được tôn trọng thực hiện đúng và đầy đủ hay không
còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán
bộ làm công tác xét xử. Trên thực tế, ta thấy rằng nhiều trường hợp hoạt động
xét xử làm sai nguyên tắc, quy trình, thủ tục mà nguyên nhân đến từ trình độ
còn hạn chế của đội ngũ cán bộ tòa án. Các cán bộ làm công tác xét xử không
nắm chắc, đầy đủ quy định và yêu cầu của luật đối với một phiên tòa xét xử
phúc thẩm dẫn đến khi thực hiện trên thực tế vẫn tồn tại những thiếu sót, sai
phạm không đảm bảo quy trình, thủ tục cần thiết [35,tr11].
Đồng thời, kết quả của một phiên tòa sơ thẩm vụ án có bị cáo là người
dưới 18 tuổi phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ quan là tâm lý và đạo đức
của thẩm phán và hội đồng xét xử. Pháp luật chỉ quy định những nội dung
trên tinh thần những yêu cầu cơ bản bắt buộc cần phải có và tôn trọng, những
nội dung trên tinh thần định hướng mà thôi còn kết quả áp dụng các quy định
ấy vào xét xử vụ án thực tế như thế nào còn phụ thuộc vào khả năng, thái độ
của cán bộ làm công tác xét xử mà quan trọng nhất là Thẩm phán. Trên thực
tế, nhiều trường hợp Thẩm phán khi xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người
dưới 18 tuổi ra các bản án còn mang nặng cảm tính cá nhân, chưa có sự khách
quan, rõ ràng. Đáng lo hơn, có một bộ phận không nhỏ các Thẩm phán còn lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để chuộc lợi cá nhân, dẫn đến những án oan sai
ngày càng nhiều, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các chủ thể có liên
quan, đặc biệt là người dưới 18 tuổi.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, Hệ thống pháp luật tố tụng nói chung và pháp luật về thủ
tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng vẫn
còn tồn tại những hạn chế, bất cập, thiếu sót. Từ những phân tích đã đưa ra
trước đó cũng như đánh giá từ thực tiễn áp dụng trong xét xử tại tỉnh Quảng
46
Ninh đã phản ánh một thực tế là hệ thống pháp luật vẫn chưa thực sự hoàn
thiện, là một trong những nguyên nhân chính gây nên những khó khăn vướng
mắc trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Giữa
các văn bản luật chung với các luật chuyên nghành vẫn xảy ra tình trạng
chồng chéo, thiếu thống nhất, hơn nữa, rất nhiều nội dung, trường hợp thực tế
xảy ra đã không được pháp luật dự liệu, quy định. Chính những hạn chế này
là nguyên nhân khiến cho cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể khác gặp
rất nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng vào giải quyết các vụ việc trong
thực tế. Từ những vướng mắc khó khăn đó đã gây nên những sai phạm trong
quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi của các
chủ thể thảm gia từ người tiến hành tố tụng, đến các đương sự, người bào
chữa, người dại dện, người làm chứng. Và đây cũng là nguyên nhân chính
khiến cho thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi
không được tôn trọng thực hiện đầy đủ, chính xác trên thực tiễn. Việc các quy
định pháp luật còn chung chung, chưa cụ thể các căn cứ, điều kiện áp dụng
các biện pháp ngăn chặn; miễn nhiễm trách nhiệm hình sự và án treo đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội…dẫn đến mỗi Thẩm phán có một cách hiểu khác
nhau, không thống nhất nên có sự cứng ngắc trong áp dụng luật khi xét xử
những vụ án liên quan đến đối tượng đặc biệt này.
Thứ hai, các nguyên nhân khác: Những người tiến hành tố tụng thiếu
kiến thức cần thiết về tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa
thành niên:
Theo quy định của pháp luật thì những người tiến hành tố tụng, đặc
biệt là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần phải có trình độ, kiến thức trong nắm
bắt tâm lí của người dưới 18 tuổi. Luật đặt ra yêu cầu chung như vậy nhưng
lại không thể quy định nội dung chi tiết như nào là có trình độ kiến thức hiểu
biết về tâm lý trẻ em, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên. Cũng
không có bất cứ thước đo nào để đánh giá xem người tiến hành tố tụng có đủ
những kiến thức, hiểu biết này theo quy định của pháp luật hay không. Hiện
47
nay, việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, hiểu biết về người chưa thành niên
chưa thực sự được quan tâm, chú trọng. Điều này dẫn đến tình trạng người
tiến hành tố tụng thiếu những kiến thức cần thiết về người dưới 18 tuổi, đặc
biệt là thẩm phán. Việc không biết, không hiểu này dẫn đến người tiến hành
tố tụng không thể nắm bắt được những đặc điểm tâm lí của từng nhóm tuổi,
dễ xảy ra trình trạng đánh đồng giữa người dưới 18 tuổi với người trên 18
tuổi, đưa ra những quyết định cứng nhắc, đi ngược lại mục tiêu, ý nghĩa cuối
cùng của hoạt động xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, định
hướng nhân cách, tạo điều kiện và cơ hội khắc phục lỗi lầm để họ được tiếp
48
tục phát triển hoàn thiện như những đứa trẻ khác.
Tiểu kết Chương 2
Thông qua tìm hiểu, phân tích dữ liệu từ thực tiễn thực hiện thủ xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh
chúng ta nhận thấy rằng: Tình hình vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi
trên địa bàn ngày càng tăng về số lượng và mức độ nguy hiểm ngày càng
đáng lo ngại. Trong đó chủ yếu tập trung ở nhóm tuổi từ đủ 16 tuối đến dưới
18 tuổi và ở nhóm tội phạm liên quan đến tài sản (cướp tài sản, cướp giật tài
sản và trộm cắp tài sản) và nhóm tội phạm liên quan đến xâm phạm sức khỏe
tính mạng của người khác. Tuy nhiên, ở độ tuổi từ đủ 14 tuối đến dưới 16
tuổi, tình hình phạm tội cũng có những diễn biến phức tập và rất đáng lo
ngại. Các hình thức được áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu
vẫn là hình thức phạt tù có thời hạn, các hình thức miễn trách nhiệm, giáo
dục, đưa vào trường giáo dưỡng…vẫn chưa được áp dụng nhiều.
Đạt được những kết quả nhất định, công tác xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh Quảng Ninh cũng đã đạt được
những mục tiêu định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra khi xét xử với
nhóm chủ thể đặc biệt này. Hầu hết, các vụ án hình sự có bị cáo là người
dưới 18 tuổi đều được xét xử nhanh chong, đúng quy trình, thủ tục, đúng
người đúng tuổi, phát huy được tính chất khoan hồng trong hình thức xử
phạt, tạo điều kiện để giáo dục các em, giúp các em nhận ra lỗi lầm, định
hình lại nhân cách đúng đắn, có cơ hội làm lại cuộc đời và phát triển toàn
diện như những bạn cùng trang lứa khác.
Bên cạnh những kết quả tích cực trên thì thực tiễn áp dụng thủ xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi nói chung và tại tỉnh
Quảng Ninh nói riêng vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập như: Pháp luật về
thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi vẫn còn
49
những lỗ hổng, thiếu sót. Trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
làm công tác xét xử có thể vẫn còn chưa đáp ứng được đúng yêu cầu theo quy
định.
Những bất cập, hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau
như yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi vẫn còn những lỗ hổng, thiếu sót; đến
các yếu tố người tiến hành tố tụng khi trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử còn thấp. Mối liên hệ, phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự nhuần nhuyễn…
Từ những hạn chế, khó khăn và những nguyên nhân kể trên trong thực
tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18
tuổi tại tỉnh Quảng Ninh. Tác giả sẽ đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hình sự sơ thẩm đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng và hoạt động xét xử đối
với bị cáo là người dưới 18 tuổi nói chung trong nội dung chương 3 của luận
50
văn.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MÀ BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
3.1. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ
tục xét xử vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về người dưới 18 tuổi
phạm tội
Bộ luật hình sự 2015 ra đời cùng với những văn bản hướng dẫn được
ban hành đã khắc phục được hầu hết những hạn chế bất cập trong pháp luật
hình sự trước đây. Tuy nhiên, pháp luật chỉ mang tính chất dự liệu vì vậy mà
ns vẫn bộc lộ những thiếu sót nhất dịnh khi áp dụng vào giải quyết những vụ
việc thực tiễn. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hoạt động tục xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, pháp luật hình sự về người
dưới 18 tuổi vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, việc quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là chưa phù hợp. Vì mực tiêu của việc xét xử người dưới 18
tuổi phạm tội nói chung và với nhóm tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nói
riêng là nhằm giáo dục, răn đe, cho các em nhận thấy được sai lầm để sửa
chữa. Nếu các em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì những hành vi phạm tội
không thuộc hai nhóm trên sẽ xử lí ra sao? Việc quy định như vậy là chưa hợp
lí và không đảm bảo rõ ràng, minh bạch, bản thân người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi rất khó có thể biết được chính xác thế nào là tội phạm nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Hơn nữa, trẻ em từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi tự mình thực hiện tội phạm
51
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thườn rất ít mà chủ
yếu là chịu sự tác động hoặc xúi giục từ nhữn phần tử xấu. Việc xử lí hình sự
đối với các em trong trường hợp này là tương đối nghiêm khắc và mất đi ý
nghĩa giáo dục, nhân đạo mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới khi xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. Vì ngay chính các em khi thực
hiện hành vi phạm tội do sự xúi giục hay đe dọa từ người khác cũng không nhận
thức được hết tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi của mình.
Do vậy, BLHS cần có quy định rõ ràng hơn về một số tội cụ thể mà
người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi hay thực hiện và quy định đây đủ, chi tiết
những tội danh cụ thể và những hình phạt với họ khi thực hiện những loại tội
phạm đó. Đồng thời quy định rõ các tội danh mà người từ đủ 14 đến dưới 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Đồng thời qua tìm hiểu về những tội danh
mà người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp
luật hiện hành thì tác giả xin đề xuất bỏ các tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin và viễn thông ra khỏi nhóm những tội dnah mà nhóm tuổi này
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 đã có những sửa đối bổ sung hợp lý
hơn theo hướng sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội (Điều 91) theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18
tuổi; bổ sung nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi trên
tinh thần Công ước về Quyền trẻ em; bổ sung quy định ưu tiên xem xét áp
dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự trước khi quyết định việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi; khẳng định nguyên tắc chỉ áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi, nhất là hình phạt tù sau khi đã xem
xét, cân nhắc khả năng áp dụng các biện pháp tư pháp nhằm thể hiện tinh thần
nhân đạo tại Điều 37 của Công ước về Quyền trẻ em là “việc bắt, giam giữ
hay bỏ tù trẻ em chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong
52
thời hạn thích hợp ngắn nhất”
Ba là, Hoàn thiện hơn nữa các hình thức chế tài đối với người dưới 18
tuổi phạm tội. Tuy nhiên, cac chế tài đó không phải là các hình thức phạt tù
hay cưỡng chế mà hoàn thiện theo hướng tăng việc áp dụng các biện pháp
không tước tự do của người dưới 18 tuổi như miễn trách nhiệm giáo dục hay
đưa vào các trường giáo dưỡng. Đồng thời cần phải bổ sung và hoàn thiện
quy định của páp luật về những nội dung: cơ chế tha tù trước thời hạn có điều
kiện; hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, về
xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; xoá án tích đối với
người chưa thành niên bị kết án…
3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về người dưới 18
tuổi phạm tội
Cùng với bộ Luật hình sự 2015 thì Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 được
ban hành và có hiệu lực đã khắc phục được hầu hết những tồn tại, hạn chế
trong quy định về người dưới 18 tuổi của những văn bản pháp luật tố tụng
trước đó, cụ thể là BLTTHS 1999 VÀ BLTTHS 2003. Tuy nhiên, cũng giống
như BLHS 2015 thì những quy định trong BLTTHS 2015 chỉ mang tính chất
dự liệu vì vậy mà nó vẫn bộc lộ những thiếu sót nhất định khi áp dụng vào
giải quyết những vụ việc thực tiễn. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hoạt
động tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi, pháp
luật tố tụng hình sự về người dưới 18 tuổi vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện
những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, Cần đưa ra một định nghĩa, một khái niệm chính thống trả lời
cho câu hỏi: Thế nào bị cáo là người dưới 18 tuổi? vì tại Chương XXVIII -
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rất rõ các trình tự thủ tục nhưng
lại chưa hề đưa ra một định nghĩa chính thống. Điều này khiến cho hoạt động
áp dụng và xác định bị cáo là người dưới 18 tuổi trong thực tế vẫn tồn tại
vướng mắc. Thông qua tìm hiểu những tài liệu liên quan tác giả xin đề xuất
53
một khái niệm về người dưới 18 tuổi như sau: “
+Bị cáo là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”[34,tr33].
Thứ hai, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã giành một chương riêng
là Chương XXVIII để quy định rất rõ ràng đầy đủ những trình tự, thủ tục khi tiến
hành xét xử vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên vẫn còn
nhiều trường hợp xảy ra trên thực tế chưa được Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 quy định như: Cử đại diện các cơ quan, tổ chức tham gia lấy lời khai, giám
sát, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, xét xử đối với người dưới 18
tuổi khi người đại diện của họ có yêu cầu; trường hợp người đại diện của bị cáo
không thể tham gia hoặc cố tình không tham gia phiên tòa…
3.1.3. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật khác
Thứ nhất, Có quy định rõ ràng hơn hoặc cần thiết thì ban hành văn bản
riêng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có liên
quan cụ thể:
Trước hết cần xác định được trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ trong hỗ
trợ của các cơ quan tổ chức chính trị xã hội tại địa phương nơi bị cáo là người
dưới 18 tuổi thực hiện các bản án quyết định hành chính của tòa án ở cộng
đồng như: Các cơ quan nhà nước (Công an, ủy bạn nhân dân…), các tổ chức
chính trị đoàn thể (Hội phụ nữ, Đoàn Thanhh niên cộng sản, các tổ chức
Đảng), các đơn vị, tổ chức kinh tế chính trị khác; các gia đình, cá nhân…
Cụ thể và ràng hơn trong việc quản lí những người dưới 18 tuổi phạm
tội đã được xét xử và đang thực hiện bản án, quyết định của tòa án với các
hình thức cải tạo không giam giữ, án treo, giáo dục tại địa phương…Để thực
hiện điều đó trước hết cần phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng
cấp, từng cơ quan. Từ trung ương đến các cấp chính quyền địa phương. Đặt ra
yêu cầu phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ quan chính quyền các cấp và
54
giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức kinh tế, chính trị xã hội khác tại địa
phương nơi bị cáo đang thi hành bản án, quyết định của tòa án. ttheo quy định
của pháp luật.
Thứ hai, kiểm tra lại những nội dung, điều kiện về vật chất giáo dục
cũng như tinh thần tại các trại giam và trường giáo dưỡng. Để từ đó đảm bảo
cho người bị áp dụng hình thức giam giữ có thời hạn hoặc đưa vào các trường
giáo dưỡng được chăm sóc, giáo dục và phát triển đầy đủ và toàn diện mà trẻ
em vốn được hưởng. Qua tìm hiểu về việc xử lí đối với những em bị nhiễm
HIV/AIDS tại các trại giam và các trường giáo dưỡng theo hướng dẫn hiện
hành của Bộ Công an thì tác giả xin được đề xuất yêu cầu loại bỏ quy định
các trường, các trại giam không được thông báo về tình trạng nhiễm HIV/
AIDS của học sinh trong trường và phải giam chung, ở chung người chưa
thành niên vì nhiễm HIV/AIDS [8,tr6]. Vì được biết về tình trạng sức khỏe
của mình là quyền cơ bản của con người đặc biệt là người dưới 18 tuổi. Hơn
nữa, việc giam chung ở chung mà cả người nhiễm và không nhiễm HIV/AIDS
đều không biết thì rất dễ xảy ra lây nhiễm cho nhau. Vì vậy, việc bỏ nội dung
quy định này sẽ vừa tránh nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cho người dưới 18
tuổi không nhiễm bệnh, vừa có thể đảm bảo cho người dưới 18 tuổi biết được
tình trạng sức khỏe của mình, quyền được chăm sóc y tế tích cực của họ cũng
được đảm bảo hơn.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thủ tục pháp lý bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong quá trình xử lý về hình sự.
3.2. Tăng cường triển khai, hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi
Cùng với các giải pháp xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật hình
sự, pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan thống nhất,
chặt chẽ. Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sở thẩm vụ án hình sự
có bị cáo là người dưới 18 tuổi, cần phải quan tâm hơn nữa trong việc triển khai,
55
hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử án hình sự đối với người dưới 18 tuổi.
* Đối với cơ quan tiến hành tố tụng:
Trước hết, hoạt động triển khai, hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử án
hình sự đối với người dưới 18 tuổi đặt ra đầu tiên với nghành tòa án nói chung
và những người tiến hành tố tụng nói riêng. Vì nhóm đối tượng này chính là
những người đại diện cho Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước vào tiến
hành xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự có bị cáo là
người dưới 18 tuổi nói riêng. Hoạt động xét xử của những người tiến hành tố
tụng ảnh hưởng và quyết định trực tiếp đến quyền lợi và trách nhiệm của
những người tham gia tố tụng, đặc biệt là nhóm chủ thể đặc biệt – những
người dưới 18 tuổi. Phải nắm rõ những quy định trong thủ tục xét xử án hình
sự đối với người dưới 18 tuổi thì mới có thể xét xử đúng, có xét xử đúng mới
đưa ra được những bản án quyết định đúng. Và phải có những bản án quyết
định đúng thì mới bảo vệ được quyền lợi cho người dưới 18 tuổi và các chủ
thể khác. Đồng thời, việc xét xử đúng mới có thể đảm bảo thực hiện được
mục tiêu, ý nghĩa trong xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, răn
đe, định hướng cho các en khắc phục sai lầm, phát triển lành mạnh. Để phát
huy được vai tò, nhiệm vụ của mình trong xét xử vụ án hình sự có bị cáo là
người dưới 18 tuổi thì yêu cầu các đơn vị, cá nhân trong nghành tòa án phỉa
thực hiện và phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ của mình. Cụ thể như sau:
- Tòa án nhân dân tối cao: Cần tăng cường hướng dẫn việc thực hiện và
nâng cao hiệu quả trong hoạt đọng xét xử có bị cáo là người dưới 18 tuổi
thông qua việc tổ chức các Hội nghị chuyên đề. Đặt ra yêu cầu thực hiện đầy
đủ, đúng trình tự thủ tục khi xét xử sở thẩm vụ án có bị cáo là người dưới 18
tuổi là yêu cầu bắt buộc, là trách nhiệm nghĩa vụ của Tòa án nhân dân các
cấp. Khi đưa ra những hình phạt, những bản án hay quyết định đối với người
dưới 18 tuổi phải căn cứ theo quy định của pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Tuy nhiên, không được quá cứng nhắc mà cần phải linh động trong xét xử để
56
hoạt động xét xử người dưới 18 tuổi vừa đúng luật vừa mangg tính nhân đạo,
tạo cơ hội cho người dưới 18 tuổi phạm tội được sửa chữa, khắc phục lỗi lầm
để tiếp tục phát triển lành mạnh.
- Tăng cường hơn nữa việc áp dụng các biện pháp không tước quyền tự
do của người dưới 18 tuổi, ưu tiên các hình phạt mang tính nhân đạo, giáo dục
họ: Tòa án chỉ nên áp dụng hình thức phạt tù có thời hạn khi xét thấy các hình
thức khác không đủ hiệu quả răn đe, giáo dục. Tòa án nhân dâncác cấp trong
quá trình tiến hành tố tụng và khi đưa ra bản án quyết định cuối cùng cần phải
đánh giá, xem xét thật kỹ lưỡng khi quyết định hình phạt với người dưới 18
tuổi, đặc biệt là khi quyết định áp dụng hình thức phạt tù có thời hạn. Trong
trường hợp hành vi của người dưới 18 tuổi không quá nguy hiểm mà các hình
phạt khác có đủ hiệu quả răn đe, giáo dục thì ưu tiên những hình thức tư pháp
khác như: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào trường giáo dưỡng hay
hưởn án treo…Tránh tình trạng tùy tiện khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn
với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
- Phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm minh những sai phạm trong quá
trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi của cơ quan
tiến hành tố tụng: Trong quá trình thực hiện những thủ tục xét xử vụ án hình
sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi, cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi vẫn chưa
thực hiện đúng đầy đủ những quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm
quyền…Những sai phạm này cần phải được phát hiện kịp thời và có hình thức
xử lí nghiêm mình mới có thể đảm bảo không ảnh hưởng tới quyền lợi cua
người dưới 18 tuổi cũng như những người tham gia tố tụng khác. Từ đó, mới
có thể nâng cao hiệu quả trong thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có bị cáo là người dưới 18 tuổi.
* Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với gia đình và nhà trường.
- Giữa cơ quan nhà nước với nhà trường: Các cơ quan chức năng cần
57
kết hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn địa phương mĩnh để thực hiện các
chương trình ngoại khóa, các cuộc thi để nâng cao hiểu biết, kỹ năng đặc biệt
là kiến thức pháp luật cho các em dưới 18 tuổi. Để từ đó định hình cho các em
những hành vi được làm không được làm, hành vi nào là đúng pháp luật và
hành vi nào là vi phạm pháp luật…để từ đó các em sẽ tự nhận thức và điều
chỉnh hành vi của mình.
- Giữa cơ quan nhà nước với gia đình và giữa gia đình với nhà trường:
Cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan chức năng với gia đình và với gia
đình và nhà trường trong việc quản lí, giáo dục người dưới 18 tuổi. Theo đó
các cơ quan chức năng tạo điều kiện cho các gia đình trong việc giáo dục con
em mình, cho các em được học tập trong một môi trường lành mạnh và những
điều kiện thuận lợi nhất. Còn giữa gia đình và nhà trường cần có sự phối hợp,
trao đổi trong việc lựa chọn hình thức và phương pháp giáo dục hiệu quả, phù
hợp nhất.
Thứ ba, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho người
dân, khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh và tố giác tội phạm:
- Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật phải đảm bảo những yếu
tố: Thống nhất vể nội dung, phù hợp với trình độ của mọi lứa tuổi, mọi đối
tượng. Sử dụng các phương thức tuyên truyền khác nhau tránh nhàm chán,
hay làm lấy lệ. Có thể thực hiện các hình thức tuyên truyền thông qua các
hoạt động trao đổi, ngoại khóa, các cuộc thi các chương trình truyền hình,
phim ảnh…
- Không ngừng khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh và tố giác tội phạm. Thực hiện tuyên dương khen
thưởng với những cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp tích cực vào các hoạt
58
động phòng ngừa, đấu tranh và tố giác tội phạm.
3.3. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện
công tác xét xử - giỏi về chuyên môn, hoàn thiện về nhân cách và đạo đức
nghề nghiệp
Người dưới 18 tuổi là những người đang ở giai đoạn xây dựng hoàn
thiện nhân cách, vẫn chưa thực sự ổn định của về thể chất lẫn tinh thần. Tâm
lí chưa ổn định, còn trẻ con háo thắng cùng với nhận thức chưa đầy đủ về
mức độ nguy hiểm trong hành vi của mình nên rất dễ thực hiện những hành vi
vi phạm pháp luật. Mặt khác, các em vẫn đang ở độ tuổi xứng đáng được học
tập, vui chơi và phát triển toàn diện. Chính những điểm đặc biệt trong đối
tượng nên yêu cầu đặt ra với những người tiến hành tố tụng là cần có những
hiểu biết cần thiết về người chưa thành niên, có thể nắm bắt được tâm lí của
họ khi thực hiện những hành vi phạm tội để khi đưa ra những quyết định, bản
án là phù hợp với mức độ, tính chất đặc biệt của những người dưới 18 tuổi.
Tránh tình trạng cứng nhắc, đánh đồng về mức độ nguy hiểm trong hành vi
của người dưới 18 tuổi với những tội phạm thuộc các nhóm tuổi khác.
Thẩm phán tòa án nhân dân là những người được Đảng, Nhà nước giao
trọng trách hết sức quan trọng trong việc đưa ra những bản án, phán quyết
đúng - sai trong các vụ án; đồng thời thẩm phán chính là chủ thể trung tâm
của tòa án, nên phải là những người có đạo đức trong sáng, gương mẫu về
mọi mặt, giỏi về chuyên môn pháp lý và nghề xét xử. Vì vậy, để xây dựng tòa
án nhân dân trong sạch, vững mạnh, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, thực
hiện thắng lợi Chiến lược cải cách tư pháp, việc rèn luyện, nâng cao đạo đức
của thẩm phán tòa án càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Ở nước ta, tiêu chuẩn đạo đức của thẩm phán được quy định trong một
số văn bản, như Luật Cán bộ, công chức, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Quy
tắc ứng xử của cán bộ, công chức tòa án nhân dân; Quy định của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm... Gần đây,
59
Tòa án Nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/HĐTP, ngày 16-3-2017,
“Về việc công bố bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin điện tử
của tòa án” và Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, về “Ban
hành Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong tòa án
nhân dân”... Đây không chỉ đơn thuần là những quy định yêu cầu nâng cao
chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, mà còn là những quy định có tính chất
động lực, làm cơ sở định hướng phấn đấu, rèn luyện đạo đức của thẩm phán
tòa án trong thực thi nhiệm vụ.
Căn cứ quy định của Hiến pháp, kế thừa và cụ thể hóa lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng các định hướng của Đảng, Luật Tổ chức tòa án nhân
dân năm 2014 quy định tiêu chuẩn, đạo đức của thẩm phán như sau: Trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng
cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.
Thẩm phán có trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp
hành Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân, độc lập, vô tư, khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử; chấp hành quy
tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn uy tín của tòa án; giữ bí mật nhà
nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật; học tập, nghiên cứu để
nâng cao kiến thức, trình độ chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ tòa án; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và các
quyết định của mình... Tựu trung, nội dung cơ bản của đạo đức thẩm phán bao
gồm các chuẩn mực đạo đức chung của cán bộ, công chức và đạo đức nghề
nghiệp xét xử, được thể hiện ở một số khía cạnh chính: thượng tôn pháp luật,
tôn trọng khách quan, xét xử độc lập, tận tụy phục vụ và tôn trọng nhân dân,
tự giác học tập.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng trình độ chuyên môn và thái độ,
60
đạo đức thẩm phán:
* Thứ nhất, giải pháp về giáo dục chính trị, tư tưởng
Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ: Chi bộ là hạt nhân, là tế
bào cơ sở của tổ chức đảng; “Chi bộ tốt, thì mọi việc đều tốt”. Do đó, cần đổi
mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thường kỳ. Nguyên tắc tập trung
dân chủ, việc tự phê bình và phê bình, việc bình xét, đánh giá đảng viên, công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng,... cần được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ,
thiết thực, hiệu quả tại chi bộ. Nội dung sinh hoạt chi bộ cần được đổi mới,
tránh hình thức, giản đơn. Vai trò của bí thư và cấp ủy là hết sức quan trọng
trong sinh hoạt chi bộ nói chung, trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng
viên, thẩm phán nói riêng. Chi bộ cần duy trì công tác kiểm tra, đánh giá đảng
viên, kịp thời nhắc nhở, giáo dục đảng viên nâng cao phẩm chất đạo đức và
năng lực công tác chuyên môn thông qua các công việc hằng ngày, các nhiệm
vụ được giao.
Thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục chính trị: Công tác bồi dưỡng, giáo
dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ
thẩm phán, cán bộ tòa án cần đi vào các nội dung thiết thực đối với từng chức
danh tư pháp; phương pháp bồi dưỡng, giáo dục phải được nghiên cứu đổi
mới, thường xuyên cập nhật, với mục tiêu định hướng hành động trong thực
hiện nhiệm vụ và mang tính thống nhất. Cùng với việc nghiêm túc học tập các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cần tập trung giáo dục thẩm phán thấm nhuần
sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ tòa án: “Phụng công
thủ pháp, chí công vô tư”, “Tận tụy phục vụ nhân dân”, không thiên vị, tư lợi
trong thực thi công vụ.
Đẩy mạnh học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Duy trì
thường xuyên, nghiêm túc việc đăng ký, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết,
đánh giá việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh
thần Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị trong các tòa án nhân dân. Nội
61
dung học tập theo gương Bác Hồ cần được cụ thể hóa, sát thực, gắn liền với
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao của mỗi chức danh tư pháp, đặc
biệt là thẩm phán. Bảo đảm việc học tập theo gương Bác Hồ thực sự hiệu quả.
Phải biến những đức tính, phẩm chất đạo đức, phong cách mẫu mực của Bác
trở thành suy nghĩ và hành động cụ thể của cán bộ, thẩm phán, tuyệt đối tránh
hình thức, qua loa.
* Thứ hai, giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ
Ban hành các văn bản, quy định: Nhằm nâng cao chất lượng xét xử,
nâng cao trách nhiệm, đạo đức và năng lực của thẩm phán, Tòa án Nhân dân
tối cao đã ban hành Chỉ thị số 01/2017/CT-CA, ngày 16-01-2017, của Chánh
án Tòa án Nhân dân tối cao, “Về việc triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các tòa án nhân dân” và Hướng dẫn số
136/HD-TANDTC, ngày 30-3-2017, về “Công tác tổ chức phiên tòa rút kinh
nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp”; Nghị quyết số 03/HĐTP, ngày 16-3-
2017, “Về việc công bố bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin
điện tử của tòa án”; Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, về
“Ban hành Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong tòa
án nhân dân”; Quyết định số 346a/2017/QĐ-TANDTC, ngày 01-3-2017, về
“Ban hành Quy chế công tác kiểm tra trong tòa án nhân dân”, trong đó có nội
dung kiểm tra về thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ.
Việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm là biện pháp giúp thẩm
phán nhìn nhận ra những sai sót, khiếm khuyết trong thực thi nhiệm vụ,
phòng ngừa những vi phạm, kịp thời khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế
sau mỗi phiên tòa. Việc công khai các bản án, quyết định của tòa án trên cổng
thông tin điện tử của tòa án là nhằm công khai, minh bạch hoạt động, phán
quyết của tòa án, ràng buộc thẩm phán phải tự giác học tập, nâng cao trình độ
nghiệp vụ, ban hành những bản án chuẩn mực, đúng pháp luật. Đặc biệt,
Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, của Chánh án Tòa án
62
Nhân dân tối cao, quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp
trong tòa án là một giải pháp mạnh mẽ nhằm nâng cao năng lực và đạo đức
đối với thẩm phán, thẩm tra viên và thư ký trong công tác. Đây là những
quyết định, giải pháp mới, lần đầu tiên được ban hành và thực hiện trong hệ
thống tòa án nhân dân.
Hiện nay, Tòa án Nhân dân tối cao đang tiếp tục nghiên cứu, xây dựng,
ban hành một số văn bản nhằm nâng cao chất lượng công tác chuyên môn,
đồng thời nâng cao phẩm chất đạo đức của thẩm phán (xây dựng “Bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng của bản án, quyết định của tòa án”; cuốn “Sổ tay thẩm
phán hướng dẫn kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa, kỹ năng hòa giải”; nghiên
cứu, xây dựng “Tiêu chí thi đua - khen thưởng đối với bản án, quyết định có
tính chuẩn mực; đối với thẩm phán làm tốt công tác hòa giải” để khuyến
khích thẩm phán tự trau dồi, nâng cao kỹ năng viết bản án, quyết định; đồng
thời động viên các thẩm phán có nhiều bản án, quyết định có tính chuẩn mực
và các thẩm phán làm tốt công tác hòa giải...).
Tăng cường thanh tra, kiểm tra: Việc kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ
trong các tòa án nhân dân được thực hiện bằng việc kết hợp giữa tự kiểm tra
với kiểm tra của tòa án nhân dân cấp trên với tòa án nhân dân cấp dưới; kết
hợp giữa kiểm tra định kỳ với kiểm tra đột xuất. Tòa án các cấp phải lập kế
hoạch kiểm tra theo thẩm quyền. Kết thúc đợt kiểm tra, các đoàn kiểm tra
phải tổ chức họp rút kinh nghiệm chung, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót; đề
xuất với cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân có sai phạm
nghiêm trọng; yêu cầu đối tượng bị kiểm tra báo cáo kết quả khắc phục hạn
chế, thiếu sót sau một thời gian nhất định.
* Thứ ba, giải pháp về tổ chức - đào tạo, bổ nhiệm
Tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán: Mở rộng nguồn thi tuyển chọn thẩm
phán; việc thi tuyển chọn, nâng ngạch thẩm phán phải bảo đảm dân chủ, công
khai, minh bạch để lựa chọn được những người có trình độ, năng lực và phẩm
63
chất đạo đức, đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm thẩm phán theo quy
định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014. Tiếp tục công khai hóa các
kế hoạch thi tuyển chọn thẩm phán để những người có đủ điều kiện đăng ký
dự thi, chủ động ôn tập, bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng trong các kỳ thi
tuyển chọn. Tòa án Nhân dân tối cao đang tiếp tục nghiên cứu, xây dựng quy
định tiêu chuẩn thống nhất của từng chức danh thẩm phán, gắn với vị trí việc làm
của từng cấp tòa án nhân dân; xây dựng và thực hiện kế hoạch tạo nguồn, luân
chuyển, điều động biệt phái thẩm phán, vừa đào tạo, bồi dưỡng theo quy hoạch,
vừa phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng; bảo đảm tăng cường rèn luyện, thử thách,
tuyển chọn đúng người để đề xuất bổ nhiệm thẩm phán cho các tòa án.
Đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán: Đổi mới nội dung, chương trình,
phương thức đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán phù hợp với yêu cầu chuyên môn,
công việc và từng ngạch của thẩm phán. Chú trọng truyền đạt các nội dung:
kiến thức pháp luật mới, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính
trị, pháp luật quốc tế, ngoại ngữ, tin học, kỹ năng dân vận,... Bảo đảm nội
dung kiến thức truyền đạt vừa rộng, vừa chuyên sâu; kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn, lý thuyết và thực hành, giúp thẩm phán nắm vững kiến thức,
thành thạo kỹ năng, ngày càng nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề
nghiệp. Ngoài ra, chú trọng, khuyến khích việc đào tạo sau đại học đối với thẩm
phán, tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho thẩm phán nâng cao trình độ.
* Thứ tư, giải pháp về thi đua - khen thưởng
Kịp thời tôn vinh, khen thưởng: Đổi mới quy chế thi đua - khen thưởng
đối với thẩm phán, cán bộ tòa án theo hướng thiết thực, ý nghĩa và kịp thời;
đánh giá thành tích và tôn vinh đúng người, đúng việc; tổ chức các cuộc thi
thẩm phán giỏi, bình xét vinh danh các thẩm phán tiêu biểu, mẫu mực; tuyên
truyền, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”
trong rèn luyện đạo đức và kết quả công tác chuyên môn, tạo hiệu ứng lan tỏa
sâu rộng trong toàn hệ thống tòa án nhân dân. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng
64
quy chế về đạo đức công vụ và kỷ luật công vụ, gắn với cơ chế khen thưởng,
vinh danh thẩm phán có thành tích, đề xuất khen thưởng định kỳ hằng năm và
đột xuất trong các đợt thi đua ngắn, tạo phong trào thi đua sôi nổi, thường xuyên.
Xử lý nghiêm các vi phạm: Căn cứ các kết quả giám sát, thanh tra
nghiệp vụ, kiểm tra kỷ luật công vụ định kỳ hoặc đột xuất..., xử lý nghiêm
khắc các hành vi sai phạm, vi phạm quy chế nghề nghiệp, kỷ luật công vụ,
quy trình công tác của thẩm phán, cán bộ tòa án; kiên quyết không bao che,
dung túng, nương nhẹ đối với các vi phạm của thẩm phán trong rèn luyện đạo
đức và hoạt động xét xử; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật ngay tại các cơ quan
xét xử, thực thi quyền tư pháp.
Với tổng thể các nhóm giải pháp nêu trên, cùng với việc đẩy mạnh thực
hiện 14 giải pháp nâng cao chất lượng xét xử do Tòa án Nhân dân tối cao đề
ra qua đánh giá 3 năm thực hiện Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị; với
truyền thống hơn 72 năm vẻ vang xây dựng và phát triển, cán bộ, công chức,
thẩm phán, viên chức, người lao động các tòa án nhân dân, tòa án quân sự
trong cả nước nguyện ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tấm gương của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối và sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn và lý luận chính trị; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp; nỗ
lực phấn đấu, ra sức thi đua yêu nước; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ
công lý, xây dựng tòa án trong sạch, vững mạnh toàn diện; góp phần tích cực
vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đổi mới đất nước, củng cố nền
pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và
tiến bộ.
3.4. Các giải pháp khác
Ngoài các giải pháp chính đã được phân tích trên đây, để nâng cao hiệu
65
quả thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi thì
Đảng và Nhà nước ta còn có thể thực hiện thêm một số giải pháp sau như
những giải pháp song song hỗ trợ những giải pháp chính:
* Thứ nhất, Đẩy mạnh thành lập và nâng cao hiệu quả hoạt động của
tòa án gia đình và người chưa thành niên trên phạm vi cả nước, đồng thời
quy định thẩm quyền của mô hình Tòa chuyên trách này:
Mô hình tòa án gia đình và người chưa thành niên là mô hình tòa chuyên
trách mới và đáp ứng được những yêu cầu trong việc bào vệ quyền lợi cho
người dưới 18 tuổi ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nhìn nhận trên địa bàn 63
tỉnh thành của nước ta hiện nay vẫn rất ít tỉnh thành thành lập phát huy được
hết vai trò, ý nghĩa của tòa án gia đình và người chưa thành niên trong giải
quyết các vụ án hình sự có đương sự là người dưới 18 tuổi. Vì vậy, vấn đề
tăng cường hơn nữa việc thành lập và phát huy vai trò của tòa chuyên trách
này là cần thiết và mang tính cấp bách.
Để làm được điều này, trước hết cần phải có những quy định đầy đủ, chi
tiết hơn trong quy định của pháp luật để làm căn cứ pháp lí cho việc thành lập
và hoạt động của của tòa án gia đình và người chưa thành niên. Quy định rõ
thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên trong việc xét xử các
vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự có người giam gia tố tụng là
người dưới 18 tuổi nói riêng.
* Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án, các cơ quan, tổ chức khác:
Xây dựng và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
(Toà án, Viện kiểm sát, Công an) với các đơn vị đoàn thể, các tổ chức chính
trị, kinh tế - xã hội trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và tội
phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng.
- Giữa cơ quan nhà nước với nhà trường: Các cơ quan chức năng cần
kết hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn địa phương mĩnh để thực hiện các
66
chương trình ngoại khóa, các cuộc thì để nâng cao hiểu biết, kỹ năng đặc biệt
là kiến thức pháp luật cho các em dưới 18 tuổi. Để từ đó định hình cho các em
những hành vi được làm không được làm, hành vi nào là đúng pháp luật và
hành vi nào là vi phạm pháp luật…để từ đó các em sẽ tự nhận thức và điều
chỉnh hành vi của mình.
- Giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức đoàn thể, các đơn vị, tổ chức
chính trị - kinh tế ở tại địa phương: Đẩy mạnh hơn nữa sự phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước (Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan Công an, Viện kiểm sát,
tòa án nhân dân các cấp…) với các tổ chức, đoàn thể (Mặt trận tổ quốc, Đoàn
thanh niên, hội phụ nữ, tổ chức Đảng…) Trong việc phát hiện kịp thời và và
đưa ra xét xử những vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi.
* Thứ ba, tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình và xã hội:
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước với gia đình và giữa gia
đình với nhà trường: Cần đẩy mạnh sự phối hợp giữa cơ quan chức năng với
gia đình và với gia đình và nhà trường trong việc quản lí, giáo dục người dưới
18 tuổi. Theo đó các cơ quan chức năng tạo điều kiện cho các gia đình trong
việc giáo dục con em mình, cho các em được học tập trong một môi trường
lành mạnh và những điều kiện thuận lợi nhất. Còn giữa gia đình và nhà
trường cần có sự phối hợp, trao đổi trong việc.
Đồng thời, tăng cường khả năng tham gia tố tụng của người đại diện, nhà
trường, Đoàn thanh niên và các tổ chức khác trong quá trình xét xử vụ án hình
sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Coi đây vừa là quyền vừa là nghĩa vụ để
67
họ tham gia vào bảo về quyền lợi hợp pháp của con em mình.
Kết luận chương 3
Hoạt động thực hiện thủ tục xét xử đối với vụ án mà bị cáo là người
dưới 18 tuổi trên thực tế vẫn gặp rất nhiều khó khăn bất cập và chưa thực sự
hiệu quả khi áp dụng thực hiện xét xử các vụ án trên thực tế. Những hạn chế
này đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có hai nguyên nhân chính
phải kể tới là những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật về thủ
tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi và những hạn chế
trong trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức của chủ thể thực hiện công
tác xét xử.
Để khắc phục được những khó khăn vướng mắc và nâng cao hiệu quả
hoạt động xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi thì
Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm và thực hiện đồng thời toàn diện nhiều
phương pháp khác nhau để khắc phục được triệt để những bất cập gây cản trở
hoạt động xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người dưới
18 tuổi nói riêng trên thực tế. Trong đó có thể kể đến một số giải pháp quan
trọng sau: Hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục xét xử vụ án mà bị
cáo là người dưới 18 tuổi; tăng cường triển khai, hướng dẫn thực hiện thủ tục
xét xử án hình sự đối với người dưới 18 tuổi; không ngừng nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác xét xử - giỏi về chuyên môn, hoàn
thiện về nhân cách và đạo đức nghề nghiệp và một số giải pháp khác (sớm
triển khai thành lập tòa án gia đình và người chưa thành niên trên phạm vi cả
nước, đồng thời quy định thẩm quyền của mô hình Tòa chuyên trách này; xây
dựng cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa
án, các cơ quan, tổ chức khác; tăng cường các thiết chế nhà trường, gia đình
và xã hội...).
BLTTHS năm 2015 đã dành một chương riêng để quy định riêng về
thủ tục tố tụng đối vụ án hính ựu có bị cáo là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên,
68
thực tế nững thủ tục ấy không phải bao giờ cũng được tuân thủ đầy đủ và
chính xác. Vẫn còn nhiều sai phạm xảy ra gây ảnh hưởng và xâm phạm tới
quyền và lợi ích chính đáng của người dưới 18 tuổi. Hơn nữa, trong một số
trường hợp, hoạt động xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội còn chưa hướng tới
mục tiêu giáo dục, nhân đạo mà chỉ mang tính chất trừng phạt những hành vi sai
phạm của người dưới 18 tuổi mà thôi. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong thực
hiện xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi thì việc phát
hiện và xử lí kịp thời những sai phạm của cơ quan tiến hành tố tụng và những
69
chủ thể khác tham gia tố tụng là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm.
KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu những vấn đề lí luận về người dưới 18 tuổi,
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thủ tục xét xử sơ thẩm đối với vụ
án có bị cáo là người dưới 18 tuổi trong BLTTHS 2015 và các văn bản pháp
luật hiện nay. Ta thấy rằng, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án có bị cáo là người
dưới 18 tuổi ngày càng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Một
minh chứng là trong BLTTHS 2015 đã dành riêng một chương để quy định về
những trình tự, thủ tục khi tiến hành xét xử nhóm chủ thể đặc biệt này.
Những người dưới 18 tuổi là những người đang trong thời kì định hình
nhân cách, chưa thực sự hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần. Theo quy
định của Hiến pháp nước Cộng Hõa xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam 2013, họ có
đầy đủ những quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Đồng thời, họ
còn được quy định riêng những quyền cho trẻ em như: Quyền sống, quyền
học tập, quyền vui chơi…Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ và có phần
phức tạp cũng như sự chưa ổn định về tâm lí, khi những người ở độ tuổi dưới
18 vẫn còn bồng bột, hiếu thắng thiếu kinh nghiệm sống đã khiến cho tình
trạng họ thực hiện những hành vi phạm tội ngày càng nhiều, và tính chất nguy
hiểm trong hành vi ngày đáng lo ngại.
Chính những đặc biệt trong đối tượng mà Đảng, Nhà nước và pháp luật
nước ta đã đặt ra những yêu cầu riêng khi tiến hành xét xử vụ án có bị cáo là
người dưới 18 tuổi. Yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan tổ
chức khác khi tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp hành những quy định
về nguyên tắc, trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo là
người dưới 18 tuổi mà pháp luật hiện hành ghi nhận. Không những thế, hoạt
động xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi không phải
chỉ hướng đến trừng phạt người có hành vi vi phạm pháp luật mà mục đích
70
cuối cùng hướng tới là nhằm răn đe giáo dục để người dưới 18 tuổi nhận ra lỗi
lầm, để từ đó có thể sửa chữa và tiếp tục phát triển lành mạnh theo đúng lứa
tuổi của mình.
Qua đánh giá từ thực tiễn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm đối với vụ
án có bị cáo là người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ta thấy rằng
hoạt động xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi tại tỉnh
Quảng Ninh cũng như trên phạm vi cả nước đã đạt được những kết quả nhất
định. Thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với những người ở
nhóm tuổi này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vào giải quyết những vụ
việc thực tiễn đã bộc lộ những hạn chế khó khắn nhất định. Đó là những hạn
chế trong hệ thống pháp luật khi mà pháp luật vẫn chưa thực sự đầy đủ, hoàn
thiện và nhiều trường hợp còn chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản
luật. Bên cạnh đó, hoạt động thực hiện xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị cáo
là người dưới 18 tuổi vẫn chưa đạt hiệu quả còn đến từ nguyên nhân trình độ,
nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng vẫn chưa đảm bảo, đôi khi thiếu kiến
thức, hiểu biết về người dưới 18 tuổi dẫn đến những quyết định không phù
hợp, cứng nhắc làm mất đi tính nhân đạo trong định hướng của Đảng và Nhà
nước đối với nhóm đối tượng là người dưới 18 tuổi.
Cùng với định hướng và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự quản lí
của các cấp các nghành hứa hẹn trong thời gian tới sẽ xây dựng được một hệ
thống pháp luật về xét xử vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoàn thiện và
thống nhất. Từ đó, việc thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm đối với vụ án có bị
cáo là người dưới 18 tuổi cũng được tôn trọng và đạt hiệu quả khi xử lí các vụ
việc thực tiễn và mục tiêu giáo dục, định hướng nhân cách cho người dưới 18
tuổi theo đó cũng được nâng cao. Muốn vậy, cần phải tăng cường hơn nữa sự
phối hợp nhuẫn nhuyễn giữa các cơ quan nhà nước, nhà trường gia đình và
các đoàn thể, tổ chức kinh tế - xã hội trong việc giáo dục, nâng cao nhận thức
71
cho người chưa thành niên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kết luận số 79-KL/TW về Đề
án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và cơ quan Điều
tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Hà Nội.
2. Trần Hưng Bình (2013), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội.
3. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
4. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
5. Bộ Chính trị ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
6. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
7. Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), Tư pháp hình sự đối với người chưa
thành niên – Những khía cạnh pháp lý hình sự, Tố tụng hình sự, Tội phạm học
và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 27), tr.32 – 40.
8. Nguyễn Văn Cảnh (2009), Bàn về hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên
phạm tội, Kỷ yếu tọa đàm “Bảo vệ người chưa thành niên dưới góc độ luật
hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam,Trung tâm nhân quyền-Khoa luật
72
hình sự- trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
9. Chính phủ (2000), Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000
quy định về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Hà Nội.
10. Chính phủ (2000), Nghị định 62/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 quy
định về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Hà Nội.
11. Lê Duẩn (1976), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân, Nxb sự thật, Hà Nội.
12. Trần Văn Dũng (2000), Quyết định hình phạt trong trường hợp
người chưa thành niên phạm nhiều tội, Tạp chí Luật học, (số 5), tr. 14-16.
13. Lương Duy (1993), Những vi phạm tố tụng đối với người chưa
thành niên phạm tội, Đặc sản pháp luật.
14. Nguyễn Văn Động (2004), Các quyền Hiến định về xã hội của công
dân Việt Nam hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Hoàn (2008), Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20), tr.39
16. Hội đồng thẩm phán-TANDTC (2004), Nghị quyết số 04/2004/NQ-
HĐTP ngày 05-11-2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
17. Hội đồng thầm phán-TANDTC (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-
HĐTP ngày 08-12-2005 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ
tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự.
18. Đỗ Xuân Hồng (2014), Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Hà Nội.
19. Lê Vũ Huy (2010), Đảm bảo quyền con người của người chưa thành
niên phạm tội bằng các quy định về hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Thu Huyền (2006), Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo
là người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ
73
luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Hữu Kỳ (2014), Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học Viện Khoa
học Xã hội.
22. Đinh Xuân Nam (2008), Thực trạng và giải pháp phòng, chống vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên, tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số
20), tr.15-16.
23. Lê Thị Nga (2007), Hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội, Tập chí Nghiên cứu lập pháp, (số 24), tr. 44-45.
24. Đinh Văn Quế (1998), Về hình thức và thủ tục xét xử của phiên tòa
hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (số 3), tr. 37-40.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015.
26. Quốc hội (2009), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ
sung 2009.
27. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
28. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
29. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
30. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm
2013.
31. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002.
32. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
33. Đặng Thanh Sơn (2008), Pháp luật Việt Nam về tư pháp người
chưa thành niên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (số 20), tr. 6-15.
34. Hoàng Thị Minh Sơn (2014), Hoàn thiện các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa đối với người chưa thành
niên, Tạp chí Khoa học kiểm sát-Trường Đại học kiểm sát, (số 01), tr. 33.
35. Quách Hữu Thái (2009), Những vướng mắc trong xét xử người
chưa thành niên phạm tội, Kỷ yếu tọa đàm “Bảo vệ người chưa thành niên
74
dưới góc độ luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trung tâm nhân
quyền-Khoa luật hình sự- trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Hồ Chí Minh.
36. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2018, tỉnh Quảng Ninh.
37. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2017, tỉnh Quảng Ninh.
38. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2016), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2016, tỉnh Quảng Ninh
39. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2016, tỉnh Quảng Ninh
40. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2014, tỉnh Quảng Ninh
41. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2013), Báo cáo thống kê về thụ
lý, giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người chưa thành niên
năm 2013, tỉnh Quảng Ninh
42. Thông tư số: 01/2016/TT-CA ngày 21/01/2016 của Tòa án nhân
dân tối cao “Thông tư quy định về việc tổ chức các tòa chuyên trách tại tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương”.
43. Thông tư số: 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/07/2017 của tòa án
nhân dân tối cao “Quy định về phòng xử án”.
44. Thông tư số: 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/09/2018 của Tòa án
75
nhân dân tối cao “Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham
gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người
chưa thành niên”.
45. Thông tư số: 06/2018/TTLH-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cáo, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động thương binh xã hội
“Thông tư liên tịch về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi”.
46. Trường Đại học Luật Hà nội (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình
sự, NXB.
Tư pháp, Hà nội.
47. VKSNDTC (2012), Báo cáo tổng kết thực tiễn 08 năm thi hành Bộ
luật TTHS năm 2003 và đề xuất sửa đổi, bổ sung.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao – Bộ
Công an – Bộ Tư pháp – Bộ lao động thương binh và xã hội (2011), Thông tư
liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS năm 2003 đối với người
tham gia tố tụng là người chưa thành niên, Hà Nội.
49. Võ Khánh Vinh chủ biên (2004), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
50. Võ Khánh Vinh (2002), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
chung. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Vụ pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao (2016),
Việc tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên trong hệ thống tòa án
nhân dân hiện nay, Hội nghị sơ kết 06 tháng hoạt động của Tòa gia đình và
76
người chưa thanh niên-Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.