intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Chia sẻ: Vu Manh Cuong | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:13

3.293
lượt xem
299
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta đã gạt hái nhiều thành công trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có công rất lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê Nin....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

  1. Made by Hai THỰC TIỄN XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta đã gạt hái nhi ều thành công trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có công r ất lớn c ủa ch ủ t ịch H ồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên ch ủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên c ơ sở vận d ụng sáng t ạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Vậy thực tiễn việc xây dựng chủ nghĩa xã h ội ở nước ta đã đạt những thành tựu gì? Khó khăn gì? Và nh ững ph ương h ướng và bi ện pháp nào? để tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng chủ nghĩ xã hội? sẽ được em trình bày những phần dưới đây. I- Các giai đoạn và những thành tựu đạt được trong quá trình xây d ựng xã h ội chủ nghĩa ở Việt Nam. A- Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1955 Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch H ồ Chí Minh đ ọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách m ạng ra đ ời chưa có thời gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng lo ạt khó khăn thách th ức c ủa “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà n ước ta đã b ắt tay ngay vào gi ải quyết những khó khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường th ực l ực cách m ạng trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp bội ước n ổ súng đánh chi ếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà Nẵng (20/11/1946). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta đã ti ến hành cu ộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng rất anh hùng. Cùng với nhi ệm vụ thực hi ện cu ộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, chúng ta đã th ực hi ện chuy ển n ền kinh tế tàn tích thực dân, phong kiến và thấp kém thành nền kinh tế dân chủ, độc lập phục vụ nhu cầu kháng chiến và kiến quốc. Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xu ất nông nghi ệp có v ị trí đ ặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích c ực tăng gia s ản xu ất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, gi ảm tô, gi ảm t ức. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu đ ược c ủa thực dân Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chi ếm chia cho nông dân nghèo. Nh ờ đó, trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng giá tr ị sản l ượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm kháng chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân đ ược khôi phục và mở rộng. Chỉ tính riêng từ năm 1945 đến tháng 4/1953 ở vùng tự do và đến tháng 7/1954 ở vùng mới giải phóng, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất và ở Nam Bộ, chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân 410.000 ha. Do lực lượng sản xu ất đ ược gi ải phóng, sản xuất nông nghiệp vùng giải phóng đạt mức tăng trưởng khá. S ản l ượng l ương
  2. Made by Hai thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đ ạt 2,3 triệu tấn tăng 15,9%. Công nghiệp và thủ công nghiệp kháng chiến được xây dựng, đặc biệt là công nghi ệp quốc phòng đã góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Ngoài s ố lượng lớn về vũ khí đạn dược, các mặt hàng tiêu dùng thi ết yếu đ ược sản xu ất ngày càng nhiều. Từ năm 1946-1950 đã sản xuất 20.000 tấn than cốc, 800 kg ăngtimoan. Từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thi ếc, 43,0 tấn chì. Nh ững năm 1950- 1954 đã sản xuất được 169,3 triệu mét vải, 31.700 tấn giấy. Cùng với nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục-chống gi ặc d ốt đ ược coi là m ột trong những nhiệm vụ hàng đầu, đi đôi với chống giặc ngoại xâm, gi ặc đói. Từ 1946 đ ến 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc l ột lâu dài c ủa đ ế qu ốc và phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian khổ chống th ực dân Pháp, k ết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. B- Thời kỳ từ năm 1955 đến năm 1975 Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chi ến chống th ực dân Pháp, n ước ta đ ứng tr ước một tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: mi ền B ắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách m ạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất n ước, hoàn thành cuộc cách mạng độc lập dân tộc trong cả nước. Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc (1954), sản xuất công nghi ệp từng bước đ ược khôi phục và phát triển. Trong 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957) và ti ếp theo là kế hoạch 5 năm 1961-1965 với đường lối công nghiệp hóa, nhiều c ơ sở sản xu ất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Từ năm 1965 đến 1975, tuy miền Bắc phải đương đầu với cuộc chi ến tranh phá ho ại c ủa đế quốc Mỹ nhưng sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì và phát tri ển. Giá tr ị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân tăng m ỗi năm 14,7%. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp tính bình quân đầu người năm 1975 đã đạt m ức cao hơn nhiều so với năm 1955, trong đó: điện gấp 13,8 lần, than 4,8 lần, xi măng 25,2 l ần, giấy 14,5 lần, vải 4,8 lần, đường 4 lần. Năm 1975 miền Bắc đã có 1.335 xí nghi ệp công nghiệp quốc doanh, tăng 323 xí nghiệp so với năm 1960. Một số ngành công nghiệp n ặng có năng lực sản xuất khá lớn. Vị trí của công nghi ệp trong t ổng sản ph ẩm xã h ội tăng t ừ 32,7% năm 1960 lên 42,6% năm 1975; thu nhập quốc dân từ 18,2% lên 28,7% trong 15 năm tương ứng. Sản lượng lương thực qui thóc từ 3,76 triệu tấn năm 1955 tăng lên 5,49 tri ệu t ấn năm 1975; đàn lợn từ 2,45 triệu con lên 6,75 triệu con. Hoạt động thương mại được chú trọng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 so với năm 1955 tăng gấp 7,8 lần; kim ngạch xuất khẩu tăng 21,3 l ần; kim ng ạch nh ập kh ẩu tăng 11,8 lần. Tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu tăng từ 9,1% năm 1945 lên 17,0% năm 1955; riêng thời kỳ 1958-1964 đạt tỷ lệ 63,7%.
  3. Made by Hai Để hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn khắc phục hậu quả nặng nề của chi ến tranh và tàn dư của chế độ phong kiến, Đảng và Nhà nước đã có nhi ều ch ủ tr ương và chính sách kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là cải cách ruộng đất, th ực hi ện người cày có ruộng, 810.000 ha đất nông nghiệp của địa chủ được t ịch thu và chia cho nông dân nghèo. Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957), di ện tích gieo tr ồng tăng 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương th ực bình quân đ ầu ng ười tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20% so với năm 1939. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh nhưng kết quả đạt được như trên là r ất đáng ghi nh ận, trong đó nổi bật nhất là lương thực bình quân đầu người năm 1957 đã đạt 303 kg. Đ ến năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi vượt m ức cao nh ất d ưới th ời Pháp th ống trị (1939). Sau khi thu được những kết quả quan trọng trong khôi phục kinh t ế, H ội ngh ị Trung ương lần thứ 14 (11/1958) đã vạch ra kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát tri ển kinh tế, văn hóa. Những năm 1958-1960, nền kinh tế miền Bắc có những chuyển bi ến đáng kể. Trong 5 năm 1961-1965, nhân dân miền Bắc đã đạt được nhi ều thành t ựu quan tr ọng: Quan hệ sản xuất mới tiếp tục được củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, bước đầu có sự tìm tòi cải tiến cung cách làm ăn qua các cuộc vận động "ba xây ba ch ống" và "c ải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật", giáo dục văn hóa, y tế phát tri ển mạnh m ẽ. Đến năm 1965, có 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất nông nghi ệp; trong đó 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Nền nông nghiệp hợp tác hóa cùng giai c ấp nông dân tập thể đã hình thành và phát triển. Tốc độ tăng bình quân về giá trị t ổng sản lượng nông nghiệp là 4,1%. Năm 1965 đã có 9 huyện và 125 hợp tác xã đ ạt năng su ất bình quân t ừ 5 tấn thóc/ha trở lên. Đầu năm 1965 đã xây dựng được 3.139 đi ểm cơ khí nh ỏ, 7 tr ạm và 32 đội máy kéo, 33 công trình thuỷ lợi lớn, 1.500 công trình vừa và nh ỏ đ ược khôi ph ục và xây dựng, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hơn 500.000 ha di ện tích tr ồng tr ọt. Nông nghiệp miền Bắc từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng su ất th ấp dần d ần tr ở thành một nền nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Công nghiệp miền Bắc thời kỳ này đã có bước phát tri ển khá. T ừ nh ững c ơ s ở s ản xu ất công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên li ệu và sửa ch ữa nh ỏ nay đã b ắt đ ầu s ản xuất một phần tư liệu sản xuất và phần lớn những vật phẩm tiêu dùng c ủa nhân dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bước đầu đ ược phát huy. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật li ệu xây d ựng... đã hình thành và phát triển nhanh, nhất là ngành điện và ngành cơ khí. Đến năm 1965 đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Nhi ều khu công nghi ệp phát tri ển và hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng. Cuối năm 1964, miền Bắc hoàn thành những mục tiêu c ơ bản của kế ho ạch 5 năm 1961- 1965. Đánh giá những chuyển biến của miền Bắc, tại Hội nghị Chính tr ị đặc bi ệt (27/3/1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, mi ền Bắc n ước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đ ất n ước, xã h ội và con ng ười đều đổi mới". Giai đoạn 1965-1970, trong hoàn cảnh chiến tranh ác li ệt, miền Bắc v ẫn v ững vàng v ừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với ti ền tuyến l ớn. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển sản xuất đã thu được kết quả. Sản lượng lương th ực năm 1970, toàn miền Bắc đạt 5.278.900 tấn, tăng hơn năm 1969 h ơn n ửa tri ệu t ấn. Năng
  4. Made by Hai suất lúa cả năm đạt 43,11 tạ trên 1 ha ruộng hai vụ. Tỉnh Thái Bình và thành ph ố Hà N ội đạt năng suất bình quân trên 5 tấn thóc/ha. 30 huyện, 2.265 h ợp tác xã đạt năng su ất bình quân 5 tấn thóc/ha. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 20% so với năm 1965. Sản xuất công nghiệp cũng có những chuyển biến tốt. Những c ơ sở công nghi ệp b ị đ ịch đánh phá phần lớn đã được khôi phục trong năm 1970. Giá tr ị tổng sản l ượng công nghi ệp vượt mức kế hoạch 2,5%, xấp xỉ bằng năm 1965. Phần lớn các sản phẩm chủ yếu c ủa ngành công nghiệp đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch năm. Sau thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá ho ại bằng không quân và h ải quân lần thứ hai của đế quốc Mỹ năm 1972, hai năm 1972-1973, công cu ộc khôi ph ục và phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành khẩn trương. Năm 1974, hai vụ lúa được mùa. Sản xuất lúa cả năm đạt 5.468.800 tấn (năm 1973 đạt 4.468.000 tấn). Năng suất bình quân một vụ lúa đạt 24,18 tạ/ha. Năm 1974 có 9 tỉnh, 107 huyện và 4.226 h ợp tác xã đ ạt năng suất 5 tấn thóc/ha ruộng hai vụ lúa. Tỉnh Thái Bình, lá c ờ đ ầu v ề năng su ất lúa c ủa miền Bắc đạt trên 7 tấn thóc/ha. Hệ thống thủy nông được phục hồi và nâng cấp. Năm 1974, giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp vượt kế hoạch 4%, so với năm 1973 tăng 15%. So với năm 1960, số xí nghiệp công nghi ệp ở mi ền Bắc năm 1975 tăng 32%, khu vực kinh tế quốc doanh chiếm 88,4% tổng sản ph ẩm xã h ội và 84,1% thu nhập quốc dân. Nhiều bến cảng, đường giao thông thủy bộ đ ược ph ục h ồi nhanh chóng. Nhiều cầu được sửa chữa, xây dựng lại. Có thể nói, miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát t ừ m ột n ền kinh t ế hết sức nghèo nàn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng n ề. Song, d ưới s ự lãnh đ ạo c ủa Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân miền Bắc không những làm tròn sứ mệnh là hậu phương lớn đối với mi ền Nam ruột thịt, đánh th ắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mà còn giành được những thắng l ợi to l ớn trong công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, phát tri ển văn hóa và nâng cao đ ời s ống nhân dân. Mặc dù trong khoảng thời gian 20 năm thì 11 năm miền Bắc vừa sản xuất v ừa chi ến đấu chống cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ, song kinh tế-xã hội vẫn đạt được bước phát triển nhất định. Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần c ủa nhân dân cũng nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân viên ch ức tăng 48,5%; c ủa gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%. Hoạt động giáo dục, y tế đạt được những thành tựu to l ớn. S ố người đi h ọc năm 1955 là 1.288.000 người thì đến năm 1975 đạt 6.796.900 người, tăng gấp 5,3 lần, trong đó trung học chuyên nghiệp là từ 2.800 người lên 83.500 người, tăng gấp 29,8 lần, đại h ọc t ừ 1.200 và 61.100 người, tăng gấp 50,9 lần. Tính bình quân cho 1 vạn dân, năm 1955 có 949 người đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người, tăng gấp 2,9 lần, trong đó trung h ọc chuyên nghiệp và đại học là 2,9 người và 59 người, tăng gấp 20,3 lần. C- Thời kỳ 1976-1986
  5. Made by Hai Trải qua 21 năm chiến đấu gian khổ và anh hùng, cách mạng mi ền Nam từng b ước l ớn mạnh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Với cuộc Tổng ti ến công và n ổi d ậy Mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chi ến tranh xâm l ược c ủa đ ế qu ốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cách m ạng Vi ệt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong 5 năm 1976-1980, trên mặt trận kinh tế, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc phục từng bước những hậu quả n ặng n ề c ủa chi ến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra và của cuộc chiến tranh biên giới; khôi phục phần lớn nh ững cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá; củng cố kinh tế quốc doanh và kinh tế tập th ể ở miền Bắc, bước đầu cải tạo và sắp xếp công thương nghiệp tư doanh ở mi ền Nam, đ ưa một bộ phận nông dân Nam Bộ, nông dân Nam Trung Bộ vào con đ ường làm ăn t ập th ể; bước đầu phân bố lại lực lượng lao động xã hội; tăng cường một bước cơ s ở vật chất-k ỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao đ ộng và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế qu ốc dân còn trầm tr ọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị tr ường, vật giá, tài chính, ti ền t ệ không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin c ủa qu ần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhi ều Nghị quyết và Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng b ước sửa đ ổi cơ chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa b ỏ quan liêu bao cấp. Trước đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), bước đầu có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc t ồn tại 3 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá thể; miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đ ổi c ơ cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề c ơ bản cho sự phát tri ển kinh t ế th ị trường. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khoá V (6/1986) đã đánh giá tình hình sau cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới c ơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với những bước đi đổi mới từng phần theo những ch ủ tr ương, chính sách đúng đ ắn c ủa Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo c ủa nhân dân c ủa các đ ịa phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế Vi ệt Nam những năm 1981- 1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình quân mỗi năm đ ạt 17 tri ệu t ấn, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng đáng k ể v ới hàng trăm công trình tự động hóa và hàng nghìn công trình vừa và nh ỏ, trong đó có nh ững c ơ s ở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, giao thông. Về năng l ực sản xu ất, đã tăng thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi, 58.000 tấn giấy, thêm 309.000 ha được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng. Tuy vậy, tình hình kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, khủng ho ảng kinh t ế-xã h ội vẫn
  6. Made by Hai trầm trọng mà biểu hiện là: (1) kinh tế tăng trưởng thấp và th ực ch ất không có phát tri ển. Nếu tính chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm ch ỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%; (2) không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nh ập quốc dân sử dụng; (3) siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong th ời kỳ 1976-1985 ch ỉ s ố giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con s ố và giao đ ộng ở m ức 19- 92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7% và (4) đ ời s ống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn. D- Thời kỳ 1986-2005 Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đ ổi m ới toàn di ện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đ ổi m ới c ủa Đ ảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp, Quyết định 217 HĐBT tháng 11/1987 trao quyền t ự ch ủ sản xu ất kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần bao cấp, giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành phần kinh t ế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát tri ển công nghi ệp. Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi được công b ố; đ ồng th ời khuyến khích xuất khẩu đã làm cho môi trường đầu tư thông thoáng hơn, góp ph ần tăng năng lực sản xuất ngành công nghiệp. Sản xuất c ủa các ngành công nghi ệp then ch ốt đã phục hồi và tăng trưởng khá ổn định, hơn hẳn các thời kỳ trước đó. Bình quân m ỗi năm của kế hoạch 5 năm 1986-1990, sản lượng điện tăng 11,1%, xi măng tăng 11,0%, thép cán tăng 8,0%, thiếc tăng 10%. Đáng chú ý là xuất hiện ngành s ản xu ất m ới: khai thác d ầu thô của công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 280 nghìn tấn năm 1987; 680 nghìn tấn năm 1988; 1,5 tri ệu t ấn năm 1989 và 2,7 triệu tấn năm 1990. Tuy nhiên, những thành tựu và khởi sắc của công nghi ệp thực s ự bắt đầu trong nh ững năm 90 (thế kỷ XX). Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá tr ị sản xu ất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7%, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%); trong đó khu v ực kinh tế Nhà nước tăng 15%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nh ịp đ ộ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998 tăng 12,1%, 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%. Nếu so với năm 1990, giá tr ị sản xu ất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần, nhịp độ tăng tr ưởng bình quân hàng năm đ ạt 14,3%. 6 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất công nghi ệp ước đạt 205,3 nghìn t ỷ đ ồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó khu v ực doanh nghi ệp Nhà n ước tăng 9,7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì mức tăng cao 24,7%; khu v ực có v ốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%. Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng c ủa dân c ư đ ều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu. Năm 2004, than khai thác đạt 26,29 triệu tấn, gấp 5,7 lần năm 1990; đi ện s ản xuất 46,05 tỷ kWh, gấp 5,24 lần; dầu thô khai thác 20,05 triệu tấn, gấp 7,43 lần; xi măng 25,33 triệu tấn, gấp 10 lần; thép cán 2,93 triệu tấn, gấp 29 lần; phân hóa h ọc 1,45 tri ệu tấn, gấp 4,1 lần ; giấy bìa 78,1 vạn tấn, gấp 10 lần; vải lụa 518,2 triệu mét, gấp 1,63 l ần; đường mật 1,37 triệu tấn, gấp 4,2 lần; lắp ráp ti vi 2,48 triệu chiếc, gấp 17,6 lần; quần áo
  7. Made by Hai may sẵn 784,05 triệu chiếc, gấp 6,26 lần ; xà phòng gi ặt 45,9 v ạn t ấn, g ấp 8,37 l ần; ôtô lắp ráp 42,65 nghìn chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp ôtô); xe máy lắp ráp 1,57 tri ệu chi ếc (năm 1990 chưa lắp ráp xe máy). Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cu ối c ủa th ập k ỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành ph ần kinh t ế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghi ệp qu ốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hi ện đại, có th ị tr ường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định h ơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước. Tính đến nay đã có hơn 5.000 d ự án đ ầu t ư n ước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 45 tỷ USD. Các doanh nghi ệp này đóng góp gần 15% GDP, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp 4,9% t ổng thu ngân sách Nhà nước và tạo ra hàng vạn công ăn việc làm. Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng tri ệu vi ệc làm, góp ph ần b ổ sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ ch ức sản xu ất m ới phù h ợp v ới c ơ ch ế th ị trường ở Việt Nam. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) ch ủ y ếu ho ạt động trong lĩnh vực công nghiệp với các ngành sản phẩm mũi nhọn, có ch ất l ượng cao, phục vụ xuất khẩu. Đến nay, cả nước có 122 KCN được cấp giấy phép họat động. S ự tham gia của công nghiệp FDI nói chung và các KCN nói riêng đã t ạo ra s ức c ạnh tranh cần thiết thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nước ta đ ầu t ư chi ều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại để giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao c ủa th ị tr ường trong n ước và xu ất khẩu. Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong nhi ều năm nên tích lu ỹ c ủa n ền kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích luỹ tài sản trong s ử dụng t ổng sản ph ẩm trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004 tỷ lệ này đạt 35,58%. Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của th ời kỳ đổi m ới là phát tri ển sản xu ất nông nghiệp mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nh ận h ộ nông dân là đ ơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã đánh dấu sự mở đầu của th ời kỳ đ ổi m ới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10 NQ/TW đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Cùng với Ngh ị quy ết 10, Đ ảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách đổi mới khuyến khích nông nghi ệp và kinh t ế nông thôn phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá và đã đạt được những thành t ựu quan trọng, nhất là 10 năm trong thập kỷ 90. Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghi ệp trong 15 năm đ ổi m ới là đã gi ải quy ết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực qu ốc gia, đưa Việt Nam t ừ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế gi ới liên tục từ năm 1989 đến nay. Nếu sản lượng lương thực có hạt năm 1990 chỉ đạt 19,90 triệu tấn thì đến năm 2004 đã tăng lên 39,32 triệu tấn. Như vậy, sau 15 năm, sản l ượng l ương th ực có h ạt đã tăng thêm 19,4 triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng thêm 1,29 tri ệu tấn. Do sản xu ất lương thực tăng nhanh, nước ta không những đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn dành khối lượng khá lớn cho xuất khẩu. Nếu năm 1989, xu ất kh ẩu đ ược 1,42 triệu tấn gạo thì đến năm 2004 đạt 4,06 triệu tấn, đưa nước ta vào hàng các n ước
  8. Made by Hai đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát tri ển nhanh. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2004 so với năm 1990 tăng gấp 2,28 l ần; nh ịp đ ộ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 6,06%. Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất c ả các n ước. Tính tới tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có M ỹ, đ ưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước năm 1990 lên 170 n ước năm 2000. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển ngo ại thương n ước ta đạt 54,46 t ỷ USD (tăng gấp 11,34 lần so với mức 5,10 tỷ USD năm 1990); trong đó xuất khẩu 26,50 tỷ USD tăng 11,02 lần; nhập khẩu 31,95 tỷ USD, tăng gấp 11,61 lần. Nh ịp đ ộ tăng bình quân hàng năm tổng mức lưu chuyển ngoại thương thời kỳ 1991-2004 đạt 18,94% trong đó xuất khẩu 18,70%; nhập khẩu 19,14%. Do kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhi ều năm li ền nên đ ời s ống v ật ch ất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt. Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 n ước ta đã hoàn thành ch ương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục ti ểu học. Giáo d ục trung h ọc chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy mô đào tạo. Năm 1990 nước ta có 105,9 nghìn học sinh trung học chuyên nghiệp, tính bình quân cho 1 v ạn dân có 16 h ọc sinh; thì đến năm 2004 là 465.300 và 97 học sinh. Năm 2004 so với năm 1990, s ố h ọc sinh trung học chuyên nghiệp tăng 4,39 lần. Giáo dục đại học, cao đ ẳng năm 1990 có h ơn 93.000 sinh viên đại học, cao đẳng, tính bình quân 1 vạn dân có 14 sinh viên thì đ ến năm 2004 là 1.319.800 sinh viên và 161 sinh viên. Năm 2004 so với năm 1990 số sinh viên đại h ọc, cao đẳng tăng gấp 14,2 lần. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ th ống y tế đã đ ược phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều lo ại hình d ịch v ụ y t ế đã t ạo đi ều ki ện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 v ạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em d ưới 5 tu ổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Chỉ số về sức kho ẻ bà mẹ và tr ẻ em có nhi ều tiến bộ. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ bi ến ở những n ước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Vi ệt Nam. Năm 2003 t ỷ l ệ t ử vong c ủa tr ẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 26%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tu ổi năm 2000. Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Vi ệt Nam đã đạt đ ược những k ết qu ả xu ất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của Đảng và Nhà n ước ưu tiên phát tri ển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa đã thành công trong vi ệc gi ải phóng s ức s ản xu ất của dân cư nông thôn và khuyến khích họ tự mình phấn đấu cải thi ện cu ộc s ống. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xu ống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào năm 2001-2002. Như vậy so với năm 1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2 tỷ lệ nghèo và về điều này nước ta đã đạt được m ục tiêu phát triển c ủa Thiên niên kỷ do Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015. Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 qu ốc gia, quan hệ kinh tế th ương m ại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 qu ốc gia và vùng lãnh th ổ đ ầu tư trực tiếp vào nước ta... Chưa bao giờ mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng và đa dạng như ngày nay.
  9. Made by Hai E- Giai đoạn 2005 đến nay Nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều lớn, đan xen nhau. Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu th ế ch ủ đạo; toàn c ầu hoá và h ội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, d ịch v ụ, lao đ ộng và vốn ngày càng mở rộng. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ti ếp t ục phát tri ển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm điều ki ện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều y ếu t ố ph ức t ạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với ho ạt động khủng b ố qu ốc t ế có th ể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các vấn đ ề mang tính toàn c ầu nh ư dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng lượng và nguyên v ật li ệu, khoảng cách giàu nghèo... sẽ càng trở nên gay gắt hơn. Ở trong nước, chúng ta có được thuận lợi rất cơ bản là những thành tựu to l ớn và nh ững bài học kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng cũng còn nhiều y ếu kém, khuyết điểm; trong khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế khu v ực và th ế gi ới ngày càng khẩn trương và sâu rộng hơn. Năm 2006, tổng sản phẩm trong nước (GDP), theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so v ới cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu v ực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm ph ần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 đi ểm phần trăm và khu v ực d ịch v ụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ tr ọng khu v ực công nghi ệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghi ệp và thu ỷ sản. T ỷ tr ọng khu v ực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu v ực d ịch v ụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghi ệp và thuỷ sản gi ảm t ừ 21,02% xu ống còn 20,40%. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát tri ển. Tính t ừ đ ầu năm đ ến 18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD, bình quân 1 dự án đạt 9,5 tri ệu USD, 486 lượt d ự án đ ược tăng v ốn với số vốn tăng thêm 2,36 tỷ USD; tính chung c ả cấp m ới và tăng v ốn đ ến 18/12/2006 đ ạt 9,9 tỷ USD và như vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nh ất t ừ tr ước đ ến nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006. Đời sống dân cư nhìn chung ổn định. Đời sống c ủa cán b ộ, viên ch ức và ng ười h ưởng lương đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng lương theo các Nghị định c ủa Chính ph ủ. Đ ời sống đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thi ện do sản xu ất phát tri ển và giá nhiều loại nông sản, thực phẩm tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, tình trạng thiếu đói giáp hạt giảm đáng kể so với năm 2005. Bước vào năm 2007, thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghi ệm t ổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ch ủ nghĩa đ ều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên c ủa T ổ ch ức Th ương m ại Th ế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và r ộng h ơn vào kinh tế thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách th ức: trong khi n ền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, chất lượng tăng trưởng, hi ệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh thấp thì giá của nhiều loại vật tư nguyên li ệu đ ầu vào quan tr ọng ph ải nhập khẩu tăng cao. Những tháng cuối năm lại xuất hiện m ột s ố khó khăn không l ường trước được như thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự quan tâm lãnh đ ạo c ủa Đ ảng và Nhà nước, sự điều hành quyết liệt khẩn trương có hiệu quả c ủa Chính phủ, hầu h ết các
  10. Made by Hai chỉ tiêu kinh tế xã hội đều đạt và vượt mức Quốc hội đ ề ra, n ền kinh t ế ti ếp t ục phát triển, chính trị xã hội ổn định. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 8,48% so với năm 2006, đạt kế hoạch đề ra (8,2-8,5%); khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,41% (kế hoạch 3,5-3,8%); khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,6% đ ạt k ế ho ạch đề ra (10,5-10,7%); khu vực dịch vụ tăng 8,68% vượt kế ho ạch đề ra (8,0-8,5%). Năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực Khái quát lại, năm 2007 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, d ưới sự lãnh đ ạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao và khẩn trương của Chính phủ, sự nỗ lực c ủa các ngành, các địa phương nên hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt đều đạt được những k ết qu ả v ượt trội so với năm 2006 và tạo đà cho những năm tiếp theo phát tri ển m ạnh h ơn. Năm 2007, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48, mức tăng c ủa giá tr ị sản xu ất nông, lâm nghi ệp và thuỷ sản và mức tăng giá trị sản xuất công nghiệp đều đạt chỉ tiêu Quốc h ội đ ề ra; kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng 21,5% cao hơn mức Quốc hội đề ra; nguồn v ốn đầu t ư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp tăng nhanh; tỷ lệ hộ nghèo c ủa c ả n ước gi ảm t ừ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007. Các lĩnh vực xã hội khác như giáo d ục đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao cũng có những tiến bộ lớn, quan trọng. Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình th ế gi ới có nhi ều bi ến động phức tạp, khó lường: giá dầu thô và giá nhi ều lo ại nguyên li ệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở m ức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra t ại nhi ều n ước trên th ế gi ới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế gi ới suy giảm; ở trong nước thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp ảnh hưởng xấu đến sản xu ất và đời sống dân cư. Năm 2008, GDP theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghi ệp và xây d ựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung c ủa n ền kinh t ế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây d ựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 đi ểm ph ần trăm. Trong b ối c ảnh khó khăn gay gắt thì đây là một cố gắng rất lớn. Năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 2 t ỷ USD là: D ầu thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày, dép 4,7 t ỷ USD; thu ỷ s ản 4,6 t ỷ USD; g ạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2007 là gạo và cà phê. Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà n ước đã chi 42,3 nghìn t ỷ đ ồng, g ồm các khoản chính sau: Chi trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thi ểu số vùng chưa có đi ện thắp sáng; trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt xa bờ; chi bảo tr ợ xã hội; mua th ẻ b ảo hi ểm y tế cho người nghèo, cận nghèo; cấp học bổng cho h ọc sinh dân t ộc n ội trú, bán trú; đi ều chỉnh tăng 15% mức lương hưu, trợ cấp đối với người về hưu, người h ưởng tr ợ c ấp bảo hiểm xã hội, người có công với cách mạng; hỗ trợ đồng bào b ị thiên tai lũ l ụt; th ực hi ện miễn giảm các khoản đóng góp của người dân; miễn thủy lợi phí, không thu phí dự thi, dự tuyển vào các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông; miễn lệ phí trước bạ đ ối v ới nhà ở, đất ở của các hộ nghèo; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đ ối v ới đ ồng bào thiểu số đặc biệt khó khăn, học sinh, sinh viên có hoàn c ảnh khó khăn. Nh ờ có các chính sách an sinh xã hội như trên và đặc biệt sản xuất nông nghi ệp tuy b ị ảnh h ưởng c ủa bi ến động giá cả dẫn đến chi phí tăng cao nhưng do chỉ đạo kịp thời c ủa các c ấp, các ngành khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định sản xuất nên kết quả đạt khá, đời sống nông
  11. Made by Hai dân vì thế cũng đỡ khó khăn hơn những tháng đầu năm. Do v ậy, t ỷ l ệ h ộ nghèo chung c ủa cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của năm 2007. Khái quát lại, năm 2008 là năm kinh tế-xã hội nước ta phải đ ối m ặt v ới nhi ều khó khăn, thách thức, nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát tăng cao, thiên tai, d ịch b ệnh liên tiếp xảy ra trong nước. Tuy nhiên, Đảng, Chính ph ủ đã k ịp th ời đ ề ra 8 nhóm gi ải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đ ảm an sinh xã h ội và tăng trưởng bền vững; đồng thời chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm và đồng bộ các nhóm giải pháp đó. Những kết quả quan tr ọng mà chúng ta đạt được trong năm 2008 đã khẳng định sự lãnh đ ạo, ch ỉ đ ạo c ủa Đ ảng và Chính ph ủ là kịp thời và phù hợp với thực tế. Vì vậy, lạm phát đã được kiềm chế; xu ất khẩu ổn đ ịnh; nhập siêu chuyển biến tích cực; thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng; thu hút đầu tư n ước ngoài phát triển tốt; sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao; đời sống dân cư ổn định. Trong 7 tháng đầu năm 2009, kinh tế- xã hội nước ta tuy bị ảnh hưởng c ủa suy thoái kinh tế, tài chính thế giới nhưng với tinh thần chủ động sáng tạo c ủa các doanh nghi ệp, c ơ s ở kinh tế và nhờ việc thực hiện đồng bộ các chính sách, gi ải pháp đúng đ ắn và k ịp th ời c ủa Trung ương Đảng, Chính phủ nên đang phát triển theo hướng tích cực và đang có dấu hiệu phục hồi. Sản xuất công nghiệp từng bước ổn định và tiếp tục tăng, nhiều sản phẩm quan trọng vẫn giữ được mức tăng cao. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đ ều tăng v ề l ượng. Chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý. Đời sống nhân dân ti ếp tục đ ược quan tâm và c ải thiện. II- Giải pháp để tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. A- Tóm tắt luận điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định tính tất y ếu khách quan c ủa th ời kỳ quá đ ộ lên chủ nghĩa xã hội. Theo các ông có hai con đường quá đ ộ lên ch ủ nghĩa xã h ội: con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những n ước t ư bản ch ủ nghĩa phát tri ển cao; con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội b ỏ qua giai đo ạn phát tri ển t ư b ản chủ nghĩa ở những nước tiền tư bản. Quan nệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên ch ủ nghĩa xã h ội ở Vi ệt Nam đ ược xây dựng trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin v ề th ời kỳ quá đ ộ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời có sự bổ sung, phát triển phù hợp với đi ều ki ện Việt Nam. - Người đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Người đã chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã h ội ở n ước ta.
  12. Made by Hai + Theo Người, đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở n ước ta là gì? + Theo Người, mâu thuẫn cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã h ội ở n ước ta là gì? - Từ việc nhận thức sâu sắc đặc điểm và mâu thuẫn nêu trên, H ồ Chí Minh cho rằng th ời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ như thế nào? - Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo Hồ Chí Minh là gì? - Theo Hồ Chí Minh những nhân tố đảm bảo thực hiện thắng l ợi chủ nghĩa xã h ội ở Vi ệt Nam là gì? 2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bước đi và biện pháp xây d ựng ch ủ nghĩa xã h ội ở Việt Nam. - Trong việc xác định bước đi, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã h ội ở Vi ệt Nam, H ồ Chí Minh yêu cầu phải quán triệt những nguyên lý c ơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin v ề xây dựng chế độ mới, học tập kinh ngiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng vi ệc áp d ụng những lý luận và kinh nghiệm ấy phải xuất phát từ điều kiện lịch sử c ụ thể của n ước ta. Người nói: "Ta không thể dống Liên Xô,... ta có thể đi con đường khác đ ể ti ến lên chủ nghĩa xã hội"; "làm trái với Liên Xô cũng là Mácxít". - Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở n ước ta phải tr ải qua nhi ều bước, "bước ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh", nhưng "chớ ham làm mau, ham rầm r ộ, đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần". - Người đã đưa ra những biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã h ội trong thời kỳ quá độ ở nước ta gồm: + Kết hợp cải tạo với xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, lấy xây dựng làm chủ chốt. + Phải đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân, xây d ựng ch ủ nghĩa xã h ội nhân dân. + Phải có kế hoạch, chỉ tiêu, biện pháp rõ ràng và quyết tâm hành đ ộng. Trong đó, c ần quán triệt phương châm: "Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi". B- Giải pháp. 1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
  13. Made by Hai - Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có vị trí như thế nào trong tư t ưởng Hồ Chí Minh và trong cách mạng Việt Nam? - Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ với nhau như thế nào? - Sự nghiệp đổi mới, với việc phát triển nền kinh tế thị trường, m ở c ửa quan h ệ v ới t ất cả các nước, kể cả các nước tư bản chủ nghĩa, phải chăng chúng ta đang thay đ ổi m ục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội? 2. Đổi mới là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. - Khi đã xác định đổi mới là sự nghiệp của toàn dân đòi h ỏi chúng ta ph ải đ ặc bi ệt quán triệt biện pháp nào của Bác Hồ? - Để phát huy sức mạnh của toàn dân trong sự nghi ệp đ ổi m ới đòi h ỏi chúng ta ph ải làm gì? + Phải tin dân, dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. + Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân, chú trọng phát triển nguồn nhân lực. + Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, tạo sự đồng thuận xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công b ằng, dân ch ủ, văn minh. 3. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 4. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà n ước, đẩy m ạnh đ ấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2