Thuốc trị áp-xe gan do amíp
Bệnh lý do amíp nói chung và áp-xe gan do amíp nói riêng là bệnh lý
thường gặp ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, vùng có điều kiện
kinh tế xã hội nghèo nàn, tập quán sinh hoạt lạc hậu... Đây là bệnh do nhiễm đơn
bào Entamoeba histolytica. Sau khi cơ thể nhiễm amíp, bệnh gây ra các tổn thương
đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng, bệnh có xu hướng kéo dài và mạn tính nếu
không được điều trị tích cực. Thương tổn mạch máu ở đại tràng giúp amíp theo
tĩnh mạch vào tuần hoàn cửa hoặc hệ bạch mạch đến gan, ở đây chúng thường bị
chặn lại bởi các xoang tĩnh mạch gây ra hoại tử ướt để thành lập các ổ áp-xe gan.
Nếu bệnh không được phát hiện, chẩn đoán và điều trị kịp thời thì có nhiều
biến chứng rất nguy hiểm. Nếu khối áp-xe vỡ vào phổi thì bệnh nhân sẽ ho, khạc
ra mủ hoặc mủ tự ộc ra. Nếu áp-xe vỡ và tràn vào màng phổi gây tràn dịch màng
phổi phải, gây chứng khó thở đột ngột. Đây là một cấp cứu nội khoa phải chọc
màng phổi hút dịch kịp thời, nếu không bệnh nhân sẽ bị choáng và có thể bị tử
vong do ngạt thở. Nếu vỡ vào màng ngoài tim, sẽ gây khó thở dữ dội, tím tái...
bệnh nhân có thể tử vong do hội chứng ép tim cấp.
Điều trị áp- xe gan amíp là một điều trị nội ngoại khoa hoặc kết hợp kỹ
thuật chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT scanner. Kết quả điều trị phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng chung của bệnh nhân, giai đoạn phát triển
của bệnh, tình trạng tổn thương gan, số lượng, vị trí, kích thước của ổ áp- xe.
Với điều trị nội khoa thường sử dụng các thuốc thuộc nhóm imidazole,
trong đó đáng chú ý là metronidazole hoặc tinidazole.
Chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm, rửa sạch mủ sau đó có thể bơm trực
tiếp thuốc diệt amíp vào ổ áp-xe.
Phẫu thuật hiện nay rất hạn chế dùng, chỉ tiến hành ở các ổ áp-xe quá lớn
không chọc hút được hoặc điều trị nội khoa thất bại.
Đây là bệnh lý có xuất phát điểm đầu tiên là do nhiễm đơn bào amíp trong
quá trình ăn uống, vì vậy cần thực hiện ăn chín uống sôi, bảo đảm an toàn vệ sinh
thực phẩm. Khi đã mắc bệnh, cần đến các cơ sở y tế để điều trị triệt để, tránh tự ý
dùng thuốc sẽ dẫn đến các hậu quả không đáng có.
Cần dừng ngay thuốc
Tôi bị viêm tai giữa, có dùng thuốc nhỏ tai polydexa. Sau một thời gian
dùng, tôi thấy mình trở nên nghễnh ngãng. Vì sao tôi lại bị như vậy, có phải tôi đã
bị điếc không?
Polydexa là thuốc nhỏ tai có chứa một corticoid là dexamethason và một
kháng sinh là polymycin. Do polymycin rất độc với tai và tiền đình nên thuốc chỉ
được dùng trong các trường hợp bệnh lý chỉ khu trú ở ống tai ngoài (viêm ống tai
ngoài, chàm ống tai bội nhiễm), hoặc viêm tai giữa cấp chưa thủng màng nhĩ
(màng nhĩ còn nguyên vẹn).
Trường hợp của bạn khi dùng thuốc trên thấy giảm sức nghe (nghe nghễnh
ngãng) có thể bạn đã bị ngộ độc tai do thuốc rồi đấy. Bạn cần dừng ngay thuốc đó
và đến khám ở bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng để được xử trí kịp thời vì ở nước
ta đã có trường hợp điếc hoàn toàn (không hồi phục) do thủng màng tai khi dùng
polydexa nhỏ tai kéo dài.
Có được dùng thuốc tránh
thai khi điều trị lao?
Tôi đang được điều trị lao theo công thức ngắn ngày (SHRZ) nên chưa
muốn có thai. Vậy trong thời gian này tôi có thể dùng thuốc tránh thai được
không?
Tốt nhất là chị không nên uống thuốc tránh thai trong thời gian này vì rifampicin
có trong công thức điều trị lao là thuốc là thuốc gây cảm ứng enzym cytochrom P450 ở
gan, làm tăng chuyển hóa và bài tiết ở gan, làm thuốc tránh thai bị chuyển hóa nhanh
hơn, do đó làm giảm hoặc mất tác dụng của thuốc tránh thai.
Vì vậy đối với những phụ nữ đang dùng các thuốc cảm ứng enzym gan điều trị
dài ngày nói chung và dùng thuốc điều trị lao nói riêng thì tốt nhất nên áp dụng một biện
pháp tránh thai khác phù hợp như dùng bao cao su...