
Thuyết minh về một danh lam thắng
cảnh "Nha Trang"
Nha Trang là một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật và du lịch của tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Trước khi trở thành
phần đất của Việt Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người
Chăm vẫn còn tại nhiều nơi ở Nha Trang như các tháp Chàm, tháp Bà.
Các bãi biển đẹp của thành phố này đã biến nó thành một danh lam thắng
cảnh.Địa lý
Thành phố Nha Trang hiện nay có diện tích tự nhiên là 251 km2, dân số
400.000 người (2006). Phía Bắc giáp huyện Ninh Hòa, phía Nam giáp thị xã Cam
Ranh và huyện Cam Lâm, phía Tây giáp huyện Diên Khánh, phía Đông giáp Biển
Đông.
Hành chính
Nha Trang gồm 27 đơn vị hành chính, trong đó có 19 phường nội thành là:
Vĩnh Hải, Vĩnh Phước, Vĩnh Thọ, Xương Huân, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Phương Sài,
Phương Sơn, Ngọc Hiệp, Phước Hòa, Phước Tân, Phước Tiến, Phước Hải, Lộc Thọ,
Tân Lập, Vĩnh Nguyên, Vĩnh Trường, Phước Long (thành lập tháng 11 năm 1998),

Vĩnh Hòa (thành lập tháng 4 năm 2002), và 8 xã ngoại thành là: Vĩnh Phương, Vĩnh
Trung, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thái, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Lương và Phước Đồng.
Từ năm 1998 đến nay, do tốc độ phát triển đô thị gia tăng, nhiều khu quy hoạch mới
đã được hình thành như: khu dân cư Hòn Rớ, khu dân cư Bắc Việt, Thánh Gia, Đường
Đệ, khu Nam Hòn Khô…
Tên gọi
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tên "Nha Trang" được hình thành do cách đọc của
người Việt phỏng theo âm một địa danh Chăm vốn có trước là Ya Trang (có nghĩa là
"sông Lau", tên người Chăm xưa gọi sông Cái chảy qua Nha Trang ngày nay). Từ tên
sông, sau chỉ rộng ra vùng đất từ năm 1653.
Về địa danh "Nha Trang", trong Toàn tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, tập
bản đồ Việt Nam do nho sinh họ Đỗ Bá soạn vào khoảng nửa sau thế kỷ 17 đã thấy có
tên "Nha Trang Môn" (cửa Nha Trang)[1]. Trong một bản đồ khác có niên đại cuối thế
kỷ 17 mang tên Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng
thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn" (cửa biển Nha Trang)[1]. Trong thư tịch cổ Việt
Nam, đây có lẽ là những tài liệu sớm nhất đề cập đến địa danh này.
Có một thuyết nữa: ngày xưa nơi đây toàn nhà tranh vách đất, duy nhất có ngôi
nhà của bác sĩ Alexandre Yersin người Pháp xây bằng gạch, lợp ngói, quét vôi trắng
toát. Một lần có chiếc tàu lớn của ngoại quốc đi ngang qua cửa biển Cù Huân (cửa
Lớn Nha Trang) thấy đất liền, viên chỉ huy hỏi xứ gì? Viên thông ngôn thấy nhà Bác
sỹ Yersin trắng liền đáp 'Nhà Trắng". Viên chỉ huy ghi vào bản đồ. Vì tiếng nước
ngoài không có dấu nên phát âm là "Nha Trang"[cần dẫn chứng].

Trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn đã có nhiều tên gọi Nha Trang
như "đầm Nha Trang, dinh Nha Trang, nguồn Nha Trang, đèo Nha Trang".
Lịch sử
Trung tâm Văn hóa tỉnh Khánh Hòa
Trung tâm Văn hóa tỉnh Khánh Hòa
Từ 1653 đến giữa thế kỷ XIX, Nha Trang vẫn là một vùng đất còn hoang vu và
nhiều thú dữ của thuộc Hà Bạc, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh. Chỉ qua hai
thập niên đầu thế kỷ XX, bộ mặt Nha Trang đã thay đổi nhanh chóng. Với Nghị định
ngày 30 tháng 8 năm 1924 của Toàn quyền Đông Dương, Nha Trang trở thành một thị
trấn (centre urbain)[2]. Thị trấn Nha Trang hình thành từ các làng cổ: Xương Huân,
Phương Câu, Vạn Thạnh, Phương Sài, Phước Hải.
Thời Pháp thuộc, Nha Trang được coi là tỉnh lỵ (chef lieu) của tỉnh Khánh Hòa.
Các cơ quan chuyên môn của chính quyền thuộc địa như Tòa Công sứ, Giám binh,
Nha Thương chánh, Bưu điện… đều đặt tại Nha Trang. Tuy nhiên, các cơ quan Nam
triều như dinh quan Tuần vũ, Án sát (coi về hành chánh, tư pháp), Lãnh binh (coi việc
trật tự trị an) vẫn đóng ở Thành Diên Khánh (cách Nha Trang 10km về phía Tây
Nam).
Đến Nghị định ngày 7 tháng 5 năm 1937 của Toàn quyền Đông Dương, Nha
Trang được nâng lên thị xã (commune)[3]. Lúc mới thành lập, thị xã Nha Trang có 5
phường: Xương Huân là phường đệ nhất, Phương Câu là phường đệ nhị, Vạn Thạnh là
phường đệ tam, Phương Sài là phường đệ tứ, Phước Hải là phường đệ ngũ.

