
Tiểu luận
Chi tiêu chính phủ trên GDP, nợ công
và tăng trưởng kinh tế thực :
Phân tích nhóm
William R. DiPeitro
Daemen College, Amherst, New York, Hoa Kỳ, và
Emmanuel Anoruo
Sở Kế toán, Tài chính và Quản lý kinh tế,
Coppin State University, Baltimore, Maryland, Hoa Kỳ

Tóm Tắt
Mục đích - M ục đích của bài viết này là để kiểm tra tác động của chi tiêu chính
phủ trên GDP và nợ công tăng trưởng kinh tế thực, đối với một nhóm 175 quốc gia
trên thế giới.
Thiết kế / phương pháp / cách tiếp cận - Bài viết sử dụng ký thuật hiệu ứng cố
định và hiệu ứng ngẫu nhiên để ước lượng hồi quy nhóm.
Phát hiện - Kết quả cho thấy cả chi tiêu chính phủ trên GDP và sự gia tăng nợ
công đều có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ứng dụng thực tế - Điều này cho thấy các nhà chức trách phải thực hiện các bước
cần thiết để cắt giảm chi tiêu của chính phủ quá mức và nợ công, nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Độc đáo / giá trị - Sự đóng góp của nghiên cứu này là ứng dụng kỹ thuật ký thuật
hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên trong việc mô hình hóa các mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế thực với quy mô của chính phủ và nợ công trong một
nhóm 175 quốc gia trên thế giới.
Từ khóa - tăng trưởng kinh tế, Chính phủ, tài chính công, tăng trưởng kinh tế thực,
nợ công, hiệu ứng cố định, hiệu ứng ngẫu nhiên.
Loại bài viết Bài viết nghiên cứu
Giới thiệu
Hiện đã có một xu hướng gia tăng trong chi tiêu chính phủ trong thế kỷ vừa qua.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, quy mô của các khoản nợ công cũng đã được
tăng lên. Nợ đang trở thành một mối quan tâm lớn cho các quốc gia trên thế giới, và
cuộc tranh luận nghiêm túc đang bắt đầu nổi lên về các mức chi tiêu chính phủ phù
hợp. Hy Lạp vừa được trên bờ vực phá sản và có một mối bận tâm về sức mạnh tài
chính của các quốc gia khác. Hoa Kỳ, một chủ nợ lớn nhất thế giới, hiện đang ngập
trong nợ nần. Có lo sợ rằng gánh nặng nợ của Chính phủ M ỹ thậm chí có thể ngăn

cản quốc gia tiên tiến về kinh tế như Hoa Kỳ, cũng như các chính phủ khác theo
đuổi chính sách tài khóa hiệu quả.
Tăng chi tiêu chính phủ và các khoản nợ công có thể gây hậu quả cho hoạt động
kinh tế. Trọng tâm chính của bài viết này là để kiểm tra xem liệu có một mối quan
hệ tiêu cực giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế; giữa nợ công và tăng
trưởng kinh tế. Hai mối quan hệ trên có thể được kết nối với nhau. Có một điều
chắc chắn là một mối quan hệ tiêu cực giữa nợ và tăng trưởng kinh tế có thể giải
thích cho mối quan hệ tiêu cực giữa chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế.
Bài viết này được thực hiện trong một khuôn khổ lý thuyết dựa trên một số mệnh
đề và kết quả hợp lý mà chúng hàm ý. Đề xuất đầu tiên là có một mối quan hệ chữ
U ngược (hoặc chữ V ngược) (quan hệ Armey) giữa chi tiêu của chính phủ và tăng
trưởng kinh tế. Thứ hai, nó cho rằng sự tăng trưởng đáng kể trong chi tiêu chính
phủ trong thế kỷ qua và trong những thập kỷ gần đây đã đẩy chi tiêu chính phủ của
hầu hết các quốc gia vượt quá giá trị tối ưu cho sự phát triển kinh tế. Thừa nhận giá
trị của hai mệnh đề đầu tiên, bài báo đưa ra giả thuyết rằng, hiện có một mối quan
hệ tiêu cực giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu chính phủ. Vì lý do tương tự, bài
viết đưa ra giả thuyết rằng có một mối quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng kinh tế và
quy mô các khoản nợ công. Cũng như trong trường hợp chi tiêu chính phủ, mặc dù
tăng trưởng kinh tế và quy mô của nợ công tổng thể được xem là có một mối quan
hệ hình chữ U ngược ( hoặc V ngược ), tích lũy nợ công khổng lồ, đã đặt các quốc
gia vượt quá mức độ tối ưu của nợ. Cho lý do tương tự, một mối quan hệ tiêu cực
có thể tồn tại ở thời điểm hiện tại giữa thuế và tăng trưởng kinh tế. Đường cong
Laffer mặc nhiên công nhận mối quan hệ chữ U ngược (hoặc V ngược) giữa các
loại thuế và tăng trưởng kinh tế, nhưng ông cũng cho rằng các khoản thuế đã vượt
quá mức tối ưu của nó. Kết quả là, một lần nữa, một mối quan hệ tiêu cực giữa tăng
trưởng kinh tế và số tiền thuế.
Vượt ra ngoài mức chi tiêu chính phủ và nợ công tối ưu có khả năng là liên quan
đến nhau. Hai trong những nguồn tài chính chính của chính phủ, bên cạnh trực tiếp
in tiền, là thuế và phát hành nợ (tức là trái phiếu). Để có được nguồn tài chính lớn
hơn, chính phủ cần tài trợ cho chính nó. Nếu một trong hai thứ là thuế hoặc nợ vượt

quá mức tăng trưởng tối ưu, sau đó, chúng là mỗi một lý do tiềm năng cho một mối
quan hệ tiêu cực giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu chính phủ. Khi thuế vượt quá
mức tối ưu, sau đó tăng chi tiêu chính phủ thông qua giảm thuế ưu đãi cho việc
làm, cho hoạt động sản xuất, và sáng tạo, kết quả là tăng trưởng kinh tế thấp. Khi
nợ vượt quá giá trị tối ưu của nó, tăng chi tiêu Chính phủ thông qua các khoản vay
gây ra giảm tăng trưởng kinh tế do lấn át đầu tư.
Nhìn chung, các chức năng tích cực của chính phủ liên quan đến tăng trưởng kinh
tế (chẳng hạn như việc cung cấp hàng hóa công cộng, cung cấp cơ sở hạ tầng cần
thiết, bảo vệ tài sản và các quy định của pháp luật ) bị lấn át bởi các yếu tố tăng
trưởng âm khi chi tiêu chính phủ vượt quá một ngưỡng nhất định. M ột số yếu tố
tăng trưởng âm bao gồm - chi phí cơ hội cao hơn của việc phân bổ lại các nguồn
lực từ khu vực tư nhân cho chính phủ như bắt đầu hấp thụ các nguồn lực từ các dự
án đầu tư có lợi nhuận càng ngày càng cao, tổn thất của sự khởi đầu và đổi mới là
do để phụ thuộc nhiều hơn vào chính phủ và thói quen phụ thuộc ăn sâu nhiều hơn
nữa, sự không hiệu quả lớn hơn đến từ các biến dạng chính sách, giảm năng suất
của vốn, tăng khai thác thông qua các hoạt động tập thể, và sự gia tăng của bộ máy
quan liêu không cần thiết và kém hiệu quả.
Bài viết này được chia thành năm phần. Phần đầu tiên nêu bật một số tài liệu hiện
có nhìn vào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chi tiêu của chính phủ. Phần
thứ hai trình bày một mô hình lý thuyết chính thức. Phần thứ ba thảo luận về các
nguồn dữ liệu của các biến khác nhau có trong nhóm. Phần thứ tư cho kết quả ước
lượng từ hồi quy nhóm của tăng trưởng kinh tế thực trên chi tiêu Chính phủ và theo
quy mô của nợ công, và phần thứ năm là phần cuối cùng, kết luận.
1. Nền tảng lý thuyết
Phần này tóm tắt những bài viết quan trọng về lý thuyết mối quan hệ giữa Tăng
trưởng kinh tế và Quy mô Chính phủ. Lý thuyết toàn diện về sự tăng trưởng quy
mô chính phủ có thể được tìm thấy tại phục lục trong bài viết của Chobanov và
M ladenova (2009).

Đối với Mỹ, Vedder và Gallaway (1998) đã tìm ra bằng chứng ủng hộ Mối quan hệ
dạng U ngược của Armey về mối quan hệ giữa Tăng trưởng kinh tế và Quy mô của
Chính phủ. Họ sử dụng dữ liệu hàng năm của Mỹ bằng cách lấy Quy mô Chính phủ
và bình phương Quy mô Chính phủ làm những biến độc lập.
Theo dự báo trên cơ sở đường cong phi tuyến Armey, họ tìm thấy hệ số hồi quy của
biến Quy mô Chính phủ là tích cực và có ý nghĩa, hệ số hồi quy của bình phương
Quy mô Chính phủ là tiêu cực và có ý nghĩa.
Ghali (1998) sử dụng dữ liệu theo Quý từ Quý I 1970 đến Quý III 1994 đối với 10
nước OECD để kiểm tra nguyên nhân mối quan hệ giữa Quy mô Chính phủ và
Tăng trưởng kinh tế. Kết quả là Quy mô Chính phủ dẫn đến sự Tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra Quy mô Chính phủ cũng có tác động gián tiếp đến sự Tăng trưởng kinh tế
thông qua Đầu tư và Thương mại Quốc tế.
Pevcin (2004) sử dụng dữ liệu 12 nước phương Tây thuộc châu Âu trong giai đoạn
1950-1996 để kiểm tra mối quan hệ giữa Quy mô Chính phủ và Tăng trưởng Kinh
tế. Pevcin sử dụng mô hình hồi quy cho cả 12 quốc qia, và hồi quy chuỗi thời gian
cho từng quốc gia đối với 8/12 nước. Cũng giống như những bài nghiên cứu khác,
ông sử dụng Quy mô Chính phủ và bình phương của nó làm đối số trong mô hình
hồi quy Tăng trưởng. Kết quả của cả 2 phép hồi quy đều xác định sự tồn tại những
Chính phủ “quá khổ”. Kết quả hồi quy từ từng quốc gia cho thấy Quy mô Chính
phủ đã lớn hơn Quy mô cần thiết đối với 7/8 Quốc gia trong mẫu.
M ặc dù, nói chung đã có sự gia tăng quy mô trung bình của Chính phủ trong thế kỷ
20 và thời điểm này, những nền kinh tế chuyển đổi đại diện cho một nhóm duy nhất
các quốc gia có Quy mô Chính phủ giảm đi. Gupta và đồng sự (2003) chỉ ra xu
hướng và những thay đổi trong Quy mô Chính phủ đối với những nền kinh tế
chuyển đổi. Họ cho rằng sự sụt giảm trong Quy mô Chính phủ không phải là do
chính sách có chủ đích mà là do Chính phủ không đủ khả năng tài chính cho những
chi tiêu của Chính phủ.
Chen và Lee (2005), bên cạnh việc cung cấp lý thuyết về mối quan hệ giữa Tăng
trưởng kinh tế và Quy mô Chính phủ, đã sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng trên dữ
liệu hàng quý của Đài Loan từ Quý I 1979 đến quý 3 2003 để kiểm tra sự tồn tại