
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 1
Tiểu luận
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh tế 2
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối
mặt, trong đó có Việt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm
2011 ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Mặc dù
chỉ số trên vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một
chương t
r
ì
nh
v
à kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài
thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra.
Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế
giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra.
Trong khi đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt
mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh
tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy
cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý
sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế
đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới
hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó
được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và
khả năng trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm
hụt ngân sách - "thắt lưng buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng
trưởng kinh tế, trong quá trình nghiên cứu nh óm hẳn còn nhiều thiếu
s ót , mong nh ận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn.

Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 3
I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG
Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ
công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ
công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari,
Rumani), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận ( Thái Lan, Macedonia ).
Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được
chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”.
Cũng theo luật này:
Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ
quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao
gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ
chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo
lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính
phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài
được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người
thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ
phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng

Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 4
nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ
đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có
thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công.
Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là
tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ
của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật
quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nước
ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-
la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn
phải tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ, khi chi tiêu của
chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được. Do đó, Nhà nước phải đi vay
(trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ
phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù
đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm
nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh
thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt
động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau
(thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).

Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 5
II. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý
NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA
“Nợ công là một trong những nguồn cần thiết của cấu trúc vốn mỗi quốc
gia. Nó góp phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn, nhưng lại gây tổn hại cho nền kinh tế trong dài hạn, do gánh nặng
thực hiện nghĩa vụ trả nợ cả vốn gốc và lãi. Theo tính toán của những nhà kinh
tế học, khi vay nợ tăng vượt ngưỡng 90-100% GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế
sẽ suy giảm với tất cả các nhóm nước, nhóm nước phát triển, mới nổi và cả khu
vực sử dụng đồng tiền chung Châu Âu. Tuy nhiên, môi trường kinh tế khác nhau
lại đưa ra kết quả tác động khác nhau của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế,
minh chứng cụ thể với Nigeria và Nam Phi. Do đó, quản lý nợ công của mỗi
quốc gia đòi hỏi phải dựa trên trần nợ hợp lý, tạo khoảng trống bù đắp những rủi
ro tiềm ẩn phát sinh thông qua tham khảo ngưỡng nợ tính toán được phù hợp
cho mỗi quốc gia. Mức trần nợ nàyđược IMF khuyến nghị là khoảng 35-40%
GDP đối với những nước mới nổi và trong đó có Việt Nam.”
2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực
nghiệm
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đưa đến những hậu quả rất nặng nề cho
nền kinh tế thế giới. Kéo theo nhiều vấn đề về quản trị tài chính quốc gia được
lật lại nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề nợ công. Nhiều vấn đề được đưa trao
đổi: Nguy cơ khủng hoảng nợ công của toàn cầu và nhìn lại nợ công ở Việt
Nam, Chính Phủ cần phải lưu ý những vấn đề gì trong chính sách quản lý nợ
công nói riêng và tài chính công nói chung? Qua nghiên cứu và tìm hiểu những
quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới, có năm quan điểm như sau:
Thứ nhất:
Nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài chính của
các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần vào sự