
Đề tài 10: Mối quan hệ giữa LPMT và nợ công Nhóm 15
GVHD: Trương Minh Tuấn 1
Tiểu luận
Mối quan hệ giữa ;ạm
phát mục tiêu và nợ công

Đề tài 10: Mối quan hệ giữa LPMT và nợ công Nhóm 15
GVHD: Trương Minh Tuấn 2
LỜI MỞ ĐẦU
Tiền là hàng hóa trung gian để trao đổi, bản thân tiền cũng trở thành một loại hàng
hóa và vì thế nó cũng có thể bị đầu cơ và kinh doanh như bất cư loại hàng hóa
khác. Vì nó có thể đầu cơ nên lượng tiền in ra so với lượng tiền cần để trao đổi với
hàng hóa khác không bằng nhau. Chính vì vậy để nền kinh tế có thể ổn định thì
theo các nhà kinh tế, mức độ tiền in ra cao hơn giá trị thực của hàng hóa hơn 5% là
phù hợp, và đó là tỉ lệ lạm phát cần có. Khi nhà nước đặt mục đích lạm phát ở mức
độ nào đó, thì tỷ lệ lạm phát đó được nhà nước ổn định bằng các công cụ kinh tế.
Khi duy trì lạm phát ở tỷ lệ nhất định, nhà nước có mục đích dùng đồng tiền nội để
bình ổn cán cân thanh toán hoặc để kích thích nền kinh tế dịch vụ. Tuy nhiên đây
là con dao hai lưỡi, việc duy trì lạm phát ở mức cao sẽ làm bất ổn cho những nền
kinh tế thấp và ít biến động. Đồng tiền so với ngoại tệ sẽ mất giá, kéo đầu tư nước
ngoài đổ vào, đâu tư sản xuất tăng, việc làm sẽ tăng theo. Nhưng đồng thời, theo
một số phân tích kinh tế thời gian ban đầu khi duy trì mức lạm phát, độ trễ về tiêu
dùng sẽ giảm với một vài mặt hàng cao cấp, hoặc tạo hiệu ứng chi phí đẩy, khiến
nền kinh tế có thể neo thang giá do tác động tâm lý, khó mà kiểm soát được.
Một chính sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu như trong quá trình
thực hiện lạm phát sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.
Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các
nước mới nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn
định giá là mục tiêu chính của chính sách tiền tệ. Ngân sách nhà nước là công cụ
điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội. NSNN bị thâm hụt thì chính
phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách. Tổng giá trị các khoản tiền này :Vay trong nước và vay
nước ngoài gọi là nợ công.
Vậy chúng ta sẽ hiểu lạm phát mục tiêu, nợ công là như thế nào và chúng có mối
quan hệ ra sao thì nhóm quyết định tìm hiểu đề tài “ tóm lược lý thuyết về mối
quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và nợ công”

Đề tài 10: Mối quan hệ giữa LPMT và nợ công Nhóm 15
GVHD: Trương Minh Tuấn 3
I.LẠM PHÁT MỤC TIÊU:
I.1.Khái niệm về lạm phát mục tiêu:
Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ chính sách tiền tệ mà theo đó,
NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu trung hạn về lạm phát và NHTW
cam kết đạt được những mục tiêu này.
I.2.Điều kiện để thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu:
Các điều kiện cơ bản để một quốc gia có thể theo đuổi được khuôn khổ lạm phát
mục tiêu có thể được chia thành 4 nhóm chính:
1. Nhóm điều kiện đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất đó là NHTW được trao quyền
cao và sự tín nhiệm để theo đuổi lạm phát mục tiêu:
- Ngân hàng Trung ương phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát
và tự mình đặt ra các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Công chúng phải được thông báo về khuôn khổ chính sách tiền tệ và việc thực
hiện chính sách tiền tệ.
2. Nhóm điều kiện thứ hai liên quan đến vấn đề đảm bảo mục tiêu lạm phát là mục
tiêu chính, không phải là mục tiêu hỗ trợ cho mục tiêu khác. Nhóm này bao gồm các
điều kiện:
- Chính sách tiền tệ không bị chi phối bởi các ưu tiên về ngân sách Chính phủ;
Chính phủ tăng ngân sách bằng việc huy động các nguồn vốn trên thị trường
tài chính và hạn chế tuyệt đối việc cấp tín dụng cho Chính phủ.
- Vị thế bên ngoài đủ mạnh để đảm bảo cho chính sách tiền tệ theo đuổi mục
tiêu lạm phát là mục tiêu hàng đầu.
- Khi bắt đầu thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu thì lạm phát cần ở mức
thấp để đảm bảo cho sự điều chỉnh kiểm soát tiền tệ thích hợp.
3. Nhóm điều kiện thứ 3 liên quan đến vấn đề phát triển và ổn định thị trường tài
chính để thực hiện khuôn khổ này. Nhóm này bao gồm các điều kiện:

Đề tài 10: Mối quan hệ giữa LPMT và nợ công Nhóm 15
GVHD: Trương Minh Tuấn 4
- Cần phải có thị trường tài chính ổn định để đảm bảo cho chính sách tiền tệ
theo đuổi các mục tiêu lạm phát và không bị tác động bởi các lo lắng về sức
khoẻ của thị trường tài chính.
- Thị trường tài chính cần phát triển ở mức nhất định để đảm bảo chính sách
tiền tệ được thực hiện bằng các công cụ thị trường tài chính và đảm bảo việc
thực hiện chính sách tiền tệ không gặp rắc rối do sự yếu kém của thị trường
tài chính.
4. Nhóm điều kiện thứ 4 liên quan đến các công cụ của chính sách tiền tệ:
- NHTW phải ở vị thế tác động đến lạm phát thông qua các công cụ chính sách
và cần thiết phải hiểu các mối quan liên kết giữa vị thế chính sách và lạm
phát.
- Các mục tiêu về tỷ giá phải hỗ trợ cho mục tiêu lạm phát. Do đó, NHTW nên
cố gắng làm sáng tỏ vấn đề can thiệp vào thị trường ngoại hối và các thay đổi
về chính sách lãi suất để tác động đến tỷ giá chỉ nhằm mục đích làm giảm nhẹ
ảnh hưởng của các cú sốc tạm thời.
- Chính sách tài khoá và các hoạt động quản lý nợ công cộng nên hỗ trợ cho
mục tiêu lạm phát.
Các nhóm điều kiện trên không có nghĩa tạo thành các điều kiện tiên quyết để thực
hiện LPMT. Điều đó có nghĩa là không nhất thiết phải có tất cả các điều kiện này thì
một quốc gia mới có thể thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu. Thực tế đã cho
thấy mặc dù gặp khó khăn trong việc thoả mãn một số điều kiện, khuôn khổ lạm
phát mục tiêu vẫn hoạt động tốt. Quyết định có theo đuổi khuôn khổ lạm phát mục
tiêu cần phải dựa trên sự cân nhắc thận trọng các chi phí và lợi ích của khuôn khổ
lạm phát mục tiêu so với các khuôn khổ khác.
I.3.Các bước thực hiện LPMT:
- Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động tiền tệ ngân hàng theo hướng hiện đại
phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của NHTW trở thành NHTW hiện
đại.
- Chuẩn bị điều kiện về hạ tầng kỹ thuật để chuyển sang điều hành chính sách
tiền tệ theo lạm phát mục tiêu sau năm 2010. Thứ tư, tái cơ cấu hệ thống

Đề tài 10: Mối quan hệ giữa LPMT và nợ công Nhóm 15
GVHD: Trương Minh Tuấn 5
thanh tra, giám sát ngân hàng theo chuẩn mực của Basel I tiến tới Basel II,
đặc biệt chú trọng chuẩn mực về an toàn và quản trị rủi ro. Thứ năm, tái cơ
cấu toàn diện và triệt để các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng nhân
dân, bao gồm việc cổ phần hoá, tái cơ cấu sở hữu và xây dựng thể chế.
II. NỢ CÔNG:
II.1. Định nghĩa:
Nợ chính phủ, là một phần thuộc Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách
khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ
hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng
bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
II.2.Phân loại:
Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
- Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước
ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
- Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm)
và nợ dài hạn (trên 10 năm).
II.3.Các hình thức vay nợ của chính phủ:
II.3.1.Phát hành trái phiếu chính phủ:
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì
Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo
hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có
cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có
thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.