
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN
---------------------------------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI 5:
TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ SỰ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD : Trương Minh Tuấn
LỚP : VB2K15KT02
NHÓM TH : NHÓM 5
Tp. Hồ Chí Minh - 11/2012

GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 2
I. LÝ THUYẾT VỀ NỢ CÔNG
1. ĐỊNH NGHĨA NỢ CÔNG
Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
a) Theo Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ
công bao gồm:
Nợ Chính phủ: là khoản nợ được kí kết phát hành nhân danh nhà
nước hoặc chính phủ, các khoản nợ do Bộ tài chính kí kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành, không bao gồm các khoản nợ do ngân
hàng nhà nước Việt Nam phát hành nhẳm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ trong từng thời kì.
Nợ chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do UBND tỉnh-tp trực
thuộc TW kí kết hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh
tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Việc đi
vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ
chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao
nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
b) Theo Ngân hàng thế giới (World Bank - WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế
(International Monetary Fund - IMF) thì nợ công:

GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 3
Theo nghĩa rộng là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm: các nghĩa
vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa phương, ngân
hàng trung ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do ngân sách
nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong
trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay).
Theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm: nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung
ương, các cấp chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được
chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, khi chi tiêu của
Chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được thì Chính phủ phải đi vay trong
hoặc ngoài nước với các phương thức khác nhau để trang trải cho các khoản
thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn,
Chính phủ sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp hoặc đi vay thêm một khoản khác
để trả các khoản nợ đáo hạn này. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện việc đầu tư
của mình để có thể bù đắp lại phần nào các khoản thâm hụt ngân sách, thông qua
các doanh nghiệp quốc doanh.
2. NỢ CÔNG TRÊN GDP ? CON SỐ BIẾT NÓI ?
Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản
nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Vậy nợ công chưa đụng trần thì chưa cần lo ?
Chưa hẳn, vì tuy các con số về tỷ lệ nợ công trên GDP dù khác nhau nhưng
vẫn chỉ là một chỉ số về quy mô của nợ công chứ không phải là một thước đo tốt
về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Bởi vì, nợ công khoảng 100% GDP
đủ để Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi nợ công lên tới 200% GDP
của Nhật Bản vẫn được coi là an toàn. Nếu dùng con số 50% GDP để coi là mức
trần ở nước này thì ở nước khác người ta có thể sử dụng con số 80%. Như vậy,
mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ

GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 4
trên GDP, mà quan trọng hơn là vào một số chỉ số khác như xu hướng của tỷ lệ
này, hiệu quả sử dụng nợ, hay rộng hơn là tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
3. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM
Theo Luật Quản lý nợ công thì nợ công bao gồm nợ của Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và vay nợ của chính quyền địa phương. Trong 10
năm qua, tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP ngày càng có xu hướng gia
tăng. Tổng số dư nợ công tính đến năm 2011 bằng 54,6% GDP. Trong cơ cấu
nợ công thì nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đến là nợ được Chính
phủ bảo lãnh. Quy mô nợ của chính quyền địa phương chiếm tỷ trọng tương đối
thấp, dưới 1% GDP. Như vậy, các hệ số an toàn của nợ công Việt Nam tuy vẫn
còn trong giới hạn nhưng đã tiệm cận ở mức cao.
Nợ của Chính phủ Việt Nam đang chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng mở
rộng đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2011, dư nợ Chính phủ bằng
khoảng 43,6% GDP, giảm so với con số 45,7% của năm 2010 nhưng chủ yếu là
do GDP danh nghĩa của năm 2011 tăng cao so với năm 2010 nên các hệ số nợ
khi so với GDP danh nghĩa năm 2011 có xu hướng giảm nhẹ. Mặc dù vẫn trong
giới hạn cho phép và tỷ trọng của dư nợ chính phủ so với tổng mức nợ công có
xu hướng giảm dần, nhưng tỷ trọng của nợ chính phủ so với GDP lại có xu
hướng tăng trong suốt thập niên 2000.
Trong dư nợ nước ngoài của Chính phủ, khoản vay ODA là lớn nhất. Tuy
nhiên, cần hiểu rằng khi Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung
bình thì các điều kiện cho vay sẽ trở nên kém ưu đãi hơn và chi phí trả lãi vay
hằng năm sẽ ngày càng tăng.
Việc duy trì chi đầu tư từ ngân sách nhà nước ở mức cao trong giai đoạn
vừa qua đã làm gia tăng bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách ở Việt Nam tăng ở
mức trung bình 4,0% GDP giai đoạn 1996 - 2000 lên 4,9% giai đoạn 2001 - 2005

GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN NHÓM 5
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 5
và 5,5% giai đoạn 2006 - 2011. Năm 2011, bội chi đã giảm xuống mức thấp
nhất trong 3 năm qua là nhờ kết quả của việc thực hiện Nghị quyết 11 về những
giải pháp chủ yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Bội chi ngân sách kéo theo hệ quả trực tiếp là dư nợ công tăng và làm tăng
chi phí vay nợ của Chính phủ. Thêm vào đó, nguồn trái phiếu chính phủ huy
động để đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng và dự án phát triển cũng đã
góp phần làm tăng nợ công. Do nằm ngoài dự toán, nên số nợ chính phủ thực
tế gia tăng trong thời gian qua luôn lớn hơn số cần có để bù đắp cho thâm hụt
ngân sách. Đây cũng là lý do về việc số bội chi ngân sách của Việt Nam khác so
với tính toán của các tổ chức tài chính quốc tế.
Nợ của Chính phủ bảo lãnh cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong
việc thực hiện các dự án phát triển (đầu tư công) chiếm một tỷ trọng khá lớn
trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vừa qua và có xu hướng
tăng lên, từ 4% tổng dư nợ công năm 2001 lên 10% năm 2005 và đến nay là
18,6% năm, tương đương 11,6% GDP.
Nợ chính quyền địa phương chủ yếu là vay nợ để đầu tư xây dựng cơ bản
theo Luật Ngân sách nhà nước 2002. Mức dư nợ phát hành trái phiếu của chính
quyền địa phương hiện nay vẫn ở mức thấp, hiện khoảng 0,6% GDP. Mức dư nợ
của chính quyền địa phương hiện nằm trong giới hạn quy định của Luật Ngân
sách nhà nước, không quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản trong nước của
các địa phương.
Như vậy, nhìn chung nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh trong bối
cảnh thâm hụt ngân sách. Về nguyên tắc, nợ công của ngày hôm nay phải được
trả bằng thặng dư ngân sách của ngày mai. Do đó, dường như Việt Nam đang
vi phạm nguyên tắc quản lý nợ công bền vững.