
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
KHOA KẾ TOÁN
----------
BÀI TIỂU LUẬN
TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
GIÁO VIÊN BỘ MÔN : TRƯƠNG MINH TUẤN
SINH VIÊN THỰC HIỆN ( NHÓM 07 ) GỒM :
1. HÀ THỦY TIÊN
2. PHAN THỊ KIỀU TRINH
3. NGUYỄN THANH PHÚ
4. BÙI XUÂN CƯỜNG
5. PHẠM HỮU NHÂN
LỚP : KT02 – VB2K15
TPHCM, 11/2012

LỜI MỞ ĐẦU
o o o o o o o
Như chúng ta đã biết, bội chi ngân sách là một vấn đề mà các quốc gia
đều gặp phải. Việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề
nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác
động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vì vậy, mỗi quốc gia đều có
những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục bội chi ngân sách đưa bội chi đến
một mức nhất định, trong đó Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Trong
bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao,
khủng hoảng tài chính tại Mỹ và nhiều nước khác, tình trạng lạm phát diễn ra tại
nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách. Vì
vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các
mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm
chế lạm phát hiện nay là một vấn đề chính phủ cần giải quyết.
Với bài tiểu luận “ Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi
ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế “, chúng ta có thể tìm hiểu, phân
tích cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng
trưởng kinh tế, qua đó chúng ta có thể thấy được những ưu nhược điểm để tìm
ra những giải pháp, thực tiễn hợp lý để khắc phục các vần đề về bội chi ngân
sách nhà nước một cách hiệu quả hơn, từ đó tạo tiền đề vững chắc để phát triển,
tăng trưởng kinh tế.
Vì bài tiểu luận được tham khảo và sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu khác
nhau nên khó tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót trong quá trình thực hiện.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy Trương Minh Tuấn ( giáo viên bộ
môn Lý Thuyết Tài Chinh – Tiền Tệ ) cùng các bạn đọc để cho bài tiểu luận
ngày càng hoàn thiện hơn. Mọi đóng góp ý kiến xin gởi về địa chỉ email:
nguyenthanhphu3182@gmail.com.
Tập thể Nhóm 7 thực hiện

ĐỀ TÀI 2 : TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. LÝ THUYẾT VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Khái niệm ngân sách nhà nước:
Theo luật ngân sách nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua
năm 1996 định nghĩa thì ngân sách nhà nước là toàn bộ những khoản thu chi
của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định và được thực hiện trong một năm nhằm thực hiện chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước.
Như vậy theo như định nghĩa thì quản lý chi ngân sách nhà nước cũng là
một phần quan trọng trong quản lý ngân sách nhà nước.
Theo cách hiểu đơn thuần thì quản lý chi ngân sách nhà nước là quản lý
những khoản chi tiêu của nhà nước, và nó được thực hiện bởi chủ thể là
những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức cá nhân được nhà nước trao
quyền.
2. Chức năng ngân sách nhà nước:
a. Chức năng phân phối:
Phân phối của NSNN là phân phối các nguồn lực tài chính có liên quan
đến NN, nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng xã hội, thực
hiện tái sản xuất mở rộng, xác lập cơ cấu kinh tế - xã hội hợp lý làm nền tảng
cho quá trình phát triển phù hợp trong từng thời kỳ.
Đặc trưng cơ bản của phân phối NSNN:
Phân phối dưới hình thức giá trị (chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn vị
tính toán, làm phương tiện phân phối).
Tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu vào,
chủ yếu là NN đầu tư trực tiếp, cấp vốn kinh doanh, trợ cấp đối với nền kinh
tế.
Phân phối NSNN tác động đến cả hai bên cung và bên cầu của nền
kinh tế, gắn liền với sự hình thành và sử dụng quỹ ngân sách của NN.
NN luôn là chủ thể quyết định trong các quan hệ phân phối có liên
quan đến NSNN, NN sử dụng tối đa quyền lực chính trị thực hiện chức năng
phân phối của NSNN.
Về cơ bản, quá trình phân phối lại của NSNN đa phần mang đặc tính
không hoàn trả.
b. Chức năng giám đốc:
Chức năng giám đốc của NSNN là việc giám sát, đôn đốc, kiểm tra một
cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối tượng
phân phối NSNN nhằm đảm bảo tính hiệu quả, tiết kiệm trong việc huy động
và sử dụng đồng vốn của NSNN.
Các đặc trưng cơ bản của giám đốc NSNN là:

Giám đốc NSNN được thực hiện bởi các đại diện chính thức của NN
như: Nghị viện (Quốc hội), Chủ tịch nước (Tổng thống), các Hội đồng dân
cử, các cơ quan có trách nhiệm được ủy quyền như Kiểm toán NN, Thanh tra
NN … Ngoài ra, giám đốc tài chính còn được thực hiện bởi công luận và báo
chí (mặc dù về nguyên tắc, giám đốc NSNN được thực hiện bởi chủ thể NN).
Công cụ giám đốc NSNN là các nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm
toán, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công khai tài chính,
ngân sách và các phương tiện thông tin tài chính.
Giám đốc NSNN được thực hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, cả gián
tiếp và trực tiếp.
Giám đốc NSNN được tiến hành từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của
chu kỳ phân phối NSNN.
Giám đốc NSNN bao gồm giám đốc tuân thủ và giám đốc hiệu quả.
Giám đốc tuân thủ là giám đốc quá trình hình thành và sử dụng quỹ NSNN
xem có tuân thủ đúng chế độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong
khuôn khổ luật pháp cho phép hay không. Giám đốc hiệu quả là thông qua
quá trình phân phối thu, chi NSNN mà xem xét việc phân phối và sử dụng
NSNN có mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội không ? có lãng phí không ?
3. Vai trò của ngân sách nhà nước:
a. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
NSNN là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu
chi tiêu của nhà nước. Việc huy động các nguồn thu vào NSNN phải chú ý
đến mức động viên vào NSNN phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều
có những tác động tích cực và tiêu cực. Tỷ lệ động viên vào NSNN đối với
GDP vừa đảm bảo tính hợp lý với tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo
cho các đơn vị cơ sở có điều kiện tích tụ vốn để tái sản xuất mở rộng.
NSNN là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của NN. Xuất
phát từ những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường (như thị trường nhiều
khi phát ra những tín hiệu sai, làm mất cân đối cung cầu, hiện tượng lạm
phát, phá sản và thất nghiệp, hiện tượng độc quyền, vấn đề ô nhiễm môi
trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên, vấn đề phân hóa xã hội, khu vực tư
nhân sẽ không đầu vào hàng hóa công cộng, hoặc những lĩnh vực cần vốn
lớn, nhưng chậm thu hồi vốn hoặc tỷ suất lợi nhuận không cao…), đòi hỏi
phải có sự can thiệp của NN.
b. Vai trò của ngân sách nhà nước trong hệ thống tài chính:
Năm khâu của hệ thống tài chính:
Khu vực Nhà nước (Tài chính NN).
Khu vực sản xuất, kinh doanh các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ phi tài
chính (tài chính của khu vực phi tài chính = tài chính doanh nghiệp).
Khu vực sản xuất, kinh doanh các dịch vụ tài chính (tài chính của khu
vực tài chính = tài chính của các tổ chức tài chính trung gian).
Khu vực sản xuất, tiêu dùng ở các hộ gia đình (tài chính của các hộ gia
đình).

Khu vực hoạt động của các tổ chức xã hội không vì mục đích kinh
doanh (tài chính của các tổ chức xã hội).
Tài chính NN bao gồm ngân sách NN, dự trữ NN, tín dụng NN, ngân
hàng NN, tài chính các cơ quan hành chính NN, tài chính các đơn vị sự
nghiệp NN, tài chính DNNN, các quỹ NN, trong đó NSNN là hạt nhân.
4. Thu ngân sách nhà nước:
Thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa NN và xã hội, phát
sinh trong quá trình NN huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ
tiền tệ tập trung của NN nhằ thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của NN.
Thu NSNN đảm bảo nguồn vốn thực hiện các nhu cầu chi tiêu của NN,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của NN.
Thông qua thu NSNN, NN thực hiện việc quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh
tế - XH.
Căn cứ vào nội dung kinh tế của các nguồn thu thì thu NSNN gồm 2 loại:
Thu trong nước: thu từ kinh tế NN, thu từ các thành phần kinh tế ngoài
KTNN, thu từ các hoạt động sự nghiệp, thu khác…
Thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu về vay, viện trợ, ủng hộ của
CP các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ…
Căn cứ vào tính chất kinh tế của các nguồn thu thì thu NSNN gồm 2 loại:
Thu từ thuế và các khoản mang tính chất thuế (phí, lệ phí,…) hay còn
gọi là thu từ thuế, phí, lệ phí.
Các khoản thu không mang tính chất thuế (hay còn gọi là thu ngoài
thuế, phí, lệ phí).
a. Thuế:
Các đặc điểm của thuế:
Thuế mang tính chất cưỡng chế.
Thuế không có đối giá trực tiếp: dù nộp ít hay nhiều đều được NN đối
xử bình đẳng trước pháp luật.
Thuế dùng vào chi tiêu công cộng (ngoài 1 phần cung cấp cho quản lý
hành chính).
Thuế mang tính chất vĩnh viễn (không giống như hình thức cho vay).
Vai trò của thuế trong nền KTTT:
Thuế là khoản thu chủ yếu của NSNN (thể hiện ở chỗ: thuế là khoản
đóng góp mang tính chất pháp lệnh của NN, là khoản thu mang t/c ổn định,
không hoàn trả trực tiếp cho người nộp, hình thức thu bao quát được hầu hết
các hoạt động SXKD, các nguồn thu nhập và mọi tiêu dùng XH, đảm bảo
được tính tự chủ trong cân đối NS, thể hiện một nền tài chính QG lành mạnh.
Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thuế là công cụ góp phần điều hòa thu nhập và thực hiện bình đẳng,
công bằng xã hội.
Phân loại thuế: căn cứ vào tính chất của thuế, thuế được chia thành 2 loại:
Thuế trực thu (người nộp thuế = người chịu thuế).