
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
----
HỌC PHẦN: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm
phát và bội chi ngân sách Nhà nước
GVHD : Trương Minh Tuấn
Nhóm thực hiện : Nhóm 30
Lớp : VB15KT002
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/ 2012

LỜI MỞ ĐẦU
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và
ở Việt Nam, bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát là những vấn đề mà các
quốc gia đều gặp phải.
Nghiên cứu lạm phát, kiềm chế và chống lạm phát được thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Càng ngày cùng với sự phát triển đa dạng và phong phú
của nền kinh tế, nguyên nhân của lạm phát cũng theo đó càng trở nên phức tạp.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường th eo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu
nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có vai trò to lớn góp phần vào sự
nghiệp phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, bội chi ngân sách nhà nước hay còn gọi là thâm hụt ngân
sách cũng là một trong những vấn đề đáng lo ngại cho ngân sách nhà nước, cho
sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Bội chi ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước, tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời
gian thâm hụt. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong
thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát là hai vấn đề không phải xa lạ
trong nền kinh tế vĩ mô. Chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau. Chính sự bội
chi ngân sách nhà nước là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao cho
nền kinh tế. Do vậy việc xác định mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước
và lạm phát là một vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay. Vậy lạm phát và bội
chi ngân sách Nhà nước có mối quan hệ như thế nào? Cái nào là nguyên nhân
của cái nào? Giải pháp xử lý như thế nào? Trong bài tiểu luận này chúng ta sẽ
làm rõ những vấn đề trên.
NỘI DUNG
I. Khái niệm và bản chất của lạm phát
1. Các quan điểm về lạm phát

Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông
tiền giấy. Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm
phát nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn.
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” dùng để chỉ sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung của nền kinh tế. Theo nghĩa này thì người ta hiểu là lạm
phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Theo nghĩa thứ hai này thì người ta hiểu là lạm phát của một
loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Khi so sánh với các nền kinh tế
khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ
khác.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát giá cả thì khẳng
định: lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn, chu kỳ hay đột
xuất.
G. G. Mtrukhin lại cho rằng: có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm
phát. Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá
không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới việc tăng giá cả nói
chung. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức tràn trề tư bản một cách tiềm
tàng (tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các
ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
Ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh
tế học” đã được dịch ra tiếng việt, xuất bản năm 1989 cho rằng: lạm phát xảy ra
khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông t iền tệ” J.Bondin và M. Friendman
lại cho rằng: lạm phát là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng
lên.
M.Friedman lại nói rằng : “Lạm phát ở mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng
của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số
lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”.

C .Mác lại cho rằng: khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành và
lưu thông vượt quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá
trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Theo quan điểm của Keynes thì: “Chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết
nhân công và năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hoá tăng
lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm
phát”.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều
có sự chắc chắn về luận điểm và nh ững lý luận của mình. Những luận thuyết,
những quan điểm về lạm phát đã nêu trên đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt
nào đó của lạm phát
Theo quan điểm cổ điển thì: Lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá
dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dựa vào tỷ lệ
đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Quan điểm này coi trọng
cơ sở đảm bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp
định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao.
Có quan điểm khác cho rằng: Lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng
khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ
được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu
thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Quan điểm
tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết
nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của
việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên
cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát.
Ngoài những quan điểm nêu trên, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã
xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau về lạm phát. Trong các số đó có các lý
thuyết chủ yếu là:

+ Lý thuyết cầu: do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ông
đã quy nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức
cung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, dẫn đến đình đốn sản suất, thì nhà
nước cần phải tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng
tín dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi
đó đã xuất hiện lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát
triển.
+ Lý thuyết chi phí cho rằng: Lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí
sản xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. M ức tăng chi
phí này chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, g iá các nguyên nh iên vật liệu
tăng, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu không giảm
được chi phí... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏ tăng cao, đã làm
cho lạm phát gia tăng ở nhiều nước. Vậy là chi phí tăng đến mức mà mức tăng
năng suất lao động xã hội đã không bù đắp được mức tăng chi ph í khiến cho giá
cả tăng cao, lạm phát xuất hiện. Ở đây suy thoái kinh tế đã đi liền với lạm phát
+ Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý
thuyết này thì: Lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu
cơ của nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa công nghiệp nặng
và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sản xuất và dịch vụ...
Chính sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền kinh té phát triển
không có hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chi phí tăng cao phát triển.
Còn rất nhiều lý thuyết khác về lạm phát như: lý thuyết tạo lỗ trống lạm
phát, lý thuyết số lượng tiền tệ, v.v… Song dù có khác nhau về cách lý giải
nhưng hầu như tất cả các lý thuyết đều th ừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi
mức giá cả chung tăng lên, do đó làm cho giá trỊ của đồng tiền giảm xuống.
2. Các loại lạm phát và nguyên nhân của lạm phát:
2.1 Các loại lạm phát
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có tỉ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra nh ững tác động nguy hiểm