
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN- KIỂM TOÁN
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN
SV THỰC HIỆN: NHÓM 34
1. VÕ THANH BÌNH
2. PHẠM THỊ DUYÊN
3. PHẠM THỊ MỸ HÀ
4. NGUYỄN Y NỮ
5. DƯƠNG BÁ PHÚC
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 10/2012

Mở đầu
Trong những năm gần đây, vấn đề bội chi ngân sách ngày càng được dư
luận quan tâm, và luôn là chủ đề được bàn cãi trong các kỳ họp quốc hội. Chúng
ta luôn cho rằng: Bội chi ngân sách nhà nước là “một căn bệnh” làm cản trở sự
phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài chính quốc gia, tuy nhiên
bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định, sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Có thể ví bội chi ngân sách như con dao hai lưỡi, quan
trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như thế nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí
sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng được sự thiếu hụt nguồn vốn đối với
các dự án quan trọng. nhưng nếu không thực hiện tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi
ngân sách là một trong những nguyên nhân chính gây khủng hoảng nền kinh tế,
gây lên lạm phát, nợ quốc gia. Tuy nhiên mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta
đang có xu hướng gia tăng và ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân
cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nói cách khác, đây chính là một trong những nguy
cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực
hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng
vấn đề thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thế nào? Giải pháp để hạn chế và khắc
phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ra sao? Nhóm chúng tôi sẽ cùng các
bạn giải đáp trong bài thảo luận về đề tài: ‘Trình bày các biện pháp mà chính phủ
việt nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm vd
minh họa trong 5 năm trở lại đây’’

I. Khái niệm
a. Bội chi ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là
tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu
"không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước. Để phản ánh mức độ thâm
hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so
với tổng số thu trong ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt
và thời gianthâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với
tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực
Các dạng thâm hụt NSNN
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được
quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất,
trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... Thâm
hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa
là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền
kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm
xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như
sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu
nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.

Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau
giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự
động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh
giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính
mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho
chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn
của chu kỳ kinh tế
b. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một
giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay
GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.

Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của
phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng
trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn
nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác
nhau đưa đến kết quả tương ứng.
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ
luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu
hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc
vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu
tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát
huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe
và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những
nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế
một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước
Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của
lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã
phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ
không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[1]
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những
tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và
nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có
những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được
mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các
nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao.
Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập
trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên
vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người
lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên
mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực
hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là
máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội,