
0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Lý thuyết tài chính – tiền tệ
Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa
lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN
Nhóm: 10
Sinh viên thực hiện Số thứ tự Chữ ký
1. Nguyễn Quỳnh An 01
2. Đỗ Thị Thùy Giang 22
3. Huỳnh Thị Thái Hiền 34
4. Lê Mỹ Xuân Phượng 106
5. Lý Thị Tuyết Vân 154

1
TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, lạm phát là vấn đề rất nhạy cảm và gây tác động
đa chiều đến nền kinh tế xã hội và hậu quả của nó là kéo theo các cuộc khủng
hoảng kinh tế và chính t rị. Kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện đang là chủ
đề nhận được sự quan tâm của nhiều người. Nguyên nhân gây ra tình trạng
lạm phát thời gian qua được bàn luận khá nhiều trên các khía cạnh: như do
mặt bằng giá thế giới tăng, do thiên tai, dịch bệnh… Bên cạnh đó nguyên
nhân cũng bắt nguồn từ công tác điều hành vĩ mô của Chính phủ, trong đó có
điều hành chính sách tài khóa. Ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục
tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế
lạm phát hiện nay là vấn đề cấp bách. Chính vì vậy mà đã có ý kiến đề nghị
rằng, để góp phần kiềm chế lạm phát, Việt Nam cần giảm bội chi ng ân sách
nhà nước.
Để có sự nhìn nhận đúng hơn về vấn trên, nhóm sinh viên chúng em
đã chọn đề tài “TÓM LƯỢT LÝ THUYẾT VỀ M ỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM
PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC”. Tuy nhiên do thực tế và lý
thuyết còn nhiều khác biệt và thời gian ngh iên cứu còn hạn chế nên bài báo
cáo này cũng không tránh khỏi những thiếu sót nên mong nhận được sự góp ý
của quý Thầy Cô.
Xin chân thành cảm ơn đến Giảng viên Trương Minh Tuấn đã tận tình
hướng dẫn cũng như truyền đạt kiến thức trong thời gian qua để nhóm sinh
viên chúng em hoàn thành đề tài một cách tốt nhất.

2
CHƯƠNG I :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. LẠM PHÁT:
1/ Khái niệm lạm phát:
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết
làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng
loạt. Lạm phát có những đặc trưng là:
Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn
đến đồng tiền bị mất giá.
Mức giá cả chung tăng lên.
Chính vì vậy khi tính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số
giá cả và phổ biến nh ất là chỉ số “giá tiêu dùng CPI” phản ánh mức thay đổi giá
cả của một giỏ hàng hóa tiêu dùng so với năm gốc cụ thể. Ngoài ra người ta còn
sử dụng các chỉ số khác như “giảm lạm phát GDP” đo lường sự khác biệt giữa
GDP theo giá hiện hành và giá cố định cùng các thành phần của nó (Ví dụ: nếu
GDP tăng theo mức cố định là 2% và theo mức giá danh nghĩa hiện hành là 5%,
nó hàm ý mức lạm phát trong toàn bộ nền kinh tế là 3%).
2/ Phân loại lạm phát:
Các nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá phân loại lạm phát thành 3
mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải (lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số): xảy ra
khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ 1 con số hàng năm (dưới 10% một
năm). Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao (lạm phát phi mã): xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức
độ 2 con số hàng năm (từ 10% đến dưới 100% một năm). Lạm phát phi mã gây
ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

3
- Siêu lạm phát (lạm phát siêu tốc): xảy ta khi g iá cả hàng hóa tăng ở mức
độ 3 con số hàng năm trở lên (từ 100% trở lên). Siêu lạm phát gây ra những tác
hại rất lớn đến kinh tế - xã hội.
Người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là “Tỷ lệ
tăng giá” và “Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ” lạm phát sẽ ở trong 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: “Tỷ lệ tăng giá” nhỏ hơn “Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ”. Một bộ
phận của khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng như cầu lưu thông của nền kinh
tế. Lạm phát này có thể chấp nhận được và đôi khi còn là liều thuốc để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
- Giai đoạn 2: “Tỷ lệ tăng giá” lớn hơn “Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ”. Nguyên
nhân là do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài làm cho nền kinh tế suy thoái. Hệ quả
là khối lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng t iền cần th iết cho lưu thông.
Trường hợp này lạm phát gây nghuy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.
3/ Nguyên nhân lạm phát:
3.1/ Lý thuyết số lượng tiền tệ và lạm phát:
a. Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ:
Trước hết, bằng việc sử dụng phân tích của các nhà kinh tế tiền tệ, chúng
ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên dưới.
Hình 1: Ph
ản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ li
ên t
ục

4
Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao giữa AD1 và AS1). Nếu
cung tiền gia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến
AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng
gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ
làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường
AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở điểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ như
vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra. Nghĩa là
M tăng lên à P tăng lên. Trong phân tích cùa các nhà kinh tế tiền tệ, cung tiền
được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD, không có yếu
tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn nữa.
b. Quan điểm thuộc trường phái của Keynes:
Trường phái Keynes cũng giống như trường phái tiền tệ nhưng còn phải
dựa vào các yếu tố như chính sách tài khóa và những thay đổi của cung để phân
tích tác động đến tổng cung và tổng cầu.
Hình 2: Mô hình cân bằng tổng quát
Chi tiêu hoặc đầu tư của chính phủ tăng lên đẩy tổng cầu tăng tại mọi
mức giá P khiến đường AD1 dịch sang phải trở thành AD2. Trong ngắn hạn, do
lương của người lao động không đổi, các nhà cung ứng có lợi hơn và vì thế sản
xuất nhiều hơn, mức cân bằng của toàn bộ nền kinh tế dịch chuyển từ điểm “a”
sang điểm “b” – với sản lượng GDP cao hơn và mức giá cũng cao hơn một chút.