Tiểu luận Quản lý dự án: An toàn lao động trong xây dựng công trình đô thị
lượt xem 108
download
Tiểu luận Quản lý dự án: An toàn lao động trong xây dựng công trình đô thị nêu lên giới thiệu chung về đề tài; một số sự cố mất an toàn lao động; phân tích nguyên nhân, điều kiện lao động và kiến nghị công tác bảo hộ lao động.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận Quản lý dự án: An toàn lao động trong xây dựng công trình đô thị
- MỤC LỤC MỤC LỤC ........................................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG QUẢN LÝ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH ĐÔ THỊ. I. Giới thiệu về công tác an toàn lao động. I. Một số vấn đề về an toàn, vệ sinh lao động trong xây dựng. 1. Khái niệm về an toàn lao động, tai nạn lao động. Khái niệm An toàn lao động: ATLĐ chỉ việc ngăn ngừa sự cố tai nạn, xảy ra trong quá trình lao động gây thương tích hoặc gây tử vong cho người lao động. Khái niệm Tai nạn lao động: TNLĐ là tai nạn xảy ra do tác động một cách đột ngột của các yếu tố nguy hiểm, độc hại gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động; xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc nhiệm vụ lao động. Để một tai nạn được coi là TNLĐ thì phải thỏa mãn đủ 3 điều kiện sau: Có yếu tố nguy hiểm, độc hại tác động đột ngột lên người lao động. Bị tổn thương hoặc tử vong. Xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với công việc, nhiệm vụ. Yếu tố nguy hiểm gồm: Yếu tố nguy hiểm gây chấn thương cơ học. Yếu tố nguy hiểm về điện, tĩnh điện gây điện giật, bỏng, cháy nổ. Yếu tố nguy hiểm về nhiệt gây bỏng, cháy. Yếu tố nguy hiểm về hóa học gây nhiễm độc cấp tính, bỏng. Yếu tố nguy hiểm nổ.
- CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN, TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI I. Ý NGHĨA – TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC BẢO HỘ LAO ĐỘNG. Lao động tạo ra của cải vật chất, làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Bất cứ dưới chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là một trong những yếu tố quyết định, năng động nhất trong sản xuất. Ý nghĩa của công tác BHLĐ trước hết đó là ý nghĩa về mặt chính trị. Làm tốt BHLĐ sẽ góp phần vào việc củng cố lực lượng sản xuất và phát triển quan hệ sản xuất. Chăm lo đến sức khoẻ, tính mạng, đời sống của người lao động là thể hiện quan điểm của Đảng ta đối với người lao động với giai cấp công nhân Việt Nam nhằm xây dựng đội ngũ công nhân lao động vững mạnh cả về số lượng và thể chất. BHLĐ mang tính chất pháp lý vì mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, các giải pháp khoa học công nghệ, các biện pháp tổ chức xã hội đều được thể chế hoá bằng các quy định luật pháp và bắt buộc mọi tổ chức, mọi người sử dụng lao động cũng như mọi người lao động phải thực hiện. Trên thế giới, quyền được BHLĐ đã được thừa nhận và trở thành một trong những mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân và lao động. Tính khoa học của BHLĐ được thể hiện trước hết ở giải pháp khoa học kỹ thuật để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại thông qua các hoạt điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá điều kiện lao động, các biện pháp kỹ thuật an toàn, phòng cháy chữa cháy, các biện pháp kỹ thuật vệ sinh xử lý ô nhiễm môi trường lao động, các phương tiện bảo vệ cá nhân, v.v…, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ tiên tiến để phòng ngừa, hạn chế tai nạn lao động xảy ra. BHLĐ còn liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ môi trường sinh thái (Ngôi nhà chung của thế giới), vì thế hoạt động khoa học về BHLĐ góp phần quyết định trong phần giữ gìn môi trường trong sạch, hạn chế sự huỷ diệt trái đất do giảm bớt được sự nóng lên của trái đất. BHLĐ mang tính quần chúng vì trước hết đó là công việc của đông đảo những người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và chính họ là những người có khả năng phát hiện và đề xuất các biện pháp có hiệu quả để loại bỏ các yếu tố có hại và nguy hiểm tại chỗ làm việc trong qúa trình sản xuất. Không chỉ những người lao động
- mà mọi cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật trong các tổ chức quản lý, nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, chế tạo v.v…, đều có trách nhiệm tham gia vào việc thực hiện các nhiệm vụ của công tác BHLĐ theo pháp luật quy định. Ngoài ra, các phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải thiện điều kiện làm việc; các hoạt động tuyên truyền phổ biến các kiến thức, chế độ, chính sách, pháp luật về BHLĐ; hội thi, hội thoa, giao lưu về an toàn – vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ đều là những hoạt động quần chúng góp phần quan trọng vào việc cải thiện không ngừng điều kiện làm việc, hạn chê TNLĐ, bệnh nghề nghiệp. Những nội dung hoạt động đó khẳng định sự nghiệp BHLĐ chính là sự nghiệp của quần chúng lao động. 2. CÁC ĐIỀU LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN BHLĐ VÀ PHÁP LỆNH BHLĐ 2.1. Những quy định chung về công tác bảo hộ lao động Nghị định số 06/CP, ngày 20 tháng 01 năm 1995 của Chính Phủ quy định số chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Trong đó quy định rõ mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động, mọi công chức, viên chức, mọi người lao động kể cả người học nghề, thử việc trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trong lĩnh vực vũ trang và các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam đều được áp dụng các quy định về an toàn lao động và vệ sinh lao động. BHLĐ là một hệ thống đồng bộ các chủ trương, chính sách, luật pháp, các biện pháp về tổ chức, kinh tế – xã hội và khoa học công nghệ để cải tiến điều kiện lao động nhằm bảo vệ sức khoẻ và tính mạng của con người trong lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường lao động nói riêng và môi trường sinh thái nói chung, góp phần vào việc cải thiện đời sống vật chất tinh thần của người lao động. 2.2. An toàn lao động và vệ sinh lao động Theo khoản 1 Điều 96 của Bộ luật lao động đã quy định: Việc xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo các công trình, các cơ sở sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động thì chủ đầu tư, người sử dụng lao động
- phải lập luận chứng về các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động. Trong luận chứng phải có những nội dung chính sau: Địa điểm, quy mô, khoảng cách từ công trình, cơ sở đến khu dân cư và các công trình khác; Những yếu tố nguy hiểm, có hại, sự cố có thể phát sinh trong quá trình hoạt động; các giải pháp phòng ngừa, xử lý. Khi thực hiện phải cụ thể hoá các yêu cầu, nội dung, biện pháp bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động theo luận chứng đã phê duyệt. Việc thực hiện tiêu chuẩn an toàn lao động được quy định: Tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động là tiêu chuẩn, quy phạm bắt buộc thực hiện. Căn cứ tiêu chuẩn quy phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động của Nhà nước, của ngành ban hành, người sử dụng lao động phải xây dựng quy trình bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động cho từng loại máy, thiết bị, vật tư và nội quy an toàn, vệ sinh nơi làm việc. Việc nhập khẩu các loại thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động phải được Bộ Thương mại cho phép sau khi trao đổi và được sự nhất trí của cơ quan Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động hoặc vệ sinh lao động. Bộ Luật lao động cũng quy định rõ nơi làm việc có nhiều yếu tố độc hại cần phải được kiểm tra, đo lường các yếu tố độc hại ít nhất mỗi năm một lần. Khi thấy có hiện tượng bất thường thì phải kiểm tra và có biện pháp xử lý ngay. Đồng thời lập hồ sơ lưu giữ và theo dõi đúng quy định. Đối với những nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại dễ gây tai nạn lao động cần phải có đủ trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế thích hợp như: thuốc, bông, băng, băng ca, mặt nạ phòng độc, xe cứu thương… Có phương án dự phòng xử lý các sự cố có thể xảy ra, phải có tổ chức đội cấp cứu. Trong đó đội cấp cứu và người lao động phải được thường xuyên tập luyện. 2.3. Bảo vệ sức khoẻ người lao động trong lao động.
- Người lao động làm công việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại phải được trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân đúng quy cách và chất lượng theo tiêu chuẩn, danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quy định. Định kỳ khám sức khoẻ, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động theo điều 102 Bộ luật Lao động: Phải khám sức khỏe cho người lao động, kể cả người người học nghề, tập nghề ít nhất một lần trong một năm, đối với người làm công việc nặng nhọc, độc hại thì ít nhất 6 tháng một lần. Việc khám sức khoẻ phải do các đơn vị y tế Nhà nước thực hiện. Trước khi nhận việc, người lao động, kể cả người học nghề, tập nghề, phải được hướng dẫn, huấn luyện về an toàn lao động và vệ sinh lao động. Sau đó căn cứ vào công việc của từng người đảm nhiệm mà huấn luyện, hướng dẫn các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh phù hợp và phải được kiểm tra thực hành chặt chẽ. Nghiêm cấm việc sử dụng người lao động chưa được huấn luyện và chưa được cấp thẻ an toàn làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Bồi dưỡng đúng số lượng, cơ cấu theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và Bộ Y tế, bồi dưỡng tại chỗ theo ca làm việc, cấm trả tiền thay bồi dưỡng bằng hiện vật. 2.4.Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp * Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động được quy định như sau: Kịp thời sơ cứu, cấp cứu tại chỗ, người bị tai nạn lao động sau đó phải chuyển ngay đến cơ sở y tế. Trường hợp xảy ra tai nạn lao động chết người hoặc làm nhiều người bị thương nặng thì phải giữ nguyên hiện trường nơi xảy ra tai nạn lao động và báo ngay cho cơ quan Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động và cơ quan công an địa phương. * Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị bệnh nghề nghiệp được quy định như sau: Người bị bệnh nghề nghiệp được điều trị theo chuyên khoa.
- Sau điều trị, tuỳ theo danh mục các loại bệnh nghề nghiệp, ít nhất cũng được khám sức khoẻ 6 tháng một lần và được lập hồ sơ sức khoẻ riêng biệt. Quy định của Bộ luật Lao động, Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ về việc ban hành điều lệ BHXH và các Thông tin hướng dẫn của Bộ Lao động Thương binh và xã hội về chế độ trợ cấp cho người lao động bị TNLĐ và BNN. Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp theo khoản 3 Điều 107 của Bộ Luật Lao động. 2.5.Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động * Quyền của người sử dụng lao động: Buộc người lao động phải tuân thủ các quy định, nội quy, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động. Khen thưởng người chấp hành tốt và kỷ luật người vi phạm trong việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động. Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định của thanh tra viên lao động về an toàn lao động, vệ sinh lao động nhưng vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đó. * Nghĩa vụ của người sử dụng lao động: Hàng năm, khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động. Trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân và thực hiện các chế độ khác về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người lao động theo quy định của Nhà nước. Cử người giám sát việc thực hiện các quy định, nội quy, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, phối hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và duy trì sự hoạt động của mạng lưới an toàn và vệ sinh viên. Xây dựng nội quy, quy trình an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp với từng loại máy, thiết bị, vật tư kể cả khi đổi mới công nghệ, máy, thiết bị, vật tư và nơi làm việc theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước. Tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy định, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người lao động.
- Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động theo tiêu chuẩn, chế độ quy định. Chấp hành nghiêm chỉnh quy định khai báo, điều tra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo kết quả tình hình thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động với Sở Lao động – thương binh và xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động. * Quyền của người lao động: Yêu cầu người sử dụng lao động đảm bảo điều kiện làm việc an toàn, vệ sinh, cải thiện điều kiện lao động, trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân, huấn luyện, thực hiện biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động. Từ chối làm việc công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, đe doạ nghiêm trọng tính mạng, sức khoẻ của mình và phải báo ngay với người phụ trách trực tiếp, từ chối trở lại làm việc nơi nói trên nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục. Khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi người sử dụng lao động vi phạm quy định của Nhà nước hoặc không thực hiện đúng các giao kết về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong hợp đồng lao đồng, thoả ước lao động. * Nghĩa vụ của người lao động: Chấp hành các quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao động liên quan đến công việc, nhiệm vụ được giao. Phải sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được trang cấp, các thiết bị an toàn, vệ sinh nơi làm việc, nếu làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường. Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm, tham gia cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người sử dụng lao động. 2.6. Quản lý Nhà nước về bảo hộ lao động Theo các Điều 180 và 181 của Bộ Luật Lao động được quy định như sau: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội có trách nhiệm xây dựng, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách, chế độ về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động; xây dựng ban hành và quản lý
- thống nhất hệ thống quy phạm Nhà nước về an toàn lao động, tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động; hướng dẫn chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện thanh tra về an toàn lao động; tổ chức thông tin, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động; hợp tác với nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực an toàn lao động. Bộ Y tế có trách nhiệm xây dựng ban hành và quản lý thống nhất hệ thống quy phạm vệ sinh lao động, tiêu chuẩn sức khoẻ đối với các nghề, các công việc; hướng dẫn chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện về vệ sinh lao động; thanh tra về vệ sinh lao động; tổ chức khám sức khoẻ và điều trị bệnh nghề nghiệp; hợp tác với nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực vệ sinh lao động. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có trách nhiệm quản lý thống nhất việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật về an toàn lao động, vệ sinh lao động; ban hành hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, quy cách các phương tiện bảo vệ cá nhân trong lao động; phối hợp với Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ Y tế xây dựng ban hành và quản lý thống nhất hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Bộ Giáo dục và đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo việc đưa nội dung an toàn lao động, vệ sinh lao động vào chương trình giảng dạy trong các trường đại học; các trường kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý và dạy nghề. Các Bộ, ngành ban hành hệ thống tiêu chuẩn quy phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động cấp ngành sau khi có thoả thuận bằng văn bản của Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Y tế. Việc quản lý Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong các lĩnh vực: phóng xạ, thăm dò khai thác dầu khí, các phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường hàng không và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ quan quản lý ngành đó chịu trách nhiệm có sự phối hợp của Bộ Lao động – thương binh và xã hội và Bộ Y tế. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong phạm vi địa phương mình; xây dựng các
- mục tiêu đảm bảo an toàn, vệ sinh và cải thiện điều kiện lao động đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và ngân sách địa phương. 2.7. Thanh tra Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động trình Chính phủ phê duyệt đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Hàng năm, căn cứ vào chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động đã được phê duyệt. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính lập kế hoạch kinh phí đầu tư cho chương trình này để đưa vào ngân sách Nhà nước. Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao động làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ và tổ chức phối hợp hoạt động của các ngành, các cấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Thành phần của Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. 2.8. Trách nhiệm – Quyền hạn của Tổ chức Công đoàn Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động; xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Tổ chức công đoàn phối hợp với cơ quan lao động – thương binh và xã hội, cơ quan y tế cùng cấp tham gia kiểm tra, giám sát việc quản lý Nhà nước, việc thi hành các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Công đoàn cơ sở có trách nhiệm giáo dục, vận động người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao động; xây dựng phong trào đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp, đơn vị; xây dựng và duy trì hoạt động của mạng lưới an toàn và vệ sinh viên. 2.9. Xử lý các vi phạm Việc xử lý vi phạm phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân và những tình tiết giảm nhẹ hay nặng để quyết định hình thức và mức phạt thích hợp.
- Nếu hành vi vi phạm có một trong những tình tiết giảm nhẹ thì được giảm một nửa (1/2) mức phạt quy định đối với hành vi đó; trường hợp có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên thì được giảm hai phần ba (2/3) mức phạt quy định đối với hành vi đó. Nếu hành vi vi phạm có một trong những tình tiết tăng năng thì bị phạt gấp đôi mức phạt quy định đối với hành vi đó; nếu có từ 2 tình tiết tăng nặng trở lên thì bị phạt gấp ba mức phạt đã được quy định đối với hành vi đó. Thời hiệu xử phạt hành chính vi phạm pháp luật lao động là 1 năm, kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện. Đối với cá nhân bị khởi tố, truy tố hoặc có quyền quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án thì bị xử phạt hành chính nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính, thời hiệu là 3 tháng kể từ ngày có quyết định đình chỉ. Tổ chức, cá nhân bị xử phạt theo quy định tại Nghị định này, nếu quá một năm kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt, hoặc kể từ ngày hết hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt hành chính vi phạm pháp luật lao động. 3. CÁC QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ HIỆN HÀNH VỀ CÔNG TÁC BHLĐ 3.1. Tiền lương Tiền lương được quy định theo chế đọ hiện hành của nhà nước. Mức bồi thường thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ Luật lao động và Điều 11 Nghị định số 06/CP ngày 20/01/1995 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về an toàn lao động và vệ sinh lao động cụ thể như sau: Mức bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động mà không do lỗi của người lao động. Trường hợp do lỗi của người lao động, thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng lương. Tiền lương làm căn cứ để tính chế độ bồi thường cho người bị tai nạn lao động thực hiện theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 197/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật Lao động về tiền lương, là tiền lương theo hợp đồng lao động, được tính bằng 6 tháng liền trước khi tai
- nạn lao động xảy ra, gồm: lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ và phụ cấp chức vụ (nếu có). Trường hợp người lao động làm việc chưa đủ 6 tháng thì tiền lương làm căn cứ để tính chế độ bồi thường cho người bị tai nạn lao động là tiền lương bình quân tương ứng với thời gian làm việc của các tháng trước khi xảy ra tai nạn. Đối với người học nghề, tập nghề để làm việc tại các doanh nghiệp nếu bị tai nạn lao động, thì mức bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương tối thiểu cho người bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc do thân nhân người chết do tai nạn lao động mà không do lỗi của người học nghề, tập nghề. Trường hợp do lỗi của người học nghề, tập nghề thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 12 tháng lương tối thiểu theo quy định của Chính phủ tại thời điểm xảy ra tai nạn lao động. Chi phí bồi thường cho người bị tai nạn lao động được hạch toán và giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đối với các cơ quan hành chính, sự nghiệp được tính vào chi phí thường xuyên của cơ quan. 3.2. Thời giờ làm việc – Thời giờ nghỉ ngơi Thời giờ làm việc hàng ngày được rút ngắn 02 (hai) giờ trong ngày làm việc áp dụng đối với những người làm việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm ban hành kèm theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ lao động – thương binh và xã hội. Hàng ngày, trong 6 giờ làm việc liên tục công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm người lao động có ít nhất 30 phút được nghỉ nếu làm việc vào ban ngày, có ít nhất 45 phút được nghỉ nếu làm việc vào ban đêm. Trong một ngày làm việc đối với công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm người lao động không được làm thêm quá 3 giờ, trong tuần thì tổng cộng thời gian làm thêm không được quá 9 giờ. Người làm công việc được rút ngắn thời giờ làm việc được trả đủ lương, phụ cấp (nếu có) và các chế độ khác theo quy định của Bộ Luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật lao động. 3.3. Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
- Nghị định số 38/CP, ngày 25 tháng 6 năm 1996 của Chinh phủ, quy định về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất tại mục II bao gồm các điều 13, 14, 15, 16, 17, 18 nêu rõ: Phạt tiền 200.000 đồng tới 10 triệu động đối với 1 trong những hành vi vi phạm kỷ luật lao động và an toàn lao động. Trong đó tại điều 13 quy định rõ trách nhiệm vật chất đối với người lao động: Phạt tiền 200.000 đồng đối với các hành vi sau đây: 1 – Người lao động vi phạm các quy định về an toàn lao động được quy định tại khoản 1 điều 95 của Bộ luật Lao động. 2 – Người lao động không sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động mà người sử dụng đã trang bị. Đối với người sử dụng lao động, trách nhiệm vật chất cũng được quy định rõ tại các điều trong mục II của nghị định này. 3.4. Bảo hiểm xã hội 4. AN TOÀN LAO ĐỘNG. 4.1. AN TOÀN LAO ĐỘNG TRONG GIA CÔNG PHỤ KIỆN. I An toàn lao động khi đục, khoan. Trong lĩnh vực thi công các công trình cấp thoát nước, việc gia công cấu kiện bằng biện pháp đục, khoan thì chủ yếu sử dụng các loại biện pháp cầm tay kể cả thủ công và thiết bị cầm tay sử dụng điện. Do vậy khi thực hiện các công tác đục khoan phải tuân thủ theo quy phạm kỹ thuật về an toàn lao động trong xây dựng đối với các dụng cụ thi công cầm tay, (được nêu rõ tại bộ tiêu chuẩn TCVN 530891): Cán gõ, cán tre của các dụng cụ cầm tay phải làm bằng các loại tre, gỗ cứng, dẻo, không bị nứt, nẻ, mọt, mục; phải nhẵn và nêm chắc chắn. Các dụng cụ cầm tay dùng để đập, đục phải đảm bảo các yêu cầu chung sau đây: Đầu mũi không bị nứt nẻ, hoặc bất cứ một hư hỏng nào khác
- Cán không bị nứt, vỡ, không có cạnh sắc và phải có chiều dài thích hợp đảm bảo an toàn khi thao tác. Búa tạ dùng để đóng, chêm, đục, phải có tay cầm dài 0.7m. Công nhân đục phá kim loại hoặc bê tông bằng các dụng cụ cầm tay phải đeo kính phòng hộ. Nơi làm việc chật hẹp và đông người phải có tấm chắn bảo vệ. Công nhân sử dụng các dụng cụ cầm tay chạy điện hoặc khí nén, các loại súng và các loại dụng cụ cầm tay khác phải đủ tiêu chuẩn quy định. Đồng thời phải hiểu rõ tính năng, tác dụng, và biết thao tác thành thạo đối với từng loại dụng cụ trước khi được giao sử dụng. Dụng cụ cầm tay chạy điện hoặc khí nén phải được kiểm tra, bảo dưỡng, bảo quản chặt chẽ và sửa chữa kịp thời, bảo đảm an toàn trong quá trình sử dụng. Chỉ được lắp các dụng cụ cầm tay chạy điện hoặc khí nén vào đầu kẹp hoặc tháo ra khỏi đầu kẹp cũng như điều chỉnh, sửa chữa khi đã cắt điện hoặc cắt hơi. Khi sử dụng các dụng cầm tay chạy điện hoặc khí nén, công nhân không được đứng thao tác trên các bậc thang tựa mà phải đứng trên các giá đỡ đảm bảo an toàn. Đối với các dụng cụ nặng phải làm giá treo hoặc các phương tiện đảm bảo an toàn khác. Khi ngừng làm việc, khi mất điện, mất hơi, khi di chuyển dụng cụ hoặc khi gặp sự cố bất ngờ thì phải ngừng cấp năng lượng ngay. Cấm đển các dụng cụ cầm tay còn đang được cấp điện hoặc khí nén mà không có người trông coi. Sử dụng các dụng cụ cầm tay chạy bằng điện di động ngoài trời, phải được bảo vệ bằng nối không. Công nhân phải đi ủng và đeo găng tay cách điện. Khi sử dụng máy khoan cầm tay phải: Cho máy khoan chạy thử (không cần lắp cần khoan) để kiểm tra toàn tuyến ống, đảm bảo tuyến ống dẫn hơi không bị xì hở, tra đủ dầu mỡ theo quy định. Cấm dùng tay để điều chỉnh mũi khoan khi mũi khoan đang chạy. Lập tức khoá hơi lại khi khoan bị tắc hoặc có hiện tượng không đảm bảo an toàn, sau đó mới được tháo cần khoan và tiến hành kiêm tra sửa chữa. Cấm xì hơi đùa nghịch hoặc làm sạch bụi quần áo. II An toàn lao động khi giũa, cưa và cắt.
- Đối với công tác gia công đường ống, phụ tùng, phụ kiện trong các công trình cấp thoát nước nói riêng và gia công cơ khí nói chung. Việc thực hiện an toàn lao động trong công tác cưa, cắt và giũa cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn lao động được quy định tại bộ tiêu chuẩn TCVN 530891 đối với các dụng cụ lao động cầm tay như là các loại khoan máy, cưa máy, búa hơi… Trong các xưởng gia công và nhà máy chế tạo các ống được gia công bằng dụng cụ thủ công và dụng cụ cơ giới. Chỉ cho phép các công nghân chuyên nghiệp sử dụng các máy cắt kim loại và các đồ gá. Người đứng máy phảI mặc quần áo bảo hộ lao động , công nhân nữ phảI có đầu tóc ngắn gọn. Trước khi mở máy hay đồ gá cần xem xét kỹ lưỡng , kiểm tra các vỏ chắn và lưới ngăn. Nế có trục trặc phảI báo ngay cho người phụ trách kỹ thuật biết. Trong thời gian máy làm việc cấm lấy vỏ và các đồ che chắn. Các quy định về kỹ thuật an toàn khi cắt trên các máy và đồ gá có đá màI và trên các máy tiện phảI được chấp hành nghiêm chỉnh. Trong khi làm việc trên các máy màI không được đứng đối diện với mặt đầu của đá mài III An toàn lao động khi ren. Thông thường các ống ngắn và các chi tiết có đường kính dưới 50mm được làm ren theo phương pháp thủ công bằng các bàn ren ( ren ngoàI ) và tarô ( ren trong ) định cỡ. Phương pháp này chỉ thích hợp với các loại ren cho ống dẫn nước sinh hoạt và các ống công nghệ không đòi hỏi những yêu cầu kỹ thuật đặc biệt về độ bền và độ kín IV An toàn lao động khi gò. Hsshfdsjhdsfhslh SJAHHSAJ AHSHFJAHAJS JAHFAS ????????????????
- V An toàn lao động khi hàn điện, cắt hơi. Trong công các hàn điện, hàn hơi thường xuyên kèm theo các yếu tố hộc hại (hơi khí độc, tia hồ quang điện) và các yếu tố nguy hiểm (Nhiệt độ cao, điện giật, cháy, nổ). Bởi vậy trong công tác hàn cần chú ý các biện pháp an toàn lao động như sau: Các biện pháp an toàn chung: Trước khi hàn, thợ hàn phải kiêm tra đầy đủ các điều kiện về an toàn. Thợ hàn điện, hàn hơi kể cả người phụ hàn phải sử dụng đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân cần thiết: để bảo vệ mắt phải sử dụng mặt nạ hàn, kính hàn; để tránh bỏng phải mặc quần áo bảo hộ bằng vải dày chống nhiệt, đeo gang tay và đi giày cao cổ. Khi ở mội trường nguy hiểm về điện phải sử dụng gang tay và ủng cách điện. Trước khi hàn ở các khu vực có hơi khí cháy nổ, độc hại phải kiểm tra nồng độ các hơi khí đó. Trường hợp cần thiết phải tiến hành thông gió, đảm bảo không còn nguy cơ cháy nổ, độc hại mới được tiến hành công việc. Ở những nơi tiến hành hàn điện, hàn hơi phải dọn sạch các chất dễ cháy nổ trong bán kính không nhỏ hơn 5m. Không được phép hàn, cắt các thiết bị đang chịu áp lực hoặc đang chứa chất cháy nổ, chất độc hại. Hàn các bộ phận, thiết bị điện hoặc gần các thiết bị điện đang hoạt động phải có biện pháp đề phòng điện giật. Các biện pháp an toàn khi hàn điện: Điện áp ở máy hàn một chiều, máy hàn xoay chiều không được vượt quá các trị số tương ứng là 110V và 70V. Chỉ được nối thiết bị hàn với máy phát điện hàn, máy biến áp hàn hoặc máy chỉnh lưu. Cấm lấy trực tiếp từ lưới điện. Nối điện từ lưới điện vào máy hàn phải qua cầu dao, cầu chì. Máy hàn phải có thiết bị đóng cắt. Khi ngừng hàn phải cắt nguồn điện cung cấp cho máy hàn. Phần kim loại của thiết bị hàn cũng như máy hàn phải được nối đất bảo vệ theo tiêu chuẩn Việt nam “quy phạm nối đất và nối không các thiết bị điện” Dây dẫn điện từ máy hàn đến kim hàn, mỏ hàn phải dùng dây cáp mềm cách điện có tiết diện phù hợp với dòng điện lớn nhất của thiết bị hàn.
- Khi di chuyển hoặc kéo dây phải chú ý tránh để vỏ cách điện không bị cọ sát, hư hỏng. Chiều dài dây dẫn từ nguồn điện đến máy hàn không được dai quá 15m. Chuôi kim hàn phải là vật liệu cách điện, cách nhiệt tốt. Kim hàn phải kẹp chắc que hàn. Chỉ có thợ điện mới được nối vào và tháo các thiết bị hàn ra khỏi máy hàn hoặc tháo lắp sửa chữa máy hàn. Thợ hàn không được làm các công việc này. Phải có giá đặt các kim hàn, không đặt ngang lên trên vật hàn hoặc đặt xuống đất. Các máy hàn để ngoài trời phải có mái che mưa. Cấm hàn ở ngoài trời khi có mưa bão. Thợ hàn khi làm việc ở trên cao phải đứng trên sàn thao tác đảm bảo an toàn, không có sàn thao tác phải đeo dây an toàn. Có túi đựng dụng cụ, que hàn và các mẩu que hàn thừa. Thợ hàn phải sử dụng các phương tiện cá nhân phù hợp: kính hàn, quần áo, giày, găng tay bảo hộ lao động. Các biện pháp an toàn khi hàn hơi: Sử dụng bình sinh khí axêtylen: Đất đèn canxi cacbua phải được bảo quản trong các thùng sắt để nơi khô ráo, thoáng mát, được phòng cháy chu đáo. Khi mở thùng đất đèn phải dùng dụng cụ chuyên dùng. Không mở ngăn đất đèn của bình khi chưa tháo hết khí còn lại trong bình. Bình sinh khí axêtylen phải có bầu dập lửa. Trước khi làm sạch bình sinh khí axêtylen phải mở tất cả các lỗ (vòi, cửa…) để thông hơi. *Vận chuyển và sử dụng chai ôxy: Cấm bôi dầu mỡ vào chân ren. Nếu tay dính dầu mỡ thì cũng không được sờ vào chai. Các chai ôxy và axêtylen dùng khi hàn phải đặt nơi thoáng mát, khô ráo, có mái che mưa, nắng, cách xa đường dây điện trần hoặc các vật nung nóng. Khoảng cách giữa các chai ôxy và axêtylen cũng như khoảng cách giữa chúng và nơi hàn, nơi có ngọn lửa hoặc nơi phát sinh ngọn lửa tối thiểu là 10m.
- Mở van binh ôxy, bình axêtylen và lắp các bộ phận giảm áp trên bình phải có dụng cụ chuyên dùng. Cấm dùng các bộ phận giảm áp không có đồng hồ đo áp lực hoặc đồng hồ không chính xác. Khi sử dụng bình axêtylen và chai ôxy không được để áp suất hơi vượt quá quy định cho phép. Không tháo bỏ các bộ phận điều chỉnh tự động, các van an toàn, đồng hồ đo áp suất. Không sử dụng các thiết bị an toàn đã hỏng hoặc không chính xác. Trước khi hàn hoặc cắt bằng hơi, thợ hàn phải kiểm tra các đầu hơi dẫn khí, mỏ hàn. Khi hàn, nếu mỏ hàn bị tắc phải lấy dây đồng để thông, không dùng dây thép cứng. Khi mồi lửa phải mở van ôxy trước rồi mở van axêtylen sau. Khi ngừng hàn phải đóng van axêtylen trước, van ôxy sau. Cấm sửa chữa các ống dẫn axêtyle cũng như ống dẫn ôxy hoặc xiết các mũ ốc ở bình đang chịu áp lực khi kim áp kế chưa chỉ về số không. 4.2. AN TOÀN LAO ĐỘNG KHI BUỘC HÀNG. Khi vận chuyển hàng hoá phục vụ cho công việc xây dựng, ngoài các yêu cầu chung về an toàn lao động trong vận chuyển còn tuỳ thuộc vào loại phương tiện vận chuyển mà phải thực hiện các quy tắc giao thông trên các tuyến đường. Hàng xếp trên các toa tàu, thùng xe phải được chèn buộc chắc chắn, tránh để rơi đổ, xê dịch trong quá trình vận chuyển. Không được chất hàng quá tải trọng hoặc quá khổ cho phép đối với các phương tiện vận tải. *Khi vận chuyển hàng bằng xe thô sơ, trước khi xếp hàng phải: Kiểm tra các phương tiện dụng cụ vận chuyển như quang treo, đòn gánh và các bộ phận của xe đảm bảo không bị đứt dây, gãy càng… trong quá trình vận chuyển. Chèn bánh và chống đỡ càng xe thật chắc chắn. Xác định đúng sức chịu tải của xe và không được xếp qúa trọng tải của xe. Kiểm tra tuyến đường vận chuyển và nơi bốc dỡ hàng đảm bảo an toàn cho công nhân trong quá trình làm việc.
- Đối với hàng cồng kềnh không được xếp cao quá 1,5m tính từ mặt đường xe đi và phải có dây chằng buộc chắc chắn. Khi chở những loại hàng hoá dài hoặc cồng kềnh như: vì kèo, cột, tấm sàn, tầm tường, đường ống phải có vật kê chèn giữ và chằng buộc chắc chắn. Trước khi cho xe chạy, người lái xe phải kiểm tra hệ thống an toàn của xe và kiểm tra lại hệ thống dây chằng buộc trên xe. 4.3. AN TOÀN LAO ĐỘNG KHI CẨU CHUYỂN. Khi di chuyển ngang cácc tải trọng , phải chý ý sao cho điểm cao nhất của tảI trọng còn cách các vật cố định ( cấu trúc xây dựng, các kết cấu kim loại, dầm, dàn khác ) khoảng cách lớn hơn 0.5m theo chiều cao và không được để vật nặng và tay cần trục đI qua chỗ có người làm việc. Không được dùng búa và xà beng đánh vào dây cáp để láI đỏi hướng của chúng . Không được đứng trên các tải trọng lúc đang nâng hànghoặc hạ và đặt tảI trọng lên các dây đang căng…. Buộc kẹp các palang, tời và dây cáp theo đúng các vị trí do thiếta kế thi công quy định. Không được bôI mỡ, làm sạch và sửa chữa các dụng cụ và thiết bị cẩu chuyển khi có gió mạnh. Không cho phép đặt tảI trọng tạm thời vào các vị trí treo hoặc các vị trí không cứng vững trong lúc nghỉ giảI lao giữa giờ làm việc. Chỉ đước tháo dỡ các đồ buộc sau khi đã kiểm tra việc lắp đặt và kép chặt chúng đầy đủ. Các ống và các cụm ống cẩu khi đến các vị trí lắp đặt chỉ được tháo dỡ dây và đồ buộc khi kẹp chúng trên các ổ tựa hoặc giá treo cố định. Không cho phép dùng các cấu trúc của nhà xưởng , công trình cà thiết bị để treo và kẹp chặt các phương tiện, thiết bị cẩu chuyển. Việc hợp đồng khi nâng và chuyển tảI phảI được thực hiện chặt chẽ và giao cho các đội cẩu chuyển chuyên trách. Các thao tác và các tín hiệu điiêù khiển phảI chuẩn xác toàn diện. 4.4. AN TOÀN LAO ĐỘNG KHI VẬN CHUYỂN XẾP ỐNG.
- Vận chuyển ống từ kho bãI ra công trường công tác này được thực hiện liên tục trong quá trình thi công. Trong trường hợp được phép thi công ban ngày thì cần chuẩn bị sẵn bãI để gần công trường thi công và vận chuyển ống đến. Các ống có đường kính từ 100mm trở lên làm bằng gang dẻo hoặc thép có trọng lượng rất lớn thì vận chuyển đến bằng ô tô rồi cẩu dỡ bằng cầu trục. 4.5. AN TOÀN LAO ĐỘNG KHI ĐÀO MƯƠNG. Những nguyên nhân chủ yếu gây ra tai nạn khi đào hào hố sâu. Vách đất bị sụt lở đè lên người, thường do các nguyên nhân: Hố, hào đào với vách đứng cao quá giới hạn cho phép đối với từng loại đất. Hố, hào đào với vách nghiêng (mái dốc, ta luy) mà góc nghiêng quá lớn, vách đất mất cân bằng ổn định do lực chống trượt (lực ma sát và lực dính của đất) nhỏ hơn lực trượt dẫn tới bị sạt, trượt lở xuống. Cũng có nhiều trường hợp trong quá trình đào hố, hào vách đất vẫn còn ổn định, nhưng qua thời gian đất bị ẩm ướt do mưa hay nước ngầm làm cho lực dính trong đất bị giảm, nên lực chống trượt không thắng nổi lực trượt, vách đất sẽ bị sụt lở. Vách đất còn có thể bị sụt lở do tác động của ngoại lực như: đất đào lên hoặc vật liệu đổ chất đống gần mép hố đào; Hố đào ở gần đường giao thông do lực chấn động của các phương tiện vận chuyển cũng có thể làm cho vách đất bị sụt lở bất ngờ. Khi tháo dỡ kết cấu chống vách không đúng quy định (ở các hố đào có chống vách) làm mất tác dụng chống đỡ hoặc không cẩn thận gây chấn động mạnh làm cho đất bị sụt lở. Người bị sa, ngã xuống hố, hào do: Lên, xuống hố, hào sâu không có thang hoặc không tạo bậc ở vách hố, hào; leo trèo theo kết cấu chống vách; nhảy xuống và đu người lên miệng hố đào. Bị ngã khi đứng làm việc trên mái dốc lớn hoặc mái dốc trơn trượt mà không đeo dây an toàn. Hố, hào ở trên hoặc gần đường qua lại không có cầu, ván bắc qua, hoặc xung quanh không có rào ngăn, ban đêm không có đèn báo hiệu. Đất, đá lăn rơi từ trên bờ xuống dưới do: Đất đào lên đổ sát mép hố, hào.
- Phương tiện vận chuyển qua lại gần hố, hào làm văng, hất đất đá xuống hố. Người bị ngạt hơi độc. Người bị ngạt hơi độc thường gặp khi đào giếng sâu, đường hầm, hố khoan thăm dò, v.v… Hơi khí độc có thể xuất hiện bất ngờ khi đào phải các hang hốc, túi khí có sẵn trong đất, toả ra từ từ rồi tích tụ ở trong hố, nhất là các hố, hào sâu bỏ lâu ngày sau đó lại tiếp tục thi công. Tai nạn do đào phải bom, mìn, đường cáp điện và cac đường ống ngầm. Tai nạn khi khoan, đào đất bằng phương pháp nổ mìn do: Vi phạm quy định an toàn khi nổ mìn như nhồi thuốc, đặt kíp mìn, xử lý mìn câm,… không đúng. Sức ép không khí lên người khi mìn nổ. Đất đá văng bắn vào người trong phạm vi vùng nguy hiểm. Các biện pháp an toàn lao động khi đào hố, hào sâu. Chống vách đất bị sụt lở. Để phòng ngừa vách đất bị sụt lở, khi đào hố, hào sâu có thể phân ra ba trường hợp sau: Đào hố, hào sâu vách đưng không gia cố chống vách. Chỉ được đào với vách đứng ở đất nguyên thổ, có độ ẩm tự nhiên, không có mạch nước ngầm và xa các nguồn chấn động với chiều sâu giới hạn. Theo quy phạm kỹ thuật an toàn trong xây dựng TCVN53081991 thì chiều sâu hố, hào đào vách đứng trong các loại đất được quy định như sau: Không quá 1m đối với đất cát và đất tơi xốp, đất mới đắp. Không quá 1.25m đối với đất pha cát. Không quá 1.50m đối với đất pha sét và đất sét. Không qúa 2.0m đối với đất cứng khi đào phả dùng xà beng hoặc cuốc chim. Trong các trường hợp khác thì hố, hào sâu phải đào với vách dốc, nếu đào với vách đứng thì phải chống vách với suốt chiều cao.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Khoa học quản lý: Nghiên cứu công tác tổ chức bộ máy quản lý tại ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Cẩm Khê
28 p | 499 | 96
-
Tiểu luận: Giải pháp quản lý dự án
8 p | 331 | 95
-
Bài tập lớn môn Quản lý dự án Công nghệ thông tin: Quản lý dự án xây dựng phần mềm quản lý thư viện
47 p | 531 | 78
-
Tiểu luận Quản lý dự án: Xây dựng hệ thống giám sát hành trình xe buýt của Thành phố Đà Nẵng
5 p | 396 | 62
-
Tiểu luận: Phân tích đánh giá mô hình chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án
19 p | 371 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng trong giai đoạn chuẩn bị dự án tại BQL công trình xây dựng phát triển đô thị Hải Phòng
85 p | 138 | 31
-
Khóa luận tốt nghiệp Tài chính - Ngân hàng: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ban Quản lý dự án Quận Hà Đông - Thành phố Hà Nội
94 p | 35 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ: Giải pháp hoàn thiện công tác Quản lý dự án xây dựng công trình giao thông đường bộ tại Ban Quản lý dự án công trình giao thông Long An
111 p | 114 | 19
-
Bài tiểu luận kết thúc học phần: Quản lý dự án đầu tư
22 p | 69 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật: Giải pháp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình tại ban quản lý dự án công trình huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh
118 p | 64 | 16
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý đô thị và công trình: Hoàn thiện công tác quản lý dự án đầu tư xây dựng tại Ban Quản lý dự án quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
18 p | 50 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Hoàn thiện hoạt động kiểm soát chi chi phí quản lý dự án đầu tư qua Kho bạc Nhà nước Đắk Nông
26 p | 43 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh: Ảnh hưởng của năng lực lãnh đạo của nhà quản lý dự án tới thành công dự án đầu tư xây dựng công trình ở Việt Nam
25 p | 36 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý dự án tại Ban Quản lý dự án Đầu tư xây dựng công trình huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang
120 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực viên chức quản lý dự án tại Ban quản lý Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2024-2030
77 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện công tác kiểm soát chi phí tại Ban quản lý Dự án Đầu tư - Xây dựng cấp nước và Vệ sinh nông thôn Kiên Giang
96 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện công tác quản lý dự án mở rộng vùng phủ sóng sử dụng công nghệ 4G tại Trung tâm hạ tầng mạng miền Trung
135 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn