
GVHD: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
NHDEM1K22_NHOM2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THỰC
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ THỰC: PHÂN TÍCH BẢNG
William R. DiPeitro - Daemen College, Amherst, New York, USA
Emmanuel Anoruo -Department of Accounting, Finance and Managerial Economics,Coppin
State University, Baltimore, Maryland, USA
GVHD:PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
Nhóm 2 – Lớp Ngân hàng Đêm 1 – K22
DANH SÁCH NHÓM
1. Nguyễn Hoàng Anh
2. Phạm Quốc Kỳ
3. Đặng Thị Thu Hương
4. Nguyễn Thị Dung
5. Nguyễn Thị Kim Tuyên
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2013

GVHD: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
NHDEM1K22_NHOM2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THỰC
2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TÉ THỰC
PHÂN TÍCH BẢNG
William R. DiPeitro - Daemen College, Amherst, New York, Hoa KỳvàEmmanuel Anoruo,
bộ phận kế toán, phòng tài chính và quản lý kinh tế, đại học Coppin State, Maryland, Hoa Kỳ
TÓM TẮT
Mục đích:Mục đích của bài viết này là để kiểm tra tác động của kích thước của chính phủ và
nợ công vào tăng trưởng kinh tế thực, với một bảng số liệu của 175 quốc gia trên thế giới.
Thiết kế / phương pháp / cách tiếp cận:Paper này sử dụng các tác động cố định và các tác
động ngẫu nhiên để ước lượng bảnghồi quy.
Kết quả:Kết quả cho thấy cả kích thước của chính phủ lẫn mức độ nợ công có tác động tiêu
cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ứng dụng thực tế: Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy các nhà chức trách phải thực hiện các
bước cần thiết cắt giảm chi tiêu chính phủ quá mức và nợ công, nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Ý nghĩa: Sự đóng góp của nghiên cứu này là kỹ thuật ứng dụng những tác động cố định và tác
động ngẫu nhiên để mô hình hóa mô hình hóa các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
thựctương ứng với các kích thước của chính phủ và nợ công, đối với một bảng số liệu của 175
quốc gia trên thế giới.
Từ khóa:Tăng trưởng kinh tế, chính phủ, tài chính công, tăng trưởng kinh tế thực, nợ công,
hiệu ứng cố dịnh, hiệu ứng ngẫu nhiên.
Paper type:Paper dạng nghiên cứu
GIỚI THIỆU
Hiện đã có một xu hướng đi lên trong quy mô của chính phủ trong thế kỷ qua.Thêm vào
đó, trong những năm gần đây, quy mô của các khoản nợ công cũng tăng lên. Nợtrở thành một
mối quan tâm lớn cho các quốc gia trên thế giới và nhiều cuộc tranh luận đã bắt đầu xuất hiện
về sự phù hợp của quy mô chính phủ.

GVHD: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
NHDEM1K22_NHOM2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THỰC
3
Hy Lạp đang trên bờ vực vỡ nợ và có những mối lo ngại về sức mạnh tài chính giống
như của các quốc gia khác. Hoa Kỳ, một trong những chủ nợ lớn nhất thế giới, hiện nay cũng
đang ngập trong nợ nần. Có những mối quan ngại sâu sắc rằngtỷ trọng nợ lớn của chính phủ
Hoa Kỳ hiện tại thậm chí có thể ngăn chặn sự đi lên của kinh tếcác quốc giaphát triển kiểu
Hoa Kỳ,và các chính phủ khác cũng vậy, bắt nguồn từ hiệu ứng của việc theo đuổi chính sách
tài khóa.
Tăng trưởngquy mô chính phủ và các khoản nợ công có thể để lại hậu quả chohoạt
động kinh tế. Trọng tâm chính của bài viết này là để kiểm tra xem có hay không có mối quan
hệ nghịch biến giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô của chính phủ, vàtiếp theo là, có hay
không có mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô nợ côngvà tăng trưởng kinh tế. Hai mối quan
hệ có thể được kết nối với nhau. Nó hiển nhiên có khả năng là mối quan hệ nghịch biến giữa
nợ và tăng trưởng kinh tếcó thể giải thích cho mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô của chính
phủ vàtăng trưởng kinh tế.
Bài viết phân tích trong khuôn khổ lý thuyết dựa trên một số đề xuất và kết quả hợp lý
mà chúnghàm ý. Đầu tiên, nó đề xuất rằng cómột mối quan hệ U ngược (hoặc V ngược) (quan
hệ Armey) giữa quy mô của chính phủ và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, nó cho rằng sự tăng trưởng đáng kể trong quy mô của chính phủ trong thế kỷ
qua và trong những thập kỷ gần đây đã đẩy quy mô của các chính phủ của hầu hết các nước
vượt qua giá trị tối ưu cho sự phát triển kinh tế.
Giả sử giá trị của hai mệnh đề đầu tiên, bài nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, hiện tại,
có một mối quan hệ nghịch biến giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô của chính phủ. Vì lý do
tương tự, giả thuyết rằng có một mối quan hệ nghịch biến giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô
của các khoản nợ công. Cũng như trong trường hợp của quy mô của chính phủ, mặc dù toàn
bộ sự tăng trưởng kinh tế và quy mô của nợ công được nhận thấy có một mối quan hệ hình U
ngược (hoặc V ngược), sự tích lũy lớn của nợ công, đã đặt các quốc gia vượt quá mức độ nợ
tối ưu của họ. Vì lý do tương tự,tại thời điểm hiện tại một mối quan hệ nghịch biến có thể tồn
tại giữa các loại thuế và tăng trưởng kinh tế. Đường cong Laffer hiển nhiên đúng là một hình
U ngược (hoặc V ngược) mối quan hệ giữa quy mô của các loại thuế và tăng trưởng kinh tế,

GVHD: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
NHDEM1K22_NHOM2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THỰC
4
nhưng Laffer cũng cho rằng thuế vượt quá mức tối ưu của họ. Kết quả là, một lần nữa, có tồn
tại một mối quan hệ nghịch biến giữa tăng trưởng kinh tế và lượng thuế khóa.
Việc vượt ra ngoài quy mô chính phủ tối ưu và vượt ra ngoài nợ công tối ưu có thể sẽ
liên quan đến nhau. Hai trong những nguồn tài chính chính của chính phủ, bên cạnh trực tiếp
in tiền, là thuế và phát hành nợ (tức là trái phiếu). Để có nhiều hơn, chính phủ cần nguồn tài
chính của riêng chính phủ. Nếu một trong hai nhân tố thuế hoặc nợ vượt quá mức tăng trưởng
tối ưu của chúng, thì chúng trở thànhnhững lý do tiềm năng cho mối quan hệ nghịch biến giữa
tăng trưởng kinh tế và quy mô của chính phủ. Khi thuế vượt quá mức tối ưu của nó,thì việc
tăng trưởng quy mô của chính phủ thông qua thuế làm giảm động cơ làm việc, hoạt động sản
xuất, và sáng tạo, dẫn đến tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Khi nợ vượt quá giá trị tối ưu của nó,
sự tăng trưởng quy mô của chính phủ thông qua các khoản vay gây ra giảm tăng trưởng kinh tế
bởi hiệu ứng lấn át đầu tư.
Nhìn chung, các chức năng tích cực của chính phủ liên quan đến tăng trưởng kinh tế,
chẳng hạn như việc cung cấp hàng hóa công, cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết, bảo vệ tài sản
và các quy định của pháp luật, bị lấn át bởi các nhân tố tiêu cực, một trong số đó là việc quy
mô chính phủ vượt quá một ngưỡng nhất định. Một số các yếu tố tăng trưởng tiêu cực tiềm
tàng nữa bao gồm - chi phí cơ hội cao hơn của việc phân bổ lại các nguồn lực từ khu vực tư
nhân cho chính phủ khi nó bắt đầu để hấp thụ các nguồn lực từ dự án đầu tư với lợi nhuận cao
hơn và cao hơn, gây thiệt hại đến sự sáng tạo và đổi mới do phụ thuộc nhiều hơn vào chính
phủ và thói quen ăn sâu hơn của sự phụ thuộc, kém hiệu quả hơn từ các biến dạng chính sách,
giảm năng suất của vốn, tăng sự bóc lột thông qua các hoạt động tập thể, và sự không cần thiết
và không hiệu quả của việc gia tăng bộ máy quan liêu.
Bài viết này được tổ chức thành năm phần. Phần đầu tiên nêu bật một số tài liệu hiện đã
có phân tích vềmốiquan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô của chính phủ. Phần thứ hai
trình bày một mô hình lý thuyết chính thức. Phần thứ ba thảo luận về các nguồn dữ liệu của
các biến khác nhau có trong bảng dữ liệu. Phần thứ tư cho kết quả ước tính từ hồi quy bảng dữ
liệu sự tăng trưởng của nền kinh tế thực trên quy mô của các chính phủ và trên quy mô của nợ
công, và phần thứ năm, cuối cùng, là kết luận.
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

GVHD: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
NHDEM1K22_NHOM2
QUY MÔ CHÍNH PHỦ, NỢ CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THỰC
5
Một vài điểm tóm tắt trong phần này là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô
của chính phủ.Tài liệu nghiên cứu lý thuyết tổng quát về tăng trưởng quy mô của chính phủ
có thể được tìm thấy trong các bài viết phần phụ lục của Chobanov và (2009) Mladenova .
Tại Mỹ, Vedder và Gallaway (1998) tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ (hình chữ U
Armey) nghich biến giữa tăng trưởng kinh tế và quy mô của chính phủ.Họ sử dụng ma trận dữ
liệu quy mô của chính phủ của Mỹ và xem quy mô của chính phủ như là các biến độc lập.Theo
dự báo trên cơ sở của đường cong phi tuyến tính Armey, họ tìm thấy những hệ số hồi quy cho
thấy quy mô của chính phủ biến là tích cực và có ý nghĩa, và các hệ số của biến quy mô chính
phủ bình phươngcho thấy sự ảnh hưởng tiêu cực và đáng kể.
Ghali (1998) sử dụng dữ liệu quý từ quý I năm 1970 đến quý III năm 1994 cho mười
nước OECD để kiểm tra các mối quan hệ nhân quả giữa quy mô của chính phủ và tăng trưởng
kinh tế. Ông thấy rằng quy mô chính phủ Granger- là nguyên nhân tăng trưởng kinh tế. Ông
cũng phát hiện ra rằng quy mô của chính phủ có tác động gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế
thông qua đầu tư và thương mại quốc tế.
Pevcin (2004) sử dụng dữ liệu của 12 quốc gia châu Âu trong giai đoạn 1950-1996 xem
xét các mối quan hệ giữa quy mô của chính phủ và tăng trưởng kinh tế. Pevcin đã chạyhồi quy
bảng trả lời cho tất cả 12 quốc gia, và chạy một số lần hồi quy riêng biệt của 8 quốc gia trong
số 12 quốc gia. Tương tự như các nghiên cứu khác, ông sử dụng quy mô của chính phủ và bình
phương của nólàm các đối số trong mô hình hồi quy tăng trưởng của ông. Kết quả thu được từ
bảng trả lời phỏng vấn và hồi quy của ứng cử viên trong và ngoài chính phủ của từng quốc gia
riêng biệt. Kết quả từ các phương trình của từng quốc gia cho thấy quy mô của chính phủ thực
tế lớn hơn nhiều so với quy mô chính phủ tối ưu củabảy trong số tám quốc gia trong mẫu.
Mặc dù, nói chung, đã có sự gia tăng quy mô trung bình của chính phủ trong thế kỷ
XX, và cho đến thời điểm hiện tại, một số nền kinh tế chuyển tiếp đại diện cho một nhóm duy
nhất của các nước thuộc một nhóm đặc biệt của trường hợp trong đó có sự đi xuống củaquy
mô chính phủ. Gupta và tài liệu của công ty (Gupta và cộng sự, 2003.) đã cho thấy xu hướng
và thay đổi quy mô của chính phủ đối với các nền kinh tế chuyển đổi. Tài liệu này cho rằng sự
suy giảm quy mô của chính phủ trong các nền kinh tế chuyển đổi không phải là do chính sách