
Lời mở đầu
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra không ít
những bước nhảy vọt về mọi mặt, đã đưa nhân loại tiến xa hơn nữa. Từ khi
chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, các ngành như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu,
lương thực, thực phẩm sang các nước,… Đằng sau những thành tựu chúng ta đã
đạt được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm
như: Tệ nạn xã hội, lạm phát, thất nghiệp, …Nhưng có lễ vấn đề được quan tâm
hàng đầu ở đây là thất nghiệp.
Thất nghiệp,đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù
nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp, đó là
vấn đề không tránh khỏi, chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao mà
thôi. Cũng như nhiều nơi trên thế giới, tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam đã trở
thành sự kiện thời sự với những tin tức xuất hiện hầu như hàng ngày trên các
phương tiện truyền thông về một doanh nghiệp nào đó, một khu công nghiệp nào
đó đã và đang định sa thải bao nhiêu công nhân. Kèm theo đó, những phóng sự,
những bài viết về thực trạng cuộc sống bi đát của những công nhân ngoại tỉnh
mất việc càng làm u ám thêm vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam trong cơn khủng
hoảng.
I. Cơ sở Lý Luận
1) Định nghĩa:
1.1 ) Lực lượng lao động Là số người trong độ tuổi lao động đang có việc hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm.
1.2 ) Thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm
được việc làm.
1.3 ) Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên
tổng số lực lượng lao động xã hội.
2) Phân loại thất nghiệp
2.1) Theo hình thức thất nghiệp
- Thất nghiệp theo giới tính.
- Thất nghiệp theo lứa tuổi
- Thất nghiệp theo ngành nghề.
- Thất nghiệp theo vùng.
-Thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc.