intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thất nghiệp

Chia sẻ: Em Vu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:8

435
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra không ít những bước nhảy vọt về mọi mặt, đã đưa nhân loại tiến xa hơn nữa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, các ngành như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu, lương thực, thực phẩm sang các nước,… Đằng sau những thành tựu chúng ta đã đạt được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm như: Tệ nạn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thất nghiệp

  1. Lời mở đầu Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra không ít  những bước nhảy vọt về mọi mặt, đã đưa nhân loại tiến xa hơn nữa. Từ khi  chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu  phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, các ngành như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu,  lương thực, thực phẩm sang các nước,… Đằng sau những thành tựu chúng ta đã  đạt được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm  như: Tệ nạn xã hội, lạm phát, thất nghiệp, …Nhưng có lễ vấn đề được quan tâm  hàng đầu ở đây là thất nghiệp. Thất nghiệp,đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù  nền kinh tế có phát triển đến đâu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp, đó là  vấn đề không tránh khỏi, chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao mà  thôi. Cũng như nhiều nơi trên thế giới, tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam đã trở  thành sự kiện thời sự với những tin tức xuất hiện hầu như hàng ngày trên các  phương tiện truyền thông về một doanh nghiệp nào đó, một khu công nghiệp nào  đó đã và đang định sa thải bao nhiêu công nhân. Kèm theo đó, những phóng sự,  những bài viết về thực trạng cuộc sống bi đát của những công nhân ngoại tỉnh  mất việc càng làm u ám thêm vấn đề thất nghiệp ở Việt Nam trong cơn khủng  hoảng.  I. Cơ sở Lý Luận 1) Định nghĩa: 1.1 ) Lực lượng lao động Là số người trong độ tuổi lao động đang có việc hoặc  chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. 1.2 ) Thất nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm  được việc làm. 1.3 ) Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên  tổng số lực lượng lao động xã hội. 2) Phân loại thất nghiệp 2.1) Theo hình thức thất nghiệp ­ Thất nghiệp theo giới tính. ­ Thất nghiệp theo lứa tuổi ­ Thất nghiệp theo ngành nghề. ­ Thất nghiệp theo vùng. ­Thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc.
  2. 2.2) Theo lý do thất nghiệp: ­ Bỏ việc: Tự ý bỏ việc vì những lí do khác nhau. ­ Mất việc: Do các hãng cho thôi việc vì những khó khăn trong kinh doanh. ­ Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc  làm. ­ Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm  việc nhưng chưa tìm được viêc làm. 2.3) Theo nguồn gốc thất nghiệp: ­ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian  tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp hơn với mình. ­ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động. ­Thất nghiệp do thiếu cầu: Xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. ­Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Xảy ra do các yếu tố xã hội, chính trị gây  ra. 2.4) Ngoài ra còn có một cách phân loại mới: ­Thất nghiệp tự nguyện: Chỉ những người không muốn làm việc do việc làm hoặc  mức lương chưa phù hợp với bản thân họ. ­Thất nghiệp không tự nguyện: Chỉ những người mong muốn làm việc và tích cực  tìm kiếm việc làm nhưng không có việc. II. Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam 1) Các hình thức thất nghiệp ở Việt Nam Ở Việt Nam, thất nghiệp cũng bao gồm các loại hình nêu trên. Tuy nhiên do đặc  điểm kinh tế – chính trị ­ xã hội và dân số mà các nguyên nhân thất nghiệp cũng  như phạm vi và đối tượng thất nghiệp có sự khác nhau cả về mức độ, quy mô và  thời gian thất nghiệp.  Như chúng ta đã biết Việt nam là nước có tỷ lệ dân số tăng khá nhanh trong khu  vực cũng như trên thế giới,đứng thứ nhất trong khu vực và đứng thứ 5 trên thế giới  về tỷ lệ sinh đẻ.Theo số liệu mới nhất thì dân số Việt Nam năm 2001 lên tới con  số gần 80 triệu người dự báo trong vài năm tới dân số Việt Nam có thể lên tới con  số 100 triệu người. Dân số ngày càng tăng trong khi đó diện tích đất nông nghiệp  ngày càng giảm đi, như vậy thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ ngày càng cao hơn. Năm  2001 chúng ta có tới 6,28% dân số không có công ăn việc làm (hơn 20 nghìn 
  3. người) đây là một con số khá cao. Tuy nhà nước ta cũng đã có những biện pháp  đối với việc kế hoạch hoá gia đình như giảm tỷ lệ sinh đẻ, thực hiện kế hoạch hoá  gia ñình mỗi cặp vợ chồng chỉ có từ 1 ­ 2 con, giảm tỷ lệ kết hôn ở tuổi còn quá  trẻ, nhưng do chưa nhận thức được vấn đề cấp bách ở đây nên tỷ lệ sinh còn khá  cao. Hơn nữa do phong tục tập quán, chế độ phong kiến vẫn còn, nhất thiết phải  có con trai nối dõi, có nếp, có lẻ đã dẫn tới việc gia tăng dân số tới chóng mặt.  Dân số tăng nhanh dẫn tới tình trạng như sự quan tâm, cũng như giáo dục con  cái của các gia đình giảm hẳn. Các điều kiện về ăn uống, sinh hoạt không được  tốt đặc biệt là các vùng ở nông thôn, miền núi vấn đề này cần có sự quan tâm  của chính phủ hơn nữa. Nó dẫn tới tình trạng trẻ em không được tới trường ­­>  làm tăng tỷ lệ mù chữ lên cao,dẫn tới thất nghiệp cao .  Do việc quản lý thị trường lao động ở nước ta còn chưa được chặt chẽ, đến nay  cũng chưa có một hệ thống đăng ký việc làm cho từng người lao động từ cấp  trung ương đến xã phường, cho nên số lượng cụ thể về người thất nghiệp ở từng  thời kỳ, từng địa bàn cũng chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, việc phân tích thị  trường lao động, việc thực hiện các biện pháp của chính sách việc làm và chính  sách thị trường lao động cũng như đánh giá hiệu quả của nó chưa được chính  xác. Đến nay, có một điều dễ nhận thấy là, với tác động của khủng hoảng tài  chính toàn cầu, Việt Nam cũng không tránh khỏi tình trạng này. Theo báo cáo  gần đây nhất của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, con số lao động bị mất  công ăn việc làm tại các thành phố trong cả nước trong năm 2009 sẽ lên đến 400  ngàn người, tăng gấp năm lần so với năm 2008. Một báo cáo khác của Hiệp hội làng nghề truyền thống cũng cho biết 50% số lao  động thủ công 11 triệu người tại hơn 3.000 làng nghề có thể không còn việc làm,  do sự sút giảm thị trường tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của họ trên thế  giới. Tỷ lệ thất nghiệp trên toàn nền kinh tế nước ta được công bố chính thức hiện  nay là 4,65%, nhưng theo nhận xét của một số nhà phân tích, con số này có thể  sẽ lên đến 5,4% trong năm 2009, trong đó riêng thất nghiệp tại nông thôn là  6,1%. Thật ra, nếu so sánh với một số nước cùng chịu tác động của khủng hoảng, tỷ lệ  này không cao. Trong ASEAN, nước ta hiện có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn  Indonesia, Philippines và Myanmar. Tại Mỹ, từ khi khủng hoảng tài chính bắt đầu  cho đến nay, số người mất công ăn việc làm lên đến 6 triệu người, nâng tổng số  người thất nghiệp tại Mỹ lên 13,7 triệu người, chiếm tỷ lệ 8,9% lực lượng lao động.  Tỷ lệ thất nghiệp tại Trung Quốc cũng ước tính lên đến 9% trong năm 2009. Một dạng thất nghiệp phổ biến và còn kéo dài trong suốt quá trình công nghiệp 
  4. hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng như ở các nước đang phát triển khác và đặc  biệt với một nước có cơ cấu dân số trẻ hoá như ở Việt Nam là tình trạng thất  nghiệp sức lao động phụ thuộc với quy mô lớn (ở đây cũng cần giải thích thêm:  người lao động phụ thuộc là người không có tư liệu sản xuất, phải ñi làm thuê,  làm công ­ thông qua các quan hệ lao động giữa chủ sử dụng lao với người lao  động ­ để hưởng tiền lương, tiền công). Điều đó có nghĩa là chúng ta luôn thiếu  chỗ làm việc hay tổng cung lao động luôn vượt cao so với tổng cầu. Nói cách  khác, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tốc độ tăng chỗ làm việc mới luôn thấp  hơn tốc độ tăng dân số bước vào tuổi lao động và có nhu cầu lao động. Sự tồn  tích của một bộ phân lao động trẻ, kể cả đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn  hoặc chưa qua đào tạo, đang thất nghiệp, từ năm này qua năm khác là một thách  thức cần giải quyết kể cả trước mắt cũng như lâu dài. Cũng chịu ảnh hưởng của  sự thiếu hụt nghiêm trọng giữa tổng cung và cầu trên thị trường lao động còn phải  kể đến một tình trạng thất nghiệp phổ biến là thất nghiệp tìm kiếm vì thực tế thời  gian để tìm lại được một chỗ làm việc mới không phải là ngắn mà có thể kéo dài  hàng năm hoặc lâu hơn.  Nước ta có khoảng 70% dân cư và lao ñộng sống ở nông thôn, hoạt ñộng trong  lĩnh vực nông nghiệp nên nạn thất nghiệp thời vụ lại trở thành phổ biến, rất nhiều  nông dân vẫn phải gắn bó với nông nghiệp, gắn bó với đất đai để tồn tại với mức  thu nhập và năng suất lao động thấp. Đồng thời, ngay ở nông thôn cũng diễn tình  trạng thất nghiệp thời vụ. Khi vào vụ gieo trồng hoặc thu hoạch, người nông dân  tập trung làm việc khoảng 4 – 5 tháng trong năm. Thời gian còn lại họ kéo nhau  lên thành phố tìm kiếm việc làm tạm thời hoặc đi làm ăn xa. Mặt khác, theo tập  quán của người Việt Nam, trong nhiều gia đình, con em của họ vẫn phải sống  cùng bố mẹ, nhận sự trợ giúp từ gia đình hoặc tham gia phụ giúp việc cho bố  mẹ… thì đây cũng là nhóm đối tượng thất nghiệp thời vụ.  Trong những năm vừa qua, cùng với nhịp độ tăng trưởng cao của nền kinh tế  quốc dân, sự thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư từ nước ngoài, sự hình thành  các khu công nghiệp mới với công nghệ hiện đại, chúng ta mới đề cập nhiều đến  loại hình thất nghiệp cơ cấu, nhất là nhu cầu lao động qua đào tạo, có trình độ  chuyên môn, trình độ tay nghề hay trình độ quản lý cao.  Tình trạng “thất nghiệp thừa” hay “thất nghiệp tồn đọng” chính là những đối tượng  thuộc diện “dư thừa” do chuyển đổi cơ chế kinh tế từ các doanh nghiệp nhà nước  sang các công ty cổ phần. Một điều khác cũng đáng quan tâm là chúng ta đang  đẩy mạnh xuất khẩu lao động, điều này mang lại hiệu quả trước mắt là giảm bớt  sức căng trên thị trường lao động trong nước. Nhưng về lâu dài cũng cần tính ñến 
  5. khả năng khi người lao động hết thời hạn trở về và tìm việc làm trong nước, nếu  không sẽ ñẩy họ vào tình trạng thất nghiệp xuất khẩu, và tình trạng này sẽ càng  nghiêm trọng hơn khi nền kinh tế nước ta vẫn nghiêng về nhập siêu. 2) Các nguyên nhân gây thất nghiệp: Có 3 nguyên nhân gây thất nghiệp  2.1) Do chu kỳ sản xuất kinh doanh thay đổi: Theo chu kỳ phát triển kinh tế, sau  hưng thịnh ñến suy thoái khủng hoảng. Ở thời kỳ được mở rộng, nguồn nhân lực  xã hội ñược huy động vào sản xuất, nhu cầu về sức lao động tăng nhanh nên thu  hút nhiều lao động. Ngược lại thời kỳ suy thoái sản xuất đình trệ ,cầu lao động  giảm không những không tuyển thêm lao động mà còn một số lao động bị dôi dư  gây nên tình trạng thất nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế nếu năng  lực sản xuất xã hội giảm 1% so với khả năng ,thất nghiệp sẽ tăng lên 2%.  2.2) Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật: đặc biệt quá trình tự dộng hóa trong  quá trình sản xuất. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, tự động hóa quá trình sản  xuất sẽ tiết kiệm được chi phí, năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm  tốt hơn, giá thành lại rẻ làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Chính vì  thế, các nhà sản xuất luôn tìm cách đổi mới công nghệ, sử dụng những dây  truyền tự động vào sản xuất, máy móc được sử dụng nhiều, lao động sẽ dôi dư.  Số lao động này sẽ bổ sung vào đội quân thất nghiệp.  2.3) Sự gia tăng dân số và nguồn lực là áp lực đối với việc giải quyết việc làm.  điều này thường xảy ra đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc đang  phát triển. Ở đây, nguồn lực dồi dào nhưng do kinh tế hạn chế nên không có điều  kiện đào tạo và sử dụng hết nguồn lao động hiện có. 2.4) Ở Việt Nam hiện nay, thứ nhất là do căn bệnh chủ quan của một số cơ quan  hữu quan, kể cả một số chuyên gia kinh tế độc lập, nên cuộc khủng hoảng tài  chính của thế giới ban đầu được cho là không mấy ảnh hưởng đến Việt Nam.  Chúng ta vẫn còn hưng phấn với viễn cảnh tăng trưởng trong năm nay và những  năm sau và rất tự tin vào khả năng của mình theo kiểu “đường ta ta cứ đi”, thể  hiện qua việc “phấn đấu hoàn thành” chỉ tiêu tăng trưởng rất cao cho 2008 và  tiếp tục đặt ra mục tiêu cao cho năm 2009. Dĩ nhiên, sự chủ quan này đã khiến  chúng ta không kịp ứng phó với những biến động xấu đi hàng ngày của cuộc  khủng hoảng.  Thứ hai, năng lực thống kê và nắm bắt tình hình của các cơ quan hữu trách còn  yếu. Cho đến tận bây giờ, dường như vẫn chưa có một cuộc thống kê đầy đủ và  tổng quát cho biết đã có bao nhiêu người thất nghiệp hoàn toàn và bán thất  nghiệp trong thời gian qua, chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong lực lượng lao động, đã có 
  6. bao nhiêu việc làm mới được tạo ra, địa phương nào, ngành nào bị ảnh hưởng  nặng nhất v.v…  Cái mà đại chúng được biết thường là những số liệu về số công nhân mất việc  mang tính cục bộ ở một doanh nghiệp cụ thể, một khu vực cụ thể tại một thời  điểm cụ thể. Tình trạng này đẩy chúng ta vào thế “thầy bói xem voi”, không đánh  giá được tổng quan về tình hình để từ đó có những giái pháp đối phó hợp lý và  kịp thời.  Cũng bởi lý do này mà người dân hoài nghi về mức độ trầm trọng của nạn thất  nghiệp ở Việt Nam cảm nhận được qua các tin tức và báo cáo trên các phương  tiện truyền thông.  Tốc độ tăng trưởng tụt từ mức trên 8% xuống còn 5%­6% trong năm nay tất yếu  sẽ làm tăng con số thất nghiệp. Nhưng lưu ý rằng tốc độ tăng trưởng như vậy  trong năm 2009 vẫn là một tốc độ tăng trưởng tương đối cao đáng mơ ước với  nhiều nền kinh tế trên thế giới, và bản thân nó cho thấy tình trạng thất nghiệp  trên thực tế có lẽ không đến mức trầm trọng và bi quan như những gì ta đang  cảm nhận.  Hơn nữa, sự thiếu vắng những số liệu thống kê và các nghiên cứu tổng quát cũng  không cho phép ta đánh giá được đầy đủ tác động của sự suy giảm tăng trưởng  lên tình trạng thất nghiệp. Suy giảm tăng trưởng đôi lúc không hoàn toàn tỷ lệ  nghịch với gia tăng thất nghiệp theo kiểu tăng trưởng giảm đi 1% thì thất nghiệp  sẽ tăng lên x%. Bởi vậy, nếu như suy giảm tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế  Việt Nam chủ yếu là do suy giảm ở một số ngành thâm dụng vốn và sử dụng ít  lao động thì tác động tiêu cực của nó lên công ăn việc làm cũng sẽ là nhỏ một  cách tương đối.  Cũng cần lưu ý thêm rằng kể cả trước cuộc khủng hoảng, tình trạng thất nghiệp  và bán thất nghiệp đã không phải là nhỏ, đặc biệt trong tầng lớp thanh niên mới  bước vào lực lượng lao động. Dẫu vậy, thực tế vẫn là nạn thất nghiệp đang có xu  hướng gia tăng, dù ít hay nhiều một cách tương đối. III. Giải pháp giải quyết thất nghiệp Đứng trước thực trạng về vấn đề thất nghiệp của nước ta hiện nay . Nhà  nứơc ta cần có những biện pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đến mức tối đa  để đưa đất nước ta phát triển hơn nữa.Đó mới là vấn đề cần quan tâm hiện nay  Tăng nguồnvốn đầu tư(chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia,vay nước ngoài) đẩy nhanh  tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng,làm thuỷ lợi,thuỷ điện,giao thông ...nhằm tạo việc  làm mới cho lao động mất việc làm ở khu vực sản xuất kinh doanh,nới lỏng các 
  7. chính sách tài chính,cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của  nước ngoài tạo việc làm mới cho người lao động.Bên cạnh đó chúng ta phải  khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp vay  vốn để mua sắm trang thiết bị sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất .  Tại hội nghị trung ương 4 của Đảng (khoá 8) đã nhấn mạnh chủ trương  phát huy nội lực ­ khai thác nguồn vốn trong nước,đầu tư duy trì phát triển sản  suất kinh doanh,đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế,tranh thủ vốn đầu tư của  nước ngoài.Với hai mục tiêu đó là hát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm và  các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho các đối tượng yếu thế  trong thị trường lao động.Chính nhờ có sự cho vay vốn cuả nhà nước mà quỹ  quốc gia việc làm cho vay được 13600 dự án thu về được 480tỷ tạo việc làm  268000 lao động .  Sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả của hệ thống dịch vụ việc làm  Xã hội hoá và nâng cao chất lượng đào tạo hệ thống đào tạo dạy nghề  Xem xét điều chỉnh tiền lương tối thiểu,đảm bảo tính cân đối giữa khu vực có đầu  tư nước ngoài và trong nước nhằm mục đích mở rộng thu hút lao động xã hội  Ngày nay khi mà nhà nước ta ngày càng mở rộng quan hệ với các đối tác  kinh doanh trên thế giới, mở cửa thị trường trong nước nhằm thu hút vốn đầu tư  của nước ngoài,đã có rất nhiều công ty liên doanh hợp tác phát triển kinh tế trên  mọi lĩnh vực đã giải quyết được một tỷ lệ thất nghiệp rất lớn. Hơn nữa với cơ chế  như hiện nay,cũng như chính sách quản lý của nhà nước ta thì việc xuất khẩu lao  động ra các nước ngoài đã có chiều hướng tăng rất nhanh trong một vài năm gần  đây.Một số nước như là Hàn quốc, Đài loan Nhật bản tuy giờ giấc có khắt khe  hơn chúng ta song về cơ bản thì thu nhập cũng đã phần nào phù hợp,do đó xuất  khẩu lao động đã phần nào tăng mạnh trong vài năm gần đây  Các giải pháp về cơ chế quản lý và thiết chế xã hội  Xúc tiến xây dựng việc làm và chống thất nghiệp  Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động quốc gia  Thành lập hệ thống hội đồng tư vấn việc làm từ trung ương đến dịa phương các  cấp với đại diện của cả người sử dụng lao động,công đoàn và nhà nước  Vì ý nghĩa kinh tế chính trị xã hội của vấn đề 3 đối tượng cần đặc biệt  quan tâm là:thất nghiệp dài hạn (>1 năm) thất nghiệp trong thanh niên,ở những  người tìm việc lần đầu (tuổi15 ­> 24) và thất nghiệp của thương ,bệnh binh, người  tàn tật .  Nhà nước ta có thể cho vay vốn đối với các doanh nghiệp có nguy cơ  không phát triển được nữa,khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản 
  8. xuất.Đặc biệt nhà nước ta cần chú trọng hơn nữa việc phát triển một số ngành  nghề truyền thống ở nông thôn như là nghề thêu dệt .... Hoặc đầu tư vốn để xây  dựng các cơ sở chế biến các mặt hàng nông thuỷ sản .. . Bởi vì ở nông thôn hiện  nay lao động thì dư thừa trong khi đó việc làm thì thiếu , hàng năm số lượng  người từ nông thôn ra thành phố tìm kiếm việc làm quả là một con số khá lớn,tuy  nhiên mức thu nhập của họ cũng không có gì khả quan cho lắm.Vậy tại sao  chúng ta không tạo ra những việc làm dựa vào những tài nguyên sẵn có,cũng  như một nguồn lao động dồi dào sẵn có như vậy ?  Lời kết Trong bối cảnh tình hình kinh tế cũng như chính trị việt nam hiện nay thì  chúng ta có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm.Song có lẽ vấn đề nóng bỏng  nhất hiện nay không chỉ có Việt nam chúng ta quan tâm , mà nó được cả thế giới  quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp.Với khả năng nhận thức cũng như hạn chế  của  bài viết chính vì thế mà bài viết này không phân tích kỹ từng vấn đề cụ thể .  Như vậy từ những phân tích ở trên,cũng như tình hình thực tế hiện  nay ở Việt Nam ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước  đối với các chính sách như ngày nay.Có được điều đó là phụ thuộc vào mỗi con  người chúng ta,những chủ nhân tương lai của đất nước. Đất nước ta đang trông  chờ vao thế hệ trẻ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế trong tương lai, là một sinh  viên khoa Quản trị Nhân sự tôi nhận thức được điều này. Phải luôn trau rồi kiến  thức, tận dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp với sự tiến triển của  nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, một thế giới mới, thế giới của sự  văn minh, giàu có và công bằng.   ♥ Nothing Is Forever ♥
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2