
Tiểu luận Luật
Tiểu luận
Tranh chấp lao động -cách giải
quyết tranh chấp lao động

Tiểu luận Luật
LỜIMỞĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, khi mà nền kinh tế của các quốc gia ngày một
phát triển cùng với sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế – xã hội vì vậy trong
quá trình sử dụng lao động đã xẩy ra nhiều bất đồng về quyền và lợi ích , dẫn
đến tranh chấp giữa người lao động , tập thể lao động với người sử dụng lao
động . Chếđịnh giải quyết tranh chấp lao động là công cụ pháp lýđể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động , góp
phần duy trì , ổn định quan hệ lao động , nâng cao hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Thực tế cho thấy, Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người
nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội . Lao động là
nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Pháp luật lao động quy định
quyền , nghĩa vụ của người lao động và của người sử dụng lao động , các tiêu
chuẩn lao động , các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động , góp phần thúc
đẩy sản xuất , vì vậy lao động có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và trong
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia .
Do đó , tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động là một vấn
đề hết sức quan trọng , luôn được đặt ra đối với hầu hết các nước trên thế giới.
Và mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về tranh chấp lao động em đã chọn đề tài:
“Tranh chấp lao động -cách giải quyết tranh chấp lao động...”
Do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế cũng như những kinh
nghiệm thực tế còn ít nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót nhất
định . Qua đây em rất mong nhận được sự góp ý , chỉ bảo của thầy cô giáo để
bài viết của em dược hoàn thiện hơn .
Em xin chân thành cảm ơn !

Tiểu luận Luật
NỘIDUNG
I .LÝLUẬNCHUNGVỀ TRANHCHẤPLAOĐỘNG :
1. Khái niệm tranh chấp lao động :
Trong nền kinh tế thị trường , quan hệ lao động được thiết lập qua hình
thức hợp đồng lao động theo nguyên tắc tự do , tự nguyện , bình đẳng giữa
người lao động và người sử dụng lao động . Thực chất , đây là quan hệ hợp tác
cùng có lợi , trên cơ sở hiểu biết và quan tâm lẫn nhau để cùng đạt được lợi ích
mà mỗi bên đãđặt ra . Song , chính do mục tiêu đạt được lợi ích tối đa làđộng
lực trực tiếp của cả hai bên , mà giữa họ có thể dung hoàđược quyền lợi trong
suốt quá trình thực hiện quan hệ lao động . Người lao động thường có nhu cầu
tăng lương, giảm thời gian lao động vàđược làm việc trong điều kiện ngày càng
tốt hơn… ngược lại người sử dụng lao động lại luôn có xu hướng tăng cường độ
, thời gian làm việc , giảm chi phí nhân công…nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn
. Những vectơ lợi ích ngược chiều này sẽ trở thành những bất đồng , do đó sự
phát sinh tranh chấp lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động
làđiều khó tránh khỏi .
Tuy giải quyết tranh chấp lao động đãđược quy định trong pháp luật của
hầu hết các nước trên thế giới , nhưng tuỳ theo đặc điểm kinh tế , chính trị , xã
hội của từng nước mà khái niệm tranh chấp lao động được hiểu khác nhau .
Theo Bộ luật lao động ( 1994 ) :
“ Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan
đến việc làm , tiền lương , thu nhập và các điều kiện lao động khác , về thực
hiện hợp đồng lao động , thoảước tập thể và trong quá trình học nghề"
2 . Đặc điểm của tranh chấp lao động :
Tranh chấp lao động phát sinh tồn tại gắn liền với quan hệ lao động . Mối
quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản : Các bên tranh chấp bao giờ cũng là chủ
thể của quan hệ lao động vàđối tượng tranh chấp chính là nội dung của quan hệ
lao động đó . Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động , có nhiều lý do để các
bên không thực hiện đúng vàđầy đủ các quyền và nghĩa vụđãđược thống nhất
ban đầu . Ví dụ , một trong hai bên chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình ,
hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng , thoảước đã thay đổi làm cho những quyền
và nghĩa vụđã xác định không còn phù hợp , hoặc cũng có thể do trình độ xây

Tiểu luận Luật
dựng hợp đồng và sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế dẫn đến các bên không
hiểu đúng các qui định của pháp luật , các thoả thuận trong hợp đồng …
Tranh chấp lao động không chỉ là những tranh chấp về quyền , nghĩa vụ
mà còn bao gồm cả những tranh chấp về quyền và lợi của các bên trong quan hệ
lao động . Thực tế , hầu hết các tranh chấp khác ( như tranh chấp dân sự )
thường xuất phát từ sự vi phạm pháp luật , vi phạm hợp đồng hoặc do không
hiểu đúng quyền và nghĩa vụđãđược xác lập mà dẫn đến tranh chấp . Riêng tranh
chấp lao động có thể phát sinh trong trường hợp không có vi phạm pháp luật .
Đặc điểm này bị chi phối bởi bản chất quan hệ lao động và cơ chếđiều chỉnh của
pháp luật . Trong nền kinh tế thị trường các bên của quan hệ lao động được tự
do thương lượng , thoả thuận hợp đồng , thoảước phù hợp với quy luật của pháp
luật cũng như khả năng đáp ứng của mỗi bên . Quá trình thoả thuận thương
lượng đó không phải bao giờ cũng đạt kết quả . Ngay cả khi đạt kết quả thì
những nội dung đã thoả thuận được cũng có thể trở thành không phù hợp do các
yếu tố mới phát sinh tại thời điểm tranh chấp
Tính chất và mức độ của tranh chấp lao động luôn phụ thuộc vào quy mô
và số lượng tham gia của một bên tranh chấp là người lao động.
Sựảnh hưởng của nóđến hoạt động sản xuất kinh doanh chỉở mức độ hạn
chế nên thường được xem làít nghiêm trọng. Nhưng nếu trong một thời điểm, có
nhiều người lao động cùng tranh chấp với người sử dụng lao động, những tranh
chấp đó lại cùng nội dung và nhất là khi những người lao động này cùng liên kết
với nhau thành một tổ chức thống nhất đểđấu tranh đòi quyền lợi chung thì
những tranh chấp lao động đóđã mang tính tập thể. Mức độảnh hưởng của tranh
chấp tập thể tuỳ thuộc vào phạm vi xảy ra tranh chấp. Tranh chấp lao động
cóảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân, gia đình người lao động ,
nhiều khi còn tác động đến an ninh công cộng. Tranh chấp lao động nếu chỉ phát
sinh giữa một người lao động và người sử dụng lao động ( đối tượng tranh chấp
là quyền , nghĩa vụ , lợi ích chỉ liên quan đến một cá nhân người lao động ) thì
tranh chấp đóđơn thuần là tranh chấp cá nhân .
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất quan hệ lao động là quan hệ chứa đựng
nhiều vấn đề mang tính xã hội như thu nhập , đời sống , việc làm …của người
lao động . Thực tế hầu hết mọi người lao động tham gia quan hệ lao động để có
thu nhập đảm bảo cuộc sống và gia đình họ cũng trông chờ vào nguồn thu nhập

Tiểu luận Luật
đó . Vì vậy , khi tranh chấp lao động xảy ra , quan hệ lao động có nguy cơ bị phá
vỡ , người lao động có thể bị mất việc làm , mất thu nhập , mất nguồn đảm bảo
cuộc sống thường xuyên cho bản thân và gia đình nên đời sống của họ trực tiếp
bịảnh hưởng .
Người sử dụng lao động sẽ phải tốn thời gian , công sức vào quá trình giải
quyết tranh chấp nên có thể việc sản xuất kinh doanh bị gián đoạn dẫn đến mất
các cơ hội kinh doanh , mất một phần lợi nhuận và khả năng đầu tư phát triển
sản xuất . Nghiêm trọng hơn , là khi tranh chấp lao động tập thể xảy ra ở những
doanh nghiệp thiết yếu của nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh quốc phòng ,
trong một ngành hoặc một địa phương , thì còn có thểảnh hưởng đến sự phát
triển vàđời sống xã hội trong cả một khu vực , thậm chí có thểảnh hưởng đến
toàn bộ nền kinh tế . Nếu không giải quyết kịp thời , những tranh chấp đó có
thểảnh hưởng tới an ninh công cộng vàđời sống chính trị xã hội của quốc gia .
3 . Phân loại tranh chấp lao động :
Tranh chấp lao động cần phân loại là nhằm đánh giáđúng thực chất của
tranh chấp lao động trên cơ sởđó mà giải quyết chúng có hiệu quả . Tranh chấp
lao động có thể phân loại theo những tiêu chí sau :
3.1. Căn cứ vào quy mô của tranh chấp :
Tranh chấp lao động cá nhân :
Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân người lao động
với người sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm , tiền
lương , thu nhập và các điều kiện lao động khác , về thực hiện hợp đồng lao
động và trong quá trình học nghề , về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa
thải hoặc về trường hợp bịđơn phương chấm dứt hợp đồng lao động , về bồi
thường thiệt hại cho người sử dụng lao động .
Tranh chấp lao động tập thể :
Tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao động với người
sử dụng lao động về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm , tiền lương , thu
nhập và các điều kiện lao động khác ; về thực hiện thoảước lao động tập thể , về
quyền thành lập , gia nhập , hoạt động công đoàn .
3.2 Căn cứ vào tính chất của tranh chấp :
Có thể phân làm hai loại đó là : Tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích
.