
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TIỂU LUẬN MÔN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRONG TRỒNG TRỌT
Họ và tên: Trần Minh Tấn
Lớp KHCT K24
Phú Thọ – 2017

Câu 1: Phân tích hiện trạng ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao ở
Việt Nam? Các cơ hội và thách thức trong phát triển NNCNC ở nước
ta? Đề xuất phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại địa
phương học viên?
PHẦN I. HIỆN TRẠNG ỨNG DỤNG NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ
CAO Ở VIỆT NAM
Từ những năm giữa thế kỷ XX, các nước phát triển đã quan tâm đến
việc xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm thúc
đẩy sáng tạo khoa học công nghệ giúp cho kinh tế phát triển. Đầu những
năm 80, tại Hoa Kỳ đã có hơn 100 khu khoa học công nghệ. Ở Anh quốc,
đến năm 1988 đã có 38 khu vườn khoa học công nghệ với sự tham gia
của hơn 800 doanh nghiệp. Phần Lan đến năm 1996 đã có 9 khu khoa học
nông nghiệp công nghệ cao. Phần lớn các khu này đều phân bố tại nơi tập
trung các trường đại học, viện nghiên cứu để nhanh chóng ứng dụng
những thành tựu khoa học công nghệ mới và kết hợp với kinh nghiệm kinh
doanh của các doanh nghiệp để hình thành nên một khu khoa học với các
chức năng cả nghiên cứu ứng dụng, sản xuất, tiêu thụ và dịch vụ.
Bên cạnh các nước tiên tiến, nhiều nước và khu vực lãnh thổ ở Châu
á cũng đã chuyển nền nông nghiệp theo hướng số lượng là chủ yếu sang
nền nông nghiệp chất lượng, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tự
động hoá, cơ giới hoá, tin học hoá… để tạo ra sản phẩm có chất lượng
cao, an toàn, hiệu quả.
Trong những năm gần đây thực hiện Quyết định 176/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao đến năm 2020, các tỉnh, thành phố trong cả nước
đang triển khai xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao; các vùng
sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và mô hình sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao.
Các khu công nghệ cao
- Trong các địa phương có khu Nông nghiệp Công nghệ cao (gọi tắt
là Khu) TP. Hồ Chí Minh được đánh giá là đảm bảo được tính đồng bộ liên
hoàn từ khâu nghiên cứu đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Trong
khu bao gồm khu thí nghiệm và trưng bày sản phẩm, khu nhà kính, khu
học tập và chuyển giao công nghệ, khu bảo quản và chế biến, khu sản
xuất kêu gọi đầu tư. Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng tại
tất cả các khu. Các doanh nghiệp thu hút vào khu chủ yếu đầu tư vào sản
xuất giống cây trồng như các loại rau, hoa …, đồng thời, có thể cung cấp
vật tư nông nghiệp để cung cấp cho nông dân sản xuất. Các loại nông sản
sẽ được doanh nghiệp mua lại với giá theo đúng hợp đồng đã ký kết với
nông dân.
Các doanh nghiệp tham gia sản xuất trong Khu có sản lượng hàng
hóa tập trung, kiểm soát được tiêu chuẩn, chất lượng nông sản, giảm
2

được chi phí đầu tư về cơ sở hạ tầng trên một đơn vị diện tích. Được
hưởng một số chính sách ưu đãi của Nhà nước về thuê đất, thuế các
loại….
- Các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao thông thường
do một doanh nghiệp đầu tư, quy mô tùy theo khả năng đầu tư vốn và sản
phẩm của mô hình là sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp.
Chẳng hạn như ở TP. Hồ Chí Minh, Công ty Liên doanh hạt giống
Đông Tây đã đầu tư trại sản xuất hạt giống rau với việc nhân dòng bố mẹ
và sản xuất hạt giống lai F1 cùng với đầu tư phòng thí nghiệm về công
nghệ sinh học, xưởng chế biến hạt giống phục vụ cho công tác nghiên
cứu, lai tạo và chế biến hạt giống đạt tiêu chuẩn cung cấp cho thị trường
trong nước và xuất khẩu. Công ty Dalat Hasfarm và Công ty Cổ phần
Rừng Hoa sản xuất các lọai hoa ôn đới cao cấp. Sản phẩm chính là hoa
cắt cành, bao gồm hoa hồng, lily, cúc đơn, cúc chùm, cẩm chướng đơn,
cẩm chướng chùm, đồng tiền, baby, sao tím, salem và các loại lá trang trí,
hoa trồng chậu. Ngoài việc cung cấp cho thị trường trong nước thông qua
mạng lưới phân phối vững chắc và rộng khắp, Dalat Hasfarm còn xuất
khẩu sang Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Đài Loan, Cambodia, v.v..
* Ưu điểm:
- Loại hình này có quy mô đầu tư phù hợp với khả năng sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Sự họat động mang tính độc lập và
tự chủ giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh định hướng sản phẩm linh họat
theo yêu cầu của thị trường và khả năng đầu tư vốn của doanh nghiệp.
* Nhược điểm:
- Tuy nhiên, các mô hình vẫn tập trung chủ yếu vào khâu sản xuất,
khả năng lan tỏa và chuyển giao công nghệ khó, một phần do yêu cầu bí
mật công nghệ của doanh nghiệp.
- Mặc khác, xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi
vốn đầu tư cơ sở hạ tầng lớn nên khả năng thu hồi vốn chậm, các doanh
nghiệp có nguồn vốn thấp khó có thể tham gia đầu tư.
Xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao
Đây là lọai hình phổ biến và mang tính đại trà, có ý nghĩa trong thực
tiễn sản xuất nông nghiệp của nước ta trong điều kiện hiện nay.
Việc phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao có khả năng ứng dụng cao trên một vùng chuyên canh tạo nên khối
lượng hàng hóa lớn; tận dụng được các lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao
động tại vùng. Chỉ sử dụng một số công nghệ cao phù hợp với một số
khâu canh tác nên chi phí đầu vào giảm, phù hợp với khả năng đầu tư của
nông dân. Tuy nhiên, do áp dụng công nghệ cao không đồng bộ nên chất
lượng sản phẩm vẫn chưa đồng đều và cao. Khâu tiêu thụ sản phẩm phụ
thuộc vào các hợp đồng với các doanh nghiệp nên chưa ổn định.
Dẫu vậy, vẫn có những địa phương đã cố gắng khắc phục những
hạn chế trên để xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao thành công, mang lại cho ta nhiều bài học kinh nghiêm quý giá.
3

Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Từ những mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao trong nước và thế giới, ta có thể rút ra một số bài học trong phát
triển các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn
huyện Hoà Vang như sau:
Về công tác qui hoạch sử dụng đất đai
Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp ở huyện Hoà Vang đang ngày
càng giảm do việc chuyển đổi đất nông nghiệp phục vụ quá trình đô thị hoá
và công nghiệp hoá nhằm phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. Do đó,
mô hình phát triển nông nghiệp công nghệ cao cho Hoà Vang phù hợp là
xây dựng một số vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao.
Để ổn định tâm lý và đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho doanh
nghiệp, người dân yên tâm sản xuất thì nhất thiết cần có giải pháp về quy
hoạch một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung trên địa bàn huyện, ít
nhất là phải giữ ổn định đến năm 2020 đối với các vùng hình thành trong
giai đoạn 2012-2015, và đến năm 2025 với các vùng hình thành trong giai
đoạn 2016-2020, tránh gây xáo trộn, tâm lý e ngại cho người dân và doanh
nghiệp nông nghiệp sản xuất, kinh doanh trong vùng.
Về xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất
nông nghiệp
Việc đầu tư xây dựng mô hình nông nghiệp ƯDCNC ngoài đòi hỏi
vốn đầu tư ban đầu lớn còn phải phù hợp với khí hậu, thời tiết và điều kiện
tự nhiên của từng vùng. Đồng thời, việc xác định loại cây trồng, vật nuôi có
lợi thế so sánh của huyện cũng cần đặc biệt lưu ý. Do đó, trong từng mô
hình ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn huyện, chúng ta không nên áp
dụng nguyên xi các công nghệ cao như các địa phương khác mà phải có
sự điều chỉnh để mang lại hiệu quả cao nhất. Trong đó cần tập trung ứng
dụng công nghệ cao trong các khâu chọn tạo giống và bảo quản, chế biến
sản phẩm sau thu hoạch.
Về lao động
Việc ứng dụng các công nghệ cao trong nông nghiệp đòi hỏi lao
động phải có trình độ kỹ thuật và khả năng tiếp thu những kiến thức mới
cũng như tham gia lao động nông nghiệp thường xuyên. Do đó, khi xây
dựng các vùng nông nghiệp ƯDCNC trên địa bàn huyện, cần chú ý đến
việc tập huấn, chuyển giao kỹ thuật cho người dân nhằm giúp người dân
cập nhật kỹ thuật mới trong sản xuất. Ít nhất trong mỗi tổ chức hợp tác
(Hợp tác xã, câu lạc bộ, tổ hợp tác) phải có từ 1-3 cán bộ chuyên trách về
kỹ thuật tùy theo quy mô tổ chức hoặc trên 50% số lao động đã qua đào
tạo, tập huấn kỹ thuật.
Đồng thời cần có những giải pháp cụ thể để thu hút lực lượng lao
động trẻ tham gia vào hoạt động sản xuất này, vì đó mới là lực lượng lao
động có khả năng tiếp thu và phát huy tốt nhất trong việc ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp.
4

Mối liên kết giữa nông dân- hợp tác xã- doanh nghiệp trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm
Qua mô hình liên kết giữa hộ nông dân và doanh nghiệp với hình
thức doanh nghiệp cung cấp giống cây trồng, vật nuôi cũng như vật tư
nông nghiệp cho người dân sản xuất, có thể thấy chỉ có thông qua liên kết
với doanh nghiệp việc sản xuất của người nông dân mới được tiến hành
quy củ hơn và hiệu quả mang lại cũng đảm bảo hơn.
Với quy mô sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay, mối liên kết giữa các hộ
nông dân thông qua việc thành lập Hợp tác xã trên nguyên tắc tự nguyện
sẽ tạo thuận lợi hơn về mặt pháp lý trong việc giao dịch, ký kết hợp đồng
với các đơn vị tiêu thụ và quá trình đăng ký thương hiệu nông sản.
- Hợp tác xã sẽ đảm nhiệm vai trò đầu mối cho các xã viên tìm kiếm
thị trường tiêu thụ sản phẩm, ký kết hợp đồng liên kết với doanh nghiệp
trong cung cấp yếu tố đầu vào, đầu ra cho nông dân, trên cơ sở tham khảo
ý kiến và cân đối với khả năng sản xuất ổn định của các xã viên.
- Người nông dân khi đó chỉ tập trung vào công việc duy nhất là sản
xuất nông sản với chất lượng và số lượng theo kế hoạch phát triển sản
xuất của hợp tác xã.
- Về phía doanh nghiệp liên kết cần đảm bảo sự ổn định trong các
điều khoản cam kết và hỗ trợ đã ký kết với hợp tác xã. Tránh tình trạng
chậm trễ trong thanh toán, và hành động có ý tiêu cực với nông dân.
Vai trò quản lý của nhà nước
Vai trò của nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trước hết, là trong công tác qui hoạch
đất đai để tạo quỹ đất sản xuất ổn định, tâm lý an tâm cho người nông dân,
doanh nghiệp đầu tư.
Thứ đến, là công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các vùng sản
xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời, việc phát triển các
công nghệ cao chủ yếu là các công nghệ mới và vốn đầu tư tương đối lớn
nên nhà nước cần phải kết hợp nguồn lực từ ngân sách với khơi dậy
nguồn lực từ trong dân với các hình thức khác nhau để triển khai thực hiện
đầu tư các mô hình thí điểm một cách hiệu quả. Từ đó tạo ra hiệu ứng “lan
toả” tiến tới nhân rộng toàn vùng.
Hơn nữa, việc tập huấn, chuyển giao công nghệ cũng phải được
nhà nước quan tâm nhằm giúp người dân tiếp cận với công nghệ mới và
có thể ứng dụng vào sản xuất một cách hiệu quả.
Đẩy mạnh công tác khuyến nông- lâm- ngư
Công tác khuyến nông-lâm-ngư (gọi tắt là khuyến nông) có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc nâng cao trình độ kiến thức cho bà con nông
dân, góp phần đưa đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước vào thực
tiễn hoạt động sản xuất, trên hết là tạo mối liên hệ khăng khít giữa người
nông dân – nhà quản lý và nhà khoa học. Cần thiết phải đẩy mạnh công
tác khuyến nông, xây dựng hệ thống đến tận cơ sở. Tích cực thông tin
tuyên truyền các chính sách, chủ trương hỗ trợ phát triển của Nhà nước và
5