intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu an sinh xã hội

Chia sẻ: Nine4219 Nine4219 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

448
lượt xem
135
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Tìm hiểu an sinh xã hội" là tài liệu tổng hợp nhiều bài viết về vấn đề an sinh xã hội, trong đó có các nội dung như: An sinh xã hội, một hệ thống thiết yếu trong bộ máy quốc gia hiện đại; an sinh nhi đồng và gia đình; vấn đề lớn của trẻ em tại các nước đang phát triển; công tác xã hội ở lĩnh vực sức khỏe; nạn phân biệt đối xử trên thế giới... Mời các bạn tham khảo tài liệu để nắm bắt nội dung chi tiết hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu an sinh xã hội

  1. I. AN SINH XÃ HỘI, MỘT HỆ THỐNG THIẾT YẾU TRONG BỘ MÁY QUỐC GIA HIỆN ĐẠI 1. SỰ NẢY SINH CỦA CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ CHUYỂN BIẾN CỦA TỔ CHỨC AN SINH XÃ HỘI TRÊN BÌNH DIỆN QUỐC GIA. Đời sống con người luôn luôn gặp những trắc trở: bệnh tật, tang tóc, mâu thuẫn, chia ly v.v... Trong các thành viên của xã hội luôn luôn có những thành phần không tự lực được như cô nhi, quả phụ, người cao tuổi yếu, tật nguyền. Tuy nhiên trong xã hội tiền công nghiệp, quan hệ gia đình rất chặt chẽ, đại gia đình là một chỗ dựa vững chắc. Một người bịnh, một cụ cao tuổi hiện diện trong gia đình không phải là một gánh nặng. Luôn luôn có người ra vào, có thời gian chăm sóc. chòm xóm còn tới thăm hỏi tặng quà, tặng bánh, thuốc men. Một đứa trẻ mất cha mẹ ở với ông bà, cô chú là chuyện hoàn toàn bình thường chỉ thêm một miệng ăn tham gia vào buổi cơm gia đình đạm bạc nhưng gạo, rau không thiếu. Ngoài đại gia đình cộng đồng làng mạc Việt Nam thời xa xưa có công điền, công thổ dành cho cô nhi quả phụ. Ghé qua nhà chùa lúc nào cũng ít lắm là được một bữa cơm chay. Thời trung cổ giáo hội Thiên Chúa giáo ở Phương Tây có những hoạt động từ thiện phong phú cho những người lỡ đường, sa cơ v.v... Nếu lúc nào cũng có những thành phần “yếu kém” thì xã hội truyền thống cũng luôn luôn có những cơ chế tự nhiên, vô hình hay không tên mang lại cho họ một sự trợ giúp. Nhưng với sự phát triển của công nghiệp, với quá trình đô thị hóa thì vấn đề không còn đơn giản. Từ sự chuyển biến nhanh chóng của xã hội, nhiều vấn đề con người rất phức tạp nảy sinh và có tầm vóc lớn. Song song với cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh vào thế kỷ thứ 17 xã hội Phương Tây bắt đầu chứng kiến những vấn đề có tầm vóc to lớn và phức tạp hơn như nạn thất nghiệp của hàng vạn lao động khi các xí nghiệp thất bại, nạn mãi dâm với tầm vóc rộng rãi, nạn bóc lột sức lao động của trẻ em v.v... Rồi kế đến là các tệ nạn xã hội khác như tội phạm, nghiện ngập, rượu chè với tính chất và tầm cỡ mà xã hội nông nghiệp, cổ truyền chưa biết đến. Đó là các vấn đề xã hội (social problems) theo nghĩa khoa học hiện nay xuất phát không từ sự yếu kém của từng cá nhân mà là hậu quả của các quá trình kinh tế xã hội. Sự phát triển nhà máy ở các thành phố lớn thu hút các lao động nông thôn. Rời bỏ làng mạc, xóm giềng, gia đình, họ sống đơn độc sinh ra rượu chè, cờ bạc. Thất nghiệp, họ biến thành đội quân nghèo đói thiết lập các khu ổ chuột. Phụ nữ thất nghiệp chỉ còn con đường mãi dâm. Người cao tuổi nua phải đi ăn xin để kiếm sống. Ở nông thôn, nông dân thường dựa vào sự ban bố của các lãnh chúa phong kiến. Khi chế độ phong kiến suy sụp, nghèo đói phát triển tràn lan. Đại gia đình, nhà thờ không đủ để đối phó nữa. Do đó từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18 nước Anh đã ra những đạo luật để giải quyết những vấn đề người nghèo, nạn hành khất v.v... Đạo luật Elizabeth cho người nghèo ban hành năm 1601 được xem như một ví dụ điển hình của sự hình thành hệ thống an sinh xã hội quốc gia nhằm: - Tạo công ăn việc làm cho người nghèo còn sức lao động - Mở các viện dưỡng lão cho người cao tuổi yếu, tàn tật, mất sức lao động... - Bảo trợ trẻ mồ côi, hay bị bỏ rơi bằng cách gởi làm công, học nghề tại các gia đình, doanh nghiệp v.v... Từ đó công tác xã hội, không còn là công tác tự nguyện cá nhân hay nhà thờ mà là nhiệm vụ của nhà nước. Hàng trăm hàng ngàn bộ luật khác được ban hành mang tính xã hội như luật gia đình, luật lao động, luật bảo trợ trẻ em, luật bảo vệ người khuyết tật, luật con nuôi
  2. v.v... Nhiều chính sách, chương trình, dịch vụ rất đa dạng, nhiều tổ chức, đoàn thể xuất hiện để chăm sóc, hỗ trợ những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội có nhu cầu đặc biệt. Hệ thống an sinh xã hội cấp quốc gia hình thành từ đó với một bộ máy nhà nước phụ trách các vấn đề xã hội như một thiết chế bên cạnh các thiết chế khác như ngành y, ngành giáo dục, nhà ở, giao thông vận tải. Trên tất cả quốc gia có một bộ, mang tên khác nhau như bộ An sinh và phát triển xã hội ( Phi-lip-pin ), bộ phát triển cộng đồng (Singapore), bộ Lao động, Thương binh xã hội hay những hình thức hỗ trợ thường xuyên cho các đối tượng chính sách. Hai chữ An Sinh được sử dụng trong công tác xã hội sẽ mang tính toàn diện hơn. Không chỉ có vật chất mà tinh thần và tất cả những gì đem lại cho con người một cuộc sống an bình. Dưới đây là một số định nghĩa để tham khảo. Theo tác giả B. R. Compton (Introduction to social welfare and social Work - Nhập môn an sinh xã hội và công tác xã hội, 1980). a. “An sinh xã hội là một thiết chế. b. Bao gồm các chính sách và luật pháp. c. Thực thi bởi các tổ chức tự nguyện hay của nhà nước. d. Thông qua đó một mức độ tối thiểu được xác định về dịch vụ xã hội, tiền và các quyền lợi khác (y tế, giáo dục, nhà ở v.v...) e. Được phân phối cho cá nhân, gia đình, nhóm xã hội mà họ không nhận được từ gia đình hay thị trường. f. Nhằm mục đích phòng ngừa, giảm nhẹ hay đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội để cải tiến sự an sinh của cá nhân, nhóm và cộng đồng một cách trực tiếp". Theo Elizabeth Wickenden (Social welfare in a Changing World - An sinh xã hội trong một thế giới đổi mới, 1965), An sinh xã hội gồm các: “luật lệ, chương trình, quyền lợi và dịch vụ bảo đảm và củng cố các biện pháp đáp ứng các nhu cầu xã hội được công nhận như an sinh cơ bản của quần chúng và cải tiến trật tự xã hội”. Theo J.M. Romanyshyn (Social Welfare: Charity to Justice - An sinh xã hội: Từ bác ái đến công bằng, 1971). An sinh xã hội gồm các biện pháp và quá trình liên quan đến việc giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, sự phát triển tài nguyên nhân lực và cải tiến chất lượng sống. Điều này bao gồm các dịch vụ xã hội cho cá nhân, gia đình và cả những nỗ lực củng cố và cải tiến các thiết chế xã hội” Ngày nay An sinh xã hội không chỉ được xem như là không tránh khỏi để giải quyết các vấn đề tiêu cực của xã hội, nhưng vai trò của nó hết sức thiết yếu trong phát triển xã hội. Nghĩa là chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, cá nhân không những phải được đáp ứng các nhu cầu căn bản mà còn cần được phát huy tối đa và hòa nhập một cách tốt đẹp vào xã hội. Gia đình, tập thể, cộng đồng cần thực hiện chức năng của mình một cách hài hòa và có hiệu quả để đem lại an sinh cho cá nhân và sự ổn định và phát triển cho xã hội. Từ đó ta thấy rằng bộ máy nhà nước phụ trách ASXH không chỉ làm “Công tác chính sách” (theo nghĩa thường dùng) hay cứu trợ đơn thuần mà về mặt chuyên môn phải nổ lực rất cao để ngang tầm với nghiệm vụ trong xã hội hiện đại. Ngành An sinh xã hội ở các nước công nghiệp phát triển, với vốn tích lũy dồi dào thường bao gồm: 1. An sinh công cộng (Public wefare), đây là tổ chức mang tính cứu trợ cho những người (tạm gọi) là theo diện chính sách nào đó. Ví dụ người nghèo dưới một mức độ nhất định, người thất nghiệp, trẻ bơ vơ, người cao tuổi, tàn tật, tị nạn v.v... 2. Bảo hiểm xã hội (social insurance) cho những người trong thời gian lao động có đóng góp cho quỹ bảo hiểm. 3. Chương trình phát triển lao động và dân dụng
  3. 4. Nhà ở và tái thiết đô thị 5. Sức khoẻ chung 6. Sức khoẻ tâm thần 7. Phục hồi chức năng 8. Phạm pháp và giáo hóa 9. Vui chơi giải trí 10. An sinh nhi đồng và gia đình 11. Phát triển cộng đồng v.v... Tùy từng quốc gia nội dung và tổ chức có khác nhau, nhưng nói chung An sinh xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu toàn diện của người dân để sống hạnh phúc, hài hòa và tham gia xây dựng một xã hội hài hòa và phát triển. 2.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA AN SINH XÃ HỘI Ban đầu các vấn đề xã hội được xử lý một cách tự phát và chủ yếu theo kiểu từ thiện và lên lớp. Từ từ hình thành khái niệm thân chủ tự giúp để vươn lên. CTXH không chỉ có mục đích trị liệu mà còn phòng ngừa và phát triển. Các vấn đề xã hội lần lần được phân tích từ gốc độ khoa học, các biện pháp can thiệp ở cấp vĩ mô và vi mô được xây dựng trên cơ sở kiến thức về hành vi con người. Có được sự tiến bộ là do sự đóng góp của các ngành khoa học như tâm lý học, tâm thần học, xã hội học v.v...và cả chính trị học vì muốn đóng góp vào việc xây dựng các chính sách xã hội phù hợp, không thể đứng ngoài và không hiểu rõ hoạt động chính trị. Cơ sở kiến thức của An sinh xã hội ASXH không sử dụng toàn bộ kiến thức của các khoa học vừa kể nhưng những phần nào có liên quan, ví dụ các nguyên cứu xã hội về dân số học về phong tục tập quán trong hành vi sức khỏe, kinh tế học liên hệ tới sự nghèo đói v.v... Ngày nay ASXH là một bộ môn khoa học ứng dụng được giảng dạy ở các trường CTXH, thường là cấp đại học. 3. AN SINH XÃ HỘI VÀ NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI Nhiều ngành nghề tham gia đóng góp vào nền ASXH của một quốc gia, ví dụ như nhà thiết kế đô thị tham gia giải tỏa nhà ổ chuột, bác sĩ, y tá có vai trò quan trọng cho sức khoẻ, luật sư tham gia làm luật bảo vệ trẻ em. Nhưng do các ngành này và một số ngành khác không đáp ứng một cách toàn diện nhu cầu xã hội của con người một ngành nghề mới xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 đó là công tác xã hội (social work). Giữa các ngành nghề đóng góp cho nền ASXH công tác xã hội đóng vai trò tổng hợp và trung tâm. Trong lĩnh vực sức khỏe, y bác sĩ và các cấp nhân viên sức khỏe khác đóng vai trò trung tâm nhưng bên cạnh học cũng có nhà tâm lý, nhân viên xã hội, kỹ sư, nhà kinh tế nhà quản trị v.v... Trong ngành ASXH, nhân viên CTXH (social worker) các cấp đóng vai trò trung tâm, giữa các ngành chuyên môn khác. Vai trò của CTXH trong ASXH Nếu đạo luật về người nghèo của Anh quốc xuất hiện vào đầu thế kỷ 17 được xem như nền tảng ban đầu của nền ASXH theo nghĩa hiện đại thì mãi đến thế kỷ 20 mới xuất hiện nhân viên xã hội chuyên nghiệp. Vào cuối thế kỷ 19, hiệp hội các tổ chức từ thiện (Charity Organizations Society) và Phong trào trung tâm cộng đồng (Settlement House Movement) cố gắng tìm hiểu căn nguyên của các vấn đề xã hội và tìm cách giúp đỡ các đối tượng xã hội phục hồi nhân phẩm và vị trí xã hội của mình. Nhũng đối tượng này được xem như là nạn nhân của sự chuyển biến xã hội hơn là những kẻ “lười biếng”, thiếu đạo đức phải trừng
  4. trị như trước kia. Từ đó các nhân viên được tuyển phần lớn từ từng lớp trí thức, để phân vùng và chia nhau đi viếng thăm tìm hiểu hoàn cảnh của từng người. Thái độ tôn trọng và mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên và các đối tượng xã hội được nhấn mạnh vì mục đích là giúp họ tự vươn lên “làm lại cuộc đời”. Từ những kinh nghiệm này các nhân viên xã hội đầu tiên hiểu rằng giúp đỡ con người là một quá trình phức tạp và tế nhị đòi hỏi sự hiểu biết về cá nhân và cả xã hội. Họ cũng rút ra nhiều kinh nghiệm về cách tiếp xúc để tìm hiểu từng trường hợp, ghi chép để theo dõi diễn biến của đối tượng, nhu cầu thông tin, phối hợp công tác giữa các cơ quan. Cũng từ đó hình thành cơ sở ban đầu của phương pháp CTXH và ý thức về vai trò nhiệm vụ nhân viên xã hội, đạo đức chức nghiệp v.v... Hiệp hội các tổ chức từ thiện (COS) còn là cha đẻ của các trường CTXH đầu tiên ở Mỹ và Anh. Năm 1898 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đầu tiên (Summer school of Philanthropic workers) cho 27 học viên được tổ chức tại New York, trong 6 tuần. Ba năm sau khóa học trở thành trường CTXH đầu tiên với chương trình kéo dài 8 tháng. Ngày nay là trường CTXH thuộc đại học Colombia. Ngay sau đó hàng loạt trường khác được thành lập ở các thành phố lớn ở Âu, Mỹ. Ở Châu Á, và Châu Mỹ la Tinh, các trường CTXH mọc lên đồng loạt sau thế chiến thứ 2. Trung Quốc và Ấn Độ do sự gần gũi với Anh quốc có người đi học ở Anh, Mỹ, khá sớm và du nhập ngành CTXH sớm nhất ở Châu Á. Miền Nam Việt Nam do ảnh hưởng của Pháp có trường CTXH vào năm 1949 do Hồng thập tự Pháp thành lập, sớm hơn một số nước Châu Á và châu Mỹ La Tinh. Đó là trường Caritas, 38 Thevenet (nay là Tú Xương) do các nữ tử bác ái điều hành. Trong khối XHCN các nước như Ba Lan, cựu Đông Đức, Tiệp khắc, Hungari có ngành CTXH. Liên Xô khi giải phóng chưa biết tới ngành CTXH nên không có. Ngày nay có hàng ngàn trường CTXH có mặt trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trung Quốc phục hồi ngành này từ năm 1988. Khóa CTXH đầu tiên được mở tại khoa xã hội học, đại học Bắc kinh. Liên xô (cũ) đã liên hệ với Liên hiệp quốc tế các trường CTXH để nhờ tổ chức huấn luyện. Ở Châu Âu ngành CTXH bắt đầu ở hệ trung cấp chuyên nghiệp hai năm. Ở Mỹ phải có cử nhân về tâm lý hay xã hội học mới đi chuyên ngành CTXH cấp cao học. Ngày nay có sự thống nhất về mặt tổ chức và ngành CTXH được giảng dạy trong hệ đại học, với khả năng nhận chứng chỉ sau 2 năm để đi làm việc và sau đó học tập tiếp. Trên thế giới ngày nay nghề CTXH được biết đến như mọi ngành nghề khác với nhân viên trực tiếp tác chiến cấp trung cấp hay cử nhân, nhân viên điều hành từ cử nhân tới cao học và các nhà nghiên cứu, giảng dạy, kế hoạch từ cao học đến tiến sĩ. Nhân viên chuyên nghiệp có nghiệp đoàn của mình ở cấp quốc gia và quốc tế. Ở Việt Nam trước giải phóng, ngoài trường Caritas có thêm trường CTXH là một trường công lập do bộ xã hội cũ thành lập với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc. Đại học Đà Lạt đã có phân khoa “chính trị xã hội” với nội dung CTXH, đại học Vạn Hạnh vừa bắt đầu mở và đại học Cửu Long chưa kịp mở khoa CTXH thì giải phóng. Trường Thanh niên phụng sự xã hội hoạt động được vài năm với nội dung nặng về kỹ thuật phát triển nông thôn. Đến năm 1975 miền nam Việt Nam cũ có được trên dưới 300 nhân viên trung cấp, 15 - 20 tốt nghiệp đại học và học thêm một năm CTXH và 15 cao học . CTXH bị gián đoạn từ 1975 đến 1989 khi bắt đầu học thí Anh chị em trong nhóm nghiên cứu CTXH chỉ có một cao học và anh chị kiểm sự, cán sự xã hội và trong đó có người học thêm bậc cử nhân ở một ngành khác. Trước kia có cỡ 500 cán bộ được bồi dưỡng tại chức từ 3 - 6 tháng. Nay có cỡ 100 anh chị em làm việc với trẻ em nghèo lang thang đã trải qua một lớp huấn luyện ngắn. Đến nay (1996) trong nước co được 2 cao học CTXH và 3 cao học PTCĐ vơi một số đang du học ở nước nghèo. Chương trình CTXH 2 năm được giảng dạy trong khoa PN học với
  5. triển vọng có thể mở thêm bậc cử nhân. Tháng 3/1996 chương trình cử nhân CTXH đầu tiên được mở tại Khoa Xã hội học, đại học quốc gia Hà Nội. Đây là dấu hiệu của sự phục hồi của ngành và chắc chắn nó sẽ phát triển mạnh để đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của đất nước. 4. DIỄN BIẾN CỦA ASXH TRÊN THẾ GIỚI 4.1. NGÀNH ASXH PHƯƠNG TÂY ĐANG BỘC LỘ NHIỀU KHIẾM KHUYẾT Từ lâu nền ASXH phương Tây, nhất là ở các nước như Thụy Điển, Anh v.v... được xem là mô hình. Nơi đây các nhu cầu của các đối tượng xã hội được đáp ứng một cách đầy đủ nhất. Tuy nhiên nhà nước phải bao cấp rất nhiều. Ngày nay với các cuộc khủng hoảng kinh tế, tình hình tài chánh nhiều nước đang gặp khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến các chương trình ASXH và từ đó cũng tạo ra những bất ổn trong xã hội. Khi làm một chính sách ASXH ít ai ngừa trước được hậu quả tiêu cực của nó nhưng ngày nay một số hậu quả tiêu cực này đã tự bộc lộ. Ví dụ như trợ cấp cho trẻ thành niên sống tách rời gia đình khuyến khích sự tự lập nhưng đồng thời gây sự suy yếu cho thiết chế gia đình. Việc hỗ trợ các phụ nữ trẻ không lập gia đình mà có con là một việc phải làm, tuy nhiên chính sách này làm tăng nếp sống cầu thả, tăng cường đạo quân nghèo đói thất nghiệp. Thậm chí trẻ từ các gia đình đơn thân này cũng dễ dàng sa vào tội phạm. 4.2. MỘT SỐ KHUYẾN CÁO LIÊN HỢP QUỐC VỀ ĐỊNH HƯỚNG ASXH Rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại trong ASXH, các quốc gia ngồi lại với nhau định kỳ và cùng nhau vạch ra những hướng đi chung phù hợp với tình thế cho thập kỷ 90. Trước tiên cần lưu ý đến một bối cảnh xã hội đã và đang luôn luôn đổi mới. Đáng lưu ý nhất là sự xuất hiện của những mô hình gia đình mới, vai trò đổi mới của nam và nữ, sự đổi mới của cấu trúc dân cư và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã nâng cao nhận thức và kỳ vọng của người dân. Tuy nhiên với cuộc khủng hoảng kinh tế của thập kỷ 80, một số vấn đề cũ tái phát sinh như nghèo đói, thất nghiệp và khiếm dụng, mù chữ, sự giảm thiểu nghiêm trọng của các dịch vụ y tế giáo dục. Thêm vào đó những vấn đề mới phát sinh như sự xuống cấp của môi trường, tệ nghiện nghập, bệnh Aids, bạo lực và chiến tranh. Từ đó cần quan tâm đặc biệt đến các đối tượng sau đây: Gia đình cần được đáp ứng nhu cầu như một đơn vị, đồng thời nhu cầu của từng thành viên. Cần quan tâm đặc biệt đến gia đình đơn thân, một loại hình mới xuất hiện. Cần củng cố gia đình trong vai trò hỗ trợ các thành viên, quan tâm đến các thành viên đặc biệt như trẻ em, thanh thiếu niên, người cao tuổi, người khuyết tật. Tuy nhiên các dịch vụ hỗ trợ gia đình nên thận trọng kẻo việc chăm sóc các thành viên đặc biệt trên lại một lần nữa trở thành một gánh nặng thêm cho PN. Một nền ASXH và PTCĐ phải thúc đẩy sự tiến bộ của PN và tạo điều kiện đồng đều để PN tham gia vào mọi lãnh vực kinh tế, văn hóa xã hội của đời sống. LHQ xem việc nam - nữ ngày càng chia sẻ trách nhiệm trong công việc nhà trong vai trò cha mẹ là một tiến bộ. Ở những nước có đông người cao tuổi thì phải hoàn thiện hệ thống lương hưu, và các dịch vụ phù hợp. Nhưng quan trọng nhất là phải làm sao cho người cao tuổi tích cực tham gia việc giải quyết nhu cầu của chính họ. Để được vậy cần củng cố vai trò của người cao tuổi trong gia đình và ngoài xã hội. Ngược lại có những nước tỉ lệ người trẻ tuổi lại đông. Ở đây cần quan tâm giúp đối tượng này trong các lãnh vực:
  6. Học nghề. Thành lập gia đình và trở thành những cha mẹ có trách nhiệm. Giáo dục ngăn ngừa hành vi tự hủy hoại (nghiện ngập, sống buông thả v.v...). Cần quan tâm đến hiện tượng di dân và tìm hiểu nguyên nhân cội nguồn. Một đàng cải thiện điều kiện kinh tế xã hội của nơi xuất phát; đàng khác giúp người di dân tại nơi đến của họ. Cải thiện hạ tầng cơ sở, môi trường công ăn việc làm thông qua các dự án tự giúp ở cộng đồng. Đối với nghèo đói, không chỉ xoa diệu mà giải quyết tận căn bằng: Gia tăng việc làm. Cơ hội đầu tư đồng đều cho cả nam lẫn nữ. Nhằm ưu tiên vào những thành phần yếu kém nhất. Giúp tuổi trẻ việc làm để tự lực và để họ giúp lại những thành phần yếu khác trong gia đình (người cao tuổi, khuyết tật v.v...). Sự chủ động và tích cực tham gia của đối tượng thụ hưởng dịch vụ ASXH, là tối quan trọng. Đó không chỉ là một phương tiện mà chính là mục tiêu của PTXH. Chính họ mới biết rõ nhu cầu của bản thân và quyết định về những dịch vụ, chương trình và lợi ích cho họ. Mọi dịch vụ cần lấy gia đình làm đối tượng và dựa trên cộng đồng. Các chính sách ASXH cũng nhằm giải quyết các hậu quả xã hội tiêu cực của công việc cách mạng khoa học và kỹ thuật (LHQ, các nguyên tắc hướng dẫn cho các chính sách và chương trình ASXH theo hướng PTCĐ cho một tương lai gần. 1988). 4.3. XU HƯỚNG CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Phần lớn các nước được gọi là “đang phát triển”(ĐPT) là các nước cựu thuộc địa. Trong mọi lãnh vực hoạt động từ khoa học tới văn hóa nghệ thuật, thường các mô hình được bê nguyên xi từ “mẫu quốc” hay nước cao tuổiu và áp đặt cho nước nghèo. Thường các nước ĐPT được chuyển giao những khoa học kỹ thuật lạc hậu hay sản phẩm mà nước cho muốn tống khứ. Cũng có khu các mô hình được chuyển giao hay sao chép với đầy thiện ý nhưng không phù hợp với nền văn hóa của bên nhận. Không những chúng không mang lại hiệu quả mà có khi cần giết những tiềm năng tại chỗ. Ví dụ nổi bật nhất là sự du nhập của Tây y làm mất đi những tiềm năng quý giá của Đông y mà ngày nay cả thế giới đang tìm lại. Cũng vậy mô hình cô nhi viện của nhà thờ công giáo từ phương Tây đem qua các nước châu Á mà lúc đó tình đại gia đình, sự tương thân tương trợ trong làng mạc rất chặt chẻ là khuyến khích bỏ con và tiêu diệt dần tiềm năng của cộng đồng. Ngày nay khoa học còn phát hiện ra hậu quả tiêu cực của việc nuôi tập trung nữa. Hơn hết mô hình bao cấp và cung ứng dịch vụ ở Phương Tây không thể nào thực hiện ở một nước chưa phát triển về kinh tế với ngành CTXH Phương Tây và ngày nay cả đôi bên thống nhất mấy nguyên tắc về hành động. Đó là xây dựng năng lực (Capacity building) và tăng sức mạnh hay quyền lực (empowerment) cho các nhóm có cùng một nhu cầu hay ở cùng một địa phương, ý thức và đòi hỏi quyền lợi của chính mình và cùng giúp nhau cải thiện đời sống của mình. Ngay cả đối với những nạn nhân của các tệ nạn xã hội cách tiếp cận trên đây cũng là chính yếu. Xu hướng chung trên thế giới là lưu lại những tiềm năng, những giá trị văn hóa dân tộc đã bị đánh mất để tìm đến một mô hình phát triển nhân bản hơn. 5. NGÀNH ASXH TẠI VIỆT NAM 5.1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VN HIỆN TẠI
  7. Phải nói khi chế độ quản lý xã hội chủ nghĩa còn tồn tại với sự bao cấp nhiều mặt nhu cầu của công nhân viên, xã viên được quan tâm đầy đủ. Khi đất nước chưa mở cửa thì trật tự xã hội còn được giữ gìn. Ngày nay khi đất nước mở cửa và chuyển sang kinh tế thị trường thì sự phân hóa cao tuổiu nghèo tăng một cách nổi bật. Ở từng địa phương, từng lúc nghèo đói là vấn đề nổi bật nhất. Sự giao lưu với bên ngoài làm phát sinh những vấn đề xã hội mới, phức tạp như nạn thất nghiệp, sự di dân đến các thành phố lớn để kiếm sống tạo ra vô số vấn đề như nhà ổ chuột, sự xuống cấp của vệ sinh môi trường, trộm cắp, mất an ninh trật tự. Đáng quan tâm hơn là con số ngày càng gia tăng của trẻ em đường phố, mại dâm, người nghiện ngập, bịnh nhân Aids... Nhiều tội phạm có tổ chức, có liên quan đến các đường dây quốc tế diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Xã hội phát sinh ra nhiều vấn đề nhưng đồng thời những nỗ lực giải quyết cũng đa dạng và sáng tạo. Nhiều chương trình chăm sóc trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn, những nhóm giáo dục đồng đẳng cho các đối tượng xã hội, tín dụng cho người nghèo, sự hình thành của vài dự án PTCĐ cho thấy nếu có đường lối chính sách chung và tổ chức tốt VN ta có tiềm năng không nhỏ. Vấn đề đào tạo nhân viên xã hội chuyên nghiệp đã bắt đầu. 5.2. MỘT BỘ MÁY ASXH ĐANG TỪNG BƯỚC HÌNH THÀNH Có những thay đổi trong nhận thức, cách làm nhưng rất chậm từ phía các tổ chức có trách nhiệm cao nhất. Tiến trình giải quyết các vấn đề xã hội còn thiếu chuyên môn. Cái thiếu vắng lớn nhất là những con người chủ chốt với kiến thức cần thiết để tạo ra một ngành ASXH đúng nghĩa cho một Việt Nam hiện đại. Đại bộ phận làm việc ở cơ sở hay ở cấp quản lý cũng chưa được chuyên môn hóa. Luật pháp tuy có một số bộ phận cơ bản (như luật Dân sự, Hôn nhân gia đình, Sức khỏe, Phổ cập, Giáo dục, Lao Động, Quyền trẻ em...) nhưng chưa hoàn chỉnh để giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ các đối tượng xã hội đặc biệt. Các chính sách xã hội chưa thể nhằm vào toàn dân mà đang cố gắng chăm lo tốt cho một số dạng đối tượng đặc biệt (diện chính sách). Dù sao, người làm CTXH cần rất quan tâm theo dõi và thậm chí trực tiếp tham gia vào một số chương trình mang tính phát triển xã hội cao như: Xóa đói giảm nghèo Phát triển nông thôn Phòng chống tệ nạn xã hội Hành động vì trẻ em Hành động vì sự tiến bộ của PN... Trí thức về nông thôn v.v... 5.3. CÁC TỔ CHỨC ASXH - Hai bộ máy chủ chốt nhất là : Bộ Lao động Thương Binh và xã hội và Ủy ban Gia đình, Dân số và trẻ em (UBGĐDSTE) Đây là hai bộ máy quốc gia có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến tận Phường xã. Điều đáng lưu ý là từ tháng 3/1996 UBGĐDSTE đã thực hiện một chủ trương lớn là chuyên môn hóa cán bộ thông qua chương trình đào tạo cá nhân CTXH tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
  8. - Các đoàn thể quần chúng như: Đoàn Thanh niên, Hội LHTN, Hội Phụ nữ, Hội chữ thập đỏ, Công đoàn... Tất cả đều có những chương trình chăm sóc trẻ em, tín dụng cho PN nghèo, chăm sóc sức khỏe, giúp đỡ các đối tượng nạn nhân xã hội v.v... - Các tổ chức phi chính phủ trong nước bắt đầu hình thành. Ở thành phố có hai tổ chức được biết đến nhiều là Hội Bảo Trợ Trẻ Em và Hội PN Từ Thiện. Từ ngày có quyết định 35 CP chính phủ ở Miền Bắc và một số tỉnh các tổ chức PCP Việt Nam lại phát triển nhanh hơn. Phổ biến nhất là dưới hình thức hội bảo trợ. Tuy nhiên vấn đề đặt ra hiện nay là nhà nhà, người người và tổ chức làm CTXH. Mạnh ai nấy làm, không có một đường lối chung, cũng không có cơ sở khoa học và luật pháp để phân biệt cách làm nào đúng hay chưa đúng và nhất là để loại trừ những lạm dụng nhân danh “từ thiện”, “xã hội”. Nguyên nhân bao trùm là sự yếu kém của bộ máy trách nhiệm cao nhất. - Các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các NGO quốc tế. Vai trò xúc tác của các tổ chức này rất quan trọng. Đặc biệt các tổ chức LHQ vừa đưa vào sự viện trợ tài chánh và kỹ thuật, vừa giúp cho VN tiếp cận. Các trào lưu quốc tế, đặc biệt cho lãnh vực ASXH phải kể đến vai trò của UNDP (chương trình PT LHQ), UNICEP đã và đang hỗ trợ rất nhiều cho lãnh vực trẻ em và gia đình, UNFPA (tổ chức kế hoạch hóa gia đình...). Có nhiều chục NGO (tổ chức phi chính phủ) quốc tế lớn nhỏ đóng chủ yếu ở Hà Nội và một số ít ở TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh. Còn tính luôn các NGO không đặt văn phòng ở VN thì con số lên tới hàng trăm. Có những NGO có tên tuổi và uy tín rất lâu đời đem lại cho VN triết lý, kiến thức và phương pháp phát triển vô cùng quý giá. Họ thật sự tôn trọng chủ quyền quốc gia và nền văn hóa của các nước mà họ giúp đỡ. Nhưng cũng có những tổ chức “từ thiện” được thành lập không thật sự vì nước mà họ tới “giúp đỡ”, nhưng mục đích ngấm ngầm bên trong là để nuôi chủng bộ của họ. Một chương trình, dự án có hại hay có lợi cho VN không phải là vấn đề quan tâm hàng đầu của họ. Rồi cũng có những tổ chức, cá nhân người nước ngoài, Việt kiều mượn cái nghèo của chúng ta để tự tiện gây quỹ, để tự tiện chi tiêu mà phía nhận hay cho đều không kiểm soát được. Còn về phương pháp, cách làm thì cũng có đủ thứ. Trong lãnh vực kinh tế nước ta có nhập rác, nhập trang bị “nghĩa địa” thì trong lãnh vực xã hội cũng có nhiều khả năng nhập những mô hình lỗi thời, có hại. 6. CẦN PHÁT HUY NHỮNG THUẬN LỢI VÀ TIỀM NĂNG TRONG NƯỚC Do bị cô lập với thế giới bên ngoài trong một thời gian dài ta lạc hậu so với đà tiến triển chung. Tuy nhiên trong khoa học xã hội cũng như trong khoa học kỹ thuật, ta có thể rút ngắn đoạn đường bằng cách bỏ qua các mô hình đã tỏ ra lỗi thời và tiếp thu những cái mới nhất nhưng phù hợp với chúng ta. Từ bên trong có những thuận lợi to lớn mà ta phải phát huy tối đa. Đó là: Quyết tâm của lãnh đạo quốc gia để đẩy mạnh PTXH. Định hướng xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh độc lập dân tộc, công bằng xã hội là nền tảng vững chắc cho PTXH. Phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo là môi trường thuận lợi để thực hiện PTCĐ. Các đoàn thể quần chúng với mạng lưới tận cơ sở nếu tiếp cận với những phương pháp tốt sẽ chuyển tải chúng nhanh chóng để nhân rộng trong quần chúng. Trong dân chúng, tiềm năng tương thân tương trợ còn dồi dào như “lá lành đùm lá rách”, “tình làng nghĩa xóm”, các bang, hội không mang tính chính thức. Các tổ tiết kiệm, tổ liên kết v.v... cần được nghiên cứu kỷ, củng cố tổ chức và phát huy tác dụng. N.T.O
  9. TÀI LIỆU THAM KHẢO ROMANYSHYN, JOHN M., Social Welfare - charity to Justice ( An sinh xã hội - Từ bác ái đến công bằng), New York : Random House, 1971. COMTON, BEULAH R. Introduction to Social Welfare & Social Work : Structure, Function & process ( Nhập môn về An sinh xã hội và CTXH : cơ cấu, chức năng và tiến trình), Illinois: The Dorsey Press, 1980. ZASTROW, CHARLES, Introduction to social Welfare institutions. Social problem, services and current issues ( Nhập môn về các thiết chế ASXH. Vấn đề xã hội, dịch vụ xã hội, và các vấn đề đương đại). Homewood, Illinois, The Dorsey Press, 1982. DIXON, JOHN. Social Welfare in ASia (ASXH ở châu Á), London, Croom Helm, 1988. United Nations, Guiding Principles for Developmental Social Welfare Policies and Programmes in the Near Future (Các nguyên tắc hướng dẫn cho các chính sách và chương trình ASXH phát triển cho tương lai gần), New York, 1988. II AN SINH NHI ĐỒNG VÀ GIA ĐÌNH I. MỞ ĐẦU ASXH quan tâm đến hạnh phúc của trẻ em sự vững mạnh của đời sống gia đình và quyền trẻ em. Trẻ em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ nên cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.
  10. Gia đình là môi trường tự nhiên cho sự phát triển tối đa hạnh phúc của trẻ để giúp trẻ có thể đảm đương được đầy đủ trách nhiệm của mình trong cộng đồng xã hội. Trẻ cần được trưởng thành trong môi trường tự nhiên, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm. Thế nhưng, trên thực tế xã hội biến đổi nhanh chóng, gia đình không thích ứng nổi với vai trò của mình, do đó nảy sinh ra nhiều vấn đề đối với trẻ. 2.- CÁC VẤN ĐỀ CỦA TRẺ TRONG HỆ THỐNG ASNĐ. Các vấn đề của trẻ được phân loại như sau: 1. Trẻ thiếu chăm sóc, bị bỏ rơi và lạm dụng ngược đãi a. Trẻ thiếu chăm sóc Trẻ sống trong gia đình nhưng bị bỏ bê, không chăm sóc về mặt thể chất hoặc tình cảm. Về thể chất: Bỏ trẻ sống dơ bẩn, áo quần tồi tệ, luộm thuộm, chỗ ngủ, miếng ăn không được chăm sóc, để ý tới. Trẻ không được chăm lo, chữa trị, đảm bảo an toàn về mặt y tế. Về trí tuệ và tình cảm: Trẻ không đến trường đều đặn, bỏ học trốn học. Nhu cầu được thương yêu rất quan trọng cho sự tăng trưởng cơ thể và phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ không được thỏa mãn nhu cầu này thường có những hiện tượng như rối loạn ngôn ngữ , rối loạn giấc ngủ, chậm phát triển tâm thần, có những hành vi quá khích, đập phá, gây hấn, khép kín, đòi hỏi... b. Trẻ bị bỏ rơi: Trẻ bị bỏ rơi hoàn toàn khi mới sanh hay khi gia đình có đổ vỡ lúc trẻ chưa đến tuổi thành niên. c. Trẻ bị lạm dụng ngược đãi về mặt thể chất và tinh thần: Trẻ bị đánh đập và để lại những thương tích trên thân thể do những vật dụng như lược chải tóc, cú đấm, dây điện, vợt đánh cầu, dao ,dây, chai bể, các vật dụng nóng như bàn ủi, nước sôi... Về mặt tâm lý trẻ bị chửi mắng, lăng nhục bằng lời, đe dọa đến khiếp sợ... Trẻ bị lạm dụng tình dục: bị ép buộc quan hệ tình dục với người lớn tuổi hơn, có kinh nghiệm bằng sức mạnh, đe dọa cưỡng bức... những người lớn tuổi này có thể là người thân trong gia đình, họ hàng , chòm xóm hay người lạ. Trẻ là nạn nhân tuổi từ mấy tháng đến lớn, nhưng nhiều nhất là lứa tuổi mười mấy. Hiện nay một chứng “bệnh” mới đang là một tai họa lớn tại các nước Á châu, đặt biệt là tại Thái Lan, Phi - lip - pin, Shri-Lanka, đó là bệnh thích làm tình với trẻ em (pedophyles). Bóc lột lao động: Trẻ làm công việc nặng nhọc của người lớn, lương rẻ mạt, sa thải tuỳ tiện. Trẻ có thể bị làm việc tại nhà, tại các xưởng, xí nghiệp, các nông trại, hầm mỏ... Trong điều kiện làm việc tồi tệ và như những nô lệ. (Ở vài nước châu Á tỉ lệ trẻ lao động chiếm 11% lực lượng lao động trong nước. Châu Phi 20%, châu Mỹ la tinh 26%, Ý (Napoli) hàng trăm ngàn trẻ lao động trong ngành da thuộc...) Trẻ không thể đi học và cam chịu nghèo khổ suốt đời. Các em có thể bị biến dạng hình thể, bị tổn thương tâm sinh lý, đặc biệt đối với trẻ làm nghề khuân vác nặng, dệt thảm, sản xuất diêm quẹt hay dịch vụ gia đình. Khuyến khích, bắt buộc trẻ đi xin, ăn cắp hoặc, hoặc làm gái. Khủng hoảng về môi trường sống, sức ép kinh tế, cô lập xã hội cũng góp phần vào sự ngược đãi trẻ. Các bậc cha mẹ tin tưởng vào kỷ luật sắt. Rượu và ma túy cũng góp phần trong một số trường hợp.
  11. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHA MẸ BỎ BÊ CON CÁI : Đa số gia đình này thuộc tầng lớp thấp trong xã hội, thiếu thốn về tài chánh, nhà ở. Trên 50% là gia đình chỉ có cha hoặc mẹ. Gia đình rất đông con. Các bà mẹ có kiến thức dưới trung bình. Những cha mẹ này là những người mệt mỏi về tinh thần lẫn thể chất, thất bại trong cuộc sống, tự cô lập mình, thiếu hy vọng. Là những người thiếu hoặc không có kinh nghiệm được yêu thương từ thuở bé. 2. Trẻ khuyết tật Đây là những trẻ em có nhu cầu được chăm sóc đặt biệt. Theo con số của Liên Hiệp Quốc (Chu Thái Thành, vấn đề thanh niên thiếu niên tàn tật ở nước ta, Tạp chí Cộng Sản 9/91), trên thế giới hiện nay có độ 500 triệu người khuyết tật, trong đó trẻ em chiếm độ 150 triệu nhưng chỉ có 1 triệu trẻ được giúp đỡ. Riêng tại Việt Nam số người khuyết tật khoảng 6 triệu người, tương đương 2,7% dân số . Trong số này có hơn 70% ở độ tuổi thanh thiếu niên. Người khuyết tật nói chung không được chăm sóc đến nơi đến chốn. Các loại khuyết tật: Khuyết tật về thể chất (physical impairment) như bại, liệt... Khuyết tật vế thính giác (hearing impairment) Khuyết tật về thị giác (visual impairment) Khuyết tật về trí tuệ (intellectual and mental impairment) như chậm phát triển, bại não, thiếu trí... 3. Trẻ phạm pháp: (Chỉ giới thiệu khái quát vì đã dược đề cập chi tiết trong phần tội phạm). III. VẤN ĐỀ LỚN CỦA TRẺ EM TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 1. Sức khỏe: Theo tài liệu của UNICEF báo cáo về tình hình trẻ em trên thế giới (12/1989): “hơn 1 tỉ người tức 1/5 nhân loại đã không bao giờ có được miếng ăn đầy đủ, không bao giờ có được nguồn nước sạch, cũng như nền học vấn tối thiểu và những điều kiện chăm sóc sức khỏe thích đáng”. Mỗi ngày có 40.000 trẻ chết vì những bịnh có thể ngừa được, vì suy dinh dưỡng, vì nguồn nước không sạch, vì tiêu chảy, vì không có kiến thức... Có 25% trẻ bị chết dưới 5 tuổi con số này chiếm 50% tổng số người chết thuộc các độ tuổi, 10% chết do đói và suy dinh dưỡng. Hàng năm có độ 200.000 trẻ bị ốm và tật nguyền do bại liệt, nửa triệu trẻ bị mù vì thiếu vitamin A. 1990 có độ 700.000 trẻ sơ sinh nhiễm virus Sida, phần lớn các em ở Châu Phi. 2. Trẻ lang thang đường phố Vấn đề trẻ bị bỏ rơi, thiếu chăm sóc dẫn đến nạn trẻ bỏ học, lang thang bụi đời. Trên thế giới hiện nay số trẻ này lên đến 100 triệu. Tại châu Mỹ La Tinh có 50 triệu, riêng Braxin có 30 triệu, Philippines 2,4 triệu và thành phố HCM độ hơn 15.000 em. Trẻ lang thang đường phố là những trẻ sống và làm việc hoặc ngủ ngay tại đường phố. Có thể phân loại trẻ em này như sau: Trẻ bị bỏ rơi hoàn toàn, không người thân, không gia đình phải tự kiếm sống và ở luôn ngoài đường. Trẻ cùng với gia đình lang thang trên đường phố. Trẻ có gia đình nhưng vì lý do nào đó sống lang thang không về với gia đình.
  12. Trẻ kiếm sống ngoài đường phố tối về với gia đình. Nguyên nhân dẫn đến vấn đề này là một chùm nguyên nhân mang tính cấu trúc trong đó vấn đề nghèo đói vẫn là cơ bản. Quá trình phát triển xã hội thiếu cân bằng làm nảy sinh những bất công trầm trọng, một số tầng lớp sống dưới mức tối thiểu và do đó bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Độ thị hóa dồn dập hỗn độn tạo ra từng lớp dân nghèo thành thị, những khu nhà ổ chuột. Gia đình nghèo đói, dốt nát, tan vỡ. Phần lớn các em xuất thân từ những gia đình này, bỏ nhà ra đi vì đói, vì ngột ngạt trong những khu nhà ổ chuột, vì bị đánh đập đối xử tàn tệ... Có khi bị rủ rê vì ở gần các khu ăn chơi, bến cảng, nhà ga... bị người lớn lợi dụng bắt đi ăn xin, ăn cắp để nuôi họ. Các nhà nghiên cứu cho rằng hoàn cảnh đầu đường xó chợ buộc các em đi vào những hành vi không tốt chỉ để giải quyết nhu cầu sống còn cơ bản, các em chỉ là nạn nhân. Thế nhưng xã hội đã nhìn các em như tội phạm và do vậy đã đẩy các em ra ngoài lề xã hội. 3. Trẻ em nghèo: Đây là những trẻ em không được đi học, bỏ học, vào đời sớm, có nguy cơ bỏ học vì gia đình nghèo không lo nổi, vì nghèo và chính bản thân cha mẹ không quan tâm đến việc học của con, vì không khai sinh, không hộ khẩu. Cũng giống như các em lang thang đường phố, các em làm những công việc bên ngoài như bán báo, vé số, đánh cao tuổiy, khuân vác, lượm ve chai, bịch nylon để phụ cha mẹ kiếm sống. Số trẻ bỏ học trong những năm gần đây gia tăng đến mức báo động. Theo điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 89 - 90 cả nước độ 12,7%, tại TP.HCM 6%, Đồng bằng sông Cửu long 18%, Minh Hải 30% (1989 - 1990). Các em bỏ học vì lý do kinh tế 53%, vì mất hào hứng trong việc học 19%. Tại TP. HCM các em xuất thân từ những gia đình ở các khu phố lao động, khu ổ chuột: Nhũng gia đình đi KTM trở về cuộc sống chưa ổn định. Những gia đình từ các tỉnh đến để kiếm sống. Gia đình có PHÁP THỰC HIỆN 1. Ở các nước Trên bình diện quốc gia, hệ thống An sinh Nhi đồng là các tổ chức từ trung ương đến địa phương bao gồm chính quyền và ngoài chính quyền có trách nhiệm thực thi việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em. HỆ THỐNG NÀY GỒM : Chính sách quốc gia về ASNĐ. Các vấn đề chính của trẻ em mà quốc gia cần giải quyết theo thứ tự ưu tiên như sức khỏe, dinh dưỡng, dịch vụ an sinh xã hội, giáo dục hướng nghiệp. Các nghiên cứu về nhu cầu trẻ để có cơ sở cho những chương trình hành động phù hợp với kế hoạch phát triển toàn bộ kinh tế - xã hội của quốc gia. Đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên môn để thực hiện chính sách ASNĐ. Cơ quan trung ương ( Bộ Xã hội, hay An sinh xã hội...) phụ trách về chính sách kế hoạch có những kiến thức khoa học xã hội ứng dụng ( Xã hội học, tâm lý học, CTXH, tư vấn tâm lý...). Bên cạnh đó là các tổ chức vế thiếu niên nhi đồng, bảo vệ bà mẹ trẻ em... Có ngân sách quốc gia, trích từ thuế má, để thực hiện những chương trình về ASNĐ. Luật về ASNĐ: Nguyên tắc chung về bảo vệ và chăm sóc trẻ Quyền, bổn phận và trách nhiệm của cha mẹ và những hỗ trợ cần thiết của xã hội cho cha mẹ nuôi dưỡng con. Bổn phận và trách nhiệm của cộng đồng, các cơ quan chức năng chăm lo về trẻ em.
  13. Các loại trẻ em đặt biệt cần được pháp luật bảo vệ và quy định luật pháp để bảo vệ trẻ. Kiểm tra, thực hiện và biện pháp chế tài có hiệu quả. Tòa án thiếu nhi. Các ngành có liên quan đóng góp vào hệ thống ASNĐ như giáo dục, y tế, xã hội, công an. Cấp quốc tế có cơ quan Liên hiệp quốc và các tổ chức thế giới về ASNĐ. (Giới thiệu UNICEF). 2. Tại Việt Nam Cho đến nay hệ thống ASNĐ tại Việt NAm vẫn chưa rõ nét. Mặc dù có nhiều tổ chức, đoàn thể quan tâm đến việc chăm lo cho trẻ em nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ vận động, hô hào, phối hợp chứ chưa thấy xác định rõ trách nhiệm, quyền lực cũng không có, phương tiện (khoa học - vật chất - ngân sách) cũng chưa đủ. Việt Nam đã có: Luật về quyền trẻ em (VN là nước thứ hai ký vào công ước Quốc tế về quyền trẻ em). Nhưng việc kiểm tra thực hiện và biện pháp chế tài chưa thấy nói đến. UBGĐDSTE / VN trước kia thuộc trung ương đoàn ở cấp TW và mặt trận ở cấp tỉnh thành, nay mới được thiết lập như một cơ quan chính quyền để hoạt động có hiệu quả hơn, nhưng kết quả chưa rõ nét. Bộ lao động -TBXH chăm lo cho trẻ mồ côi, trẻ phạm pháp, phần nào ở TP/HCM cứu trợ cho trẻ nghèo nhưng hiệu quả chưa cao. Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên có những hoạt động chăm lo cho trẻ theo kiểu phong trào. Tuy được giao cho chức năng phối hợp hoạt động các ban ngành phục vụ cho trẻ em UBGĐDSTE/VN chưa có thực lực vì chưa nắm được nội dung khoa học của ASNĐ, chưa có nhân sự chuyên môn, bộ máy được thiết lập tận cơ sở nhưng chưa hữu hiệu. Cho đến nay UBGĐDSTE đã được Quốc hội khóa 9 phê chuẩn để có quy chế bộ BVCSTE, sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ và chăm sóc trẻ đã được nhận thức cũng như việc huấn luyện nhân viên chuyên môn và tính cách khoa học trong lĩnh vực cũng đã được khẳng định. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều lúng túng trong hành động.() 3. Biện pháp thực hiện Nguyên tắc giải quyết chung trên thế giới là bảo vệ quyền trẻ em. Từ thời xa xưa trẻ em được coi như một tài sản của cha mẹ, họ có thể bán trẻ, bóc lột trẻ thậm chí có thể giết trẻ khi vừa mới sinh. Mãi đến thời kỳ kỹ nghệ hóa trẻ mới có được một số quyền và quyền của trẻ ngày càng mở rộng cho đến ngày nay. - Tại Mỹ dịch vụ trẻ em bắt đầu với trường hợp của Mary Ellen vào 1875. Em bị đánh đập nghiêm trọng và bị bỏ bê. Em được đưa ra tòa với sự bảo trợ của SPCA (The social Prevention of Curelty to Animals). Tuy nhiên vấn đề quyền trẻ em được thực sự đặt ra sau thế chiến thứ nhất với việc thành lập các tổ chức cứu trợ ở Anh và Thụy Điển 1919. Tuyên ngôn về quyền trẻ em (1924) do Hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trẻ em dựa trên Hiến chương về quyền trẻ em 1923 gồm 5 điều khoản. 1959 Liên Hiệp quốc công bố bản tuyên ngôn về quyền trẻ em gồm 10 nguyên tắc. 1989 Liên Hiệp quốc thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em từ tháng 9/1990. Công ước này trở thành luật quốc tế về quyền trẻ em, gồm có 54 điều khoản, được hầu hết các quốc gia ký công nhận. Đây là bước phát triển cao về quyền trẻ em, là cơ sở thúc đẩy các nước nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới. Dịch vụ bảo vệ trẻ em nhằm bảo vệ, chăm sóc và phòng ngừa. Dịch vụ này chú trọng đến việc phục hồi thông qua sự nhận thức và chữa trị tận gốc vấn đề.
  14. a. Hỗ trợ trẻ sống tại gia đình Nhà trẻ, trường mẫu giáo. Trung tâm chăm sóc ban ngày cho trẻ nghèo với bữa cơm trưa. Trung tâm y tế xã hội cho trẻ đặt biệt như suy dinh dưỡng, khuyết tật, tâm thần. Trung tâm mở dành cho trẻ em đường phố có chỗ ngủ. Là nơi gặp gỡ tiếp xúc với trẻ từ đó có hướng thích hợp giúp các em. Công tác xã hội trường học ; ngăn ngừa bỏ học, giải quyết vấn đề trẻ cá biệt, giúp trẻ khó khăn thích nghi với đời sống trường học. b. Hỗ trợ gia đình, tăng cường khả năng nuôi dạy con cái. Gia đình trị liệu ; giúp gia đình xử lý các khó khăn trong gia đình, giúp đỡ các gia đình có thành viên phạm pháp hay tâm thần, nghiện ngập hay bị khủng hoảng. Giúp vốn : kèm theo tư vấn về kinh doanh và tâm lý xã hội. Các chương trình tín dụng, vay vốn nâng cao vai trò và quyền lực phụ nữ. Các trường học, CLB dành cho các bậc cha mẹ. Nhóm tự giúp. Nhân viên phụ giúp việc gia đình thay thế cha mẹ khi đau ốm để chăm sóc trẻ trong thời gian hạn định. Các tổ chức bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Các chương trình phát triển cộng đồng để nâng cao mức sống của dân chúng, trong đó trẻ em và gia đình nghèo là đối tượng ưu tiên. Chú trọng đến công đồng dân cư. Vận động bà con từ chính quyền đến dân quan tâm, chăm sóc hướng dẫn trẻ của mình bằng chính sức lực mình trước tiên và ngay tại cộng đồng mình để ngăn ngừa những tệ nạn. c. Các dịch vụ thay thế gia đình Gia đình nuôi hộ. Gia đình nhận nuôi hộ một hoặc một số trẻ dưới sự hướng dẫn của một cơ quan xã hội. Đây là trường hợp dành cho các trẻ em bị ngược đãi và lạm dụng tới mức phải cách ly với cha mẹ ruột. Dưới sự hướng dẫn của một nhân viên xã hội chuyên nghiệp các gia đình này chăm sóc và giúp trẻ phát triển lành mạnh, và trở lại cuộc sống bình thường. Cha me nuôi hộ không có quyền hạn và trách nhiệm của cha mẹ ruột. Quyền này thuộc cơ quan xã hội chăm lo cho trẻ. - Con nuôi: Là hình thức được pháp chế hóa vì lợi ích tốt nhất cho trẻ. Cha me nuôi có quyền và trách nhiệm như cha mẹ ruột. Tuy nhiên vì có thể phát sinh ra nhiều vấn đề tâm lý đối với đứa trẻ và cha mẹ nuôi trẻ, vì có thể xảy ra những sự lạm dụng nên dịch vụ con nuôi phải được một cơ quan xã hội giám sát và hướng dẫn trong thời gian một vài năm đầu. Thủ tục xin và nhận con nuôi phải rất chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi trẻ. Con nuôi trong nước nên được khuyến khích còn con nuôi ra nước ngoài phải được sự giám sát chặt chẽ bởi cơ quan pháp lý và xã hội của hai nước để tránh nguy cơ lạm dụng. d. Nuôi dạy tập trung: Ở các nước Âu châu người ta không còn sử dụng phương pháp này. Sau nhiều thập niên thực hiện các nước Phương Tây đã phát hiện ra tác hại lớn lao của việc nuôi dạy tập trung. Trẻ thiếu bầu không khí ấm cúng của gia đình, trẻ bị tách rời khỏi xã hội bên ngoài. Trẻ thiếu tình thương và môi trường thuận lợi dẫn tới tình trạng chậm phát triển tâm thần, kém thông minh, không phát triển được nhân cách, không thành đạt về học vấn. Ít học được kỹ năng làm cha mẹ và thường khi trưởng thành có thể phạm pháp, nghèo và bị cô lập.
  15. Nuôi dạy tập trung có thể áp dụng được với một số em phạm pháp nặng, rối loạn nhân cách nặng cần phải cách ly để tránh nguy hiểm cho chung quanh. Số trẻ nuôi tập trung không nên quá 25, 30 em và trung tâm nên để mở để có mối quan hệ với cộng đồng, xã hội bên ngoài hầu giúp trẻ bình thường hơn. V. KẾT LUẬN So với các nước phương tây, Chúng ta chưa có một hệ thống ASNĐ rõ ràng và hoàn chỉnh, trong đó trẻ em nằm trong đối tượng được các cơ quan bảo trợ ASNĐ trợ cấp và chăm sóc cho đến 16 tuổi, hoặc 18 tuổi tùy quốc gia. Tuy nhiên bên cảnh mặt tốt đẹp của nó là trẻ được sự đảm bảo về mặt sức khỏe và học vấn và các điều kiện về an toàn xã hội và phát triển khác, có thể xoay xở tự vươn lên và thành công trong xạ hội thì cũng có một số người ỷ lại, lười biếng trông chờ vào trợ cấp và nảy sinh các tệ nạn khác trong xã hội. Ví dụ khuyến khích trẻ cách ly với gia đình quá sớm, khiến cho nền tảng gia đình càng ngày càng không vững chắc. Việt Nam chưa có được sự bao cấp về ASNĐ nhưng với truyền thống muôn đời của dân VN “lá lành đùm lá rách” nhiều chương trình tự phát mọc lên để chăm lo, giúp đỡ cho trẻ. Tuy nhiên làm việc với tấm lòng không chưa đủ, chúng ta cần phải khoa học hóa việc làm của chúng ta. Cần phải đưa kiến thức khoa học cũng như giáo dục xã hội để có khái niệm rõ ràng về ASNĐ. Phải nhận thức rõ về tiềm năng quý báu của dân tộc: yếu tố cộng đồng làng mạc với lối sống chan hòa đại gia đình đầy tình nghĩa. Phải biết giữa gìn và phát huy những truyền thống này một cách có khoa học, có phương pháp để góp phần vào sự vững mạnh của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO - ESPINOLA, BASILICA. In the street. Working with street children in Asuncion, UNICEF. : Asuncion, 1987. - FRIEND OF WOMAN. Bibliography on child abuse and neglect Norway. : radda barnen, 1988. - Nhiều tác giả : Mobilizing community Action for street children. Manila. KH 1989. - Nhiều tác giả : Việt Nam với công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em, H.: NXB Sự Thật,1991 - ZASTROW, CHARLES. Social welfare institutions, Chicago. : The Dorey Press, 1989. - QUỸ BẢO TRỢ TRẺ EM. Kết quả khảo sát tình hình trẻ em lang thang, hư hỏng phạm pháp tại TP. HCM, 1989. - SHIRLEY, ALLEN. Alternatives to care for children in Asia (1990), SCF UK, 1990 (Những phương cách thay thế cho cách làm cũ trong chăm sóc trẻ em ở Châu Á, Nhóm NCCTXH TP. HCM, 1991) - BRIELAND, DONALD. Contemporary social Work, New York. : Mc Graw, hill book Company, 1980 -ENNEW,JUDITH, The next generation - Lives of 3rd World children, London. : Zed books Ltd, 1989. - Tổ chức hỗ trợ - giáo dục trẻ em thiệt thòi. Vấn đề quyền trẻ em, H. : NXB sự thật, 1992. - ETZEN, D. STANLY, Social problems. USA, 1983. - KADUSHIN, ALFRED, child welfare services. New York., 1980. - DALLAPE, FABIO, Trẻ em đường phố , Terre des Hommes, Lausanne, TP.HCM, 1991. - Thảm cảnh của trẻ em ở Xao Paolo, SGGP 28-05-92. - Trẻ em Ấn Độ đòi chính phủ can thiệp nạn bóc lột sức lao động trẻ em. Phụ nữ 3-10-92. - Đường dây buôn lậu trẻ em ở Hungary. Người LĐ cuối tuần số 112, 1993.
  16. III CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG LÃNH VỰC SỨC KHỎE I- MỞ ĐẦU : 1.1. Khái niệm sức khỏe Khi nói đến sức khỏe, ta thường nghĩ đến khái niệm y tế, một khái niệm gắn liền với bịnh viện, vấn đề điều trị, cấp cứu, y dược... Định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) : Sức khỏe là tình trạng thoải mái hoàn toàn về mặt thể chất, tâm thần và xã hội (không phải chỉ là tình trạng không có bịnh tật). 1.2. Sức khỏe Sức khỏe là một lãnh vực quan trọng của nền an sinh xã hội, nền tảng đời sống con người, vượt khỏi phạm vi y học, gắn liền với cuộc sống, cái chết, hạnh phúc con người và cộng đồng, với văn hóa, kỹ thuật của một xã hội. Sức khỏe là mục tiêu và là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế xã hội. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe : Sức khỏe gắn liền với : Trình độ kinh tế và tài nguyên xã hội : thuyết 3/4 ở các nước nghèo (3/4 dân số ở nông thôn, 3/4 bác sĩ ở thành thị, 3/4 tử vong ở trẻ em do những bệnh có thể phòng tránh được, 3/4 kinh phí dành cho các bịnh viện thành phố, 3/4 trang thiết bị dành phục vụ cho số ít người). Nạn thất nghiệp là nguyên nhân của một số bịnh tật (tim mạch, tâm thần...) Trình độ văn hóa, giáo dục : các thói quen, lối sống gây bịnh, sự mê tín trong trị bịnh... Trình độ kỹ thuật : khoa học kỹ thuật giúp chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn, nhưng cầu kỳ, nặng kinh doanh, phục vụ thiểu số. Yếu tố dân số : khi dân số gia tăng, sự đáp ứng nhu cầu sức khỏe cho từng người giảm, đặc biệt là dành cho phụ nữ và trẻ em, bất công xã hội thêm trầm trọng. Yếu tố môi trường : không khí, nước, thực phẩm, nơi ở, nơi làm việc... Do đó, chăm sóc sức khỏe là một nhu cầu thiết yếu cho con người. Nó được thực hiện bằng những phương pháp phối hợp như : Kỹ thuật thích hợp, rẻ tiền, dễ tiếp cận người dân Sự nâng cao hiểu biết Sự tham gia Sự tự lực, tự quyết của bản thân, cũng như của cộng đồng II. VAI TRÒ CTXH TRONG LÃNH VỰC SỨC KHỎE 2.1. Các nhu cầu tâm lý xã hội của cá nhân và gia đình người bịnh Một nữ Bác sĩ Ấn độ Mira Shiva đã viết : “Trong bảo vệ sức khỏe, mối quan hệ hài hòa giữa tinh thần và thể xác, cái tôi và người khác, con người và thiên nhiên là cơ bản cho sức khỏe”. CTXH đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo mối quan hệ hài hòa ấy, giúp cá nhân người bịnh và gia đình họ thỏa mãn nhu cầu tâm lý, cải thiện mối quan hệ và thích nghi với môi trường sống. Để làm được những công việc đó, nhân viên xã hội phải tìm hiểu nhu cầu tâm lý và xã hội của cá nhân và gia đình người bịnh, cụ thể là :
  17. Bịnh nhân luôn luôn rất lo âu về tình trạng gia đình mà mình phải xa rời, nhất là gia đình đang gặp khó khăn. Việc xa rời thân nhân là một yếu tố bất thuận lợi cho sự bình phục. Người bị bịnh hiểm nguy như : ung thư, sida, người sắp chết càng cần sự hỗ trợ tâm lý. Ngoài ra, bịnh nhân cần được giúp thay đổi thói quen, lối sống, môi trường. Sau khi bình phục, sự tái nội nhập vào cuộc sống bình thường cũng không dễ dàng, nếu bịnh nhân không được khuyến khích lấy lại tự tin, cải thiện các mối quan hệ. 2.2. Lịch sử hình thành ngành CTXH trong lãnh vực sức khỏe: Lãnh vực chính của CTXH ngành y tế là bịnh viện. Công tác xã hội lần đầu tiên được đưa vào bịnh viện năm 1905 tại Boston và đến nay. Tại Mỹ, phần lớn mọi bịnh viện đều có Phòng CTXH và đó cũng là điều kiện để được công nhận là hội viên của Hội Các Bịnh viện Mỹ. Tại hầu hết các nước trên thế giới ngày nay, các bịnh viện đều có Phòng CTXH. Ngoài các dịch vụ xã hội trực tiếp với người bịnh, nhân viên xã hội còn liên hệ đến gia đình và cộng đồng người bịnh và ngày càng tham gia tích cực vào công việc giáo dục và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Nói chung, ngành CTXH can thiệp vào ở 3 cấp bậc : Cấp chính sách, kế hoạch, giảng dạy, quản lý và phòng ngừa Cấp thực hiện : nhân viên xã hội là một thành phần trong ê-kíp điều trị của bịnh viện Cấp hậu trị liệu : vai trò tư vấn của nhân viên xã hội khi bịnh nhân trở về cuộc sống bình thường. 2.3. Vai trò của nhân viên xã hội ở bịnh viện Tại vịnh viện, thường nhân viên xã hội là một thành phần trong ê-kíp trị liệu (bao gồm bác sĩ, nhà tâm lý, y tế, dược sĩ, chuyên viên kỹ thuật, nhân viên xã hội). Nhân viên xã hội đóng vai trò quan trọng việc tìm hiểu nguyên nhân bịnh, phương pháp chữa trị thích hợp do họ có được thông tin từ điều kiện sinh sống, môi trường, thói quen, cá tính, thu nhập của bịnh nhân và họ giúp làm rõ những gì mà thầy thuốc không thấy được, giúp thầy thuốc tránh những sai lầm (thường kém được chuẩn bị về mối liên lạc giữa bịnh nhân - thầy thuốc - gia đình trong tiến trình điều trị. Nhân viên xã hội tùy vào trường hợp cụ thể mà áp dụng các phương pháp cá nhân hay nhóm. Nhân viên xã hội tham gia vào kế hoạch xuất viện của bịnh nhân, giúp họ trở về với gia đình và cách dưỡng bịnh tại nhà. Có thể nêu một số công việc cụ thể của nhân viên xã hội tại bịnh viện : Giúp bịnh nhân hoa liễu, sơ gan khắc phục cảm giác xấu hổ, tội lỗi. Giúp bịnh nhân đau tim cần biết cách nghỉ ngơi, tránh những áp lực (stress), ăn kiêng. Giúp bịnh nhân bớt sợ trước khi mổ. Gặp người thân, bạn bè của bịnh nhân (tìm hiểu và nhờ họ hỗ trợ trong điều trị) - Tư vấn cho bịnh nhân chờ chết : giúp họ chết thanh thản. 2.4. Vai trò của NVXH với gia đình và cộng đồng Cùng với sự phát triển của các ngành chuyên môn khác nằm bên ngoài bịnh viện (khuyết tật, nghiện, n Giúp những người mẹ còn quá nhỏ tuổi (cá nhân - nhóm) Tại cộng đồng, NVXH cùng với nhân viên ngành y tế thực hiện các dịch vụ như sau : Tư vấn về kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe và bà mẹ trẻ em (trước và sau khi sinh), dinh dưỡng Phục hồi thể chất và xã hội cho người tàn tật Giáo dục sức khỏe cho trường học và gia đình Chủng ngừa và phòng ngừa bịnh tật Vận động tận dụng tài nguyên xã hội
  18. Vệ sinh môi trường (duy trì và cải thiện các điều kiện môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe như : không khí, nước uống, thức ăn, nơi vui chơi giải trí... bằng luật lệ, quy định) Giáo dục và thông tin, khuyến khích người dân tổ chức lại các vấn đề sức khỏe hiện có Sự hình thành công tác sức khỏe cộng đồng và nhân viên sức khỏe cộng đồng bắt nguồn từ ý thức nhận định phương hướng sai lệch của bịnh viện, dễ đầu tư vào kỹ thuật cao cấp, cầu kỳ, tốn kém mà không nhìn thấy các vấn đề toàn diện của cộng đồng, bịnh viện ngày càng tách rời các vấn đề sức khỏe của cộng đồng. Bằng công tác sức khỏe cộng đồng, chúng ta mới mở rộng được mạng lưới săn sóc sức khỏe đến tận nơi người dân sống và lao động, tạo sự tham gia chủ động và tích cực của cộng đồng, để họ tự trách nhiệm, tự giải quyết những vấn đề sức khỏe và phát triển bằng chính họ, bằng những phương pháp thích hợp của họ. 2.5. Các chính sách, biện pháp an sinh xã hội dành cho người bịnh ở một số nước Theo nguyên tắc, việc bảo vệ sức khỏe ở một số nước phát triển nằm trong lãnh vực bảo hiểm xã hội, dành cho mọi người (lãnh vực công cũng như tư). Nguồn kinh phí được trích từ thuế thu nhập và thuế lợi tức. Bảo hiểm sức khỏe được thực hiện ở các lãnh vực như : phòng ngừa, chữa bịnh (nội trú - ngoại trú), cấp cứu tai nạn, sức khỏe tâm thần, các dịch vụ xét nghiệm, thuốc men... Có thể phân biệt hai loại bảo hiểm sức khỏe : một loại dành cho người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên bao gồm các bảo hiểm về xét nghiệm, nằm viện hay chăm sóc tại nhà, thuốc men (medicare). Nhà nước đài thọ 50% bất kể bịnh nhân cao tuổiu hay nghèo và một loại dành cho người nghèo, thu nhập thấp, người cao tuổi, người khuyết tật, gia đình có con còn phụ thuộc (medicaid : nhà nước đài thọ 100% và trả thẳng cho bịnh viện, bác sĩ hay tổ chức y tế...). Tuy nhiên, chi phí chăm sóc sức khỏe quá cao đã làm phát sinh sự gian lận nơi thầy thuốc và bịnh viện nặng kinh doanh hơn là đáp ứng như cầu của cộng đồng. Chế độ bảo hiểm sức khỏe tại Mỹ nặng về lợi nhuận cùng với trình độ cao về kỹ thuật, chiếm 9% tổng thu nhập quốc dân nhưng lại ít hiệu quả hơn chế độ bảo hiểm sức khỏe tại Anh, chú trọng về cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân và chỉ chiếm 6% tổng thu nhập quốc dân. III. VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TẠI VIỆT NAM 3.1. Các yếu tố dân số, kinh tế, văn hóa, giáo dục tác động đến tình hình sức khỏe Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới (1992 : 69 triệu và dự trù 80 triệu dân đến năm 2000) với tốc độ gia tăng dân số là 2,2%. Giáo Sư Phạm Song, Cựu Bộ trưởng y tế cho biết : Năm 1954 1989 - Tuổi thọ 30 - 32 tuổi 60 - 62 tuổi - Tỷ lệ trẻ chết dưới 1 tuổi 300%o 38%o - Số Bác sĩ / dân 1/180.000 1/2.950 - Biết chữ 10% 85% - Tiêm chủng - 80% Nếu so sánh từ năm 1945 đến nay, việc chăm sóc sức khỏe của chúng ta có nhiều tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, vì nền kinh tế, giáo dục chưa phát triển, không theo kịp đà phát triển mạnh của dân số nên vấn đề sức khỏe tại Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn nan giải. Mật độ dân số, nhất là ở các thành phố lớn, ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường càng trầm trọng, giao lưu trong và ngoài nước nhiều, việc quản lý xã hội còn trì trệ, do đó dễ gây ra các bịnh nhiễm khuẩn và siêu vi như bịnh sốt xuất huyết (dịch năm 1987 : 25.972 cas và 1991 : 6.591 cas), dịch tả, bịnh đường hô hấp, đường ruột (nhiễm khuẩn đường ruột ở trẻ tại miền Bắc : 70 - 85 % và ở miền Nam : 85%), đặc biệt bịnh hoa liễu, sốt rét (40% dân số
  19. cả nước nằm trong vùng nguy cơ bị bịnh) và nguy cơ đe dọa của bịnh sida. Khí hậu, lối sống, tập quán ăn ở có ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe : Việt Nam có tỉ lệ 57% người mắc bịnh tim mạch (cao huyết áp, nhồi máu cơ tim) trên tổng số người bịnh và tỉ lệ tử vong rất cao (63%) Nạn nạo phá thai dưới 20 tuổi : tại Bịnh viện Phụ sản Từ Dũ trong 6 tháng đầu năm 92 có 12.371 cas (trong đó có 683 cas ở lứa tuổi 14 - 19 tuổi, khoảng 5,52%). Ngoài ra, các nguyên nhân chính đưa đẩy đến suy sụp tinh thần để rồi tự tử ở những người tự tử tại TP HCM là thất nghiệp (68% của lứa tuổi 16 - 25) và khó khăn kinh tế (45% của lứa tuổi trên 25), nhất là ở lứa tuổi 16 - 25 và nguồn gốc bất hoà chính là gia đình. Tai nạn giao thông tại TP HCM cũng đang là mối lo cho mọi người (năm 1990 : 2.792 vụ, năm 1991 : 2.998 vụ được đưa đến Trung tâm Cấp cứu Saigon trong quý 1/92 có 249 vụ, gây 110 người chết và 286 người bị thương).() 3.2. Nhu cầu sức khỏe và vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người nghèo Bịnh tật thường đi liền với nghèo đói. Người nghèo ít quan tâm đến sức khỏe của mình và vì không tiền nên ít khi chủ động đi tìm sự trợ giúp của ngành y tế. Do đó, tỷ lệ bịnh mãn tính ở người nghèo rất cao và khi họ đến với bịnh viện, chính là lúc bịnh đang ở giai đoạn cuối, khó trị và nguy cơ tử vong cao. Họ cần được hưởng thụ từ các chương trình săn sóc sức khỏe ban đầu, cụ thể là : Chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và KHHGĐ. Chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ Chương trình dinh dưỡng bà mẹ và trẻ em (tỷ lệ trẻ sơ sinh đến 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 51%) Chương trình vệ sinh môi trường - Chương trình phòng chống bịnh xã hội. Các chương trình này sẽ mang lại hiệu quả nếu cùng kết hợp với các nhân viên sức khỏe cộng đồng cùng mang dịch vụ sức khỏe đến với họ và qua sự giáo dục sức khỏe giúp họ tự nhận thức vấn đề thay đổi những thói quen, tập quán có hại cho sức khỏe. Hiện nay, trạm y tế phường, xã chưa đủ khả năng đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho người nghèo tại địa bàn dân cư và các bịnh viện cũng thường bị ngập tràn bởi các bịnh nhân và thân nhân của họ. Điểm đặc biệt ở gia đình Việt Nam là khi người thân bịnh nằm viện thì cuộc sống của gia đình bị xáo trộn và thu nhập của gia đình bị ảnh hưởng rất nặng và đôi khi kéo theo sự suy sụp sức khỏe nơi người khác trong gia đình. Người nghèo thường có khái niệm hạn hẹp cho rằng sức khỏe là thuốc và họ có khái niệm này cũng do thái độ của thầy thuốc. Thầy thuốc thường không màng giải thích cho bịnh nhân về bịnh tình của họ, hoặc kê toa theo yêu cầu của bịnh nhân, hoặc xem người bịnh như “người chẳng biết chi”. Do đó, xu hướng đúng đắn trong việc bảo vệ sức khỏe là tạo sự cân bằng giữa 3 yếu tố tác động : môi trường, dinh dưỡng, và thuốc. Đối với các bịnh của nghèo đói và dốt, thuốc không đẩy lùi tệ nạn mà là các biện pháp ở lãnh vực kinh tế - xã hội. Hiện nay, Sở Y Tế thành phố Hồ Chí Minh đang dự trù thực hiện bán phiếu bảo hiểm sức khỏe. Người mua phiếu bảo hiểm sẽ được điều trị miễn phí. Đó là một nhu cầu cần thiết, nhưng đối với người nghèo thì họ có quan tâm đến không ? Người nghèo điều trị tại bịnh viện, không đủ khả năng thanh toán viện phí phải xin giấy xác nhận của địa phương cư trú để được miễn giảm, nhưng đối với người nghèo không hộ khẩu hoặc nhà ở phải bỏ trốn bịnh viện hoặc không còn tiền xe để về nhà. Nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên, nay đã hình thành một vài loại hình công tác xã hội tại một vài bịnh viện thành phố Hồ Chí Minh như ở Viện Tim (nhân viên xã hội đến tận gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh thực nhằm xét miễn giảm viện phí cho bịnh nhân), ở Bịnh viện Phụ Sản Từ Dũ (có các dịch vụ trợ giúp tiền xe về nhà, cấp sữa, quần áo, ngăn ngừa bỏ con, giới thiệu cha mẹ nuôi, tư vấn cho người muốn phá thai...). Trung tâm Cấp cứu
  20. Saigon đang rất cần người giúp tìm hiểu nguyên nhân cho những trường hợp tự tử, giúp gia đình giải quyết mâu thuẩn, ngăn ngừa tự tử lần thứ 2 của người tự tử được cứu sống vì người tự tử lần thứ 2 thường có nguy cơ tử vong cao. Đó là những bước ban đầu của các dịch vụ CTXH trong khi còn chờ đợi sự quan tâm của giới hữu trách trong việc đề ra các chính sách xã hội cũng như giúp ngành khoa học CTXH có điều kiện để hoạt động và phát triển. IV. KẾT LUẬN Tại Hội nghị Quốc tế Arlington (Mỹ) về “Ảnh hưởng các chiến lược và chính sách quốc tế để tiến tới một thế giới khỏe mạnh hơn” (tháng 6/89), nhà giáo dục về sức khỏe David Werner tỏ ra bi quan cho viễn cảnh tương lai về sức khỏe cho con người : “Không có sức khỏe cho một ai vào năm 2000" (Health for no one by the year 2000). Bi quan vì tình trạng bất công, nghèo đói, suy dinh dưỡng vẫn cứ gia tăng, các nước nghèo vẫn tiếp tục mang nợ, nạn dốt và bịnh tật càng nhiều hơn trong khi các công ty đa quốc gia phát triển mạnh ngành công nghiệp giết người (rượu, thuốc lá, độc dược) tàn phá môi sinh. Sức khỏe cho con người cuối cùng nằm trong tay các cường quốc, các đại công ty. Do đó, tuyên bố Alma - Ata (tháng 9/78) khẳng định chăm sóc sức khỏe là quyền cơ bản của con người và là một bộ phận của công bằng xã hội. Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân của Việt Nam (1990) có nêu : ”Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe... Bảo vệ sức khỏe là sự nghiệp của toàn dân (điều 1, chương 1). Luật có quan tâm đến nhiều lãnh vực cần thiết, nhưng còn chung chung, chưa cụ thể rõ ràng ở từng lãnh vực (như trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức xã hội, quyền được khám và chữa bịnh...). Vấn đề trọng tâm của chúng ta là phải đẩy mạnh giáo dục sức khỏe, tiếp cận được với người dân tại cộng đồng, song song với việc phát huy vai trò của các tổ chức nhân dân, các tổ chức phi chính phủ và của các ngành CTXH. Nhân viên xã hội cần có mặt tại các bịnh viện (như Trung tâm Cấp cứu, Phụ sản, Lao, Hoa liễu, Nhi v.v...). Một phòng xã hội tại một bịnh viện sẽ giúp được nhiều vấn đề cho bịnh viện, cho trị liệu và cả những vấn đề mà luật, chính sách xã hội chưa đề cập đến. Chúng ta có may mắn còn duy trì nói chung một nền văn hóa Đông Phương đặt nặng giá trị tinh thần về lối sống cũng như mối quan hệ giữa người và người, cái đang thiếu ở xã hội vật chất Phương Tây. Chính Phương Tây cũng đang trở về với văn hóa Đông Phương để tìm cái nghĩa cần có cho cuộc sống, cái lạc quan yêu đời và sự cân bằng hài hòa giữa nội tại và môi sinh. Đông Y vẫn cổ vũ cho lối sống ấy để có được một nền cơ bản cho sức khỏe lâu dài. N.N.L TÀI LIỆU THAM KHẢO - Charles Zastrow, Introduction to Social Welfare Institutions, Illionis, 1986. - Ronald C.Federico, The Social Welfare Institutions, Toronto, 1980. - The Health Development No 82, April 1990 - Nguyễn Thị Oanh : Thuốc cho con người - BS Đỗ Hồng Ngọc, Sức khỏe và chăm sóc sức khỏe, báo KHPT, số 467, trang 2. 1992. Bài đọc 1 GIA ĐÌNH ẢNH HƯỞNG TỐT TRÊN SỨC KHỎE Để chống lại sự căng thẳng thần kinh, không gì sánh ngang với một gia đình êm ấm. Đó là kết luận rút ra từ những cuộc nghiên cứu gần đây. Ethel Roskies, thuộc Đại học Montréal chứng minh rằng những phụ nữ đi làm việc sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn khi họ có một người chồng tốt và những đứa con ngoan.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2