
I. AN SINH XÃ HỘI, MỘT HỆ THỐNG THIẾT YẾU TRONG BỘ MÁY QUỐC
GIA HIỆN ĐẠI
1. SỰ NẢY SINH CỦA CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ
CHUYỂN BIẾN CỦA TỔ CHỨC AN SINH XÃ HỘI TRÊN BÌNH DIỆN QUỐC
GIA.
Đời sống con người luôn luôn gặp những trắc trở: bệnh tật, tang tóc, mâu thuẫn, chia ly
v.v... Trong các thành viên của xã hội luôn luôn có những thành phần không tự lực được
như cô nhi, quả phụ, người cao tuổi yếu, tật nguyền. Tuy nhiên trong xã hội tiền công
nghiệp, quan hệ gia đình rất chặt chẽ, đại gia đình là một chỗ dựa vững chắc. Một người
bịnh, một cụ cao tuổi hiện diện trong gia đình không phải là một gánh nặng. Luôn luôn có
người ra vào, có thời gian chăm sóc. chòm xóm còn tới thăm hỏi tặng quà, tặng bánh,
thuốc men. Một đứa trẻ mất cha mẹ ở với ông bà, cô chú là chuyện hoàn toàn bình thường
chỉ thêm một miệng ăn tham gia vào buổi cơm gia đình đạm bạc nhưng gạo, rau không
thiếu.
Ngoài đại gia đình cộng đồng làng mạc Việt Nam thời xa xưa có công điền, công thổ dành
cho cô nhi quả phụ. Ghé qua nhà chùa lúc nào cũng ít lắm là được một bữa cơm chay. Thời
trung cổ giáo hội Thiên Chúa giáo ở Phương Tây có những hoạt động từ thiện phong phú
cho những người lỡ đường, sa cơ v.v...
Nếu lúc nào cũng có những thành phần “yếu kém” thì xã hội truyền thống cũng luôn luôn
có những cơ chế tự nhiên, vô hình hay không tên mang lại cho họ một sự trợ giúp.
Nhưng với sự phát triển của công nghiệp, với quá trình đô thị hóa thì vấn đề không còn
đơn giản. Từ sự chuyển biến nhanh chóng của xã hội, nhiều vấn đề con người rất phức tạp
nảy sinh và có tầm vóc lớn.
Song song với cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh vào thế kỷ thứ 17 xã hội Phương Tây
bắt đầu chứng kiến những vấn đề có tầm vóc to lớn và phức tạp hơn như nạn thất nghiệp
của hàng vạn lao động khi các xí nghiệp thất bại, nạn mãi dâm với tầm vóc rộng rãi, nạn
bóc lột sức lao động của trẻ em v.v... Rồi kế đến là các tệ nạn xã hội khác như tội phạm,
nghiện ngập, rượu chè với tính chất và tầm cỡ mà xã hội nông nghiệp, cổ truyền chưa biết
đến.
Đó là các vấn đề xã hội (social problems) theo nghĩa khoa học hiện nay xuất phát không từ
sự yếu kém của từng cá nhân mà là hậu quả của các quá trình kinh tế xã hội. Sự phát triển
nhà máy ở các thành phố lớn thu hút các lao động nông thôn. Rời bỏ làng mạc, xóm giềng,
gia đình, họ sống đơn độc sinh ra rượu chè, cờ bạc. Thất nghiệp, họ biến thành đội quân
nghèo đói thiết lập các khu ổ chuột. Phụ nữ thất nghiệp chỉ còn con đường mãi dâm. Người
cao tuổi nua phải đi ăn xin để kiếm sống.
Ở nông thôn, nông dân thường dựa vào sự ban bố của các lãnh chúa phong kiến. Khi chế
độ phong kiến suy sụp, nghèo đói phát triển tràn lan. Đại gia đình, nhà thờ không đủ để đối
phó nữa. Do đó từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18 nước Anh đã ra những đạo luật để giải quyết
những vấn đề người nghèo, nạn hành khất v.v... Đạo luật Elizabeth cho người nghèo ban
hành năm 1601 được xem như một ví dụ điển hình của sự hình thành hệ thống an sinh xã
hội quốc gia nhằm:
- Tạo công ăn việc làm cho người nghèo còn sức lao động
- Mở các viện dưỡng lão cho người cao tuổi yếu, tàn tật, mất sức lao động...
- Bảo trợ trẻ mồ côi, hay bị bỏ rơi bằng cách gởi làm công, học nghề tại các gia đình,
doanh nghiệp v.v...
Từ đó công tác xã hội, không còn là công tác tự nguyện cá nhân hay nhà thờ mà là nhiệm
vụ của nhà nước. Hàng trăm hàng ngàn bộ luật khác được ban hành mang tính xã hội như
luật gia đình, luật lao động, luật bảo trợ trẻ em, luật bảo vệ người khuyết tật, luật con nuôi

v.v... Nhiều chính sách, chương trình, dịch vụ rất đa dạng, nhiều tổ chức, đoàn thể xuất
hiện để chăm sóc, hỗ trợ những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội có nhu cầu đặc biệt.
Hệ thống an sinh xã hội cấp quốc gia hình thành từ đó với một bộ máy nhà nước phụ trách
các vấn đề xã hội như một thiết chế bên cạnh các thiết chế khác như ngành y, ngành giáo
dục, nhà ở, giao thông vận tải.
Trên tất cả quốc gia có một bộ, mang tên khác nhau như bộ An sinh và phát triển xã hội (
Phi-lip-pin ), bộ phát triển cộng đồng (Singapore), bộ Lao động, Thương binh xã hội hay
những hình thức hỗ trợ thường xuyên cho các đối tượng chính sách.
Hai chữ An Sinh được sử dụng trong công tác xã hội sẽ mang tính toàn diện hơn. Không
chỉ có vật chất mà tinh thần và tất cả những gì đem lại cho con người một cuộc sống an
bình.
Dưới đây là một số định nghĩa để tham khảo.
Theo tác giả B. R. Compton (Introduction to social welfare and social Work - Nhập
môn an sinh xã hội và công tác xã hội, 1980).
a. “An sinh xã hội là một thiết chế.
b. Bao gồm các chính sách và luật pháp.
c. Thực thi bởi các tổ chức tự nguyện hay của nhà nước.
d. Thông qua đó một mức độ tối thiểu được xác định về dịch vụ xã hội, tiền và các quyền
lợi khác (y tế, giáo dục, nhà ở v.v...)
e. Được phân phối cho cá nhân, gia đình, nhóm xã hội mà họ không nhận được từ gia đình
hay thị trường.
f. Nhằm mục đích phòng ngừa, giảm nhẹ hay đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề xã
hội để cải tiến sự an sinh của cá nhân, nhóm và cộng đồng một cách trực tiếp".
Theo Elizabeth Wickenden (Social welfare in a Changing World - An sinh xã hội trong
một thế giới đổi mới, 1965), An sinh xã hội gồm các: “luật lệ, chương trình, quyền lợi và
dịch vụ bảo đảm và củng cố các biện pháp đáp ứng các nhu cầu xã hội được công nhận như
an sinh cơ bản của quần chúng và cải tiến trật tự xã hội”.
Theo J.M. Romanyshyn (Social Welfare: Charity to Justice - An sinh xã hội: Từ bác ái đến
công bằng, 1971). An sinh xã hội gồm các biện pháp và quá trình liên quan đến việc giải
quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, sự phát triển tài nguyên nhân lực và cải tiến chất
lượng sống. Điều này bao gồm các dịch vụ xã hội cho cá nhân, gia đình và cả những nỗ lực
củng cố và cải tiến các thiết chế xã hội”
Ngày nay An sinh xã hội không chỉ được xem như là không tránh khỏi để giải quyết các
vấn đề tiêu cực của xã hội, nhưng vai trò của nó hết sức thiết yếu trong phát triển xã hội.
Nghĩa là chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, cá nhân không những phải được
đáp ứng các nhu cầu căn bản mà còn cần được phát huy tối đa và hòa nhập một cách tốt
đẹp vào xã hội. Gia đình, tập thể, cộng đồng cần thực hiện chức năng của mình một cách
hài hòa và có hiệu quả để đem lại an sinh cho cá nhân và sự ổn định và phát triển cho xã
hội.
Từ đó ta thấy rằng bộ máy nhà nước phụ trách ASXH không chỉ làm “Công tác chính
sách” (theo nghĩa thường dùng) hay cứu trợ đơn thuần mà về mặt chuyên môn phải nổ lực
rất cao để ngang tầm với nghiệm vụ trong xã hội hiện đại.
Ngành An sinh xã hội ở các nước công nghiệp phát triển, với vốn tích lũy dồi dào
thường bao gồm:
1. An sinh công cộng (Public wefare), đây là tổ chức mang tính cứu trợ cho những người
(tạm gọi) là theo diện chính sách nào đó. Ví dụ người nghèo dưới một mức độ nhất định,
người thất nghiệp, trẻ bơ vơ, người cao tuổi, tàn tật, tị nạn v.v...
2. Bảo hiểm xã hội (social insurance) cho những người trong thời gian lao động có đóng
góp cho quỹ bảo hiểm.
3. Chương trình phát triển lao động và dân dụng

4. Nhà ở và tái thiết đô thị
5. Sức khoẻ chung
6. Sức khoẻ tâm thần
7. Phục hồi chức năng
8. Phạm pháp và giáo hóa
9. Vui chơi giải trí
10. An sinh nhi đồng và gia đình
11. Phát triển cộng đồng v.v...
Tùy từng quốc gia nội dung và tổ chức có khác nhau, nhưng nói chung An sinh xã hội
nhằm đáp ứng nhu cầu toàn diện của người dân để sống hạnh phúc, hài hòa và tham gia
xây dựng một xã hội hài hòa và phát triển.
2.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA AN SINH XÃ HỘI
Ban đầu các vấn đề xã hội được xử lý một cách tự phát và chủ yếu theo kiểu từ thiện và lên
lớp. Từ từ hình thành khái niệm thân chủ tự giúp để vươn lên. CTXH không chỉ có mục
đích trị liệu mà còn phòng ngừa và phát triển. Các vấn đề xã hội lần lần được phân tích từ
gốc độ khoa học, các biện pháp can thiệp ở cấp vĩ mô và vi mô được xây dựng trên cơ sở
kiến thức về hành vi con người.
Có được sự tiến bộ là do sự đóng góp của các ngành khoa học như tâm lý học, tâm thần
học, xã hội học v.v...và cả chính trị học vì muốn đóng góp vào việc xây dựng các chính
sách xã hội phù hợp, không thể đứng ngoài và không hiểu rõ hoạt động chính trị.
Cơ sở kiến thức của An sinh xã hội
ASXH không sử dụng toàn bộ kiến thức của các khoa học vừa kể nhưng những phần nào
có liên quan, ví dụ các nguyên cứu xã hội về dân số học về phong tục tập quán trong hành
vi sức khỏe, kinh tế học liên hệ tới sự nghèo đói v.v...
Ngày nay ASXH là một bộ môn khoa học ứng dụng được giảng dạy ở các trường CTXH,
thường là cấp đại học.
3. AN SINH XÃ HỘI VÀ NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Nhiều ngành nghề tham gia đóng góp vào nền ASXH của một quốc gia, ví dụ như nhà thiết
kế đô thị tham gia giải tỏa nhà ổ chuột, bác sĩ, y tá có vai trò quan trọng cho sức khoẻ, luật
sư tham gia làm luật bảo vệ trẻ em. Nhưng do các ngành này và một số ngành khác không
đáp ứng một cách toàn diện nhu cầu xã hội của con người một ngành nghề mới xuất hiện
từ đầu thế kỷ 20 đó là công tác xã hội (social work).
Giữa các ngành nghề đóng góp cho nền ASXH công tác xã hội đóng vai trò tổng hợp và
trung tâm.
Trong lĩnh vực sức khỏe, y bác sĩ và các cấp nhân viên sức khỏe khác đóng vai trò trung
tâm nhưng bên cạnh học cũng có nhà tâm lý, nhân viên xã hội, kỹ sư, nhà kinh tế nhà quản
trị v.v... Trong ngành ASXH, nhân viên CTXH (social worker) các cấp đóng vai trò trung
tâm, giữa các ngành chuyên môn khác.
Vai trò của CTXH trong ASXH
Nếu đạo luật về người nghèo của Anh quốc xuất hiện vào đầu thế kỷ 17 được xem như nền
tảng ban đầu của nền ASXH theo nghĩa hiện đại thì mãi đến thế kỷ 20 mới xuất hiện nhân
viên xã hội chuyên nghiệp. Vào cuối thế kỷ 19, hiệp hội các tổ chức từ thiện (Charity
Organizations Society) và Phong trào trung tâm cộng đồng (Settlement House Movement)
cố gắng tìm hiểu căn nguyên của các vấn đề xã hội và tìm cách giúp đỡ các đối tượng xã
hội phục hồi nhân phẩm và vị trí xã hội của mình. Nhũng đối tượng này được xem như là
nạn nhân của sự chuyển biến xã hội hơn là những kẻ “lười biếng”, thiếu đạo đức phải trừng

trị như trước kia. Từ đó các nhân viên được tuyển phần lớn từ từng lớp trí thức, để phân
vùng và chia nhau đi viếng thăm tìm hiểu hoàn cảnh của từng người. Thái độ tôn trọng và
mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên và các đối tượng xã hội được nhấn mạnh vì mục đích
là giúp họ tự vươn lên “làm lại cuộc đời”.
Từ những kinh nghiệm này các nhân viên xã hội đầu tiên hiểu rằng giúp đỡ con người là
một quá trình phức tạp và tế nhị đòi hỏi sự hiểu biết về cá nhân và cả xã hội. Họ cũng rút
ra nhiều kinh nghiệm về cách tiếp xúc để tìm hiểu từng trường hợp, ghi chép để theo dõi
diễn biến của đối tượng, nhu cầu thông tin, phối hợp công tác giữa các cơ quan. Cũng từ đó
hình thành cơ sở ban đầu của phương pháp CTXH và ý thức về vai trò nhiệm vụ nhân viên
xã hội, đạo đức chức nghiệp v.v...
Hiệp hội các tổ chức từ thiện (COS) còn là cha đẻ của các trường CTXH đầu tiên ở Mỹ và
Anh. Năm 1898 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đầu tiên (Summer school of Philanthropic
workers) cho 27 học viên được tổ chức tại New York, trong 6 tuần. Ba năm sau khóa học
trở thành trường CTXH đầu tiên với chương trình kéo dài 8 tháng. Ngày nay là trường
CTXH thuộc đại học Colombia. Ngay sau đó hàng loạt trường khác được thành lập ở các
thành phố lớn ở Âu, Mỹ.
Ở Châu Á, và Châu Mỹ la Tinh, các trường CTXH mọc lên đồng loạt sau thế chiến thứ 2.
Trung Quốc và Ấn Độ do sự gần gũi với Anh quốc có người đi học ở Anh, Mỹ, khá sớm và
du nhập ngành CTXH sớm nhất ở Châu Á. Miền Nam Việt Nam do ảnh hưởng của Pháp
có trường CTXH vào năm 1949 do Hồng thập tự Pháp thành lập, sớm hơn một số nước
Châu Á và châu Mỹ La Tinh. Đó là trường Caritas, 38 Thevenet (nay là Tú Xương) do các
nữ tử bác ái điều hành.
Trong khối XHCN các nước như Ba Lan, cựu Đông Đức, Tiệp khắc, Hungari có ngành
CTXH. Liên Xô khi giải phóng chưa biết tới ngành CTXH nên không có.
Ngày nay có hàng ngàn trường CTXH có mặt trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trung
Quốc phục hồi ngành này từ năm 1988. Khóa CTXH đầu tiên được mở tại khoa xã hội học,
đại học Bắc kinh. Liên xô (cũ) đã liên hệ với Liên hiệp quốc tế các trường CTXH để nhờ tổ
chức huấn luyện.
Ở Châu Âu ngành CTXH bắt đầu ở hệ trung cấp chuyên nghiệp hai năm. Ở Mỹ phải có cử
nhân về tâm lý hay xã hội học mới đi chuyên ngành CTXH cấp cao học.
Ngày nay có sự thống nhất về mặt tổ chức và ngành CTXH được giảng dạy trong hệ đại
học, với khả năng nhận chứng chỉ sau 2 năm để đi làm việc và sau đó học tập tiếp.
Trên thế giới ngày nay nghề CTXH được biết đến như mọi ngành nghề khác với nhân viên
trực tiếp tác chiến cấp trung cấp hay cử nhân, nhân viên điều hành từ cử nhân tới cao học
và các nhà nghiên cứu, giảng dạy, kế hoạch từ cao học đến tiến sĩ. Nhân viên chuyên
nghiệp có nghiệp đoàn của mình ở cấp quốc gia và quốc tế.
Ở Việt Nam trước giải phóng, ngoài trường Caritas có thêm trường CTXH là một trường
công lập do bộ xã hội cũ thành lập với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc. Đại học Đà Lạt đã có
phân khoa “chính trị xã hội” với nội dung CTXH, đại học Vạn Hạnh vừa bắt đầu mở và đại
học Cửu Long chưa kịp mở khoa CTXH thì giải phóng. Trường Thanh niên phụng sự xã
hội hoạt động được vài năm với nội dung nặng về kỹ thuật phát triển nông thôn.
Đến năm 1975 miền nam Việt Nam cũ có được trên dưới 300 nhân viên trung cấp, 15 - 20
tốt nghiệp đại học và học thêm một năm CTXH và 15 cao học . CTXH bị gián đoạn từ
1975 đến 1989 khi bắt đầu học thí Anh chị em trong nhóm nghiên cứu CTXH chỉ có một
cao học và anh chị kiểm sự, cán sự xã hội và trong đó có người học thêm bậc cử nhân ở
một ngành khác.
Trước kia có cỡ 500 cán bộ được bồi dưỡng tại chức từ 3 - 6 tháng. Nay có cỡ 100 anh chị
em làm việc với trẻ em nghèo lang thang đã trải qua một lớp huấn luyện ngắn.
Đến nay (1996) trong nước co được 2 cao học CTXH và 3 cao học PTCĐ vơi một số đang
du học ở nước nghèo. Chương trình CTXH 2 năm được giảng dạy trong khoa PN học với

triển vọng có thể mở thêm bậc cử nhân. Tháng 3/1996 chương trình cử nhân CTXH đầu
tiên được mở tại Khoa Xã hội học, đại học quốc gia Hà Nội. Đây là dấu hiệu của sự phục
hồi của ngành và chắc chắn nó sẽ phát triển mạnh để đáp ứng các yêu cầu phát triển mới
của đất nước.
4. DIỄN BIẾN CỦA ASXH TRÊN THẾ GIỚI
4.1. NGÀNH ASXH PHƯƠNG TÂY ĐANG BỘC LỘ NHIỀU KHIẾM KHUYẾT
Từ lâu nền ASXH phương Tây, nhất là ở các nước như Thụy Điển, Anh v.v... được xem là
mô hình. Nơi đây các nhu cầu của các đối tượng xã hội được đáp ứng một cách đầy đủ
nhất. Tuy nhiên nhà nước phải bao cấp rất nhiều. Ngày nay với các cuộc khủng hoảng kinh
tế, tình hình tài chánh nhiều nước đang gặp khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến các chương
trình ASXH và từ đó cũng tạo ra những bất ổn trong xã hội.
Khi làm một chính sách ASXH ít ai ngừa trước được hậu quả tiêu cực của nó nhưng ngày
nay một số hậu quả tiêu cực này đã tự bộc lộ. Ví dụ như trợ cấp cho trẻ thành niên sống
tách rời gia đình khuyến khích sự tự lập nhưng đồng thời gây sự suy yếu cho thiết chế gia
đình. Việc hỗ trợ các phụ nữ trẻ không lập gia đình mà có con là một việc phải làm, tuy
nhiên chính sách này làm tăng nếp sống cầu thả, tăng cường đạo quân nghèo đói thất
nghiệp. Thậm chí trẻ từ các gia đình đơn thân này cũng dễ dàng sa vào tội phạm.
4.2. MỘT SỐ KHUYẾN CÁO LIÊN HỢP QUỐC VỀ ĐỊNH HƯỚNG ASXH
Rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại trong ASXH, các quốc gia ngồi lại với
nhau định kỳ và cùng nhau vạch ra những hướng đi chung phù hợp với tình thế cho thập kỷ
90.
Trước tiên cần lưu ý đến một bối cảnh xã hội đã và đang luôn luôn đổi mới. Đáng lưu ý
nhất là sự xuất hiện của những mô hình gia đình mới, vai trò đổi mới của nam và nữ, sự
đổi mới của cấu trúc dân cư và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã nâng cao nhận thức
và kỳ vọng của người dân.
Tuy nhiên với cuộc khủng hoảng kinh tế của thập kỷ 80, một số vấn đề cũ tái phát sinh như
nghèo đói, thất nghiệp và khiếm dụng, mù chữ, sự giảm thiểu nghiêm trọng của các dịch
vụ y tế giáo dục.
Thêm vào đó những vấn đề mới phát sinh như sự xuống cấp của môi trường, tệ nghiện
nghập, bệnh Aids, bạo lực và chiến tranh. Từ đó cần quan tâm đặc biệt đến các đối tượng
sau đây:
Gia đình cần được đáp ứng nhu cầu như một đơn vị, đồng thời nhu cầu của từng thành
viên. Cần quan tâm đặc biệt đến gia đình đơn thân, một loại hình mới xuất hiện. Cần củng
cố gia đình trong vai trò hỗ trợ các thành viên, quan tâm đến các thành viên đặc biệt như
trẻ em, thanh thiếu niên, người cao tuổi, người khuyết tật. Tuy nhiên các dịch vụ hỗ trợ gia
đình nên thận trọng kẻo việc chăm sóc các thành viên đặc biệt trên lại một lần nữa trở
thành một gánh nặng thêm cho PN.
Một nền ASXH và PTCĐ phải thúc đẩy sự tiến bộ của PN và tạo điều kiện đồng đều để PN
tham gia vào mọi lãnh vực kinh tế, văn hóa xã hội của đời sống. LHQ xem việc nam - nữ
ngày càng chia sẻ trách nhiệm trong công việc nhà trong vai trò cha mẹ là một tiến bộ.
Ở những nước có đông người cao tuổi thì phải hoàn thiện hệ thống lương hưu, và các dịch
vụ phù hợp. Nhưng quan trọng nhất là phải làm sao cho người cao tuổi tích cực tham gia
việc giải quyết nhu cầu của chính họ. Để được vậy cần củng cố vai trò của người cao tuổi
trong gia đình và ngoài xã hội.
Ngược lại có những nước tỉ lệ người trẻ tuổi lại đông. Ở đây cần quan tâm giúp đối tượng
này trong các lãnh vực: