Thị trường chứng khoán Mỹ: Phản ánh của
tiến bộ kinh tế
Tìm hiu về thị trường chứng khoán Mỹ
Xin giới thiệu cùng bạn đọc nhng bài viết về thtrường chứng khoán
Mỹ của Tiến sĩ Tôn Thất Đán, chuyên gia tư vấn kinh tế quốc tế.
Tiến Tôn Thất Đán, tốt nghiệp tiến tại Đại học danh tiếng Paris -
Sorbone (Pháp), đồng thời cũng là cnhân luật chuyên ngành kinh tế
chính tr , quan hệ đối ngoại, quản trị kinh doanh Tiến đã tng tham
gia ging dạy tại Đại học Moncton, Đi học Laval, Đại học Montreal
(Canada) tại các trường đại học khác nhiều nước. Tiến đã gi
các vtrí quan trọng trong giới quản trị quỹ đầu tại New Brunswick
(Canada), đặc biệt là QuNB Investment Management Corporation với
hơn 6 tỷ USD tài sn.
Sau nhiu năm nghiên cu và hoạt động trong nh vực chứng khoán,
Tiến Tôn Thất Đán đã viết cho độc giả những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu về thị trường chứng khoán. Những bài viết này của
Tiến sĩ Tôn Thất Đán sẽ cung cấp cho độc giả những nguyên tắc và hoạt
động cơ bản của thị trường chứng khoán M- thtrường tiêu biu, lớn
nhất và điển hình cho tất cả các thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Mỹ: Phản ánh của tiến bộ kinh tế
Thtrường chứng khoán là một mng lưới người mua người n cổ phần
s hữu ng ty. Tại M 3 thị trường chứng khoán chính là th trường
chứng khoán New York, thị trường chứng khoán Amex và thtrờng chứng
khoán NASDAQ (Hiệp hội những nhà môi giới kinh doanh chứng khoán yết
giá t động). quan quốc gia chịu trách nhiệm giám sát và hoạch định
chính sách liên quan đến các giao dịch chứng khoán là SEC (Uban Chứng
khoán và Giao dịch).
Thông thường, thị trường chứng khoán là một địa điểm giao dịch, i người
bán và ngưi mua cổ phiếu thể một ch trược tiếp thương lượng mua
bán vi nhau, như thị trường Wall Street, tại New York; thị trường Bay
Street, Toronto, Canada; tại thị trường chứng khoán London, thị trường
chứng khoán Paris và ti hàng loạt địa điểm khác trên thế giới.
Ngày nay, vi sphát triển của các phương tiện liên lạc hiện đại, người n
người mua không cần gặp nhau tại một địa điểm cthể, họ thể tiến
hành mua n trực tuyến (online), như tn thị trường NASDAQ, người n
người mua thể tiến hành các giao dịch trực tuyến. Thị trường chứng
khoán một thể thống đa dạng bởi các thành phn tham gia; nó có thể là th
trường phức tạp nhất hoặc thể hoạt động phi nhất, tuỳ theo trí tưởng
tượng của con người. do là thtrường chứng khoán là sphản ánh hành
vi của những người tham gia mua n cổ phiếu mà quyết định của họ ảnh
hưởng đến mức độ của hoạt động kinh tế.
Người n người mua cổ phiếu trên thtrường chứng khoán hành động
chyếu dựa vào dđoán về thu nhập tương lai của những cổ phiếu được
niêm yết và giao dịch trên một thị trường chứng khoán nhất định mỗi ngày.
Khi dự đoán về thu nhập tăng giảm, giá trị cổ phiếu cũng biến động theo.
Nhìn chung, xét v mặt dài hn, thị trường chứng khoán xu hướng trở
thành hàn thbiểu của nền kinh tế quốc n. Nếu nền kinh tế quốc n ng
trưởng và hứa hẹn tiềm ng, giá cổ phiếu tăng ngược lại nếu nền kinh tế
trì trệ, cổ phiếu có xu hướng sụt giá.
Những nhà qun những khoản tiền khổng lồ, cũng như những nhà quản
những quỹ trợ cấp, quỹ tương hỗ với ng trăm tUSD trong tay thực sự có
thể có tác động đáng kể đến mức giá cổ phiếu từng ngày. Những công ty lớn
tham gia vào thtrường vốn tìm kiếm những khoản đầu tư mới cũng thể
tác động đến giá cổ phiếu. Tuy nhiên, vngắn hạn, thể không sự liên
hgiữa hin trạng kinh tế và mc giá chung ca cphiếu. Trong thực tế, giá
chứng khoán thường hay rất bất ổn. Nhưng thị trường chứng khoán trong dài
hạn có khả năng cung cấp những tín hiệu về tương lai nền kinh tế.
Dđoán và những yếu tố ngắn hạn cũng chính là nhng nhân tố quyết định
giá c một cổ phiếu. Dđn và thực tế không nhất thiết là một. Thu nhập
của một công ty là một chuyện nhưng dự đoán của những người tham gia th
trường chứng khoán lại là chuyện khác.
Tuy nhiên, cho dù bất n thế nào, thtrường chứng khoán vẫn là một chế
kỳ hạn phức tạp và hữu ích. Một nhà quan sát kinh tế ưu tú không thể bỏ qua
mối quan hgiữa thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Thực tế, những
hình kinh tế của các nền ng nghiệp hiện đại đều bao gồm ít nhất 1 chỉ số
chứng khoán với cách một chỉ số kinh tế dự đoán (leading economic
indicator). Ti Mỹ, chỉ số Standard and Poor 500 được sdụng như là một
chsố dđoán ng đầu của Chính phủ nước này. Ti Canada, chỉ sTSE
300 của thị trường chứng khoán Toronto cũng được sử dụng như một chỉ số
dự đoán chính thức của nền kinh tế Canada.
Th trường chứng khoán là kết quả cuối cùng của quyết định chung giữa
người n người mua cổ phiếu, nh hưởng mức độ của các hoạt động
kinh tế. Ngoài ra, còn mối liên hgiữa biến động trong đầu biến
động trên thtrường chứng khoán. Gcổ phiếu phản ánh những cơ hội của
nền kinh tế đối vi đầu tư. Gcổ phiếu có xu ng ng khi nhiu cơ
hội đầu sinh lợi nhuận trong nền kinh tế. Điều ngược lại cũng đúng, nghĩa
là khi hội đầu tư giảm hoặc bđe dọa, hoặc được nhận xét như vậy, giá
chứng khoán xu hướng giảm. Sliệu công bố hàng quý của Mỹ cho thấy,
sbiến động theo năm của chỉ scông nghiệp trung bình Dow Jones phn
ánh nhng thay đổi ng năm trong tổng sản phẩm quốc gia thực tế. Nhà
kinh tế Mỹ đoạt giải Nobel, James Tobin, đã đề xuất là, c công ty nên đưa
ra quyết định đầu tư dựa vào một tlệ (sau này nổi tiếng là chsq của
Tobin) được định nghĩa là kết quả của việc định giá của thị trường chứng
khoán vnguồn vốn hin tại so với chi p thay thế của nguốn vốn này.
q = Giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại/Chi pthay thế của ngun vốn
hiện tại
Trong công thức trên của Tobin, giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại do
th trường chứng khoán quyết định trong khi chi phí thay thế của nguồn vốn
hiện tại là giá của nguồn vốn nếu nó được bán đi trong ngày hôm nay.
Đầu tư nên dựa vào việc so sánh giá trq với 1. Nếu q lớn n 1, thị trường
chứng khoán định giá nguồn vốn cao hơn chi p thay thế của nó. Trong
trường hợp này, các nhà qun thể ng giá trị cphiếu bằng cách mua
thêm vn, đào tạo nhân viên mi, mua thiết bmới, mua thêm nhà máy...
bằng cách tăng cường đầu tư. Nguyên do là vì th trường đánh giá rất cao
sinh họat do thành lập vốn đầu hin hửu, so với số tiền chi phí đầu hiên
tại nhằm đem lại li nhuận tương lai. Ngược lại, nếu giá trị của q nhỏ n 1,
tsố nhỏ n giá trcủa mẫu số, tức là hiện nay thị trường đánh giá vốn
hiện hửu nhỏ n chi pnhằm thay thế s vốn đó. Trong trường hợp cthể
này, đầu tư sẽ không được khuyến khích. Bởi vì nếu nhiệm vụ chính của nhà
quản là ng giá trcủa ng ty, nhà quản y skhông nhận thấy một
nhân tkích thích nào để thay thế nguồn vốn hiện tại khi đã khu hao hết.
Chúng ta cũng biết rằng, đầu tư động cơ quan trọng nhất của ng trưởng
kinh tế dài hn. Trong khi đó, ng trưởng tổng sản phẩm quốc gia phụ thuộc
vào mức độ đầu tư và tiêu dùng.
Tại sao thị trường chng khoán lại bất ổn?
Thực tế, về ngắn hạn, thị trường này có thbất ổn và có vhoạt động rất phi
lý. Nguyên nhân, một mặt là mỗi ngưi mua đều cần một người n để tiến
hành giao dịch, mỗi người n lại cn một ngời mua để hoàn thành giao
dch. Mặt khác, thông tin mới trên thtrường và cách thức con người
din giải chúng có thể thay đổi dự đoán của người bán người mua.
Chúng ta cn thiết phải hai quan điểm khác nhau v một loại chứng
khoán được mua và n, hoặc ít nhất hai nhu cầu khác nhau, một nhu cầu
tung tin mặt để đầu (mua chứng khoán) của người mua một nhu cầu
bán chứng khoán để lấy tiền mặt của một cđông. Đó cũng là một do, tại
sao thtrường chứng khoán thể bất n. Dự đoán tác động đến giá chứng
khoán nhưng dự đoán nào, sm hay muộn cũng phải được kiểm chứng bằng
thực tế; trong khi đó, dự đoán hiện tại có thể đẩy giá chứng khoán chệch
hướng. Ngoài ra, dđoán được hình thành điều chỉnh theo dòng thông tin
liên tục cập nhật trên thtrường. Nếu mọi người đều tin rằng, một ng ty
sắp sửa m ăn phát đạt và nếu giả định này lan rộng trong ng chúng, k
thtìm thấy một người n cổ phiếu của ng ty, trừ khi người mua trả
giá rất cao. Điều ngược lại cũng không sai khi dự đoán có tác động tiêu cực.
Tuy nhiên, vdài hn, dự đoán nhất thiết phải đáp ng được với thực tế. Vì
vậy, trong khi thị trường chứng khoán có thể là cơ chế dự đoán trước sự kiện
kinh tế trong tương lai thì trong ngn hạn, lại trở nên cùng biến động.
Khi một người quyết định mua cổ phiếu, người này dự đn sẽ thu lợi nhun
tkhoản tiền người ấy bỏ ra, dưới dng lên giá vốn hoặc dưới dạng hưởng
nhận cổ tức (phần lợi nhuận mà ng ty chia cho c cđông), hoặc cả hai.
Cả hai trưng hợp sẽ chỉ xảy ra trong tương lai.