TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
TÍNH LINH HOẠT CỦA VẠT DA CÂN THƯỢNG ĐÒN<br />
TRONG TẠO HÌNH KHUYẾT PHẦN MỀM VÙNG CỔ<br />
Trần Thiết Sơn, Dương Mạnh Chiến<br />
Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
Vạt da cân thượng đòn lần đầu tiên được Lamberty mô tả năm 1979 và được ứng dụng lâm sàng rộng rãi<br />
nhờ có nhiều ưu điểm. Nghiên cứu nhằm mô tả tính linh hoạt của vạt da cân thượng đòn trong tạo hình các<br />
dạng khuyết phần mềm vùng cổ, được thực hiện trên 36 bệnh nhân (17 nam và 19 nữ) từ 4 đến 65 tuổi với<br />
41 vạt da cân thượng đòn. Các bệnh nhân này được phẫu thuật từ năm 2001 đến 2012. Đặc điểm tổn<br />
thương, cách sử dụng vạt da cân thượng đòn như kích thước, góc xoay, khả năng che phủ của vạt được<br />
phân tích và đánh giá. Kết quả trong 41 vạt da cân thượng đòn của nghiên cứu này có 37 vạt sống hoàn<br />
toàn, 2 vạt bị hoại từ 1 phần và 2 vạt hoại tử hoàn toàn. Kích thước vạt lớn nhất là 21x16cm. 88% vạt sử<br />
dụng ở dạng đảo được xoay góc 180º. 90% vạt được sử dụng để che phủ trực tiếp khuyết vùng cổ. Vạt da<br />
cân thượng đòn là một chất liệu tạo hình lý tưởng, với độ an toàn cao do cuống mạch hằng định, khả năng<br />
sử dụng linh hoạt đặc biệt cho các khuyết phần mềm vùng cổ.<br />
<br />
Từ khóa: vạt da cân thượng đòn, khuyết phần mềm vùng cổ, phẫu thuật tạo hình<br />
<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
những tổn thương vùng cổ đòi hỏi cao cả về<br />
Lamberty (1979) lần đầu tiên mô tả vạt da<br />
chất liệu tạo hình cũng như kỹ thuật tạo hình.<br />
cân thượng đòn [1]. Năm 1983 Baudet và<br />
Cho đến nay vạt da cân thượng đòn được<br />
Martin đã sử dụng vạt da cân thượng đòn ở<br />
xem là một chất liệu tạo hình lý tưởng cho tạo<br />
dạng vạt tự do cho các tổn khuyết vùng chi<br />
hình vùng cổ nhờ những ưu điểm nổi trội như<br />
thể [2]. Vạt da cân thượng đòn được cấp máu<br />
độ mỏng, diện tích và khả năng huy động của<br />
bởi nhánh thượng đòn của động mạch cổ<br />
vạt này [5; 6]. Đã có nhiều công trình nghiên<br />
ngang nông, giải phẫu của cuống mạch tương<br />
cứu về việc sử dụng vạt da cân thượng đòn<br />
đối hằng định, chính vì vậy vạt được áp dụng<br />
trong tạo hình vùng cổ tuy nhiên chưa có công<br />
rộng rãi trong tạo hình. Đến nay, vạt này đã<br />
trình nào nghiên cứu về khả năng và phạm vi<br />
được sử dụng dưới nhiều dạng khác nhau<br />
sử dụng vạt này trong từng loại khuyết phần<br />
như vạt đảo, bán đảo, vạt giãn, vạt có cuống<br />
mềm vùng cổ. Vì vậy chúng tôi tiến hành<br />
mạch nuôi hay vạt tự do, và vạt được sử dụng<br />
nghiên cứu này với mục tiêu: mô tả tính linh<br />
chủ yếu cho mục đích tạo hình che phủ các<br />
hoạt của vạt da cân thượng đòn trong tạo hình<br />
khuyết phần mềm trên cơ thể nói chung, đặc<br />
các dạng khuyết phần mềm vùng cổ.<br />
biệt các tổn thương vùng cổ [3; 4; 5]. Các<br />
khuyết phần mềm vùng cổ do bỏng là một II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
dạng tổn thương đa dạng, việc tạo hình<br />
1. Đối tượng<br />
Từ năm 2001 đến năm 2012 chúng tôi tiến<br />
Địa chỉ liên hệ: Trần Thiết Sơn, bộ môn Phẫu thuật Tạo hành phẫu thuật cho 36 bệnh nhân (17 nam<br />
hình, trường Đại học Y Hà Nội.<br />
và 19 nữ), từ 4 đến 65 tuổi với 41 vạt da cân<br />
Email: drtranthiets@yahoo.fr<br />
Ngày nhận: 27/9/2013 thượng đòn. Có 2 bệnh nhân được sử dụng 2<br />
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014 vạt cùng một thì phẫu thuật, 3 bệnh nhân<br />
<br />
<br />
44 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
được sử dụng 2 vạt trong 2 lần phẫu thuật. - Dùng siêu âm doppler cầm tay và siêu<br />
Nguyên nhân tổn thương khuyết phần mềm âm doppler màu để xác định nguyên ủy,<br />
vùng cổ chủ yếu do bỏng (35 bệnh nhân) và đường kính mạch, đường đi, điểm xuyên qua<br />
do dị dạng mao mạch (1 bệnh nhân). Theo cân của động mạch thượng đòn. Từ đó thiết<br />
phân loại Vandenbussche về định khu phần kế vạt da cân thượng đòn dựa theo trục mạch<br />
mềm vùng cổ, các tổn thương phân bố đều và dựa trên đặc điểm của khuyết phần mềm<br />
trên các vùng của cổ: vùng cổ phải (M1) vùng cổ. Vạt da cân thượng đòn được thiết kế<br />
chiếm 28,7%, vùng cổ giữa (M2) chiếm 33,6% để che phủ khuyết phần mềm nguyên phát<br />
và vùng cổ trái (M3) chiếm 37,7%. Đặc điểm sau cắt bỏ tổn thương hoặc che phủ khuyết<br />
tổn thương vùng cổ cần tạo hình bao gồm sẹo<br />
phần mềm thứ phát sau khi chuyển một vạt tại<br />
co kéo (73,2%), sẹo quá phát (34,1%) và<br />
chỗ. Các vạt tại chỗ được thiết kế dựa trên<br />
khuyết phần mềm thứ phát sau cắt u máu<br />
phần da lành của vùng cổ trong cùng một lần<br />
vùng cổ (7,3%).<br />
thiết kế với vạt da cân thượng đòn.<br />
<br />
2.2. Qui trình phẫu thuật<br />
<br />
- Dưới vô cảm toàn thân, tiến hành cắt bỏ<br />
tổn thương sẹo vùng cổ, giải phóng sẹo co<br />
kéo nếu có. Xác định kích thước thực của<br />
khuyết phần mềm.<br />
- Phẫu thuật bóc vạt: vạt được phẫu tích từ<br />
đầu xa tới đầu gần và bờ trước tới bờ sau.<br />
Lớp bóc tách nằm dưới cân cổ nông vì trục<br />
Hình 1. Phân vùng da cổ theo Vandenbussche mạch thượng đòn nằm trong cân. Tại đầu xa<br />
của vạt cắt bỏ các nhánh nối với các nhánh<br />
2. Phương pháp<br />
cấp máu cho da của động mạch mũ cánh tay<br />
2.1. Đánh giá tổn thương vùng cổ trước sâu. Khi đã bóc đến đầu gần cuống mạch của<br />
mổ và lập kế hoạch phẫu thuật vạt cân bảo tồn các nhánh thần kinh thượng<br />
- Bệnh nhân được đánh giá đầy đủ đặc đòn. Phẫu tích bằng kéo, tránh dùng dao điện<br />
điểm của tổn thương như tính chất tổn để khỏi tổn thương trục mạch. Thận trọng<br />
thương, kích thước tổn thương theo chiều cao phẫu tích khi bóc vạt đến sát bờ ngoài cơ vai<br />
và chiều rộng cổ, kích thước lý thuyết của móng vì đây là điểm đi ra nông của động<br />
vùng cổ, phân bố tổn thương theo vị trí định mạch thượng đòn. Không nhất thiết bộc lộ<br />
khu của Vandenbussche, các loại tổn thương toàn bộ cuống mạch, để lại một phần mô xung<br />
phối hợp, đánh giá vùng da lành ở cổ và vùng quanh cuống mạch, dùng siêu âm doppler<br />
thượng đòn. Trên cơ sở các số liệu về kích cầm tay khẳng định lại cuống mạch nuôi. Lúc<br />
thước và vị trí tổn thương, xác định kích này vạt được dùng dạng đảo hay bán đảo tùy<br />
thước và diện tích khuyết phần mềm cần phải vào việc cắt rời vạt ra khỏi nơi cho hay không.<br />
che phủ, từ đó lập kế hoạch và thiết kế vạt da Vạt được xoay từ 90 đến 180 độ để che phủ<br />
cân thượng đòn đáp ứng được các yêu cầu cho các khuyết tổn vùng cổ. Vạt được khâu cố<br />
của tạo hình che phủ. định vào lớp cân sâu bằng chỉ tự tiêu, đặc biệt<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 45<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
với vùng trước sụn nhẫn, lớp da được khâu III. KẾT QUẢ<br />
với chỉ nylon. Đặt dẫn lưu 24 giờ. Nơi cho vạt<br />
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 41 vạt da<br />
có thể được đóng trực tiếp khi nhỏ hơn 10 cm<br />
cân thượng đòn trên 36 bệnh nhân. Trong đó<br />
hoặc khâu một phần và ghép da dày khi lớn<br />
có 37 vạt sống hoàn toàn (90,2%), 2 vạt hoại<br />
hơn 10 cm.<br />
tử 1 phần (4,9%), 2 vạt hoại tử hoàn toàn<br />
2.3. Đánh giá kết quả (4,9%). Vạt lớn nhất được sử dụng có kích<br />
Kết quả gần được đánh giá dựa vào các thước 21 x 16 cm, vạt nhỏ nhất có kích thước<br />
tiêu chí: mức độ sống của vạt da cân là 8 x 5 cm. Đa phần vạt sử dụng dưới dạng<br />
thượng đòn, diện tích che phủ và tình trạng đảo với góc xoay 180 độ (88%), 12% số vạt<br />
liền sẹo nơi cho vạt. Kết quả xa dựa vào các được sử dụng dưới dạng bán đảo với góc<br />
tiêu chí: liền sẹo của vạt nơi tạo hình che xoay từ 90 đến 120 độ.<br />
phủ, đặc điểm chức năng và thẩm mỹ chung<br />
Theo cách phân loại tổn thương cổ của<br />
của vùng cổ.<br />
Vandenbussche, tất cả bệnh nhân trong<br />
3. Đạo đức nghiên cứu nghiên cứu này đều có tổn thương từ 2 vùng<br />
Nghiên cứu chỉ phục vụ mục đích khoa trở lên. Có 2 bệnh nhân tổn thương cả 9 vùng<br />
học. Các đối tượng trong nghiên cứu được và cần phải sử dụng 2 vạt da cân thượng đòn<br />
thông báo rõ và tự nguyện tham gia. Mọi số mới che phủ được hết tổn thương. Số vùng<br />
liệu liên quan đến bệnh nhân đều được giữ tổn thương ở cổ được một vạt da cân thượng<br />
bí mật. đòn che phủ được minh họa trong bảng 1.<br />
<br />
Bảng 1. Số vùng tổn thương ở cổ được một vạt da cân thượng đòn che phủ<br />
<br />
Số vùng được một vạt che phủ 2 3 4 5 6 8<br />
<br />
Số vạt (n) 6 13 8 5 6 3<br />
<br />
Một vạt da cân thượng đòn có thể che phủ được tổn thương có phạm vi từ 2 đến 8 vùng,<br />
trong đó 3 vùng chiếm tỉ lệ cao nhất (13/41).<br />
Vạt da cân thượng đòn có thể che phủ tới tất cả 9 vùng của cổ từ hai phía phải hoặc trái. Các<br />
tổn thương vùng cổ được tạo hình bằng vạt da cân thượng đòn cùng bên trong trong 32/47 vị trí<br />
(cổ phải) và 46/61 vị trí (cổ trái). Vạt da cân thượng đòn được dùng tạo hình các tổn thương cổ<br />
bên đối diện trong 15/47 vị trí (cổ phải) và 15/61 vị trí (cổ trái).<br />
Bảng 2. Phạm vi tạo hình của 1 vạt thượng đòn<br />
<br />
Vạt thượng đòn bên phải Vạt thượng đòn bên trái Tổng số<br />
Trực tiếp Gián tiếp Tổng Trực tiếp Gián tiếp Tổng vị trí<br />
<br />
P1 14 3 17 29 - 29 46<br />
P2 25 6 31 29 - 29 60<br />
P3 25 3 28 34 - 34 62<br />
Tổng 64 12 76 92 0 92 168<br />
<br />
46 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Vùng cổ trên P1 được che phủ chủ yếu bằng vạt da cân thượng đòn trong 43/46 vị trí, chỉ có<br />
3/46 vị trí được che phủ gián tiếp bằng vạt da cân thượng đòn. Với tất cả các vùng của cổ, chỉ có<br />
12/168 (7,1%) vị trí được tạo hình gián tiếp bằng vạt da cân thượng đòn.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
a b c<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
d e g<br />
<br />
Hình 2. Bệnh nhân nam bị tổn thương sẹo bỏng co kéo cổ các vùng 1, 2, 3, 5 và 8<br />
(a). Thiếu chiều cao cổ sau khi cắt bỏ sẹo bỏng 12cm (b). Vạt da cân thượng đòn trái được<br />
thiết kế có kích thước 12 x 20cm với sự mở rộng ở bờ trước và sau (c). Vạt được phẫu tích có<br />
kích thước 14 x 22cm đủ che phủ trực tiếp khuyết (d). Kết quả xa ở tư thế nghiêng (e) và tư thế<br />
ngửa cổ (g).<br />
<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN<br />
Vùng 2 là phạm vi cấp máu bổ sung của vạt<br />
Năm 1983, Baudet và Martin nhận xét thượng đòn nhờ hiện tượng mở thông đầu tận<br />
phạm vi cấp máu của động mạch thượng đòn với nhánh delta của động mạch mũ cánh tay<br />
thành 2 vùng. Vùng 1 là phần an toàn của sau. Ranh giới trước của vạt có thể cách bờ<br />
động mạch thượng đòn với ranh giới trước dưới xương đòn 2 cm, chiều dài vạt có thể đạt<br />
không vượt quá bờ trên của xương đòn, đầu tới 20 - 22 cm [2]. Năm 2002 Trần Thiết Sơn<br />
xa của vạt có thể qua đầu ngoài xương đòn nhận xét vùng cấp máu của vạt có thể bổ<br />
2 - 3 cm, ranh giới phía sau vượt quá bờ sung bằng vùng 3 là phạm vi cấp máu mở<br />
trước cơ thang 1 - 2 cm. Ranh giới trong của rộng nhờ thần kinh trên đòn [7]. Nếu bảo tồn<br />
vạt nằm trên vùng tam giác cổ và tương ứng được thần kinh trên đòn cùng mạng mạch<br />
với nguyên ủy động mạch cổ ngang nông. máu đi cùng nằm trong vạt thì giới hạn trước<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 47<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
của vạt được mở rộng về phía hạ đòn và vượt Qua bảng 2 ta thấy với một vạt da cân<br />
xa bờ dưới của toàn bộ xương đòn. Vạt cũng thượng đòn dùng chủ yếu để che phủ cho tổn<br />
có thể lấy đến tận đầu trong của xương đòn thương cùng bên ở hai vùng cổ P2 và P3,<br />
và toàn bộ phần cổ trước. Ngoài ra sự hiện những vùng gần với nơi cho vạt. Tuy nhiên,<br />
diện của các nhánh nối với động mạch mũ vạt cũng có thể được thiết kế để che phủ các<br />
cánh tay sau trong khi phẫu tích vạt là một khuyết tổn ở bên cổ đối diện. Lựa chọn sử<br />
dấu hiệu tích cực cho việc mở rộng vạt da cân dụng vạt thượng đòn như vậy là để khoảng<br />
thượng đòn về phía đầu xa. Trên nghiên cứu cách từ cuống vạt đến đầu xa của tổn thương<br />
sự tương quan của vạt da cân thượng đòn từ là ngắn nhất, tránh cho việc phải bóc tách<br />
hai phía, diện tích của vạt lấy từ bên trái cuống vạt dài, dễ gây tổn thương cuống,<br />
thường rộng hơn so với bên phải do áp lực cuống bị căng, bị xoắn vặn, do đó làm tăng<br />
động mạch bên trái cao hơn bên phải, chính vì tính an toàn của vạt. Đây cũng là một cách<br />
vậy số lần sử dụng vạt da cân thượng đòn thông dụng mà các phẫu thuật viên hay dùng<br />
bên trái nhiều hơn so với bên phải (92/76). trong tạo hình các khuyết phần mềm, đây còn<br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 1 vạt gọi là phương pháp che phủ trực tiếp các<br />
da cân thượng đòn bên trái có kích thước khuyết tổn. Trong nhiều trường hợp, các<br />
21 x 16 cm đủ che phủ 8 vùng tổn thương của khuyết tổn ở cách quá xa nơi cho vạt, các tổn<br />
cổ và cả vùng hạ đòn phải, vai phải. Vạt sống thương có hình dáng đặc biệt không thuận lợi<br />
hoàn toàn, sau mổ chức năng vận động cổ cải cho việc dùng trực tiếp một vạt, chúng tôi sử<br />
thiện rất nhiều. Qua đây ta thấy diện tích vạt dụng các vạt da kế cận tổn thương để che<br />
da cân thượng đòn được sử dụng là rất lớn, phủ khuyết phần mềm, chính nơi cho vạt đó<br />
lớn hơn rất nhiều diện tích an toàn của vạt, sẽ được che phủ bằng vạt da cân thượng đòn<br />
trong trường hợp bảo tồn được các nhánh nối cùng bên. Cách này được gọi là che phủ gián<br />
thông với động mạch mũ cánh tay sau ở đầu tiêp tổn thương, cách này ít được các phẫu<br />
ngoại vi vạt cũng như các nhánh mạch đi kèm thuật viên đề cập tới cho tạo hình vùng cổ,<br />
thần kinh trên đòn ở đầu trung tâm. Nhờ khả chủ yếu cho các tổn thương ở vùng mặt [8].<br />
năng cấp máu được mở rộng từ nhiều nguồn Đây cũng là một cách mà vạt da cân thượng<br />
khác nhau nên vạt da cân thượng đòn có thể đòn được sử dụng linh hoạt tùy theo các loại<br />
được thiết kế theo hình dạng của tổn khuyết tổn thương khác nhau. Trong nghiên cứu của<br />
mà không làm mất đi tính an toàn của vạt. chúng tôi, đa số vạt da cân thượng đòn được<br />
Điều này cũng được thể hiện qua bảng 1 khi sử dụng ở dạng vạt đảo (88%) và bán đảo<br />
mà 1 vạt thượng đòn có thể được sử dụng để (12%). Vạt đảo luôn là dạng có tính linh hoạt<br />
tạo hình cho từ 2 đến 8 vùng khác nhau của rất cao. Vạt có thể xoay với góc lớn đến 360<br />
cổ. Mặt khác, những cách thiết kế vạt, như độ, vạt có thể vươn tới các vùng xa nhất của<br />
mở rộng hay thu hẹp chiều rộng vạt dọc theo vùng cổ khi kích thước vạt đủ lớn, không để<br />
trục mạch, cũng không gây tổn thương đầu lại tai chó hay gấp khúc tại cuống vạn, sử<br />
ngoại vi của vạt. Chính nhờ vậy việc thiết kế dụng tối đa diện tích của vạt.<br />
vạt da cân thượng đòn cũng thay đổi trong Trong các vạt dạng đảo được sử dụng,<br />
từng trường hợp, phù hợp với các dạng tổn góc xoay của vạt thay đổi từ 150 đến 180 độ.<br />
thương khác nhau, một hình thái đặc trưng Vạt bán đảo được nuôi dưỡng bằng cuống<br />
của sẹo bỏng vùng cổ. mạch kèm theo liên kết da giữa vạt với nơi<br />
<br />
48 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
cho vạt, do vậy mà khả năng xoay và khả 4. Ernest S.C., Perry H.L., Paul L.F<br />
năng vươn của vạt bị hạn chế. 3/5 vạt bán (2009). Supraclavicular artery island flap for<br />
đảo được sử dụng trong nghiên cứu này bị head and neck oncologic reconstruction: Indi-<br />
hoại tử một phần hay hoàn toàn. Đây cũng là cations, complications, and outcomes. Plastic.<br />
một hạn chế của vạt da cân thượng đòn dạng Reconstructive Surgery. 124, 115 - 123.<br />
bán đảo, khi không đảm bảo sự nguyên vẹn<br />
5. Vinh V.Q (2009). Anatomical and<br />
của cuống mạch nuôi và sự xoắn vặn cuống<br />
clinical studies of the supraclavicular flap:<br />
nuôi là những nguyên nhân gây thất bại của<br />
analysis of 103 flaps used to reconstruct neck<br />
kỹ thuật.<br />
scar contractures. Plastic. Reconstructive Sur-<br />
Lời cảm ơn gery. 123, 1471 - 1480.<br />
<br />
Xin chân thành cảm ơn bệnh viện Đa khoa 6. Rashid M (2006). The ‘expansile’ su-<br />
Xanh Pôn, tập thể bác sỹ khoa Phẫu thuật praclavicular artery flap for release of post-<br />
Tạo hình bệnh viện đa khoa Xanh Pôn Hà Nội burn neck contractures. Journal of plastic,<br />
đã giúp đỡ chúng tôi thực hiện nghiên cứu này. reconstructive and aesthetic surgery. 59,<br />
1094 - 1101.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
7. Trần Thiết Sơn (2002). Nhận xét một<br />
1. Lamberty (1979). The supra- dạng mới của vạt da cân thượng đòn trong<br />
clavicular axial patterned flap. Britain Journal<br />
phẫu thuật tạo hình sẹo bỏng co kéo cổ. Y học<br />
Plastic Surgery, 32, 207.<br />
thực hành, 6, 61 - 63.<br />
2. Baudet (1983). The supraclavicular<br />
neurovascular free flap. Anatomy and clinical 8. Pallua N. and Heimburg D. (2005).<br />
application. Textbook of microsurgery. Pre-expanded ultra-thin supraclavicular flaps<br />
for (full-) face reconstruction with reduced do-<br />
3. Benedetto, G.D (2008). Supraclavicu-<br />
nor-site morbidity and without the Need for<br />
lar island fascial flap in the treatment of pro-<br />
microsurgery. Plastic and reconstructive sur-<br />
gressive hemifacial atrophy. Plastic and recon-<br />
gery, 115(7), 1837 - 1844.<br />
structive surgery, 121(5), 247 - 250.<br />
<br />
<br />
Summary<br />
VERSATILITY OF PEDICLED FASCIOCUTANEOUS<br />
SUPRACLAVICULAR FLAP IN NECK RECONSTRUCTION<br />
The fasciocutaneous supraclavicular flap was first described by Lamberty in 1979 and has<br />
been widely applied in clinical practice due to their many advantages. The objectives of our study<br />
was to describe the flexibility of the fasciocutaneous supraclavicular flap in recontructive surgery<br />
of the neck soft tissue defects. A total 36 patients (17 male and 19 female), from 4 to 65 years old<br />
with 41 fasciocutaneous supraclavicular flap, were enrolled in the study. These patients under-<br />
went surgery between 2001 and 2012. Characteristic of defects, the use of fasciocutaneous<br />
supraclavicular flap such as its size, rotation angle and cover ability were analyzed and evaluated.<br />
The results showed that with 41 fasciocutaneous supraclavicular flaps, 37 flaps survived totally, 2<br />
<br />
<br />
<br />
TCNCYH 86 (1) - 2014 49<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
necrotized partially and 2 necrotized totally. The largest size of flap was 21 x 16cm. 88% of flaps<br />
were in form of island with 180º rotation. 90% of flaps were used for direct cover of neck defects,<br />
10% were used for indirect cover. In conclusion, the fasciocutaneous supraclavicular flap is an<br />
ideal reconstructive material. It is highly safe thanks to constant pedicle and the flexibility of use<br />
for soft - tissue defects in neck region.<br />
<br />
Keyword: pedicled supraclavicular flap, cervical soft tissue defect, plastic surgery<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
50 TCNCYH 86 (1) - 2014<br />