
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN TRẦN ÂN
VẬN DỤNG QUY TẮC TAYLOR
TRONG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƢỚC VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS., TS. LÝ HOÀNG ÁNH
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang ngày trở nên toàn cầu hóa mạnh mẽ với
sự hội nhập tài chính sâu rộng, vai trò của ngân hàng trung ương (NHTW) ngày càng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát
triển của NHTW các nước trên thế giới, vấn đề quan tâm hàng đầu vẫn là công cụ
chính sách tiền tệ (CSTT) nào là hiệu quả nhất và cách thức vận dụng như thế nào, cơ
chế vận hành và kiểm soát. Thực tế hiện nay do bởi tính phức tạp của việc sử dụng
khối lượng tiền là công cụ điều hành do khả năng không bền vững của cầu tiền một
phần do sự bất ổn trong ngắn hạn hoặc phần khác bởi sự thay đổi liên tục tạo ra từ các
đổi mới tài chính, các NHTW của các nền kinh tế hiện đại đang dần chuyển sang điều
hành lãi suất mục tiêu thay cho khối lượng tiền tệ mục tiêu.
Đa số NHTW trên thế giới, bao gồm cả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
xác định mục tiêu đầu tiên của CSTT là ổn định giá trị của nội tệ của quốc gia, thông
qua việc kiểm soát lạm phát. Lãi suất là một trong những công cụ được sử dụng để
kiểm soát lạm phát một cách hữu hiệu. Thông qua cơ chế truyền dẫn CSTT, NHTW
khi quyết định mở rộng (thắt chặt) CSTT sẽ giảm (tăng) mức lãi suất chính sách
(LSCS) thông qua tăng (giảm) cung tiền. LSCS thay đổi sẽ tác động đến các thị trường
làm thay đổi lãi suất thị trường, qua đó tác động làm thay đổi nhu cầu chi tiêu dùng
(C), nhu cầu chi đầu tư (I) và xuất khẩu ròng (NX) của nền kinh tế, kéo theo tổng cầu
thay đổi. Khi tổng cầu tăng sẽ làm tăng GDP thực và mức giá chung và ngược lại. Sự
tác động dẫn truyền của lãi suất trong cơ chế truyền dẫn CSTT cho thấy lãi suất là
công cụ được lựa chọn để kiểm soát lạm phát hữu hiệu cũng như kích thích tăng
trưởng kinh tế.
Việt Nam do chưa hội nhập đầy đủ vào thị trường tài chính thế giới nên ít chịu
ảnh hưởng bởi các cơn bão khủng hoảng tài chính song ít nhiều cũng có tác động đến
nền kinh tế, cụ thể là tốc độ phát triển kinh tế chậm lại, chỉ số tiêu dùng năm 2008 tăng
19,89% và năm 2011 là 18,13%1 so với năm trước đó, nhiều dự án đã phải đình lại, giá
cả tăng cao do đó mục tiêu kìm chế lạm phát ưu tiên so với mục tiêu phát triển kinh tế.
Thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán đỏ liên tục, ảm đạm.
Trong bối cảnh đó, hệ thống ngân hàng – hệ thống mạch máu của nền kinh tế - đóng
vai trò quan trọng trong việc kìm chế hoặc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế mà
lãi suất là một trong những công cụ tài chính quan trọng và cần thiết để điều tiết dòng
chảy tiền tệ trong nền kinh tế. Lãi suất được điều chỉnh liên tục để phù hợp với từng
thời kỳ của nền kinh tế. Vai trò điều tiết của NHNN quan trọng hơn bao giờ hết. Vấn
đề đặt ra là loại lãi suất nào là lãi suất chủ đạo của CSTT và mức lãi suất bao nhiêu là
phù hợp trong từng giai đoạn để đảm bảo thực hiện tốt hai nhiệm vụ cơ bản của CSTT
là ổn định lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế. Một quyết định sai lầm về mức lãi
suất có thể làm cho nền kinh tế bị ngưng trệ hoặc tăng trưởng quá nóng. Do vậy cơ chế
điều hành lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ có vai trò quan trọng giúp các tổ chức
tín dụng (TCTD) có thể chủ động thực hiện chính sách lãi suất của mình phù hợp mục
tiêu huy động và cho vay vốn. Quan trọng hơn, một khi Việt Nam hội nhập đầy đủ vào
1 Số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam (www.gso.gov.vn)

2
nền kinh tế thương mại và tài chính thế giới, các ảnh hưởng từ nền kinh tế toàn cầu sẽ
tác động mạnh mẽ vào các lĩnh vực kinh tế trong nước.
Có nhiều mô hình liên quan đến việc xác lập LSCS từ đơn giản đến phức tạp, sử
dụng các hàm số kinh tế lượng nhiều biến nhằm tối ưu hóa công cụ lãi suất để thực
hiện CSTT một cách hiệu quả. Và trong nhiều mô hình đó, quy tắc của Giáo sư John
B. Taylor, trường Đại học Standford, Mỹ được công nhận đơn giản và sát với LSCS
của NHTW Mỹ (Cục Dự trữ Liên Bang - Fed), đặc biệt trong thời kỳ năm 1987 –
1992. Quy tắc Taylor xác định mức LSCS trên cơ sở sự thay đổi của chỉ số lạm phát,
độ lệch về tổng sản lượng nền kinh tế theo GDP và độ lệch giữa tỉ lệ lạm phát thực tế
và tỉ lệ lạm phát mục tiêu dài hạn.
Xuất phát từ sự quan tâm đến vai trò hữu dụng của quy tắc Taylor trong việc tính
toán mức LSCS làm cơ sở tham chiếu để đánh giá hiệu quả của CSTT của các nhà
hoạch định chính sách trong bối cảnh Việt Nam chưa công bố thông tin về CSTT định
kỳ và dư luận công chúng vẫn còn phải dự đoán tương lai lãi suất sẽ lên hay xuống mà
chưa có cơ sở tham khảo khoa học, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Vận dụng quy tắc
Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam” để
tìm hiểu và nghiên cứu chuyên sâu.
2. Tổng quan về công trình nghiên cứu
Trên thế giới và tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về quy tắc Taylor. Vì vậy,
đề tài này không phải là một hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, do tính chất của các
biến số kinh tế vĩ mô là lãi suất, tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong từng thời điểm,
tại mỗi quốc gia đều khác nhau, do đó, nghiên cứu về các biến số này tại từng thời
điểm đều rất cần thiết và hữu ích đối với mỗi quốc gia. Hầu hết các nghiên cứu về quy
tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam đi theo hướng kiểm định tính đúng đắn của CSTT
với công cụ LSCS, trong khi đó luận án của nghiên cứu sinh bên cạnh việc kiểm chứng
sự phù hợp của quy tắc Taylor đối với chính sách lãi suất của Việt Nam còn nghiên
cứu, tìm tòi sự vận dụng của quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN. Đây là hướng đi mới trong nghiên cứu.
Trên thế giới đã có những nghiên cứu về quy tắc chính sách từ rất sớm, trước
khi quy tắc Taylor ra đời vào năm 1993. Các nghiên cứu này tập trung nghiên cứu
những CSTT có thể thực thi theo quy tắc nào đó và kết luận rằng CSTT nên được thực
thi theo quy tắc tốt hơn là theo sự chủ động tùy ý. Một số quy tắc tiêu biểu như quy tắc
Wicksell (1898) (Δi = θπ) cho rằng “lãi suất là biến thay đổi theo mức giá”, khi giá cả
tăng thì lãi suất tăng và ngược lại; quy tắc Friedman (1960) về khối lượng tiền trong
lưu thông được biết dưới tên gọi phương trình trao đổi nổi tiếng của Friedman (mv =
pq). Quy tắc McCallum năm 1988 đưa ra quan điểm về khối lượng tiền trong lưu
thông, theo đó sự biến thiên của khối lượng tiền trong lưu thông phụ thuộc vào sự biến
thiên của thu nhập danh nghĩa tự nhiên của một quốc gia (Δx*) tương ứng với sự biến
thiên của sản lượng tiềm năng tại mức lạm phát mục tiêu2.
Năm 1993, Giáo sư John B. Taylor đã đưa ra quy tắc đề xuất tính mức LSCS
trên cơ sở hai biến số kinh tế vĩ mô chính là lạm phát và mức tăng trưởng sản lượng,
được biết với tên gọi là quy tắc Taylor (1993). Kể từ sau năm 1993, rất nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế đã đưa ra các biến thể của quy tắc Taylor gốc (1993) tiêu biểu như
dạng quy tắc Taylor nhìn về quá khứ, dạng hướng về tương lai, dạng hỗn hợp và dạng
2 Quy tắc McCallum được biểu diễn qua phương trình Δmt = Δx* - Δvt*+ 0.5 (Δx* - Δxt-1) (McCallum 2000)

3
kết hợp với các mô hình khác như kết hợp với mô hình về mức tăng cơ số tiền cơ sở
được biết đến với tên quy tắc Taylor-McCallum, hoặc kết hợp với mô hình về mức
tăng cơ số tiền cơ sở, vòng quay tiền, lạm phát và mức tăng sản lượng. Bên cạnh đó,
mục tiêu của các NHTW là tối thiểu hóa sự biến động của lạm phát và sản lượng trong
nền kinh tế sao cho giá trị hàm tổn thất đạt được là thấp nhất, được tính toán theo các
giá trị dự báo của mức lạm phát và độ lệch sản lượng theo một lộ trình LSCS ước tính
và NHTW sẽ chọn lựa giải pháp nào có giá trị hàm tổn thất tối ưu (có giá trị nhỏ nhất).
Theo đó, các NHTW sẽ sử dụng quy tắc mục tiêu (targeting rules) là công cụ hướng
dẫn thay cho quy tắc công cụ (instrument rules) thông qua việc sử dụng các quy tắc
công cụ gắn liền với hàm tổn thất để tạo ra quy tắc mục tiêu với giá trị nhỏ nhất của
hàm tổn thất mục tiêu.
Bên cạnh các lý luận về quy tắc Taylor và các dạng phát triển mô hình dạng
Taylor, có nhiều công trình nghiên cứu định lượng về quy tắc Taylor với các phương
pháp hồi quy khác nhau và ở tại các quốc gia khác nhau. Để phục vụ cho nhu cầu
nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu sinh đã tìm hiểu một số công trình tiêu biểu trên thế
giới nghiên cứu về phân tích định lượng, khả năng vận dụng, đánh giá hiệu quả của
CSTT thông qua các mô hình có dạng quy tắc Taylor liên quan đến nội dung của đề tài
nghiên cứu, cụ thể là công trình của Soderlind, Soderstrom, và Vredin năm 2004 đã
thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất, hướng về tương lai ở
bậc (t+1) và sử dụng kết hợp phương trình đường cung Phillips và phương trình đường
cầu dạng IS theo mô hình New Keynesian của Rudebusch; công trình của Siklos và
Wohar năm 2004 đã thực nghiệm phân tích quy tắc Taylor dạng làm phẳng lãi suất,
nhìn về quá khứ ở bậc (t-1) với phương pháp hồi quy là bình phương nhỏ nhất (OLS);
và công trình của Driffill và Rotondi năm 2007 đã thực nghiệm phân tích quy tắc
Taylor dạng làm phẳng lãi suất, nhìn về quá khứ bậc (t-1) kết hợp mô hình dự báo lạm
phát và sản lượng và đề cập đến hàm tổn thất. Phương pháp hồi quy OLS được sử
dụng để dự báo tỉ lệ lạm phát và độ lệch sản lượng. Cả ba công trình nghiên cứu trên
đều sử dụng mô hình làm phẳng lãi suất với các biến ở bậc 1 để kiểm định CSTT của
Fed và sử dụng mô hình New Keynesian để tính toán giá trị hàm tổn thất thông qua
việc dự báo sản lượng và tỉ lệ lạm phát bằng các mô hình kinh tế lượng.
Tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu về quy tắc Taylor và hàm tổn thất còn ít và
phạm vi nghiên cứu cũng giới hạn bởi một loại lãi suất cố định của NHNN. Một số
nghiên cứu khá chi tiết về quy tắc Taylor bao gồm các bài viết như sau:
Tác giả Nguyễn Thị Hương Liên với đề tài “Taylor rule and Optimal monetary
policy in Vietnam” đăng trên tạp chí Yokohama Journal of Social, quyển thứ 15 năm
2010 với dữ liệu quý ở giai đoạn 2000 – 2008 sử dụng các biến lãi suất công trái, độ
lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và chênh lệch tỉ giá hối đoái danh nghĩa với phương
pháp hồi qui OLS, đã kết luận không có bằng chứng cho thấy NHNN tuân theo quy tắc
Taylor. Bên cạnh đó tác giả Liên đã sử dụng phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên để
tính toán hệ số tối ưu của CSTT theo giá trị hàm tổn thất nhỏ nhất và đã đưa ra kết quả
từ phương pháp mô phỏng cho thấy CSTT tối ưu có hệ số độ lệch sản lượng là 0,3 và
hệ số lạm phát là 0,7. Nghiên cứu có đề cập đến hàm tổn thất để xác định hệ số tối ưu
của quy tắc Taylor áp dụng cho một loại lãi suất là lãi suất công trái không phải là
LSCS của NHNN.
Tác giả Vũ Xuân Hòa với đề tài Taylor rule and optimal interest rate policy in
Vietnam năm 2012 sử dụng dữ liệu quý giai đoạn 2000 – 2011 nghiên cứu ảnh hưởng
của độ lệch lạm phát, độ lệch sản lượng và tỉ giá hối đoái đến lãi suất ngắn hạn và kết

4
luận rằng không có bằng chứng cho thấy chính sách lãi suất Việt Nam tuân theo quy
tắc Taylor. Nếu Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor sẽ cải thiện được chính sách lãi
suất. Về dài hạn NHNN nên tiếp tục tăng trưởng kinh tế và tiếp theo là kiểm soát lạm
phát.
Các tác giả Đào Mạnh Trường, Vũ Xuân Hòa và Nguyễn Thị Loan với đề tài
Assessing Vietnam’s monetary policy through the perspective of monetary rules vào
tháng 7 năm 2012 thực nghiệm quy tắc Taylor với dữ liệu quý trong thời gian năm
1996 – 2011, tỉ lệ lạm phát tính theo CPI, sản lượng tiềm năng tính theo bộ lọc HP,
hiệu chỉnh thời vụ X12, lãi suất được chọn là lãi suất tái chiết khấu, quy tắc Taylor áp
dụng ở dạng mô hình gốc và có sử dụng độ trễ bằng 1 với các biến ở bên phải của quy
tắc. Nhóm tác giả đã kết luận là chính sách lãi suất của NHNN không tuân theo quy
tắc Taylor mà thiên về chính sách chủ động tùy ý và chính sách lãi suất tập trung vào
kiểm soát lạm phát. Nghiên cứu chỉ tập trung làm rõ quy tắc Taylor đối với lãi suất tái
chiết khấu và kết luận về CSTT chưa đầy đủ.
Qua ba nghiên cứu trên tại Việt Nam cho thấy các tác giả chỉ sử dụng một loại
lãi suất duy nhất của NHNN để tính toán với quy tắc Taylor, trong đó không đề cập
đến lãi suất cơ bản (LSCB) và trần lãi suất là loại lãi suất đặc trưng của NHNN được
sử dụng đặc biệt trong thời kỳ lạm phát cao. Việc kết luận chính sách lãi suất của
NHNN chỉ dựa trên một loại lãi suất mà không xem xét đến các loại lãi suất khác là
chưa thể hiện đầy đủ vai trò và tác dụng của chính sách lãi suất của NHNN.
Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới và Việt Nam
đều tập trung đánh giá tính đúng đắn của CSTT qua lăng kính quy tắc Taylor mà chưa
đề cập nhiều đến hướng nghiên cứu khả năng vận dụng của quy tắc Taylor trong việc
hoạch định và thực thi CSTT hay cụ thể hơn là chính sách lãi suất, đặc biệt ở Việt
Nam. Vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất là hướng đi mới mà
nghiên cứu sinh mong muốn làm rõ để có thể ứng dụng linh hoạt và phù hợp quy tắc
Taylor trong việc hoạch định chính sách lãi suất trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Do
đó đề tài không trùng lắp với các công trình nghiên cứu và công bố trước đây.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Khả năng và cách thức vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi
suất của NHNN nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu cơ bản của CSTT là ổn định
lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều
hành lãi suất của NHNN.
Luận án sẽ tập trung nghiên cứu những nội dung chính sau đây:
- Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về quy tắc Taylor.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phân tích và vận dụng quy tắc Taylor trong chính
sách lãi suất của một số NHTW trên thế giới, từ đó đúc kết bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam và các điều kiện chính yếu để vận dụng quy tắc Taylor đối với các NHTW.
- Phân tích thực trạng của chính sách lãi suất của NHNN từ năm 2000 đến năm
2015 bằng quy tắc Taylor để giải thích những hợp lý và bất hợp lý của chính sách lãi
suất, nêu bật các thuận lợi và khó khăn khi vận dụng quy tắc Taylor ở Việt Nam đối
chiếu với các điều kiện vận dụng quy tắc Taylor, qua đó đề xuất các giải pháp cơ bản
để vận dụng quy tắc Taylor trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.