
i
PHẦN MỞ ĐẦU
Mặc dù các công cụ CSTT đã được NHNN Việt Nam hình thành, phát triển và
trong liên tục được đổi mới hoàn thiện, góp phần quan trọng giúp NHNN Việt Nam
trong điều hành CSTT đạt những kết quả khả quan. Nhưng về cơ bản, các công cụ
CSTT vẫn được đánh giá là yếu, bộc lộ không ít tồn tại và chưa tác động đầy đủ và kịp
thời trong việc điều hành CSTT quốc gia.
Đặc biệt, khi nền kinh tế bước sang một giai đoạn mới là hội nhập kinh tế quốc
tế, đòi hỏi không những giảm mà phải là cắt bỏ các biện pháp điều hành thị trường tiền
tệ mang tính chất hành chính và can thiệp trực tiếp bằng các biện pháp phi kinh tế tới thị
trường. Do đó, yêu cầu cấp thiết là NHNN phải có một có hệ thống công cụ mạnh, một
cơ chế phối hợp hiệu quả để quản lý và điều tiết thị trường. Do đó, việc hoàn thiện các
công cụ CSTT là một vấn đề cấp thiết hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên
WTO.
Đây là lý do tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện các công cụ điều hành CSTT của
NHNN Việt Nam hiện nay”
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu các lý thuyết cơ bản của các công cụ điều hành CSTT trong nền kinh
tế thị trường. Cũng như đánh giá thực trạng hoạt động và phân tích những ưu nhược
điểm của các công cụ điều hành CSTT hiện nay. Từ đó, đưa ra các giải pháp cần thiết để
nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ CSTT trong điều hành CSTT quốc gia.
* Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các công cụ điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là việc sử dụng các công cụ CSTT của NHNN Việt Nam từ năm
2000 - nay.
* Bố cục của luận văn

ii
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về CSTT và các công cụ của CSTT của NHTW.
Chương 2. Thực trạng sử dụng các công cụ điều hành CSTT của NHNN Việt
Nam hiện nay.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện các công cụ điều hành CSTT của NHNN Việt
Nam.
CHƢƠNG I:TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VÀ CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW
1.1. Tổng quan về chính sách tiền tệ.
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay, CSTT được giao cho NHTW
là đơn vị xây dựng và điều hành phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Với vai trò đó, CSTT là cách thức hay tổng thể các biện pháp, công cụ của
NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc
chi phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng
chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
CSTT được xây dựng nhằm đạt được những mục tiêu nhất định, NHTW các
nước phát triển đã tạo lập thành một hệ thống mục tiêu tùy theo tính chất tác động, bao
gồm mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu cuối cùng của CSTT phải là mục tiêu trung hạn, thường được NHTW
các nước đặt ra một cách cụ thể, như là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát triển
kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức mong muốn.
Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được, NHTW có
thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. IMF đã chia
mục tiêu trung gian được chia thành 3 loại sau: (i) Mục tiêu trung gian là khối lượng

iii
tiền, theo đó NHTW phải xác định được khối lượng tiền cung ứng từng thời kỳ, nhằm
có mức tăng trưởng tiền tệ phù hợp với mục tiêu cuối cùng đối với lạm phát và tăng
trưởng sản lượng thực tế. (ii) Mục tiêu trung gian là tỷ giá, với mục tiêu này CSTT của
NHTW xác định mức biến động tỷ giá cho phép trong từng thời kỳ, thường tỷ giá được
gắn với một đồng tiền mạnh (USD, EURO). (iii) Mục tiêu trung gian là lãi suất thị
trường, với mục tiêu này các hành động của NHTW sẽ nhằm điều chỉnh tới lãi suất thị
trường ở mức mong muốn, từ đó tác động tới các yếu tố của mục tiêu cuối cùng là lạm
phát hay tăng trưởng kinh tế.
Nhưng việc xác định mục tiêu trung gian theo tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái,
hoặc lãi suất thị trường thì mỗi mục tiêu đều có những khó khăn và thuận lợi khi lựa
chọn, do vậy NHTW từng nước phải dựa trên diễn biến kinh tế và thị trường tài chính
trong từng giai đoạn phát triển để chọn mục tiêu trung gian phù hợp.
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động hay kiểm
soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu trung gian, qua
đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Cũng tương ứng với mục tiêu trung
gian, NHTW cũng có thể chọn mục tiêu hoạt động là lãi suất ngắn hạn hoặc khối lượng
tiền cơ bản để điều tiết.
1.2. Các công cụ CSTT.
Theo tổng kết hoạt động của NHTW trên thế giới, có thể phân chia các công cụ
điều hành CSTT thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền tệ gián
tiếp, ngoài ra còn có các công cụ bổ trợ khác. Tuy nhiên, hiện tại xu hướng các NHTW
các nước là tập trung sử dụng các công cụ gián tiếp, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần các
công cụ trực tiếp.
Có 3 công cụ gián tiếp chủ yếu được NHTW các nước sử dụng là Dự trữ bắt
buộc, Tái cấp vốn và Thị trường mở. Về cơ bản, các công cụ này sẽ tác động tới lãi suất
hoặc khối lượng tiền tệ, được sử dụng kết hợp với nhau trong điều hành.

iv
Đối với DTBB được quy định bằng tỷ lệ % của số tiền mà các ngân hàng huy
động trên thị trường, tùy theo từng loại kỳ hạn nhằm thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo
tiền của các NHTM.
Đối với công cụ tái cấp vốn nhằm tạo ra hành lang dao động cho lãi suất ngắn
hạn trên thị trường liên ngân hàng, cung ứng nguồn vốn cần thiết cho các NHTM khi
nghiệp vụ thị trường mở chưa mang lại hiệu quả đầy đủ; là tín hiệu của CSTT, và cung
cấp vốn khả dụng cho hệ thống thanh toán. Nghiệp vụ này bao gồm các nghiệp vụ là:
Nghiệp vụ thấu chi nhằm cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các NHTM do thiếu hụt khả
năng thanh toán; Nghiệp vụ lombar nhằm cung cấp nguồn vốn không liên tục theo yêu
cầu của NHTM, phát sinh nhu cầu thiếu hụt khả năng thanh toán ngoài dự kiến và
không phải là phương tiện cung cấp nguồn vốn lâu dài cho các NHTM; Nghiệp vụ chiết
khấu/tái chiết khấu nhằm cung ứng vốn cho các NHTM dựa trên việc chiết khấu hoặc
tái chiết khấu các giấy tờ có giá.
Còn công cụ thị trường mở hiện rất phát triển và được nhiều NHTW sử dụng
như công cụ CSTT chủ yếu. Nghiệp vụ thị trường mở gồm rất nhiều loại như mua - bán
có kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); Nghiệp vụ mua - bán có kỳ hạn ngoại tệ (Swap); Bán
tín phiếu của NHTW /chứng khoán của chính phủ trên thị trường sơ cấp nhằm thu hút
vốn khả dụng của các NHTM.
1.3. Lựa chọn các công cụ CSTT trong điều hành.
Mỗi khuôn khổ CSTT khác nhau sẽ áp dụng những công cụ tiền tệ khác nhau,
hoặc mức độ sử dụng các công cụ tiền tệ cũng khác nhau. Khó có thể có một công thực
chung cho sự lựa chọn, việc chọn công cụ nào phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng điều
hành CSTT của NHTW, cũng như khả năng điều tiết của công cụ tới thị trường.
1.4. Nghiên cứu kinh nghiệm các nƣớc

v
Trong phần này, luận văn chỉ nêu kinh nghiệm của hai nước cùng khu vực và có
nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam là Ngân hàng nhân dân Trung Quốc và
NHTW Thái Lan. Có thể rút ra rằng việc sử dụng các công cụ gián tiếp đang được dần
thay thế các công cụ trực tiếp, trong đó công cụ thị trường mở và tái cấp vốn được xác
định như những công cụ chính trong điều hành của NHTW các nước này. Đây cũng là
những bài học cần xem xét đối với Việt Nam.
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM
Trong chương này, luận văn tập trung đánh giá thực trạng sử dụng các công cụ
điều hành CSTT của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2000 – nay, đồng thời điểm lại
một số nét chính về quá trình hình thành và phát triển công cụ điều hành CSTT trong
giai đoạn 1990 – 2000.
2.1. Giai đoạn 1990 – 2000.
Đây là giai đoạn đầu hình thành khuôn khổ CSTT cũng như các công cụ điều
hành CSTT của NHNN Việt Nam. Thời gian này, NHNN sử dụng chủ yếu các công cụ
CSTT trực tiếp cụ thể là công cụ lãi suất với việc sử dụng cơ chế lãi suất trần để điều
tiết lãi suất thị trường, ngoài ra công cụ tỷ giá cũng được sử dụng khá tích cực để ổn
định giá trị đồng tiền, công cụ hạn mức tín dụng (1994 - 1998) để khống chế dư nợ cho
vay của các ngân hàng.
Thời kỳ này, công cụ gián tiếp là tái cấp vốn và DTBB cũng bắt đầu được sử
dụng. Đối với công cụ tái cấp vốn thì vai trò chưa được thể hiện đầy đủ mà mới tập
trung chủ yếu vào chức năng cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán gồm tái chiết
khấu và cho vay sau thanh toán bù trừ; Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn
áp dụng cho các TCTD.

