TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT TRÌ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP: NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP PHÚ THỌ
Vũ Thị Phương Lan*, Bùi Tiến Dũng, Đinh Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Kiều Nhung, Lê Thị Kim Xuyến
*Email: phuonglanvu1710@gmail.com
Khoa Kinh Tế, Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì
Tóm tắt:
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải là chủ đề mới trên thế giới, tuy nhiên tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam chủ đề này còn nhiều cách hiểu và cách nhìn nhận khác nhau, đặc biệt về những lợi ích do thực hiện trách nhiệm xã hội mang lại. Nghiên cứu được tiến hành tại 253 doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với mục đích khái quát thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Phú Thọ còn nhiều hạn chế và chưa được chú trọng.
Từ khoá: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Trách nhiệm xã hội, Phú Thọ.
CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY: AN EMPIRICAL STUDY INDUSTRIAL ENTERPRISES IN PHU THO
Corporate social responsibility is not a new topic in the world, however, in developing countries like Vietnam, this topic has many different interpretations and perspectives, Especially about the benefits brought by the implementation of social responsibility. The study was conducted at 253 industrial enterprises in Phu Tho province, for the purpose of generalizing the status of corporate social responsibility implementation. Research results have shown that the implementation of corporate social responsibility in Phu Tho is still limited and has not been focused.
Abstract:
Keywords: Corporate social responsibility, Social responsibility, Phu Tho.
1. GIỚI THIỆU
Thọ hiện nay như thế nào? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến thực hiện TNXHDN? ” nhằm mục đích đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện TNXH tại các DN công nghiệp Phú Thọ.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý thuyết
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) là một khái niệm không còn xa lạ với các nước trên thế giới, tuy nhiên khái niệm này mới xuất hiện ở Việt Nam những năm gần đây khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra các cơ hội về tiếp cận thị trường và phát triển, bên cạnh những cơ hội là những thách thức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài bởi họ có lợi thế về trình độ công nghệ, về vốn và các nguồn lực khác. Bên cạnh hàng rào thuế quan doanh nghiệp (DN) còn phải đáp ứng nhiều điều kiện phi thuế như tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm với môi trường, với người lao động. Để DN nhận thức được lợi ích khi thực hiện các trách nhiệm này nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu để trả lời cho câu hỏi “thực trạng thực hiện TNXH của các DN công nghiệp phú Thuật ngữ TNXH của doanh nghiệp xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1953 khi Howard Rothmann Bowen công bố cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Sau đó, chủ đề này đã được các nhà nghiên cứu rất quan tâm và có rất nhiều những công bố của các nhà
ĐẶC SAN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ / SỐ 2 NĂM 2021 96
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT TRÌ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
nghiên cứu, cùng với đó là sự thay đổi khái niệm TNXHDN theo thời gian:
Đối với nhà nước: Ở tầm quốc gia khi các doanh nghiệp thực hiện tốt TNXHDN tạo ra nhiều lợi ích giúp thực hiện các chính sách vĩ mô như: Xóa đói, giảm nghèo; thu hút nhân tài; bảo vệ môi trường; tiết kiệm tài nguyên; phát triển cộng đồng; bảo vệ người tiêu dùng,....Do đó rất cần phải khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm này.
2.2. Tổng quan nghiên cứu
ISO 26000
Tác giả H.R.Bowen (1953) đã khẳng định “TNXHDN là các chính sách, quyết định và hành động phù hợp với mục đích và giá trị của xã hội”; Freedman (1970) lại cho rằng “TNXHDN bao gồm tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và các kỳ vọng tức thời mà xã hội quan tâm đối với một tổ chức ở một thời điểm nhất định”; Theo Hội đồng kinh doanh thế giới vì sự Phát triển bền vững (WBCSD) (1999) “TNXHDN là cam kết của DN đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm... theo cách có lợi cho cả DN cũng như phát triển chung của xã hội”; Nhóm làm việc về (2007) đã khái niệm “TNXHDN là trách nhiệm của một tổ chức với tác động của các quyết định và các hoạt động của nó đối với xã hội và môi trường thông qua hành vi minh bạch và đạo đức phù hợp với sự phát triển bền vững và phúc lợi của xã hội, có tính đến sự mong đợi của các bên liên quan, phù hợp với các đạo luật hiện hành và phù hợp với các chuẩn mực về hành vi quốc tế”.
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1953 khi Howard Rothmann Bowen công bố cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Sau đó là các nghiên cứu của Milton Friedman (1970); Carroll (1999); Kotler and Lee (2008), Fuller & Tian (2006), Garriga & Melé (2004), Jenkins (2006), Lantos (2001), Maignan & Ferrell (2001); Maignan & Ferrell (2005), Thompson, Smith & Hood (2001). Các nghiên cứu trước đây phần lớn nhằm làm rõ khái niệm và nội dung TNXHDN. Tuy nhiên ngày nay các nhà nghiên cứu có xu hướng nghiên cứu thực nghiệm về thực hiện trách nhiệm xã hội tại các doanh nghiệp, trong đó nghiên cứu thực hiện TNXH tại các doanh nghiệp công nghiệp là một trong những chủ đề chưa được các học giả đề cập đến nhiều. Đây chính là lý do để nhóm tác giả lựa chọn nghiên cứu.
Tuy nhiên khái niệm được sử dụng rộng rãi và được nhiều người biết đến nhất hiện nay là của WBCSD (1999). Đây là một khái niệm bao trùm và phù hợp trong bối cảnh và xu hướng hiện nay đó là phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Các tác giả đồng tình và ủng hộ khái niệm của WBCSD và sử dụng khái niệm của tổ chức trong nghiên cứu này.
Các nghiên cứu về TNXH tại Việt Nam được các tác giả tiếp cận theo các hướng: (1) theo mô hình kim tự tháp của A.Carroll (1999); (2) lý thuyết các bên liên quan; (3) theo quan điểm chiến lược; (4) theo hướng chi phí - lợi ích.
Thực hiện tốt TNXHDN không chỉ giúp bản thân các DN hoàn thành nghĩa vụ với các bên liên quan, mà còn làm tăng năng lực cạnh tranh của DN, giảm thiểu các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động để từ đó gia tăng lợi nhuận, đóng góp vào sự phát triển bền vững của DN. Có thể khái quát một số lợi ích khi thực hiện tốt TNXHDN như sau:
Tiếp cận theo hướng chi phí – lợi ích được ít học giả đề cập đến. Điển hình cho hướng nghiên cứu này là tác giả Trần Thị Hoàng Yến (2016) thực hiện tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và đưa ra kết luận có mối quan hệ thuận chiều giữa quản trị công ty; quyền con người; thực hành lao động; môi trường; công bằng trong các hoạt động; khách hàng; cộng đồng với kết quả tài chính của ngân hàng thương mại thônng qua các chỉ số ROE và ROA. Bên cạnh đó nghiên cứu Đối với bản thân doanh nghiệp: Góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, gia tăng thị phần, giảm thiểu chi phí, gia tăng lợi nhuận
ĐẶC SAN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ / SỐ 2 NĂM 2021 97
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT TRÌ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp công nghiệp tại 13 huyện, thành, thị của tỉnh Phú Thọ. Tổng cộng có 253 phiếu trả lời đầy đủ được xử lý và sử dụng cho quá trình phân tích. Một số thống kê cơ bản về số liệu điều tra được phản ánh trong bảng 1.
Phiếu điều tra được thiết kế đo lường các nhân tố nghiên cứu bằng cấu trúc đa mục tiêu trên cơ sở tổng hợp từ nhiều nghiên cứu trước đây, thang đo sử dụng trong nghiên cứu là thang đo Likert 5 điểm với mức (1): mức độ thấp nhất hoàn toàn không đồng ý; (5) Mức độ cao nhất hoàn toàn đồng ý. của tác giả Châu Thị Lệ Duyên (2018) thông qua mô hình cấu trúc tuyến tính SEM đã cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa thực hiện TNXH với hiệu quả hoạt động của DN, đồng thời có sự khác biệt về mối quan hệ này được kiểm soát bởi quy mô DN, tác giả Phạm Việt Thắng (2018) về thực hiện TNXH với người lao động trong các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam, thông qua mô hình cấu trúc tuyến tính SEM cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa thực hiện TNXH của DN dệt may với sự hài lòng và tin tưởng của người lao động, mối quan hệ giữa sự hài lòng, tin tưởng và sự cam kết của người lao động với DN. Nhóm tác giả sử dụng phần mềm SPSS 18 để xử lý và phân tích dữ liệu.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Ngoài ra còn một số nghiên cứu khác được tiếp cận theo các hướng còn lại. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào về thực hiện TNXH tại các doanh nghiệp công nghiệp đặc biệt là vận dụng các quy định của tiêu chuẩn quốc tế ISO 26000 để nghiên cứu thực nghiệm. Đây chính là khoảng trống giúp nhóm tác giả lựa chọn chủ đề nghiên cứu này.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm mẫu khảo sát (n=253)
Doanh nghiệp
Ngành nghề
Mẫu khảo sát 29(11,5%) 219(86,5%) 1(0,4%) 4(1,6%)
Loại hình DN
Quy mô vốn Kết quả khảo sát DN cho thấy có 92,1% người được hỏi đã nghe một vài lần đến cụm từ “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, có 6,3% người được hỏi đã quá quen thuộc với khái niệm này và có 1,6% người được hỏi chưa nghe đến khái niệm này lần nào. Con số này cho thấy khái niệm TNXH đã được biết đến rộng rãi trong các doanh nghiệp công nghiệp tỉnh Phú Thọ tuy nhiên số lượng DN quen thuộc với khái niệm này còn hạn chế, mới chỉ có 6,3%. Kết quả khảo sát còn cho thấy so với các loại hình doanh nghiệp khác thì loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiểu biết hơn về khái niệm TNXH có 75% người được hỏi quen thuộc với khái niệm này, trong khi đó ở các loại hình công ty cổ phần là 10,3%; công ty TNHH là 3%; công ty liên doanh là 4%. Mặt khác, 100% người được hỏi từ doanh nghiệp tư nhân đều mới nghe đến khái niệm TNXH một vài lần, không doanh nghiệp được hỏi nào am hiểu về khái niệm này do đó có thể kết luận các doanh nghiệp tiền thân là DN nhà nước hoặc có vốn đầu tư của nhà nước thực hiện và truyền thông về TNXH tốt hơn các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghệp tư nhân chưa tiếp cận khái niệm này. 4(1,6%) 76(30%) 134(53%) 25(9,9%) 4(5,5%) 46(18,2%) 125(49,4%) 45(17,8%) 37(14,6%)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)
Khai khoáng Chế biến chế tạo Sản xuất và phân phối điện, khí đốt Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải DNNN Công ty CP TNHH Công ty LD DNTN Dưới 3 tỷ Từ 3 đến dưới 50 tỷ Từ 50 đến dưới 200 tỷ Trên 200 tỷ 253(100%) Cộng
Về thành lập tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp công nghiệp tỉnh Phú Thọ, theo kết quả khảo sát có 117/253 chiếm 46,2% doanh nghiệp được khảo sát có tổ chức công đoàn trong đó tỷ lệ công ty TNHH và công ty cổ phần có tổ chức công đoàn là lớn nhất, chiếm 83,6% trên tổng số DN có tổ chức Bằng phương pháp thống kê mô tả, các tác giả đã tiến hành khảo sát trực tiếp bằng bảng hỏi.
ĐẶC SAN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ / SỐ 2 NĂM 2021 98
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT TRÌ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
quyền địa phương tại Phú Thọ chưa được coi trọng và còn yếu kém.
công đoàn. Có 136/253 chiếm 53,8% DN được khảo sát không có tổ chức công đoàn. Tỷ lệ DN không có tổ chức công đoàn chiếm nhiều hơn các DN có tổ chức công đoàn là dễ hiểu vì số lượng các DN nhỏ và vừa hoạt động trong ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ chiếm 75%.
(Nguồn: Điều tra của tác giả)
Tiếp đến, đề cập về nội hàm và các yếu tố ảnh hưởng đến TNXH có 83,8% DN được khảo sát cho rằng TNXH là những điều DN phải làm cho xã hội để xã hội được tốt lên, tuy nhiên cũng có khá nhiều DN đánh đồng TNXH với hoạt động từ thiện (72,7%), có 34,4% DN được hỏi cho rằng các hoạt động TNXH nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội và ít DN (11,1%) có quan điểm rằng TNXH là hành động tạo ra thật nhiều lợi nhuận cho DN. Kết quả này chứng tỏ DN đã hình dung sơ bộ nội hàm các hoạt động của TNXH, tuy nhiên để hiểu rõ và chính xác nội hàm TNXH thì chưa, bởi vẫn còn khá nhiều cán bộ lãnh đạo các DN đánh đồng TNXH với hoạt động từ thiện mà cán bộ lãnh đạo hiểu sai, hiểu lệch, hiểu chưa đúng thì định hướng thực hiện TNXH lại càng hạn chế. Đây là một vấn đề tồn tại cần được khắc phục trong thời gian tới để không chỉ cán bộ lãnh đạo DN mà người lao động trong DN và cộng đồng địa phương cũng hiểu biết sâu rộng khái niệm và bản chất các hành động thực hiện TNXH là gì, từ đó việc khuyến khích thực hiện TNXH mới có hiệu quả.
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cho thấy có 90,9% DN không có chính sách về TNXH; chỉ 2,8% DN có chính sách này và 6,3% DN đang xây dựng chính sách trên. kết quả trên hoàn toàn phù hợp với các quan sát của nhóm nghiên cứu tại Phú Thọ, lý do là chỉ có những DN lớn mới xây dựng các chính sách về TNXH một cách quy củ còn phần lớn các DN nhỏ và vừa còn đánh đồng các hành động thực hiện TNXH với các hoạt động từ thiện, ủng hộ nên khi được mời hoặc kêu gọi ủng hộ mới tham gia chứ chưa chủ động trong việc lập các kế hoạch để thực hiện các hành động này. Cùng với đó, có 88,9% DN được khảo sát không có bộ phận phụ trách hoạt động TNXH, có 8,3% DN được khảo sát do ban giám đốc phụ trách, và 2,8% do bộ phận công đoàn và marketing kiêm nhiệm, điều này chứng tỏ nhân sự cho bộ phận chuyên trách về TNXH tại các DN công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ chưa được chú trọng phát triển, kết quả này hoàn toàn phù hợp với các con số thể hiện các chính sách cũng như hiểu biết của DN về khái niệm TNXH còn hạn chế và cũng chính từ nguyên nhân này dẫn đến sự đầu tư về nguồn lực tài chính và con người cho công tác này còn khiêm tốn. Như vậy có thể kết luận, DN công nghiệp tại Phú Thọ thực hiện TNXH khá thụ động, chưa có các chính sách trong dài hạn mà chỉ để nhằm đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của Nhà nước.
Kết quả điều tra của nhóm tác giả còn cho thấy có 5,2% DN đã từng nhận giải thưởng về TNXH, còn 94,9% DN chưa được nhận giải thưởng này bao giờ. Kết quả hàm ý các DN công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ chưa thực sự quan tâm đến chính sách nhằm thúc đẩy sự hiểu biết cũng như thực hiện TNXH, thể hiện ở các DN thực hiện tốt TNXH còn rất hạn chế và chiếm tỷ lệ thấp, các DN được tuyên dương, khen thưởng cũng khá khiêm tốn. Điều này thể hiện chính sách khuyến khích thực hiện tốt TNXH của chính Kết quả khảo sát còn cho thấy, phần lớn các DN cho rằng hệ thống pháp luật của nhà nước là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến thực hiện TNXH, sau đó là nguồn lực của DN, hiểu biết của DN, các quy định và môi trường quốc tế, cuối cùng là nguồn nhân lực của DN. Điều này chứng tỏ việc thực hiện TNXH chủ yếu là theo các quy định của pháp luật mà chưa dựa trên tinh thần tự nguyện nhằm mục đích nâng cao uy tín, sức cạnh tranh, lòng tin của người tiêu dùng nhằm mở rộng thị trường. Đây cũng là một gợi ý giúp các cơ quan quản lý có các biện pháp kịp thời nhằm
ĐẶC SAN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ / SỐ 2 NĂM 2021 99
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP VIỆT TRÌ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
tăng cường nhận thức cũng như hành động thực hiện TNXH. nhà nước định hướng chính sách phát triển đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập như ngày nay. 4. KẾT LUẬN Tài liệu tham khảo
(1953),
“Social 1. Bowen, H. R. responsibilities of the businessman”, New York: Harper & Row.
Từ những kết quả phân tích trên đây đã cung cấp bằng chứng cho thấy việc thực hiện TNXH tại các DN công nghiệp Phú Thọ còn hạn chế, các DN tại đây mới chỉ thực hiện đầy đủ các báo cáo định kỳ về TNXH mà chưa có chính sách hay chiến lược thực hiện THXH.
2. Carroll, A. B. (1999), “Corporate social responsibility: evolution of a definitional construct”, Business & Society, 38, 3, 286.
3. Friedman (1984), “Strategic Management – A Stakeholder Approach”, Pitman Publishing Inc
Nghiên cứu cũng cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện TNXHDN được nêu trong nghiên cứu đều ảnh hưởng đến thực hiện trách nhiệm này với DN và nhân tố hệ thống pháp luật của Nhà nước có tác động mạnh nhất, tiếp sau đó là nhân tố nguồn lực của DN, hiểu biết của DN và cuối cùng là nguồn nhân lực 4. Hategan, C., & Curea-Pitorac, R. (2017), “Testing the Correlations between Corporate Giving”, Performance and Firm Value, Sustainability, 9, 1-20.
Kết quả nghiên cứu này có thể là gợi ý chính sách cho các DN và cơ quản quản lý
ĐẶC SAN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ / SỐ 2 NĂM 2021 100