Từ đồng nghĩa
1. Đã có không ít quan nim được nêu lên cho hiện tượng này với những dị biệt
ít nhiều. Nhìn chung, hai hướng quan niệm chính: một là dựa vào đối tượng
được gọi tên, hai là dựa vào khái nim do từ biểu thị.
Thực ra, từ đồng nghĩa không phải những ttrùng nhau hoàn toàn vnghĩa.
Chúng nhất định những dị biệt nào đó n cạnh sự tương đồng (mặc dù phát
hiện sự dị biệt đó không phải lúc nào cũng dễ dàng). Chính sdị biệt đó lại là lí do
tồn tại và m nên những giá trị khác nhau giữa các ttrong một nhóm từ đồng
nghĩa. Rõ ràng tính đồng nghĩa có những mức độ khác nhau, và ta có th nêu quan
niệm như sau:
Tđồng nghĩa là những từ tương đồng với nhau vnghĩa, khác nhau về âm
thanh phân biệt với nhau vmột vài sắc thái ngữ nghĩa hoc sắc thái phong
cách,... nào đó, hoặc đồng thời cả hai.
Ví dụ:
- start, commence, begin (trong tiếng Anh)
- cố, gắng, cố gắng (trong tiếng Việt)
là những nhóm từ đồng nghĩa.
2. Những từ đồng nghĩa với nhau tập hợp thành một nhóm gọi nhóm đồng
nghĩa. Trong các dvừa nêu, ta các nhóm đồng nghĩa của từng ngôn ngữ
tương ứng.
2.1. Những từ đồng nghĩa với nhau không nhất thiết phải tương đương với
nhau vsố lượng nghĩa, tức là các ttrong một nhóm đồng nghĩa không nhất thiết
phải dung lượng nghĩa bằng nhau: Tnày thcó một hoặc hai nghĩa, nhưng
tkia thể tới m bảy nghĩa. Thông thường, các từ chỉ đồng nghĩa một
nghĩa nào đó. Chính vì thế nên một từ đa nghĩa thể tham gia vào nhiều nhóm
đồng nghĩa khác nhau: nhóm này tham gia với nghĩa này, nhóm khác
tham gia với nghĩa khác.
dụ: Từ “coi” trong tiếng Việt là một từ đa nghĩa. Tuỳ theo từng nghĩa được
nêu lên để tập hợp các từ, mà “coi” có ththam gia vào các nhóm như:
+ coi – xem: coi hát – xem hát
+ coi – giữ: coi nhà – giữ nhà
2.2. Trong mỗi nhóm từ đồng nghĩa thường một từ mang nghĩa chung, được
dùng phbiến và trung hoà vmặt phong ch, được lấy làm sđể tập hợp và
so sánh, phân tích các từ khác. Từ đó gọi là từ trungm của nhóm.
dtrong nhóm từ “yếu, yếu đuối, yếu ớt” của tiếng Việt, từ “yếu” được gọi
là từ trung tâm.
Tuy nhiên, việc xác định từ trung tâm của nhóm không phải lúc nào cũng dễ và
đối với nhóm nào cũng làm được. Nhiều khi ta không thể xác định một cách dứt
khoát được theo những tiêu cvừa nêu trên, phải dựa vào những tiêu chí ph
như: tần số xuất hiện cao (hay được sử dụng) hoặc khả năng kết hợp rộng.
Chẳng hạn, trong các nhóm từ đồng nghĩa tiếng Việt như: hồi, thuở,
thời; hoặc chờ, đợi; hoặc chỗ, nơi, chốn,... rất khó xác định từ nào là trung tâm.
(Vấn đề trung tâm sẽ được nhắc lại ở điểm 3 tiếp theo).
3. Tập hợp đủ các nhóm từ đồng nghĩa, phân tích cho hết được những nét giống
nhau, khác nhau giữa các từ trong mỗi nhóm, luôn luôn làm mong muốn của
những người nghiên cứu và xử lí vấn đề từ đồng nghĩa.
nhiều thao tác ít nhiều mang tính thuật và nguyên tắc hoặc kinh nghiệm
trong khi phân tích nhóm t đồng nghĩa, nhưng tất cả đều nhằm vào mục đích
chung của hai bước cơ bản sau đây:
3.1. Lập danh sách các từ trong nhóm
Mỗi nhóm đồng nghĩa thể nhiều hay ít tuỳ theo tiêu chí đưa ra đtập hợp
nhưng phải luôn luôn dựa vào nghĩa biểu niệm của từ.
3.1.1. Trước hết phải chọn một từ đưa ra làm sở để tập hợp các từ. Tnày
thường cũng chính là ttrung m của nhóm, chẳng những được lấy làm s
để tập hợp các từu khác mà còn cơ sở để so sánh, phân tích và giải thích chúng.
dụ: Với t“sợ” của tiếng Việt, ta tập hợp thêm một số từ khác và lập thành
nhóm đồng nghĩa: s– hãi – kinh – khiếp – sợ hãi – khiếp sợ ...
3.1.2. Khi lập nhóm đồng nghĩa phải luôn luôn cảnh giác với các cách diễn đạt
đồng nghĩa, với các hiện tượng chuyển nghĩa tính chất phong cách, tu từ. Đó là
những trường hợp “đồng nghĩa ngữ cảnh” hoàn toàn có tính chất lâm thời và thuộc
về kĩ thuật tạo lập văn bản, do phong cách học nghiên cứu. Ví dụ:
- Áo nâu cùng với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên.
3.2. Phân tích nghĩa của từng từ trong nhóm
Ở bước này phi phát hiện những tương đồng và dị biệt giữa các từ trong nhóm
với nhau. Công việc cthể phải làm là:
3.2.1. C gắng phát hiện xác định cho được từ trung m của nhóm. Từ
trung tâm thường là tmang nghĩa chung nhất, dễ dùng dhiểu nhất. Về mặt
phong cách, mang tính chất trung hoà. Chng hạn, trong nhóm “mồ mm
– mồ mả” thì “mộ” là từ trung tâm, vì nó đáp ứng được các đặc điểm vừa nêu.
Trong tiếng Việt, từ trung m nhóm đồng nghĩa, i chung một số biểu
hiện hình thức như sau:
Nếu trong nhóm có cả từ đơn tiết lẫn đa tiết thì từ trung tâm thường là t
đơn;
Nếu trong nhómnhững từ khôngkhả năng tạo từ phái sinh hoặc tạo
từ phái sinh rất ít, thì còn lại, từ nào có khả năng phái sinh lớn nhất, từ đó cũng
thường là từ trung tâm.
Nếu một từ trực tiếp trái nghĩa với một từ trung tâm của một nhóm đồng
nghĩa khác thì nó cũng sẽ chính là ttrung tâm trong nhóm của mình.
Chẳng hạn, xét hai nhóm:
1/ hiền – lành – hiền lành – hiền hậu hiền từ – nhân hậu – nhân t
2/ ác – d độc ác – hiểm độc – ác nghiệt
Ta thấy ở nhóm 1, “hiền” là ttrung m vì thomãn tất cả những đặc điểm
va nêu trên. Trong nhóm 2, “ác” sđược coi là ttrung tâm cũng vì những do
như vậy và nó trái nghĩa với “hiền”.
Tuy nhiên, một từ đa nghĩa thể đồng thời tham gia vào nhiều nhóm đồng
nghĩa khác nhau nên thnhóm này ttrung tâm nhưng nhóm khác thì
lại hoàn toàn không có tư cách đó.
3.2.2. Lần lượt đối chiếu các từ trong nhóm từ trung m đối chiếu giữa các
tkhông phải là ttrung tâm với nhau ta sẽ phát hiện những tương đồng và dị biệt
về nghĩa. Sự tương đồng sẽ tất cả mọi từ, còn dbiệt thì s từng từ trong
nhóm. thế, khi đối chiéu, ta n đối chiếu với từ trung m trước, như so sánh
với một mẫu số chung vậy.