Ứng dụng CNTT trong dạy – học môn địa lý

Nếu như việc ứng dụng công nghệ thông

tin (CNTT) đã và đang phát huy hiệu quả

đối với việc dạy và học nhiều bộ môn thì

riêng với môn địa lý, CNTT có rất nhiều thuận lợi.

Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy giúp tiết học

thêm sinh động

Trong sách giáo khoa Địa lí lớp 4, bài Tây Nguyên là

bài mà GV khó hướng dẫn HS trình bày được một vài

đặc điểm tự nhiên của một số khu vực thuộc các miền

địa hình cao nguyên nhất. Vì sao lại khó nhất? Đó là

do bài này không có hình ảnh nào nói về đặc điểm tự

nhiên của địa hình cao nguyên. Mà trong các tranh

ảnh thường được in trên lịch, trên báo cũng hiếm các

hình ảnh về địa hình cao nguyên. Nếu làm sa bàn để

HS hiểu được đặc điểm tự nhiên của địa hình thì GV

không có đủ điều kiện về tài chính cũng như kĩ thuật.

Chẳng lẽ bó tay ?

May thay, CNTT đã giúp GV giải quyết khó khăn

một cách nhẹ nhàng, giúp HS học tập hứng thú hơn

bao giờ hết. Mỗi giờ học địa lí đối với các em thật là

một giờ học vui, lí thú như được đi du lịch, được giải

trí bằng phim ảnh. CNTT đã giúp GV đứng lớp thoải

mái, không mất thời gian treo tranh, dán ảnh. Riêng

trong bài Tây Nguyên thì HS tha hồ quan sát và nói

chính xác địa hình các cao nguyên như đã từng đến

những nơi ấy. HS đạt được yêu cầu tiết học thật dễ

dàng, không cần cố gắng cũng nhớ được đặc điểm địa

hình, không mù mờ như các lớp HS trước đây (khi

chưa có ứng dụng CNTT).

Mỗi bài học ở dạng này thường đề cập tới 2 yếu tố tự

nhiên (địa hình và khí hậu hoặc địa hình và sông

ngòi). Ví dụ: ở các bài Dãy Hoàng Liên Sơn hay bài

Tây Nguyên đề cập tới địa hình và khí hậu; ở các bài

Đồng bằng Bắc Bộ hay Đồng bằng Nam Bộ đề cập

tới địa hình và sông ngòi. Nếu HS quan sát được

vùng núi cao, mây mờ che phủ đỉnh núi thì các em dễ

dàng suy luận khí hậu mát mẻ; hoặc HS được quan

sát cao nguyên đất đỏ chỉ toàn rừng khộp (rừng rụng

lá mùa khô) thì các em biết và hiểu rõ thời tiết nơi

này nóng. Còn khi học đến dải đồng bằng duyên hải

miền Trung các em sẽ suy luận và hiểu được vì sao

đồng bằng nơi này nhỏ hẹp khi quan sát dãy Bạch Mã

kéo dài ra tới biển khác hẳn với đồng bằng Nam Bộ

thẳng cánh cò bay.

Đồng thời, các em hiểu được vì sao khí hậu có sự

khác biệt giữa 2 khu vực phía bắc và phía nam dãy

Bạch Mã (vì dãy núi cao như bức tường chắn gió).

Đối với một số ít HS thông minh nhạy bén thì các em

học và hiểu được bài trong sách giáo khoa. Nhưng

với nhiều HS có khả năng tiếp thu bài chậm, ham

chơi hơn ham học, lo ra thì mục tiêu trên quả là khó

khăn vô cùng. Sau tiết học, nhiều khái niệm trừu

tượng không gây ấn tượng cho các em nên các em

không nhớ gì cả. Chấm bài thi của các em mà GV

cười như mếu. Cứ như là GV chẳng giảng dạy gì cả.

Khả năng tổng hợp còn hạn chế, các em nhớ lộn xộn

hoạt động sản xuất của vùng này với vùng kia.

Nhưng nếu GV chịu khó ứng dụng CNTT vào giảng

dạy, cho các em xem phim ảnh sản xuất lúa ở vùng

đồng bằng và các loại cây công nghiệp được trồng

trên đất đỏ badan thì sẽ dễ dàng phân biệt hai loại

hình sản xuất này.

Chỉ cần được xem phim một lần duy nhất, không cần

ôn, HS vẫn nhớ mãi nội dung bài học. Đồng thời các

em hiểu được sự vất vả của người nông dân, và càng

quý hạt gạo, quý người nông dân hơn. Có dạy bằng

phim ảnh rồi GV sẽ thấy HS hào hứng như thế nào

trong các tiết học, các em chờ đợi tiết học, về nhà

chuẩn bị tốt hơn, tích cực học tập hơn bao giờ hết.

Theo Giáo Dục Online