TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
ĐỀ TÀI:
1. Nguyễn Thị Cẩm Nguyên 2. Nguyễn Cẩm Tiên 3. Ngô Thị Thuỳ Xuân 4. Nguyễn Ngọc Hải Âu 5. Lê Thị Hiền 6. Nguyễn Thị Thuỳ Trang 7. Nguyễn Thị Út Thôi
Giảng viên hướng dẫn: Liêu Mỹ Đông
Tên tác giả
TP.Hồ Chí Minh, năm 2016
i
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
NGƯỜI THỜI STT CÔNG VIỆC KẾT QUẢ THỰC HIỆN GIAN
Tìm được trong bia có 4
thành phần chính: nước, men
bia, malt, hoa houblon.
Các thành phần 20- +http://timtailieu.vn/tai- 1 Nguyên, Tiên của bia 28/10/2016 lieu/bai-giang-cac-phuong-
phap-va-ky-thuat-len-men-
25037/
Có 2 phương pháp chính: cổ
điển và hiện đại
+http://doc.edu.vn/tai-
lieu/tieu-luan-len-men-bia- Các phương 20- 9680/ 2 pháp lên men Xuân ,Âu 28/10/2016 + http://tailieu.vn/doc/bao- bia cao-nghien-cuu-khoa-hoc-
nang-cao-qua-trinh-len-men-
trong-san-xuat-bia-nong-do-
cao--788484.html
Các yếu tố ảnh hưởng: nồng
độ chất hòa tan, nhiệt độ, Các yếu tố ảnh chất lượng nấm men, cường 20- hưởng đến quá 3 Hiền độ khuấy đảo,… 28/10/2016 trình lên men + http://doan.edu.vn/do- bia an/de-tai-nghien-cuu-su-len-
men-bia-24584/
ii
Tìm bài báo khoa học về các
phương pháp để khảo sát các
yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình lên men
[1]. Ngô Thị Phương Dung,
“Khảo sát khả năng lên men
và tính chịu cồn của nấm
men”, Tạp chí khoa học,
Lên men dịch tr.374-382,2009.
nha trong thiết [2] Lê Quốc Đạt, Lê Văn
bị lên men Việt Mẫn, Võ Thị Luyến, 20- 4 BIOSTAT của Trang, Thôi “Khảo sát ảnh hưởng của 28/10/2016 hãng BRAUN một số yếu tố đến quá trình
(Đức). lên men bia ở nồng độ cao ”,
Hội nghị khoa học và công
nghệ lần 9.
[2]. Lê Quốc Đạt, Lê Văn
Việt Mẫn, Võ Thị Luyến,
“Khảo sát ảnh hưởng của
một số yếu tố đến quá trình
lên men bia ở nồng độ cao ”,
Hội nghị khoa học và công
nghệ lần 9.
5 Tổng kết Nguyên 10/11/2016
iii
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật việc
ứng dụng những thành tựu công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất diễn ra mạnh mẽ
và có những bước đột phá. Có thể nói, sự đổi mới liên tục về công nghệ đã trở thành
yếu tố then chốt để duy trì sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường. Công
nghệ sản xuất bia cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Bia là một mặt hàng có tính cạnh tranh cao trên thị trường đồ uống nói riêng
cũng như thị trường tiêu thụ nói chung. Các doanh nghiệp trên thị trường hiện nay
cũng không ngừng đổi mới công nghệ nhằm tăng lợi nhuận cho mình cũng như đáp
ứng các nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Không chỉ là loại đồ uống chứa cồn thấp, giàu chất dinh dưỡng, cung cấp
một lượng calori khá lớn mà bia còn chứa hệ enzyme phong phú trong đó có
enzyme amylase kích thích tiêu hóa. Với các thành phần cơ bản như nước, malt đại
mạch, hoa houblon, men, bia mang lại tính cảm quan khá tốt cho người tiêu dùng.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, các nhà sản xuất
không ngừng tìm tòi và nghiên cứu các phương pháp sản xuất mới không chỉ tăng
lợi nhuận mà còn nâng cao được chất lượng sản phẩm. Vì vậy mà việc ứng dụng
công nghệ lên men trong sản xuất bia có những bước tiến mới nhằm phục vụ các
yêu cầu trên.
iv
LỜI CẢM ƠN
Cảm ơn tất cả các thành viên trong nhóm đã tìm tài liệu cũng như cùng nhau
làm bài để có thể hoàn thiện được bài báo cáo. Cảm ơn sự hợp tác của tất cả mọi
người cùng nhau thảo luận và đưa ra ý kiến cho đề tài của nhóm.
Cảm ơn mọi người đã đọc cũng như lắng nghe bài báo cáo của nhóm về đề
tài nghiên cứu “ Ứng dụng lên men trong công nghệ sản xuất bia”. Đề tài là một
sự tìm kiếm tài liệu và chọn lọc ra những kiến thức có thể khái quát được phần nào
về kiến thức cho các bạn. Tuy nhiên, trong quá trình làm ra quyển báo cáo này, chắc
chắn sẽ có nhiều sai xót, và rất mong các bạn sẽ thông cảm và bỏ qua. Nhóm chúng
tôi luôn sẵn sàng và trân trọng lắng nghe những lời góp ý của các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
v
MỤC LỤC
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC ......................................................................... ii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ iv
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. v
DANH MỤC HÌNH ẢNH ...................................................................................... viii
DANH SÁCH BẢNG BIỂU ...................................................................................... ix
Chương 1: MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1
Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 2
Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................. 2
Đối tượng nghiên cứu....................................................................................... 3
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ......................................................................... 4
So sánh các loại bia .......................................................................................... 4
So sánh bia vàng, bia đen ................................................................................. 5
So sánh nấm men nổi và nấm men chìm .......................................................... 7
Các phương pháp lên men bia .......................................................................... 9
Chương 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ......................................................... 10
Nội dung ......................................................................................................... 10
3.1.1. Nguyên liệu ............................................................................................. 10
3.1.2. Công nghệ lên men bia ............................................................................ 24
3.1.2. ..................................................................................................................... 24
3.1.3. Các phương pháp lên men bia ................................................................. 29
3.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lên men.......................................... 35
Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 38
vi
3.2.1. Nguyên liệu ............................................................................................. 38
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 38
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................ 40
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình sử dụng cơ chất của nấm
men ........................................................................................................................ 40
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình sinh trưởng của tế bào nấm
men ........................................................................................................................ 41
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến nồng độ sản phẩm chính................. 42
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình hình thành các sản phẩm
phụ ......................................................................................................................... 43
4.4.1. Diacetyl ................................................................................................... 43
4.4.2. pH của dịch lên men ................................................................................ 44
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................ 45
Kết luận .......................................................................................................... 45
Kiến nghị ........................................................................................................ 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 46
vii
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1: Các loại bia Việt Nam ................................................................................. 1
Hình 2.1: Bia đen porter Zywiec và bia vàng Hoavener ............................................. 5
Hình 2.2: Nấm men Saccharomyces Cerevisiae ......................................................... 8
Hình 3.1: Đại mạch 2 hàng ....................................................................................... 13
Hình 3.2: Đại mạch nhiều hàng................................................................................. 14
Hình 3.3: Hạt đại mạch hai hàng ............................................................................... 14
Hình 3.4: Quy trình sản xuất bia ............................................................................... 24
Hình 4.1: Sự biến đổi của hàm lượng đường khử trong quá trình lên men .............. 41
Hình 4.2: Sự biến đổi của hàm lượng diacetyl trong quá trình lên men ................... 43
Hình 4.3: Sự biến đổi pH của dịch lên men trong quá trình lên men ....................... 44
viii
DANH SÁCH BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng so sánh sự khác biệt giữa bia đen và bia vàng .................................. 6
Bảng 2.2: So sánh đặc tính của nấm men nổi và nấm men chìm ................................ 8
Bảng 3.1: Tính theo phần trăm trọng lượng chất khô ............................................... 15
Bảng 3.2: Thành phần hóa học hoa Houblon ............................................................ 17
Bảng 3.3: Thành phần nguyên liệu chuẩn bị dịch nha .............................................. 38
Bảng 4.1: Hiệu suất tổng hợp sinh khối của nấm men tính theo đường khử (triệu tế
bào/g) ......................................................................................................................... 42
Bảng 4.2: Hiệu suất sinh tổng hợp ethanol tính theo đường khử (%) ....................... 42
ix
Chương 1: MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Bia là một loại nước uống chứa cồn được sản xuất bằng quá trình lên men
của đường lơ lửng trong môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau khi lên
men. Nói một cách khác, bia là loại nước giải khát có độ cồn thấp, bọt mịn xốp và
có hương vị đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt CO2 hòa tan trong bia có tác dụng
giải nhiệt nhanh, hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một
lượng vitamin khá phong phú (chủ yếu là vitamin nhóm B như vitamin B1, B2, PP. .
.). Nhờ những ưu điểm này, bia được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế
giới với sản lượng ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở thành loại đồ uống
quen thuộc với sản lượng ngày càng tăng và đã trở ngành công nghiệp mũi nhọn
trong ngành công nghiệp nước ta.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản
xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và
màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân
loại khác.
Hình 1.1: Các loại bia Việt Nam
Nước ta nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới có ưu điểm là thị trường giải
khát lớn. Mặt khác, các nhà sản xuất bia lon xuất khẩu không nhiều. Do chính sách
1
mở cửa của nhà nước các thương hiệu bia nước ngoài tràn ngập vào thị trường Việt
Nam tạo ra sức cạnh tranh rất lớn. Vì vậy, nước ta cần tạo ra một loại bia có chất
lượng cao và giá thành sản phẩm ổn định, đẩy mạnh xuất khẩu. Để tạo ra được bia
đạt chất lượng thu hút sự quan tâm của nhiều người thì quá trình lên men bia là một
trong những nhân tố quan trọng. Chất lượng của bia được xem như là kết quả từ các
quá trình hoạt động của nấm men. Vì thế, để có được bia chất lượng đáp ứng được
nhu cầu người tiêu dùng thì đây cũng là vấn đề của nhiều nhà sản xuất kinh doanh
cũng như những người học công nghệ.
Mục tiêu nghiên cứu
Sau đây là phần tìm hiểu thông tin chi tiết về công nghệ sản xuất bia nói
chung cũng như quá trình lên men bia nói riêng với các mục tiêu sau:
Khảo sát ảnh hưởng của một số yếu tố công nghệ đến quá trình lên men bia
nồng độ cao
Nghiên cứu cải thiện quá trình lên men nồng độ cao trong sản xuất bia
Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa khoa học: đề tài góp phần phát hiện ra những yếu tố về mặt sinh
học, lí học cũng như là hóa học ảnh hưởng đến quá trình lên men bia ở nồng
độ cao.
Ý nghĩa thực tiễn: đề tài giúp phát hiện ra những mặt lợi cũng như hạn chế
mà phương pháp lên men mang lại. Qua đó, chúng ta có thể phát huy, duy trì
những mặt lợi cũng như là hạn chế những mặt hại để thúc đẩy tăng năng
suất, cũng như là tạo ra một sản phẩm chất lượng đáp ứng được nhu cầu của
người dân. Ngoài ra, nó còn là động lực để thúc đẩy sự cạnh tranh về đổi mới
phương pháp lên men để tạo ra sản phẩm tốt nhất cho công ty mình.
2
Đối tượng nghiên cứu
Bia, các loại nấm men
Công nghệ sản xuất bia, các phương pháp lên men ứng dụng trong lên men
bia.
3
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
So sánh các loại bia
Có nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại bia được coi là thuộc về một kiểu bia
cụ thể nào đó. Kiểu bia là mác dán miêu tả hương vị tổng thể và thông thường là
nguồn gốc của bia, phù hợp với hệ thống đã tiến hóa qua các lần thử và các sai số
qua nhiều thế kỷ.Yếu tố chính để xác định loại bia là men bia sử dụng trong quá
trình lên men.
Phần lớn kiểu bia thuộc về một trong hai họ lớn: ale-sử dụng lên men nổi
hoặc lager-sử dụng lên men chìm. Bia có đặc trưng pha trộn của cả ale và lager
được gọi là bia lai. Đồ uống chứa cồn sản xuất từ việc lên men đường thu được từ
các nguồn không phải là ngũ cốc nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng
cũng được sản xuất bằng cùng một phản ứng sinh học gốc men bia. Mật ong lên
men được gọi là rượu mật ong, nước táo lên men được gọi là rượu táo, nước lê lên
men được gọi rượu lê, còn nước nho lên men được gọi là rượu vang.
Ale: Ale là bất kỳ loại bia nào được sản xuất bằng lên men nổi, và nó thông
thường được lên men ở nhiệt độ cao hơn so với bia lager (15-23oC). Các men bia
ale ở các nhiệt độ này tạo ra một lượng đáng kể các ester, các hương liệu thứ cấp và
các sản phẩm tạo mùi khác, và kết quả là bia tạo ra có mùi vị của hoa hay quả tương
tự (nhưng không chỉ có thế) như táo, lê, dứa ,cỏ, cỏ khô, chuối mận hay mận khô.
Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều
loại bia ale rất khó để phân loại chúng.
Lager: Lager là loại bia được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Chúng có
nguồn gốc từ vùng Trung Âu, có tên gọi này là từ lagern ("lưu trữ") trong tiếng
Đức. Men bia lager là loại lên men chìm, thông thường được lên men ở nhiệt độ 7-
12°C (45-55°F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở 0-4°C (30-
40°F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp, lager được làm trong và
chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản xuất tự nhiên các ester và các phụ
phẩm khác, tạo ra hương vị "khô và lạnh hơn" của bia.
4
Các phương pháp hiện đại để sản xuất bia lager đã được Gabriel Sedlmayr và
Anton Dreher khai phá. Gabriel Sedlmayr trẻ là người đã hoàn thiện bia lager màu
nâu sẫm ở nhà máy bia Spaten tại Bavaria còn Anton Dreher là người bắt đầu sản
xuất bia lager, có lẽ là màu đỏ hổ phách tại Wien khoảng những năm 1840-1841.
Với việc kiểm soát quá trình lên men đã được hoàn thiện hơn, phần lớn các nhà sản
xuất bia lager chỉ sử dụng thời gian lưu trữ lạnh ngắn, thông thường từ 1 đến 3 tuần.
Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener , được sản xuất lần đầu tiên năm
1842 tại thành phố Plzen, ở Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener ngày nay có
màu sáng và được cacbonat hóa nồng độ cao, với hương vị mạnh của hoa bia và
nồng độ cồn 3-6% theo thề tích. Các thương hiệu bia Pilsner Urquell hay Heineken
là các ví dụ điển hình về bia pilsener.
Hình 2.1: Bia đen porter Zywiec và bia vàng Hoavener
So sánh bia vàng, bia đen
Trên thị trường hiện nay có hai loại bia là: bia vàng và bia đen. Với loại bia
vàng thì ở nước ta đang rất phát triển và thịnh hành, còn bia đen thì chỉ mới du nhập
vào nước ta ở thập niên 90, tuy vẫn chưa quen với mùi vị của nó nhưng hiện nay bia
đen cũng đang dần chinh phục thị trường Việt Nam. Trong tương lai nó sẽ phát triển
mạnh và đem lại nguồn thu lớn đóng góp vào nền kinh tế nước nhà.
Dù bia vàng vẫn là sản phẩm truyền thống, nhưng bia đen đang mang lại một
chút sành điệu cho người tiêu dùng, thậm chí trở thành ưu thế cho những thương
hiệu mới tham gia thị trường.
5
Bảng 2.1: Bảng so sánh sự khác biệt giữa bia đen và bia vàng
Bia đen Bia vàng
Nấm men: Saccharomyces Cerevisiae Nấm men: S. pastorianeus, S. uvarium,
S.carbergensis
Phương pháp lên men nổi Phương pháp lên men chìm
Malt đen có màu nâu sẫm, hương vị Malt vàng do sấy ở nhiệt độ 85oC, thời
ngọt đậm do sấy ở nhiệt độ 105oC gian sấy là 24 giờ, có vị đắng dịu
trong thời gian 48 giờ. hương thơm ngát nhưng rất nhẹ nhàng,
hương này do hoa houblon quyết định.
Bia đen có độ nhớt cao Bia vàng có độ nhớt thấp hơn bia đen
Nước thường sử dụng là nước cứng Nước thường sử dụng là nước mềm
Ngoài ra, bia vàng có thành phần hoa bia (houblon) nhiều hơn, trong khi bia
đen có thành phần lúa mạch nhiều hơn và lại là loại lúa mạch được sấy khô cho có
màu đen (còn gọi là carafamalt). Chính đặc điểm này tạo nên sự khác biệt về tính
chất sản phẩm: bia đen có chất đạm cao hơn, bia vàng nhiều vitamin (B2, B6, B9)
hơn. Bia tươi uống ngon nhất ở nhiệt độ 12oC. Nếu để bia nguội đi quá nhiệt độ
này, bia đen uống vẫn còn vị ngọt trong khi bia vàng lại đắng.
Bia đen tốt cho sức khỏe
Một phát hiện mới đây của các nhà khoa học cho thấy, sản phẩm bia đen có
màu tối rất tốt cho sức khỏe: mở rộng mao mạch, giảm nguy cơ đóng cục máu gây
ra bệnh tim và đột quỵ. Sở dĩ bia đen có công dụng trên là vì thời gian ủ chúng lâu
hơn ba lần loại bia thường. Ngoài ra, trong bia còn chứa nhiều bột nha mạch rất tốt
cho sức khỏe. Tuy nhiên không vì thế mà bạn uống bia một cách bừa bãi. Các nhà
khoa học cho rằng tốt hơn hết các bạn chỉ nên uống 2 cốc/ngày. Kết luận này do kết
luận của các chuyên gia y học của Trường Đại học Wisconsin và các viện nghiên
cứu rượu bia ở Mỹ và Anh đưa ra.
6
So sánh nấm men nổi và nấm men chìm
Sự khác nhau giữa nấm men nổi và nấm men chìm là khả năng lên men các
loại đường trisacarit, ví dụ raffinoza. Trong nấm men chìm có enzyme có thể sử
dụng hoàn toàn đường raffinoza trong khi đó nấm men nổi chỉ sử dụng được 1/3
đường saccharoze.
Ngoài ra chúng còn khác nhau về khả năng hô hấp, khả năng trao đổi chất
khi lên men và khả năng hình thành bào tử. Quá trình trao đổi chất của nấm men
chìm chủ yếu xảy ra trong quá trình lên men, còn của nấm men nổi xảy ra mạnh
trong quá trình hô hấp, vì vậy sinh khối nấm men nổi thu được nhiều hơn nấm men
chìm.
Nấm men chìm có nồng độ enzyme thấp hơn nấm men nổi. Khả năng tạo bào
tử của nấm men chìm lâu hơn và hạn chế hơn nấm men nổi.
Nấm men chìm còn chia ra hai loại tùy thuộc vào khả năng kết lắng của nó là
nấm men bụi và nấm men kết bông. Nấm men bụi là nấm men phân ly mịn trong
dịch lên men và lắng từ từ khi kết thúc lên men chính. Nấm men kết bông là loài
nấm men có thể kết dính với nhau trong thời gian ngắn khi kết thúc lên men chính
và tạo thành khối kết bông lớn nên lắng nhanh xuống đáy thiết bị. Còn nấm men nổi
không có khả năng này.
Nấm men nổi nổi lên trên bề mặt dịch trong và cuối quá trình lên men chính.
Trong khi đó nấm men chìm lắng xuống đáy thiết bị khi kết thúc lên men chính, làm
cho bia nhanh trong nhưng khả năng lên men hết đường không bằng nấm men nổi.
Như vậy đối với sản xuất bia bằng phương pháp lên men nổi, nấm men được tách
khỏi bia bằng cách hớt bọt, lên men chìm thì xả cặn ở dưới đáy thiết bị lên men.
Nấm men chìm lên men ở 4 – 12oC, nấm men nổi ở 14 – 25oC.
7
Bảng 2.2: So sánh đặc tính của nấm men nổi và nấm men chìm
Nấm men chìm Đặc tính Nấm men nổi S.Cerevisiae
S. carlsbergensis Loại bia: Ale
Loại bia: Lager
Nhiệt độ lên men 14 – 25oC 4 – 12oC
Chủ yếu lên men đường đơn Lên men tốt glucose, Cơ chất
(glucose, fructose), đường đôi maltose, galactose,
(saccharose, maltose), khó lên fructose, saccharose,
mannose và cả men đường tam (raffinose).
raffinose.
Lên men mạnh trên bề mặt Lên men mạnh trong Khả năng lên men
môi trường. lòng môi trường.
Khả năng tạo bông, kết Kết bông trên bề mặt, bia khó Kết chùm lắng
xuống đáy, bia trong lắng trong tự nhiên.
tự nhiên.
8
Các phương pháp lên men bia
Do nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng cao, việc sản xuất bia đòi
hỏi phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và năng suất sản xuất. Trên thế giới hiện nay
vẫn tồn tại song song hai phương pháp sản xuất bia: phương pháp cổ điển và
phương pháp hiện đại. Nhìn mặt bằng chung, cả hai phương pháp đều tiến hành quá
trình lên men thông qua hai giai đoạn: lên men chính và lên men phụ. Tuy nhiên,
điểm khác biệt chính của hai phương pháp này là cách thực hiện quá trình lên men
bia.
Trong phương pháp cổ điển, hai quá trình lên men chính và phụ được thực
hiện ở hai thiết bị riêng biệt, còn ở phương pháp hiện đại thì hai quá trình lên men
đó được thực hiện trong cùng một thiết bị. Ưu điểm của phương pháp hiện đại là ít
tốn thiết bị lên men, ít tốn diện tích nhà xưởng, ít tốn chi phí năng lượng và thời
gian lên men ngắn, do đó nâng cao năng suất sản xuất. Một trong những giải pháp
nhằm nâng cao năng suất của quá trình sản xuất bia là nâng cao nồng độ ethanol và
các sản phẩm trao đổi chất khác của nấm men trong dịch lên men. Để thực hiện điều
này, các nhà sản xuất sẽ lên men dịch nha có nồng độ chất khô ban đầu cao hơn
thông thường (lớn hơn 13oBal). Sau đó, dịch lên men sẽ được pha loãng với nước
bão hòa CO2 theo một tỷ lệ nhất định để thu được sản phẩm bia có nồng độ các chất
hòa tan như bia được sản xuất theo những phương pháp truyền thống. Một số nhà
máy bia tại Việt Nam cũng đã áp dụng công nghệ sản xuất bia nồng độ cao (Sài
Gòn, Foster); tuy nhiên, hàm lượng chất khô trong dịch nha ban đầu không thể vượt
quá 16oBal. Còn ở châu Âu, nồng độ chất khô ban đầu của dịch nha trong sản xuất
công nghiệp là 20oBal và có thể cao hơn nữa. Nghiên cứu này bước đầu khảo sát sự
ảnh hưởng của một số yếu tố đến quá trình lên men chính, sử dụng dịch nha 20oBal
nhằm nâng cao nồng độ ethanol trong bia non.
9
Chương 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nội dung
3.1.1. Nguyên liệu
Sản xuất bia cần có 4 nguyên liệu chính: malt đại mạch , hublon, nước và
men. Chất lượng của các nguyên liệu này có ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm. Sự
hiểu biết về đặc tính của nguyên liệu, ảnh hưởng của nguyên liệu đến quá trình sản
xuất và sản phẩm là điều cơ bản để cho ra một sản phẩm hoàn hảo.
3.1.1.1. Nước
a. Khái niệm và tính chất của nước
Nước rất cần thiết cho sự sống, là dung môi phân cực mạnh, có khả năng hòa
tan nhiều chất. Trong điều kiện bình thường: nước là chất lỏng không màu, không
mùi, không vị. Khi hóa rắn nó có thể tồn tại ở 5 dạng tinh thể khác nhau. Nước là
hợp chất chiếm phần lớn trên trái đất (3/4 diện tích trên trái đất là nước).
Tính chất vật lí:
Khối lượng phân tử: 18 đvc
Khối lượng riêng: 1 g/ml ( ở 0oC, 1atm)
Nhiệt độ nóng chảy: 0oC
Nhiệt độ sôi: 100oC
b. Ảnh hưởng của thành phần hóa học và các muối có trong nước đến các quy trình
công nghệ
Sự tồn tại của muối chứa Ca và Mg sẽ quyết định độ cứng của nước.
+ Ca: thường tồn tại dưới dạng muối Ca(HCO3)2 và ảnh hưởng đến quá trình nấu
bia do làm giảm độ acid của hồ malt và dịch đường hóa.
+ Mg: hàm lượng trong nước tuy ít hơn Ca, nhưng tác dụng xấu hơn Ca vì MgCO3
hòa tan được, MgSO4 có vị đắng chát. Cả hai đều làm ảnh hưởng đến chất lượng
bia.
10
+ Na: tồn tại dưới dạng NaHCO3 , Na2CO3, Na2SO4 hay NaCl, Na2CO3 , NaHCO3
làm giảm độ acid của hồ malt NaSO4 với hàm lượng cao sẽ tạo cho bia có vị đắng
NaCl nếu dưới 200mg/l sẽ ảnh hưởng tốt đến mùi, vị bia.
+ Fe: thường tồn tại dưới dạng Fe(HCO3)2 hàm lượng cao sẽ gây ảnh hưởng xấu
đến chất lượng bia. Vì vậy chỉ cho phép từ 0,2 ÷ 0,5 mg/l .
+ Ngoài ra trong nước còn chứa các hợp chất hữu cơ ở dạng keo vô cơ hoặc hữu cơ
(như SiO2) hoặc các chất khí (O2, N2, CO2 . . .).
c. Yêu cầu của nước dùng trong sản xuất bia
Hàm lượng muối cacbonat không quá 50mg/l.
Hàm lượng muối Mg không quá 100mg/l.
Hàm lượng muối Clorua 75÷150 mg/l.
Hàm lượng muối CaSO4 130÷200mg/l.
-: không có.
Hàm lượng Fe2+ không quá 0,3mg/l.
Khí NH3 và các muối NO3-, NO2
Vi sinh vật không quá 100 tế bào /ml.
E.coli, coliform: không có.
Độ cứng: 4÷12 0Đ.
PH: 6.5÷ 7.
d. Sử dụng nước trong công nghệ sản xuất bia
Nước tham gia trực tiếp vào quy trình công nghệ ( như ngâm đại mạch, nấu
malt, lọc dịch nha, lên men, trong công đoạn chiết rót…), tạo nên sản phẩm cuối
cùng. Có thể nói nước là nguyên liệu chính để sản xuất bia do trong bia hàm lượng
nước chiếm đến 90÷92% trọng lượng bia.
11
Thành phần và hàm lượng của chúng ảnh hưởng rất lớn đến quy trình công
nghệ và chất lượng bia thành phẩm. Nước công nghệ được sử dụng trong quy trình
nấu malt, nấu gạo, rửa bã, ngâm đại mạch.
Nước dùng ngâm đại mạch để sản xuất malt: yêu cầu quan trọng nhất là nước
không được chứa nhiều tạp chất và vi sinh vật.
Nước dùng để nấu bia:
Các muối cacbonat và bicacbonat sẽ hòa tan chất đắng, chất chát trong vỏ
malt (nhất là Na2CO3) gây cho bia có vị đắng khó chịu.
Những cacbonat và bicacbonat trong nước sẽ làm hạ độ acid của hồ malt
làm cản trở hoạt động của hệ enzyme trong malt
2KH2PO4 + Ca(HCO3)2 CaHPO4 + K2HPO4 + 2H2O + 2CO2
Malt nước từ phản ứng trên ta nhận thấy rằng hai phân tử có tính acid sẽ thu
được một phân tử kết tủa và một phân tử có tính kiềm.
Na2CO3 là muối làm giảm độ acid mạnh nhất vì:
2KH2PO4 + Na2CO3 K2HP04 + Na2HPO4 + 2H2O + 2CO2
nhận thấy rằng từ hai phân tử có tính acid KH2PO4 sẽ thu được 2 phân tử có tính
kiềm K2HPO4 , Na2HPO4.
Nước dùng để rửa nấm men và thiết bị:
Nước dùng để rửa nấm men cần phải sạch, không chứa nhiều hợp chất hữu
cơ, và đặc biệt không chứa vi sinh vật.
Nước rửa thiết bị nên có độ cứng thấp đến trung bình, đặc biệt không chứa
các muối NH3 và các muối nitrit.
e. Nước phi công nghệ
Không trực tiếp có mặt trong thành phần của sản phẩm nhưng rất cần thiết
trong quy trình sản xuất và cũng ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cuối cùng.
Nước này sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như: nước nồi hơi, nước vệ sinh
12
thiết bị, nước vệ sinh nhà xưởng, nước thanh trùng. Mỗi mục đích đòi hỏi chất
lượng riêng, nước được xử lý theo yêu cầu sử dụng.
3.1.1.2. ĐẠI MẠCH
a. Khái niệm
Là nguyên liệu có tính chất truyền thống để sản xuất bia (có thể thay thế một
phần nguyên liệu khác nhưng nguyên liệu chủ yếu vẫn chính là đại mạch nảy mầm
). Đại mạch cũng giống như những ngũ cốc khác bao gồm hai thành phần chính là
glucide và protein nhưng đại mạch có hàm lượng cao hơn so với các loại ngũ cốc
khác và quan trọng nhất là tỷ lệ glucide/protein cân đối thích hợp cho việc sản xuất
bia.
b. Phân loại các giống đại mạch
Đại mạch được xếp vào họ hordeum gồm có: Hordeum. Sativum; Hordeum.
Murinum; Hordeum.Jubatum. Theo mục đích sử dụng, đại mạch được chia làm 2
nhóm chính: Đại mạch dùng trong công nghiệp: dùng để chế biến bia hoặc các
ngành thực phẩm dùng malt đại mạch. Thường dùng giống đại mạch hai hàng ( gọi
là H.Distichum)
Hình 3.1: Đại mạch 2 hàng
13
Trong nông nghiệp dùng để chế biến cho các loại thức ăn cho gia súc, gia
cầm. Thường dùng giống đại mạch nhiều hàng ( gọi là H.Polystychum ).
Hình 3.2: Đại mạch nhiều hàng
Cấu trúc và thành phần hóa học của đại mạch
Cấu trúc hạt đại mạch:
Hình 3.3: Hạt đại mạch hai hàng
- Gồm 3 bộ phận chính: vỏ hạt, phôi và nội nhũ.
+ Vỏ hạt: từ ngoài vào trong được chia làm 3 lớp: vỏ trấu, vỏ lụa và vỏ alơron. Phần
này thường chiếm 8÷15% trọng lượng hạt.
14
+ Phôi: là cơ quan sống hô hấp của hạt. Phôi có từ 37÷50% chất khô là thành phần
nitơ, khoảng 7% chất béo, 5÷6% saccharose, 7÷7,5% pentozan, 6÷6,5% chất tro và
một ít thành phần khác. Riêng tinh bột hầu như rất ít. Phôi thường chiếm 2,5÷5%
trọng lượng hạt .
+ Nội nhũ: chiếm 45÷68% trọng lượng hạt, phần này của hạt đại mạch giữ vai trò
quyết định chất lượng của đại mạch trong sản xuất bia.
Thành phần hóa học của đại mạch.
Bảng 3.1: Tính theo phần trăm trọng lượng chất khô
Thành phần Đại mạch Malt (%)
Tinh bột 58÷60
Đường saccharose 63÷35 (%) 1÷2 3÷5
Đường khử 0.1÷0.2 3÷4
Những đường khác 1 2
Chất dạng gom 1÷1.5 2÷4
Hemicellulose 8÷10 6÷8
Cellulose 4÷5 5
Lipide 2÷3 2÷3
Protein thô (N*6,25) 8÷11 8÷11
Dạng hòa tan tinh thể muối albumin, globulin 0.5 2
Hordein – protein (prolamin) 3 -
Glutelin – protein 3÷4 2
Acid amin & pectin 3÷4 3÷4
Acid lucleic 0.5 1÷2
Tro 0,2÷0,3 0.2÷0,3
Những chất còn lại 2 2,2
5÷6 6÷7
15
Những yêu cầu chất lượng đối với đại mạch dùng trong sản xuất bia:
Yêu cầu về cảm quan.
- Tất cả các hạt thóc phải thuộc một loại đại mạch, đồng nhất về kích cỡ, không lẫn
cát đá, rơm rác và những hạt thuộc loại thóc khác.
- Hạt thóc phải có vỏ mỏng, màu vàng nhạt óng ánh, không có vết trên vỏ.
- Đại mạch tốt phải có mùi thơm của rạ rơm, khi cắn hạt thóc thấy có mùi tinh bột
và hơi ngọt.
Sinh lý
- Lực nảy mầm phải đạt 80÷85%
- Trọng lượng tuyệt đối thường 35 ÷ 45 g/1000 hạt
- Khả năng nảy mầm 90÷95 %
Yêu cầu về thành phần hóa học:
- Vỏ: không vượt quá 7÷9% trọng lượng hạt
- Hàm lượng ẩm: w = 10÷15%
- Hàm lượng protide 8÷14% chất khô của hạt
- Hàm lượng glucide chiếm 55÷62 % trọng lượng hạt (hoặc 63 ÷ 66 % trọng lượng
chất khô).
3.1.1.3. Malt đại mạch
Đại mạch là nguồn cung cấp các chất đường, chất đạm, các vitamin và
khoáng chất cần thiết cho nấm men bia hoạt động trong quá trình sản xuất bia. Để
trích ly được các chất nêu trên, người ta phải tiến hành thủy phân tinh bột và các
chất đạm có trong đại mạch thành các chất tan được (gọi là extract) trong quá trình
mashing ở nhà nấu. Chất xúc tác cho các quá trình thủy phân là các enzyme.
16
Muốn có đủ lượng enzyme cần thiết cho quá trình thủy phân, người ta phải
tiến hành quá trình xử lý, ngâm đại mạch để cho chúng nảy mầm, còn gọi là quá
trình malting. Đại mạch sau quá trình malting được gọi là Malt.
3.1.1.4. HOUBLON
Houblon thuộc họ dây leo, sống lâu năm (30÷40 năm), có chiều cao trung
bình 1015m. Hiện nay trên thế giới đang trồng trên 100 giống hoa houblon khác
nhau. Loại thực vật này chỉ thích hợp với khí hậu ôn đới nên được trồng nhiều ở
Đức, Tiệp, Liên Bang Nga, Pháp, Mỹ, Trung Quốc,… Hoa houblon có hoa đực và
hoa cái riêng biệt cho từng cây, trong sản xuất bia chỉ sử dụng hoa cái chưa thụ
phấn. Hoa đực không được sử dụng vì nó rất nhỏ, chứa ít lượng phấn hoa (lupulin),
chất đắng cũng rất kém. Hoa houblon là nguyên liệu cơ bản đứng thứ 2 (sau đại
mạch) của công nghệ sản xuất bia. Hoa houblon làm cho bia có vị đắng dịu, hương
thơm rất đặc trưng làm tăng khả năng tạo và giữ bền bọt, làm tăng độ bền keo và
độ ổn định thành phần sinh học của sản phẩm. Do những đặc tính cực kì đặc biệt
như vậy nên hoa houblon vẫn giữ một vai trò độc tôn và là nguyên liệu không thể
thay thế trong ngành sản xuất bia.
Bảng 3.2: Thành phần hóa học hoa Houblon
Thành phần Thành phần Tỉ lệ(%) Tỉ lệ
(%)
Nước 10÷13 Axit amin 0,1
Tổng chất đắng 15÷21 Protein (N*6,25) 15÷21
Tinh dầu thơm 0,5÷1 Chất béo 3
Tanin 2,5÷6 Tro 8
17
Đường khử 2 Cellulose,lignin và 40
những chất còn lại
Pectin 2
a. Chất đắng
Vai trò trong công nghệ sản xuất bia là rất lớn. Chất đắng tạo cho bia có vị
đặc trưng và dễ chịu, tạo ra một đặc tính cảm quan rất đặc biệt của bia. Khi hòa tan
vào dịch đường và tồn tại trong bia, chúng có hoạt tính sinh học cao tạo ra sức căng
bề mặt giúp cho bia có khả năng giữ bọt lâu. Chúng còn có tính kháng khuẩn do đó
làm tăng độ bền sinh học của bia thành phẩm.
b. Tanin
Với hàm lượng trung bình 4% trọng lượng hoa, tanin có một vai trò nhất
định trong quy trình công nghệ, từ đó có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp chất
lượng bia. Trong quá trình đun sôi dịch đường với hoa houblon. Trước hết tanin
được chiết trích dưới dạng hòa tan, sau đó với điều kiện nhiệt độ cao và thời gian
dài chúng sẽ bị oxy hóa và trùng ngưng với các mức độ khác nhau, các phân tử
trùng ngưng sẽ hình thành mối liên kết đẳng điện với các phân tử protein trong dịch
đường hình thành những phức taninprotein, tạo ra kết tủa nóng trong quá trình này.
Mặt khác, với một dạng phức tương tự nhưng với trọng lượng nhỏ hơn không kết
tủa với điều kiện nhiệt độ cao, khi hạ nhiệt độ xuống thấp chúng sẽ kết tủa lại, tạo ra
liên kết tủa nguội trong dịch đường. Từ đó ta nhận thấy rằng, tanin một mặt có ảnh
hưởng tốt đến quá trình công nghệ, giúp cho dịch đường trong nhanh và kết tủa các
thành phần protein không bền, làm tăng độ bền vững của keo bia. Song mặt khác
tanin cũng làm kết tủa cả những phần protein bền, dẫn đến chỗ làm giảm khả năng
tạo bọt của bia.
18
c. Tinh dầu
Tinh dầu phấn hoa houblon chiếm 0,17÷0,65% trọng lượng hoa. Tinh dầu
hòa tan trong dịch đường, tồn tại trong bia và tạo cho bia mùi thơm đặc trưng rất
nhẹ nhàng và dễ chịu. Tinh dầu thơm là chất lỏng trong suốt màu vàng nhạt hoặc
không màu có mùi thơm rất lạ nhưng hòa tan rất yếu trong nước (0,4mg/l), khó hòa
tan trong cồn thấp nhưng hòa tan hoàn toàn trong cồn nguyên chất và este. Đa phần
cấu tử dễ bay hơi, thậm chí ở nhiệt dộ phòng do đó trong thời gian đun sôi dịch
đường với hoa houblon, có đến 98% lượng tinh dầu thơm bay ra ngoài chỉ còn 2%
tồn tại trong bia.
3.1.1.5. Nấm men trong sản xuất bia
a. Các chủng nấm men bia thường sử dụng
Nấm men thuộc nhóm cơ thể đơn bào, chúng phân bố rộng rãi trong thiên
nhiên, đặc biệt chúng có nhiều ở vùng đất trồng nho và các nơi trồng hoa quả.
Nhiều loài nấm men có khả năng lên men rượu. Từ lâu người ta đã biết sử
dụng nấm men để sản xuất rượu bia. Nấm men sinh sôi nhanh, tế bào lại chứa
nhiều vitamin, acid amin không thay thế, hàm lượng protein chiếm tới 50% trọng
lượng khô của tế bào, nên nhiều loại nấm men còn được sử dụng để sản xuất
protein. Ngoài ra nấm men còn được sử dụng trong công nghệ sản xuất bánh mì.
Tuy nhiên, cũng có nhiều loại nấm men có hại, gây bệnh cho người và gia súc, làm
hư hỏng lương thực, thực phẩm.
Nấm men dùng trong sản xuất bia thường là các chủng thuộc giống
Saccharomyces, chúng có khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng trong môi trường
nước mạch nha như các loại đường hoà tan, các hợp chất nitơ (các acid amin,
peptit), vitamin và các nguyên tố vi lượng…qua màng tế bào. Sau đó, hàng loạt
các phản ứng sinh hóa mà đặc trưng là quá trình trao đổi chất để chuyển hoá các
chất này thành những dạng cần thiết cho quá trình phát triển và lên men của nấm
men được tiến hành.
19
Dựa vào đặc tính công nghệ ta phân làm hai loại: nấm men nổi và nấm men
chìm, giữa chúng có sự khác nhau cơ bản sau:
- Về đặc tính hình thái:
Nấm men chìm: Hầu hết các tế bào khi quan sát thì nảy chồi đứng riêng lẻ
hoặc cặp đôi. Hình dạng chủ yếu là hình cầu.
Nấm men nổi: tế bào nấm men mẹ và con sau nảy chồi thường dính lại với
nhau tạo thành như chuỗi các tế bào nấm men, hình dạng chủ yếu là hình cầu hoặc
ovan có kích thước là 7-10 Micromet.
- Về đặc tính sinh lí:
Sự khác nhau giữa nấm men nổi và nấm men chìm là khả năng lên men các
loại đường trisacarit, ví dụ raffinoze. Trong nấm men chìm có enzyme có thể sử
dụng hoàn toàn đường raffinoze trong khi đó nấm men nổi chỉ sử dụng được 1/3
đường sacaroze.
Ngoài ra chúng còn khác nhau về khả năng hô hấp, khả năng trao đổi chất
khi lên men và khả năng hình thành bào tử. Quá trình trao đổi chất của nấm men
chìm chủ yếu xảy ra trong quá trình lên men, còn của nấm men nổi xảy ra mạnh
trong quá trình hô hấp, vì vậy sinh khối nấm men nổi thu được nhiều hơn nấm men
chìm.
Nấm men chìm có nồng độ enzyme thấp hơn nấm men nổi. Khả năng tạo
bào tử của nấm men chìm lâu hơn và hạn chế hơn nấm men nổi.
- Về công nghệ lên men:
Tên gọi nấm men nổi hay nấm men chìm xuất phát từ quan sát quá trình lên
men. Nấm men nổi nổi lên bề mặt dịch trong và cuối quá trình lên men chính,
trong khi đó nấm men chìm lắng xuống đáy thiết bị khi kết thúc lên men chính.
Nấm men chìm còn chia ra 2 loại tuỳ thuộc khả năng kết lắng của nó là nấm
men bụi và nấm men kết bông. Nấm men bụi là loài nấm men phân ly mịn trong
dịch lên men và lắng từ từ khi kết thúc lên men chính. Nấm men kết bông là loài
20
nấm men có thể kết dính với nhau trong thời gian ngắn khi kết thúc lên men chính
và tạo thành khối kết bông lớn nên lắng nhanh xuống đáy thiết bị. Còn loài nấm
men nổi không có khả năng này.
Nấm men chìm kết bông rất có ý nghĩa quan trọng trong thực tế sản xuất
bia, làm cho bia nhanh trong nhưng khả năng lên men hết đường không bằng nấm
men bụi và nấm men nổi.
Ngoài ra nhiệt độ lên men của mỗi chủng cũng khác nhau. Nấm men chìm
có thể lên men 4 - 120C, nấm men nổi là 14 - 250C.
b. Chất lượng của nấm men sản xuất
Để bảo đảm cho quá trình lên men được tiến triển bình thường và bia có
chất lượng thì nấm men phải đủ các yêu cầu sau:
- Có tốc độ sinh trưởng và phát triển vừa phải.
- Có khả năng lên men nhanh chóng nhiều loại đường khác nhau.
- Có khả năng kết tụ tốt vào cuối thời kì lên men chính.
- Có khả năng giữ được các đặc tính sinh lý, sinh hóa qua nhiều thế hệ.
- Có khả năng chống chọi tốt với những điều kiện bất lợi của môi trường .
- Cho bia có hương vị tốt, ít các sản phẩm phụ không mong muốn, nhất là diaxetyl.
3.1.1.6. Các chất phụ gia trong sản xuất bia
Trong công nghệ sản xuất bia, ngoài những nguyên liệu không thể thiếu
được như malt, houblon, men, người ta còn dùng đến một số nguyên liệu hay hóa
chất phụ. Tùy theo yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, mà những nguyên phụ liệu hoặc
các hóa chất này được sử dụng với hàm lượng khác nhau, gọi chung những dạng
này là phụ gia và chia thành hai nhóm chính
a. Nhóm phụ gia trực tiếp
Gồm tất cả những nguyên liệu và hóa chất có mặt trong thành phần của sản
phẩm với sự kiểm soát chặt chẽ với hàm lượng cho phép
21
+ Các hóa chất xử lý độ cứng, điều chỉnh độ kiềm của nước công nghệ như HCl,
Al2(SO4)3.16H2O, CaSO4, . . . .
+ Các hóa chất đưa vào để ngăn chặn quá trình oxy hóa những thành phần trong
bia như acid ascorbic, H2O2, . . .
+ Các hóa chất dùng để điều chỉnh pH như: H2SO4, acid lactic, CaCl2 . . .
+ Chất tạo màu cho bia: caramen.
b. Nhóm phụ gia gián tiếp
Nhóm này gồm tất cả nguyên liệu và hóa chất được sử dụng trong quy trình
công nghệ nhưng không được phép có mặt trong sản phẩm
+ Các bột trợ lọc: PVPP, kizelgua, . . .
+ Các hóa chất để vệ sinh thiết bị, vệ sinh phân xưởng như: H2SO4, KMnO4,
NaOH . . .
+ Các chất được dùng như tác nhân làm lạnh NH3, nước muối
3.1.1.7. Thế liệu
Trong sản xuất bia việc dùng thế liệu thay cho malt tùy thuộc vào điều kiện
chủ quan và khách quan, có thể nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm tạo ra các
sản phẩm bia có mức chất lượng khác nhau. Cải thiện một vài tính chất của sản
phẩm, theo đơn đặt hàng của người tiêu dùng.
Thế liệu phải dồi dào nguồn glucide mà từ đó dưới tác dụng của enzyme
trong malt, glucide của thế liệu sẽ chuyển hóa thành đường hòa tan. Vì vậy các loại
ngũ cốc được chọn làm thế liệu trong sản xuất bia. Khi sử dụng thế liệu chất lượng
của thế liệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng bia (màu sắc, mùi vị). Vì vậy
phải quan tâm đến thành phần hóa học của thế liệu. Trong nhà máy bia sài gòn
hiện nay sử dụng thế liệu là gạo (chiếm 30%) do gạo có những ưu điểm sau:
+ Có sẵn trong nước với giá rẻ và chất lượng cao
+ Do hàm lượng glucide và protein khá cao, khả năng chuyển hóa thành chất hòa
22
tan tốt, có thể đạt 90% chất khô. Thực tế và thực nghiệm đã cho ta thấy có thể thay
thế gạo cho malt đến 50% ( nếu malt có hoạt tính enzyme tốt).
Thành phần hóa học của gạo
Hàm lượng tinh bột: 77,8%
Hợp chất nitơ: 7,9%
Hàm lượng chất béo 0,5%/cellulose của vỏ lụa: 0,5%
Chất tro: 0,7%
Độ ẩm: 12.6%
Chỉ tiêu chất lượng gạo dùng để sản xuất bia:
Hạt phải sạch, không có tạp chất, không có hạt mốc, mùi hôi.
Màu sắc phải đồng đều.
Ngoài ra ở một số nơi có sử dụng thế liệu khác như:
+ Bắp: được sử dụng ở các nước châu Phi hoặc Mỹ La Tinh, vì trong bắp có hàm
lượng lipid cao nằm trong phôi vì vậy cần phải tách bỏ phôi và vỏ hạt.
+ Đại mạch: được sử dụng nhiều ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ hoặc một số nước
trồng được đại mạch.
+ Gạo mì: do đặc tính của gạo mì không có vỏ trấu như đại mạch, mặt khác hàm
lượng gluten khá cao, vì vậy muốn dùng gạo mì làm thế liệu cho malt đại mạch
thường phải ươm mầm rồi dùng kết hợp với malt.
+ Đậu: hàm lượng tinh bột trong đậu không lớn, thường nhỏ hơn 40% trọng lượng,
vì vậy trong nấu bia người ta dùng đậu không phải ý nghĩa thế liệu cho malt mà
với ý nghĩa làm cho bia có khả năng tạo bọt mạnh (trong đậu có chứa nhiều
glucozide) là nguồn thức ăn tốt cho nấm men về sau. Ngoài ra trong đậu còn chứa
nhiều vitamin và các chất kích tố tăng trưởng đối với nấm men.
+ Đường saccharose: được sử dụng như một thế liệu cao cấp, đưa trực tiếp dưới
23
dạng tinh thể vào nồi đun với hoa hoặc đưa vào dưới dạng siro trong quá trình
chiết bia (đối với một vài loại bia ngọt).
3.1.2. Công nghệ lên men bia
3.1.2.1. Quy trình công nghệ lên men bia
Hình 3.4: Quy trình sản xuất bia
3.1.2.2. Chế biến dịch đường houblon hóa
a. Làm sạch
Malt đã tách phôi trong quá trình vận chuyển và bảo quản có thể lẫn các tạp
chất (bụi bẩn, lá khô, rơm, đá nhỏ…), và vụn kim loại. Chúng sẽ gây hư hỏng máy
xay và ảnh hưởng xấu tới chất lượng sản phẩm.
b. Nghiền nguyên liệu
- Mục đích: Phá vỡ cấu trúc tế bào hạt, tăng bề mặt tiếp xúc với nước, tạo điều
kiện hồ hóa nhanh và enzyme dễ dàng tiếp cận cơ chất. Nhờ đó thực hiện quá trình
đường hóa và các quá trình thủy phân khác nhanh và triệt để hơn.
- Tiến hành: Nghiền có thể được thực hiện theo 3 phương pháp: nghiền khô,
nghiền ướt và nghiền ẩm. Với phương pháp nghiền ướt và nghiền ẩm thì vỏ malt
thường được giữ nguyên nên rút ngắn được thời gian lọc. Tuy nhiên, tốn năng
24
lượng và bột có thể bị chua làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm khi nghiền
xong mà chưa nấu.
Chọn phương pháp nghiền khô vì đơn giản, dễ thực hiện và không ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm trong thời gian chờ nấu.
c. Nấu nguyên liệu
- Mục đích: Chuyển các chất có trong nguyên liệu từ trạng thái không hòa tan
sang trạng thái hòa tan nhờ tác động của các hệ enzyme thủy phân.
- Tiến hành: Nấu bia có ba phương pháp: phương pháp ngâm, phương pháp đun
sôi và phương pháp kết hợp. Ở đây, nhà máy sử dụng 35% nguyên liệu thay thế
nên tiến hành nấu theo phương pháp kết hợp. Phối trộn nguyên liệu và nước nấu
theo tỷ lệ:
Malt : nước = 1 kg : 3 lít
Thế liệu : nước = 1 kg : 4 lít
d. Lọc dịch đường
- Mục đích: Dịch đường hóa gồm các chất hòa tan và không hòa tan. Nên lọc dịch
đường để tách các chất hòa tan ra khỏi các chất không hòa tan.
- Tiến hành: Để lọc dịch đường ta sử dụng thiết bị lọc khung bản. Quá trình lọc
dịch đường gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn lọc dịch đường.
Giai đoạn rửa bã.
Đầu tiên tiến hành thu hết dịch đường có trong khối nguyên liệu bằng cách
bơm nước nóng vào khoảng không gian giữa khung, bản để làm nóng thiết bị. Sau
đó, tháo nước nóng và bơm dịch đường vào. Thời gian đầu, dịch đường chảy ra có
thể vẫn còn đục nên cần bơm hồi lưu để lọc lại. Khi quan sát dịch đường đã đạt
được độ trong cần thiết thì cho chảy vào thiết bị houblon hóa.
25
Sau khi đã tiến hành rửa bã để thu hồi các chất hòa tan còn sót trong bã. Để
tăng cường quá trình khuyếch tán các chất hòa tan vào dung dịch rửa bã thì cần
dùng nước nóng 78oC để rửa (nước rửa bã cũng được chảy vào nồi houblon hóa).
Không nên dùng nước có nhiệt độ cao hơn 78oC để rửa bã vì sẽ làm vô hoạt
enzyme và tốn năng lượng. Kết quả làm cho dịch lên men bị đục và bia cũng bị
đục theo.
e. Houblon hóa
- Mục đích
Truyền cho bia mùi và vị của hoa houblon.
Ổn định thành phần dịch đường và có nồng độ theo yêu cầu.
Làm keo tụ các protit.
Vô hoạt các enzyme và thanh trùng dịch đường.
- Tiến hành: Đầu tiên dịch đường và nước rửa bã từ thiết bị lọc được chuyển
thẳng vào nồi houblon hóa. Khi dịch đường đầy đáy nồi thì bắt đầu cung cấp
nhiệt để nhiệt độ dịch đường luôn giữ ở 75oC để tạo điều kiện enzyme
α─amylaze tiếp tục thuỷ phân tinh bột sót. Trong quá trình cung cấp nhiệt cần
phải tính toán sao cho để khi quá trình rửa bã vừa kết thúc thì dịch đường cũng
vừa sôi.
Ở đây sử dụng 70% cao hoa và 30% hoa viên. Tỷ lệ hoa dùng là 4 g/l. Cho hoa
vào nồi theo phương án:
50 % cao hoa lúc dịch đường bắt đầu sôi.
20 % cao hoa còn lại vào khi sôi được 30 phút.
30 % hoa viên cho vào trước khi kết thúc 10 phút.
Và trước khi kết thúc ở nồi hoa khoảng 10 phút ta tiến hành bổ sung 3%
đường vào. Tổng thời gian quá trình houblon hóa khoảng 100 phút.
26
3.1.2.3. Lắng trong và làm lạnh
- Mục đích :
Hạ nhiệt độ của dịch đường đến nhiệt độ lên men.
Tách cặn cho dịch đường.
Bão hòa oxy cho dịch lên men.
- Tiến hành: Lắng trong được tiến hành trong thiết bị whilpoor. Sau đó được
chuyển sang thiết bị làm lạnh là thiết bị trao đổi nhiệt bản mỏng. Dịch đường được
làm lạnh đến nhiệt độ lên men chính 100C với tác nhân làm lạnh là nước 2oC. Lên
men cần lượng sinh khối nấm men lớn, nên cần tạo điều kiện để nấm men giống
sinh trưởng và phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình lên men. Hàm lượng O2
cấp vào dịch đường là 7 mg/l dịch lên men. Nếu thiếu O2 thì lên men chậm và
không triệt để. Ở nhiệt độ thấp và nồng độ chất hòa tan thấp thì việc hòa tan O2
vào dịch đường càng nhiều. Do đó tiến hành cấp O2 ngay sau khi dịch đường được
làm lạnh đến nhiệt độ yêu cầu (O2 phải đảm bảo vô trùng). Đồng thời để rút ngắn
chu kỳ lên men và làm giảm hàm lượng diaxetyl thì tiến hành bổ sung Maturex L
với hàm lượng 1kg/100 hl dịch lên men.
3.1.2.4. Lên men và tàng trữ bia
a. Định nghĩa "Lên men bia"
“Lên men bia” là quá trình chuyển hóa dịch đường houblon hóa thành bia
dưới tác động của nấm men thông qua hoạt động sống của chúng.
b. Mục đích lên men bia
Nhờ tác động của các enzyme trong nấm men chuyển các chất có trong dịch
lên men thành rượu, CO2 cùng với những sản phẩm khác góp phần tạo mùi, vị đặc
trưng cho bia.
c. Cơ sở khoa học của quá trình lên men
Khi tiến hành lên men dịch đường houblon hóa,một lượng lớn cơ chất ,chủ
yếu là đường và dextrin bậc thấp bị nấm men hấp thụ để tạo thành rượu etylic, khí
27
CO2 và các sản phẩm phụ. Ngoài các gluxit bị tác động mạnh,các thành phần khác
của dịch đường cũng chịu những sự thay đổi lớn. Một phần trong đó bị nấm men
đồng hoá và bị biến đổi thành những hợp chất khác nhau ,còn một số khác thì
chuyển đổi thành trạng thái không hoà tan và bị tách ra ngoài dưới dạng kết lắng.
Ở những nhà máy sản xuất bia theo phuơng pháp cổ điển,quá trình lên men
được thực hiện trong các thùng hoặc các bể dạng hở. Trong điều kiện như vậy,
không phụ thuộc là nhiệt độ cao hay thấp thì một lượng CO2 đáng kể cần thiết cho
bia đã bị bay ra ngoài. Nghĩa là sau khi lên men chính hàm luợng CO2 ở trong bia
non chưa đạt mức bão hoà cần thiết.Thực tế đó đã buộc các nhà công nghệ phải
đình chỉ quá trình lên men chính khi mà trong dịch lên men đó (bia non) còn một
lượng đáng kể các chất hoà tan, mà nấm men có thể hấp thụ được ở điều kiện đó để
chuyển chúng sang một điều kiện khác: lên men trong các thùng kín ở nhiệt độ thấp
hơn. Đây chính là giai đoạn hai của quá trình lên men lên men phụ. Lên men phụ
thực chất là quá trình lên men chính nhưng với tốc độ lên men thấp hơn nhiều so
với giai đoạn đầu.
Bình thường thì hàm lượng CO2 ở trong bia thành phẩm phải đạt ít nhất là
0.35% khối lượng . Con số này ở trong bia non sau khi lên men chính kết thúc là
khoảng 0.15-0.2%. Như luợng CO2 thiếu hụt đi ít nhất là 0.2% . Để bù vào lượng đó
cần thiết phải lên men tiếp 0.4% cơ chất nhưng vì trong quá trình bơm chuyển bia
non từ khu vực lên men chính sang mặt bằng lên men phụ một phần CO2 lại tiếp tục
mất đi. Do đó từ 0.4% lượng cơ chất chắc chắn là không đủ lượng CO2 cần thiết.
Hơn nữa, mức độ lên men như trên đã nói là không bao giờ đạt đến độ lên men cuối
cùng. Cho nên thời điểm đình chỉ quá trình lên men chính thích hợp nhất là khi hàm
lượng chất chiết trong dịch lên men giảm xuống còn khoảng 30-35% so với lượng
chất chiết ban đầu có như vậy trong giai đoạn lên men phụ, một lượng cơ chất 1-
1.2% tiếp tục bị lên men thì may ra bù đủ lượng CO2 cần có .
d. Yêu cầu của dịch lên men bia
- Đảm bảo hàm lượng chất khô cần thiết cho từng phương pháp lên men cụ thể.
28
- Đạt độ trong tốt.
- Enzyme đã được vô hoạt hoàn toàn.
- Đảm bảo đủ hàm lượng các chất đắng, chất thơm, tannin… của hoa houblon
trong thành phần.
3.1.3. Các phương pháp lên men bia
3.1.3.1. Phương pháp lên men cổ điển
Lên men cổ điển là những quá trình lên men, qua đó người ta thu được
những sản phẩm có phân tử lượng nhỏ hơn phân tử lượng của các chất khởi thủy
trong nguyên liệu, đồng thời những sản phẩm thu được có thể tạo ra bằng phương
pháp hóa học. Thực chất của quá trình lên men cổ điển là những phản ứng dị hóa.
Đặc trưng của phương pháp: Lên men chính và lên men phụ được thực hiện
trong hai thiết bị riêng biệt.
Các thiết bị được đặt trong hầm lạnh.
* Lên men chính: Dịch lên men sau khi làm lạnh được chuyển vào thùng lên
men. Dịch men giống được chuyển vào thùng lên men theo luồng dịch đường với
tỉ lệ men giống 0,5 lít men giống đặc /100 lít dịch lên men nhằm tạo điều kiện cho
nấm men tiếp xúc tốt với môi trường và nhanh bước vào gian đoạn lên men đầu.
Nhiệt độ lên men chính là 8-100C, không tạo áp suất dư (với hệ số chứa đầy là φ
=0.8-0.85) CO2 sinh ra trong quá trình lên men sẽ hòa tan vào bia non một phần.
Ðộ hoà tan của CO2 vào bia non sẽ tăng khi nhiệt độ giảm, do đó để đảm bảo
lượng CO2 hòa tan trong bia nhiều thì nhiệt độ thời kỳ cuối của quá trình lên men
còn khoảng 50C, hàm lượng CO2 trong bia non phải đạt 0,2%.
Thời gian lên men chính phụ thuộc vào nồng độ dịch lên men đầu tiên và
nhiệt độ lên men. Thời gian lên men chính khoảng 8÷9 ngày đêm. Lên men chính
được xem là kết thúc khi trong 12h tốc độ lên men chỉ đạt khoảng 0.15-0.2%.
* Lên men phụ: Quá trình lên men phụ được tiến hành trong các thùng kín đặt
trong phòng lạnh từ 1÷20C. Nhiệt độ lên men phụ khoảng 0,5÷20C, áp suất dư
29
0,3÷0.7 at. Trong quá trình lên men phụ cần theo dõi áp suất trong thiết bị lên men,
mức độ trong của bia, nhiệt độ trong phân xưởng.
Bia non được chuyển vào từ đáy thiết bị nhằm giảm sự tạo bọt và giảm mất
mát CO2 với hệ số chứa đầy là φ = 0.95-0.98%. Ðầu tiên có thể cho bia chảy nhanh
nhưng về sau do có sự tạo bọt nên cho bia chảy gián đoạn. Khi bia non đã đầy
thùng bắt đầu thải không khí trên bề mặt bia non. Ðể đảm bảo bia thành phẩm có
chất lượng như nhau về màu sắc, mùi vị cũng như thành phần hóa học thì bia non
từ một thùng lên men chính có thể chuyển vào nhiều thùng lên men phụ. Quá trình
chuyển bia non vào thiết bị lên men phụ có thể tiến hành từ từ và kéo dài 1÷2 ngày
đêm. Tuy nhiên sau 2 ngày đêm thì thùng lên men phụ cần phải chứa đầy bia non
nếu không thì dễ bị nhiễm vi sinh vật và sự bão hòa CO2 khó do sự bốc hơi của nó.
Khi bia chứa đầy thùng thì đóng van điều chỉnh áp suất, tiến hành thải không khí
trên bề mặt bia và nâng áp suất đạt theo yêu cầu .
Quá trình nâng cao áp suất kéo dài 1÷3 ngày kể từ lúc chuyển xong bia non
vào. Nếu nâng áp suất quá nhanh thì không khí trên bề mặt bia non sẽ hòa tan vào
bia và oxy trong không khí sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng bia thành phẩm .
Phương pháp lên men dịch đường có nồng độ cao:
- Nguyên lý thực hiện lên men dịch đường có nồng độ cao: Sản xuất bia ở nồng
độ cao là quá trình lên men dịch đường có nồng độ chất khô cao hơn mức thông
thường (10 –120Bx). Bia đã được sản xuất với nồng độ cao sau đó được pha loãng
với nước vô trùng đã khử oxy đến khi đạt được hàm lượng cồn cuối cùng theo yêu
cầu. Thực tế, trong quá trình sản xuất có thể pha loãng bia với nước vô trùng ở các
giai đoạn khác nhau. Những nhà máy có công suất nhà nấu không đủ nhưng nhiều
thùng lên men và tàng trữ thì pha loãng dịch đường trước khi cho dịch vào thùng
lên men. Phần lớn các nhà máy tiến hành pha loãng trong quá trình lọc bia.
- Chủng nấm men: Với dịch đường lên men có nồng độ cao tạo ra áp suất thẩm
thấu lớn nên phải sử dụng chủng nấm men có hoạt tính mạnh chịu được áp suất
thẩm thấu lớn và độ cồn cao.
30
- Phương pháp lên men: Với thời gian lên men dài nên ta chọn phương pháp lên
men cổ điển, cách tiến hành cũng giống như trình bày ở trên.
Lên men nổi:
- Lên men nổi là công nghệ được áp dụng ở khắp các nước Bắc Âu. Còn ở các
nước khác chỉ áp dụng phương pháp lên men này trong sản xuất bia đen hoặc các
loại bia đặc biệt từ malt tiêu mạch.
- Diễn biến:
Quá trình lên men được tiến hành ở nhiệt độ 250C. Mặt bằng lên men
không cần làm lạnh, còn dịch đường houblon hóa thì được làm lạnh bằng nước
bình thường. Lượng nấm men gieo cấy ban đầu là khoảng 0.2 – 0.3 l dịch lên men
đặc trong 100 l. Liều lượng này tương đương với mật độ 6 – 7.106 tế bào/1ml.
Trước lúc gieo cấy vào thùng lên men chính thức, nấm men được cấy đều và hoạt
hóa trong một thùng chuyên dụng. Nhiệt độ hoạt hóa là 18 - 190C, còn thời gian là
3 – 4 h.
Những biểu hiện bề ngoài của quá trình lên men trong 3 ngày đầu tiên, diễn
ra tương tự như lên men chìm. Sau thời gian đó, nấm men bắt đầu nổi lơ lửng trên
bề mặt dịch lên men. Thời gian lên men kéo dài 5 - 6 ngày. Sau đó, bia non được
đưa đi tàng trữ. Thời gian tàng trữ là 3 tuần, có trường hợp kéo dài đến hàng tháng.
Lên men trong thiết bị kín kết hợp thu hồi C02:
- Không phân biệt là lên men chìm hay lên men nổi, miễn sao thiết bị chính có thể
thu hồi được CO2 tạo thành trong quá trình lên men. Quá trình lên men diễn ra ở
điều kiện thế oxy – hóa khử thấp không hề ảnh hưởng đến sự sinh sản và phát triển
của nấm men. Thậm chí khi áp suất bề mặt khoảng 0,3 – 0,4 kg/cm2 do oxy tạo ra
lại có khả năng kích thích quá trình lên men. Lượng oxy cần thiết cho sự sinh sản
đã bị nấm men hấp thụ hết ở ngày đầu tiên, và sau đó thì chúng không cần đến
nguyên tố này nữa.
- Thu nhận được bia thành phẩm có độ bền sinh học cao hơn, khả năng tạo bọt cao
hơn và vị hài hòa hơn, tận dụng được một lượng CO2 tạo thành. Ở thời điểm lên
31
men mạnh nhất từ 1hl dịch đường ta có thể thu hồi được 1,3 – 1,5 kg CO2. Lên
men chính ngăn cản sự nhiễm khuẩn của dịch lên men.
- Diễn biến: Bề ngoài của quá trình lên men trong thiết bị kín cũng giống hoàn toàn
như lên men ở điều kiện hở. Điểm khác là màu sắc của bọt lên men kín luôn luôn
sáng, không ngả màu nâu – xám. Nguyên nhân là do chúng không bị oxy hóa, do
đó lớp bọt trong bia non không ảnh hưởng đến hương, vị của bia thành phẩm. Vì
thế, chúng không cần phải loại bỏ ra ngoài khi đưa bia non đi tàng trữ như trường
hợp lên men trong thiết bị hở.
3.1.3.2. Phương pháp lên men hiện đại
Lên men hiện đại là quá trình lên men mà sản phẩm thu được phức tạp hơn,
khác xa về bản chất so với chất khởi thủy trong nguyên liệu và không thể thay thế
bằng phương pháp hóa học. Về thực chất, các quá trình ở đây là những phản ứng
tổng hợp.
Đặc trưng của phương pháp: Cả quá trình lên men chính và lên men phụ
được thực hiện trong cùng một thiết bị; Thiết bị lên men không đặt trong phòng
lạnh.
Công nghệ lên men một pha:
Dịch đường đưa vào công nghệ lên men có nhiệt độ 140C . Sau 72h, nhiệt
độ lên men tăng lên 220C. Trong 2 ngày tiếp theo bia non được lên men phụ ở
nhiệt độ 200C. Sau đó bia được đưa vào máy li tâm và được làm lạnh trong đường
dòng liên tục đến -1.50C và đi tiếp qua máy lọc. Sau khi lọc bia được bổ sung thêm
CO2 và chế phẩm enzyme proteaza. Sau một loạt quá trình như vậy bia được đưa
vào một dãy 6 tank, liên thông mắc nối tiếp để ổn định thành phần và chất lượng.
Thời gian tàn trữ ở đây là 48h. Sau đó bia được lọc một lần nữa và đưa về tạm
chứa trong một tank, thể tích của nó bằng công suất ngày của xưởng chiết.
Thời gian bơm dịch đường vào tank để lên men được khống chế trong 24h,
và tank được bơm đầy 66% thể tích. Thời gian dài nhất mà nấm men hiện diện
trong tank là 7 ngày.
32
3.1.3.3. Sản phẩm của quá trình lên men bia
Ngoài 2 sản phẩm chính là rượu etylic và khí cacbonic, trong quá trình lên
men chính còn tạo ra nhiều sản phẩm bậc hai hay còn gọi là sản phẩm phụ. Những
sản phẩm này đều có vai trò quan trọng trong việc hình thành hương và vị của bia,
mặc dù vai trò đó có thể là tích cực và cũng có thể là tiêu cực. Một số trong những
sản phẩm bậc hai này là sản phẩm trung gian của quá trình chuyển hóa đường
thành rượu, còn một số khác là kết quả của những biến đổi hóa sinh phức tạp của
những cấu tử khác trong dịch đường khi chúng tham gia vào quá trình trao đổi
năng lượng trong tế bào nấm men.
Glyxerin:
Theo Pasteur thì lượng glyxein trong quá trình lên men có thể tích tụ đến 3
g/l. Glyxerin là một cấu tử rất quý đối với bia, vì nó làm mềm vị và làm tăng thêm
độ đậm đà cho sản phẩm
Rượu bậc cao
Ở trong bia chứa các loại rượu bậc cao như: propylic izopropylic, butylic,
izobutylic, amylic, izoamylic, và nhiều loại khác. Khối lượng của chúng dao động
trong khoảng rộng từ 20 đến 95 mg/l Ở điều kiện lên men nổi hàm lượng rượu bậc
cao lớn hơn lên men chìm do lên men ở nhiệt độ cao hơn. Từng loại rượu bậc cao
đều tạo cho bia có hương, vị riêng biệt nhưng nhìn chung tạo cho khứu giác những
cảm giác khó chiụ. Nói tóm lại các loại rượu bậc cao gây ảnh hưởng tiêu cực đến
chất lượng cảm quan của bia.
Acid hữu cơ
Axit hữu cơ là sản phẩm bậc hai thường trực của quá trình lên men rượu và
quá trình trao đổi sinh dưỡng nitơ trong tế bào nấm men. Chúng cũng là sản phẩm
của sự đồng lên men do vi khuẩn gây ra khi dịch đường houblon hoá bị nhiễm. Các
axit cơ bản là axit lactic và axit xitric, axit succinic. Ngoài ra còn tạo thành một số
axit bay hơi khác, chủ yếu là axit axetic và axit fomic.
33
Ester và aldehyde
Este là sản phẩm bậc hai không thường trực của quá trình lên men chính.
Nó là kết quả của sự tương tác giữa các sản phẩm bậc hai thường trực: este hoá các
axit bay hơi và không bay hơi với các loại rượu khác nhau. Ester chủ yếu là atyl
axetat izoetyl formiat izoamin axetat. Tổng lượng của chúng trong bia dao động
trong khoảng 30-80 mg/l.
Este có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành vòng thơm của bia. Lên
men nổi lượng este tạo thành nhiều hơn so với lên men chìm. Trong cùng một điều
kiện, nấm men nổi tạo ra nhiều este hơn nấm men chìm.
Aldehide là sản phẩm bậc hai thường trực của quá trình trao đổi chất nấm
men, chiếm nhiều nhất trong bia thì có axetaldehide, hàm lượng của nó là 5-7 mg/l.
Tổng lượng andehide trong bia dao động từ 9 đến 10 mg/l. Ở điều kịên yếm
khí,lượng andehide tạo ra ít hơn so với ở điều kiện hiếu khí.
Ở mức độ vừa phải (10-15 mg/l), andehide làm tăng hương cho bia, nhưng
nếu cao quá thì vai trò của nó lại trở thành tiêu cực.
Axetoin, diaxetyl và 2,3 – butandiol
Ba hợp chất này thu nhận đươc ở chủ yếu giai đoạn lên men chính và là do
kết quả của các quá trình hoạt động sống của tế bào nấm men Trong ba hợp chất
này thì nguy hiểm nhất đến hương và vị của bia là diaxetyl. Diaxetyl không màu
đến vàng nhạt, có mùi hôi cực mạnh và vị đắng gắt rất khó chịu, tác động rất mạnh
đến hệ thần kinh con người
Hydro sunfua (H2S) và mercaptan
Nguồn gốc tạo thành các hợp chất này là các hợp chất chứa gốc
sunfat,sunfit và các amin chứa lưu huỳnh ở trong dịch đường. thời điềm lên men
chính và đặc biệt là ở giai đoạn lên men phụ và tàng trữ bia non, tạo điều kiện khá
thuận lợi cho sự tạo thành các sản phẩm bậc hai không thường trực nói trên.
34
Hydro sunfua và mercaptan là những hợp chất đặc biệt có hại đối với hình
thơm và vị của bia.
3.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lên men
Nói đến "tiến trình lên men" là phải nói đến tập hợp các chỉ số:
Tốc độ phát triển của sinh khối.
Tốc độ hấp thụ cơ chất (độ giảm cơ chất hàng ngày).
Mức độ hấp thụ cơ chất ( mức độ lên men).
Nồng độ các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ được tạo thành trong quá
trình lên men.
Các chỉ số trên đây trong quá trình lên men chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố. Quan trọng nhất là các yếu tố sau:
a. Chất lượng của nấm men sản xuất
Để thu nhận được các loại bia có chất lượng cao thì yếu tố đầu tiên cần
được thỏa mãn là chất lượng của men giống. Khi đánh giá chất lượng của chủng
nấm men sản xuất, cần xem xét các chỉ số sau đây:
Tốc độ và mức độ lên men.
Hàm lượng và sản phẩm phụ tạo thành.
Tốc độ và khả năng kết lắng.
Mức độ suy giảm các đặc tính kỹ thuật (tức là mức độ thoái hóa).
Khả năng chống chịu khi bị tấn công.
Một chủng nấm men phù hợp và có chất lượng tốt, có thể tái sử dụng đến
đời thứ 7 thứ 8 (sau mỗi lần lên men là 1 đời).
b. Lượng nấm men gieo cấy ban đầu
Lượng nấm men gieo cấy ban đầu liên quan mật thiết đến tiến trình lên men
qua các chỉ số sau:
35
- Thời gian để thiết lập được thế cân bằng động giữa các quần thể nấm men với
môi trường lên men (cơ chất ).
- Lượng tế bào nảy chồi, từ đây dẫn đến lượng chất hòa tan (chất dinh dưỡng) bị
tiêu phí cho xây dựng tế bào mới và cường độ trao đổi chất trong tế bào non.
- Thời gian lên men.
- Hàm lượng các sản phẩm phụ tạo thành và tỉ số tương quan giữa chúng.
Thời gian để đạt được trạng thái cân bằng động phụ thuộc vào lượng nấm
men gieo cấy ban đầu. Nếu mật độ gieo cấy càng nhiều thì thời gian đó càng ngắn
và ngược lại. Nếu lượng nấm men gieo cấy quá ít, khả năng nảy chối của chúng
không thể đạt được mức độ tối đa cần thiết. Trong trường hợp như vậy, quá trình
lên men bị "ì", nghĩa là mức độ lên men thấp, thời gian lên men kéo dài.
Mật độ tối đa của lượng nấm men gieo cấy ban đầu nếu vượt qua ngưỡng
70.106 tế bào/cm3 thì hiệu quả mang lại không được rõ nét (nghĩa là không nên
gieo quá mật độ đó).
c. Nồng độ chất hòa tan của dịch đường houblon hóa
Nồng độ chất hòa tan trong dịch đường houblon hóa có ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của nấm men và tốc độ lên men. Từ thực tế sản xuất, đã chứng
minh được rằng. Dịch đường houblon hóa có nồng độ chất hòa tan 11 -12% lên
men tốt hơn các loại dịch đường có nồng độ cao hơn hoặc thấp hơn.
Cường độ sinh sản và phát triển của tế bào nấm men khi lên men dịch
đường houblon hóa với nồng độ trung bình tỉ lệ tuyến tính với hàm lượng chất hòa
tan và hàm lượng nitơ chứa trong đó. Nếu hàm lượng chất hòa tan ở trong dịch
đường houblon hóa tăng lên trên 14,5% thì sự sinh sản của nấm men cũng không
vì thế mà tăng lên, nó dừng ở 1 trị số xác định. Trong 1 khoảng xác định nào đó,
khi độ đậm đặc của dịch đường giảm xuống thì cường độ sinh sản và phát triển của
nấm men không những giảm mà ngược lại sẽ tăng lên.
36
d. Nhiệt độ của dịch lên men
Nhiệt độ của dịch lên men và môi trường xung quanh có ảnh hưởng khá
mạnh đến quá trình lên men. Ở nhiệt độ cao sẽ thu nhận được các kết quả:
- Thời gian lên men nhanh.
- Mật độ tối đa đạt được cao hơn so với nhiệt độ thấp.
- Lên men triệt để hơn nhưng hàm lượng các sản phẩm phụ (đặc biệt là diaxetyl)
tạo ra nhiều hơn.
- Lượng sinh khối tạo ra nhiều hơn nhưng lượng tế bào chết lại nhiều hơn và tốc độ
suy giảm các đặc tính công nghệ cũng nhanh hơn.
e. - Kết quả cuối cùng nhận được là tỉ số giữa các cấu tử trong bia không cân đối,
chất lượng bia giảm
Mỗi loại nấm men đều có nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển và lên men.
Vượt qua giới hạn đó, xét về góc độ chất lượng sản phẩm, sẽ nhận được các kết
quả âm tính.
f. Cường độ khuấy đảo dịch lên men
Cường độ xáo trộn dịch lên men là 1 trong những yếu tố mạnh nhất thúc
đẩy nhanh quá trình lên men. Khía cạnh ưu điểm của nó là rút ngắn được thời gian
lên men nhưng mặt trái của nó là bia chứa quá nhiều các sản phẩm phụ, đặc biệt là
rượu bậc cao và diaxetyl.
Hương vị của sản phẩm sai lệch nhiều so với bia tiêu chuẩn. Ưu điểm của
yếu tố này sẽ được phát huy nếu ta chọn được 1 phương án và chế độ khuấy đảo
dịch lên men thích hợp. Đồng thời khuyết điểm của nó sẽ được bù trừ bằng những
ưu điểm của các yếu tố khác.
g. Nồng độ của sản phẩm lên men
Sản phẩm chính của quá trình lên men là rượu C2H5OH và khí CO2. Khi
những hợp chất này được tích tụ đến nồng độ nhất định trong dịch lên men thì các
hoạt động sống của tế bào nấm men bắt đầu bị ức chế. Ở nồng độ rượu thấp, dưới
37
2%, các hoạt động của nấm men vẫn xảy ra bình thường, nhưng khi vượt quá 2%
thì khả năng nảy chồi của nấm men bắt đầu giảm. Khi nồng độ rượu etylic tăng lên
đến 5% thì khả năng nảy chồi của nấm men hoàn toàn bị chấm dứt, tuy rằng quá
trình lên men vẫn tiếp diễn. Nếu nồng độ cồn lên đến 12%, quá trình lên men bị
đình chỉ hoàn toàn.
Khả năng chịu đựng độ cồn của các chủng nấm men khác nhau là khác
nhau. Nó phụ thuộc vào khả năng thích ứng và trạng thái sinh lí của nấm men.
Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Nguyên liệu
- Malt: malt vàng được nhập từ Australia, độ ẩm 10%.
- Houblon: dạng viên, được nhập từ Autralia, hàm lượng alpha acid đắng
12%.
- Thế liệu (gạo): độ ẩm 12%.
- Glucose, (NH4)2SO4, hóa chất phân tích: do Trung Quốc sản xuất.
- Nấm men: sử dụng loài Saccharomyces cerevisiae do Công ty TNHH Foster
Tiền Giang cung cấp.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành chuẩn bị dịch nha theo phương pháp đun sôi một lần,
thành phần nguyên liệu ban đầu theo bảng 3.1. Sau khi nấu dịch nha xong, bổ sung
glucose để dịch nha có nồng độ chất khô là 20oBal, tiệt trùng dịch nha ở 121oC
trong thời gian 20 phút rồi sục không khí vô trùng để bão hòa oxy (sử dụng màng
lọc không khí có đường kính lỗ lọc 0,1 micrometer). Giá trị pH dịch nha sau quá
trình tiệt trùng nằm trong khoảng 5.4-5.6. Tiến hành cấy nấm men với số lượng 20
triệu tế bào /ml. Quá trình lên men được thực hiện ở 17oC trong thiết bị lên men
BIOSTAT của hãng BRAUN (Đức).
Bảng 3.3: Thành phần nguyên liệu chuẩn bị dịch nha
38
Nguyên liệu Số lượng
Malt 1.5 kg
Gạo 0.375 kg
Nước 7 lít
Hoa houblon 0.4 g
Hai yếu tố khảo sát:
- Tiến hành sục khí liên tục trong 12 giờ đầu tiên của quá trình lên men với lưu
lượng 0.075lít không khí/lít dịch nha/phút.
- Bổ sung amonium sulphate (NH4)2SO4 vào dịch lên men ban đầu với hàm lượng
90mg nitơ/l. Chúng tôi cũng thực hiện quá trình lên men không có hai yếu tố trên
để làm mẫu kiểm chứng.
Các phương pháp phân tích:
- Xác định số lượng tế bào nấm men: bằng phương pháp đếm trên buồng đếm
Thoma
- Xác định tế bào nấm men chết: bằng cách nhuộm tế bào bằng dung dịch xanh
metylen
- Xác định hàm lượng chất khô: bằng Balling kế
- Xác định hàm lượng đường khử: bằng phương pháp quang phổ so màu, sử dụng
thuốc thử 3,5 - dinitrosalisilic acid
- Xác định hàm lượng ethanol: chưng cất mẫu để thu hồi ethanol, xác định tỷ
trọng của dịch cất bằng tỷ trọng kế, từ tỷ trọng có được suy ra nồng độ ethanol (%
v/v) trong mẫu phân tích ban đầu
- Xác định hàm lượng diacetyl: chưng cất mẫu bằng hơi nước lôi cuốn để thu hồi
diacetyl. Sau đó, cho phần cất phản ứng với dung dịch o-phenylendiamin để tạo
39
dẫn xuất quinoxalin, axit hóa và đo độ hấp thu trên máy quang phổ để xác định
hàm lượng diacetyl
- Xác định pH: bằng pH kế Mettler Toledo.
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình sử dụng cơ chất của nấm
men
Qua kết quả thí nghiệm, chúng tôi thấy rằng, việc sục khí trong 12 giờ lên
men đầu tiên hoặc bổ sung amonium sulphate ảnh hưởng lớn đến động học quá
trình sử dụng cơ chất của nấm men (hình 4.1). Hàm lượng đường khử giảm nhanh
hơn so với mẫu đối chứng. Điều này có thể được giải thích là do trong giai đoạn đầu
của quá trình lên men, việc bổ sung khí O2 hay amonium sulphate vào dịch nha sẽ
làm cho nấm men hoạt động tốt hơn, do đó, tốc độ sử dụng cơ chất là nhanh hơn.
Theo lý thuyết, lượng cơ chất này được nấm men sử dụng để thực hiện quá trình
trao đổi chất, phục vụ cho sự phát triển sinh khối cũng như tạo ra các sản phẩm lên
men như ethanol, CO2… Khi đạt đến giai đoạn ổn định, tốc độ sử dụng cơ chất là
như nhau trong cả 3 trường hợp mà chúng tôi khảo sát. Kết quả khảo sát cũng cho
thấy rằng, ở giai đoạn cuối của quá trình lên men, hàm lượng đường sót trong
trường hợp có sục khí hay bổ sung amonium sulphate đều thấp hơn so với mẫu đối
chứng. Qua đó, chúng ta có thể kết luận rằng khi có bổ sung hàm lượng oxy trong
giai đoạn đầu của quá trình lên men hoặc bổ sung amonium sulphate sẽ làm tăng
khả năng sử dụng cơ chất của nấm men, rút ngắn thời gian lên men. Kết quả này
cho phép làm tăng năng suất của nhà máy. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát sự
biến đổi hàm lượng chất khô của dịch nha trong quá trình lên men, kết quả có được
cũng hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát đối với đường khử. Mẫu bia non được
bổ sung amonium sulphate vào thời điểm cuối của quá trình lên men có nồng độ
đường sót là thấp nhất. Như vậy, việc bổ sung thêm muối amonium sulphate vào
dịch nha được xem như là giải pháp thích hợp nhất để rút ngắn thời gian lên men
chính trong kỹ thuật lên men bia nồng độ cao.
40
Hình 4.1: Sự biến đổi của hàm lượng đường khử trong quá trình lên men
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình sinh trưởng của tế bào
nấm men
Để đánh giá quá trình tăng sinh khối của nấm men, chúng tôi tiến hành khảo
sát số lượng tế bào nấm men trong quá trình lên men. Qua kết quả khảo sát, chúng
tôi thấy rằng khi có sục khí hay bổ sung amonium sulfate thì sinh khối của nấm men
tăng rất nhanh trong 3 ngày lên men đầu tiên (hình 4.1). Điều đó được giải thích là
do khi bổ sung khí O2 hoặc bổ sung amonium sulphate sẽ thúc đẩy quá trình phát
triển sinh khối, đặc biệt là trong trường hợp bổ sung O2. Như ta đã biết, khi bổ sung
+. Việc bổ sung
O2, sẽ làm tăng cường quá trình hô hấp hiếu khí, do đó, làm tăng khả năng tổng hợp
sinh khối của vi sinh vật. Nấm men sử dụng được nitơ dạng NH4
amonium sulphate sẽ sung cấp chất dinh dưỡng cho quá trình tổng hợp sinh khối
nấm men, do đó, làm tăng tốc độ sinh trưởng của tế bào trong giai đoạn đầu của quá
trình lên men.
Từ hình 4.1, ta nhận thấy: tốc độ sinh trưởng của nấm men trong mẫu dịch
nha được sục khí trong 12 giờ lên men đầu tiên là cao nhất. Khi bổ sung amonium
sulphate, ta thấy pha cân bằng sẽ trễ hơn so với hai trường hợp còn lại, đồng thời,
thời gian duy trì ở trạng thái cân bằng cũng dài hơn. Điều này là do khi bổ sung
thêm nitơ, các thành phần dinh dưỡng trong môi trường sẽ cân đối hơn, đảm bảo
41
cho nấm men duy trì ở trạng thái cân bằng trong thời gian dài hơn. Trong giai đoạn
cuối của quá trình lên men, tốc độ thoái hóa giống của cả ba trường hợp là như nhau
thể hiện qua mức độ giảm số lượng tế bào nấm men.
K ết quả khảo sát cũng cho thấy rằng, hiệu suất sinh tổng hợp sinh khối khi
có bổ sung O2 hay amonium sulphate là cao hơn so với mẫu kiểm chứng (bảng 4.1).
Điều này phù hợp với kết quả đã khảo sát ở phần 4.1.1. Cần lưu ý rằng, hiệu suất
tổng hợp sinh khối khi sục O2 vào dịch nha trong 12 giờ lên men đầu tiên là cao hơn
khi bổ sung amonium sulphate.
Bảng 4.1: Hiệu suất tổng hợp sinh khối của nấm men tính theo đường khử
(triệu tế bào/g)
Mẫu Kiểm chứng Sục khí Bổ sung
(NH4)2SO4
Hiệu suất 180,5 345,4 285,1
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến nồng độ sản phẩm chính
Theo kết quả khảo sát, việc bổ sung amonium sulphate hay sụt khí trong giai
đoạn đầu của quá trình lên men đều làm tăng nồng độ ethanol trong bia non. Có lẽ
đó là do sự gia tăng hoạt tính của nấm men nên khả năng sinh tổng hợp ethanol sẽ
cao hơn. Từ bảng 3, ta nhận thấy: cả hai yếu tố khảo sát đều làm tăng nhẹ hiệu suất
sinh tổng hợp ethanol so với mẫu đối chứng. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với
hiện tượng tăng nồng độ ethanol trong các mẫu bia non mà chúng tôi đã đề cập đến
ở trên.
Bảng 4.2: Hiệu suất sinh tổng hợp ethanol tính theo đường khử (%)
Mẫu Kiểm chứng Sục khí Bổ sung (NH4)2SO4
Hiệu suất (%) 46,5 49,5 49,2
42
Ảnh hưởng của các yếu tố khảo sát đến quá trình hình thành các sản phẩm
phụ
4.4.1. Diacetyl
Trong số các sản phẩm phụ của quá trình lên men ethanol, diacetyl là một
trong những sản phẩm ảnh hưởng nhiều nhất đến chất lượng bia.
Hình 4.2: Sự biến đổi của hàm lượng diacetyl trong quá trình lên men
Theo lý thuyết, ở giai đoạn đầu của quá trình lên men, khi nấm men sinh
trưởng mạnh, diacetyl trong dịch lên men tăng nhanh. Sau đó, một phần diacetyl bị
khử bởi hệ enzyme oxi hóa - khử (diacetyl vẫn tiếp tục được tạo thành từ quá trình
trao đổi chất của nấm men nhưng tốc độ khử thì nhanh hơn tốc độ tạo thành).
K ết quả nghiên cứu trên hình 4.3 hoàn toàn phù hợp với quy luật trên. Khi
bổ sung O2 trong giai đoạn đầu của quá trình lên men, nấm men phát triển sinh khối
rất mạnh nên hàm lượng diacetyl tạo thành cao hơn so với hai trường hợp còn lại.
Tuy nhiên, trong giai đoạn sau của quá lên men, tốc độ giảm diacetyl cũng nhanh
hơn do lượng sinh khối nấm men nhiều hơn, vì vậy, hàm lượng diacetyl trong giai
đoạn cuối của quá trình lên men trong cả 3 trường hợp gần như tương đương nhau.
43
Hình 4.3: Sự biến đổi pH của dịch lên men trong quá trình lên men
4.4.2. pH của dịch lên men
Trong quá trình lên men, sự biến đổi pH của dịch lên men phản ánh quá trình
tạo thành các acid hữu cơ - nhóm sản phẩm phụ của quá trình lên men ethanol.
K ết quả nghiên cứu cho thấy, bổ sung O2 trong giai đoạn đầu của quá trình
lên men làm giá trị pH giảm nhanh hơn. Việc sinh tổng hợp acid bởi nấm men liên
quan mật thiết đến chu trình Crebs.
Như vậy, khi bổ sung O2, sự tổng hợp sinh khối trong giai đoạn đầu của quá
trình lên men diễn ra nhanh hơn, acid hữu cơ tạo thành nhiều hơn nên làm giảm giá
trị pH nhanh hơn. Vào giai đoạn cuối của quá trình lên men, pH có xu hướng tăng
nhẹ trong cả 3 trường hợp. Có lẽ do những acid tạo thành đã phản ứng với các cấu
tử khác trong dịch lên men như các loại rượu để tạo thành các ester. Thật ra, ở giai
đoạn đầu của quá trình lên men, phản ứng ester hóa cũng có thể xảy ra nhưng do
lượng acid tạo thành nhanh và hàm lượng rượu còn ít nên làm giảm giá trị pH.
44
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
T ừ các kết quả trên, chúng tôi nhận thấy rằng, bằng việc thay đổi một số yếu
tố công nghệ trong quá trình lên men chính có thể rút ngắn thời gian lên men và
tăng nồng độ ethanol trong bia non. Khi bổ sung (NH4)2SO4 với hàm lượng 90mg
nitơ/l hay sục không khí vô trùng liên tục trong 12 giờ lên men đầu tiên cho dịch
nha 20oBal (được nấu từ 80% malt, 20% gạo), nồng độ ethanol trong bia non có thể
đạt trên 10%(v/v).
Kiến nghị
Với những kết quả trên nhóm kiến nghị nên áp dụng việc thay đổi một số yếu
tố công nghệ trong quá trình lên men để có thể rút ngắn thời gian cũng như có thể
tăng lợi nhuận trong sản xuất.
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
Sách
[1]. Lương Đức Phẩm, Giáo trình công nghệ lên men, nhà xuất bản Giáo dục và
Việt Nam, 2010.
Bài báo
[2]. Ngô Thị Phương Dung, “Khảo sát khả năng lên men và tính chịu cồn của nấm
men”, Tạp chí khoa học, tr.374-382,2009.
[3]. Lê Quốc Đạt, Lê Văn Việt Mẫn, Võ Thị Luyến, “Khảo sát ảnh hưởng của một
số yếu tố đến quá trình lên men bia ở nồng độ cao ”, Hội nghị khoa học và công
nghệ lần 9.
Internet
[4]. http://timtailieu.vn/tai-lieu/bai-giang-cac-phuong-phap-va-ky-thuat-len-men-
25037/
[5]. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-len-men-bia-9680/
[6]. http://tailieu.vn/doc/bao-cao-nghien-cuu-khoa-hoc-nang-cao-qua-trinh-len-men-
trong-san-xuat-bia-nong-do-cao--788484.html
[7]. http://doan.edu.vn/do-an/de-tai-nghien-cuu-su-len-men-bia-24584/
46
47