Ung thư miệng

Ung thư miệng hay ung thư khoang miệng là loại u ác tính có thể xuất hiện ở

bất kỳ vị trí nào trong khoang miệng như lợi, lưỡi, môi, má, vòm việng, sàn

miệng. Thống kê trên thế giới cho thấy ung thư miệng là một trong sáu loại

ung thư thường gặp nhất.

Càng ngày người ta thấy tỷ lệ ung thư miệng trong cộng đồng càng tăng dần

lên, đặc biệt với người trẻ. Ở châu Á, đặc biệt là Ấn Độ, ung thư miệng chiếm

đến 40% ung thư nói chung. Trên thế giới hàng năm, người ta ước tính có

khoảng 500.000 trường hợp mắc ung thư mới và có khoảng 1,5 triệu người

đang sống chung với bệnh ung thư miệng.

Nguyên nhân

Nguyên nhân chính gây ung thư miệng đến nay chưa rõ, nhưng chắc chắn

người ta đã xác định được các yếu tố nguy cơ cao gây ung thư miệng đó là:

Sử dụng thuốc lá ở các dạng khác nhau (có kèm theo hoặc không kèm theo

uống rượu) như hút thuốc lá, thuốc lào, tẩu thuốc, nhai trầu thuốc. Những

người dùng thuốc lá có kèm uống rượu thì nguy cơ bị mắc bệnh cao hơn lên

rất nhiều; Nghiện rượu nặng; Nhiễm virus HPV (Human Papiloma Virus);

Các tổn thương tiền ung thư khác của khoang miệng như bạch sản, hồng sản,

viêm nấm candida quá sản mạn tính, các vết loét do sang chấn liên tục kéo

dài…

Như vậy, có thể nói bệnh ung thư miệng là bệnh có thể phòng tránh được

bằng cách loại trừ các nguy cơ này.

Hình ảnh ung thư ở lợi giai đoạn sớm.

Không giống các bộ phận khác của cơ thể, ung thư miệng thường xuất hiện

với những triệu chứng sớm mà bệnh nhân cảm nhận được khi ăn uống, nuốt,

nói ngay cả khi tổn thương còn rất nhỏ.

Các dấu hiệu nghi ngờ và triệu chứng sớm

Ung thư miệng nẩy sinh từ khoang miệng, có thể được phát hiện sớm bởi thầy

thuốc và chính bản thân người bệnh. Không giống các bộ phận khác của cơ

thể, ung thư miệng thường xuất hiện với những triệu chứng sớm mà bệnh

nhân cảm nhận được khi ăn uống, nuốt, nói ngay cả khi tổn thương còn rất

nhỏ. Ở thời kỳ này việc chẩn đoán xác định rất dễ dàng bằng cách cắt tổn

thương nghi ngờ làm mô bệnh học dưới tác dụng gây tê tại chỗ. Ung thư

miệng có thể có các biểu hiện: Loét bờ gồ, có hoại tử trung tâm vết loét; Các

ổ loét ở các đường nứt sâu trên lưỡi; Các loét nham nhở ở niêm mạc miệng,

dễ chảy máu khi đụng chạm nhẹ; Các mảng cứng ở miệng; Các quá sản lợi

khu trú ở một răng hay một nhóm răng.

Để giúp thầy thuốc chẩn đoán sớm ung thư miệng, khi có các dấu hiệu sau

đây, người bệnh cần đến khám các cơ sở chuyên khoa phẫu thuật miệng hàm

mặt: Bất cứ vết loét nào tồn tại trong miệng trên 2 tuần; Bất cứ chảy máu nào

trong miệng không giải thích được; Sờ thấy bất cứ mảng cứng nào trong

miệng; Bất cứ mảng trắng nào trong miệng; Bất cứ mảng đỏ hay đỏ trắng nào

trong miệng; Hàm giả đang sử dụng bình thường tự nhiên không đeo được

hoặc lắp không khít; Đau, khó vận động lưỡi; Đau xương hàm; Đau khi nuốt;

Đau khi ăn nhai; Đau họng.

Khi có các dấu hiệu trên, cần đến ngay cơ sở y tế. Thầy thuốc sẽ làm các quy

trình sau để khám và chẩn đoán bệnh cho bệnh nhân: Khám đánh giá tổn

thương; Gây tê tại chỗ, cắt tổn thương để làm mô bệnh học; Một số trường

hợp nếu tổn thương nghi ngờ lan rộng hoặc ở sâu, để giúp cho chẩn đoán và

điều trị, thầy thuốc có thể chỉ định cho làm thêm các thăm dò khác như chụp

X quang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ, chụp PET scan… tùy theo sự

đánh giá tổn thương khi thăm khám.

Ðiều trị ung thư miệng

Điều trị ung thư miệng hiện tại có 3 biện pháp chủ yếu là phẫu thuật, xạ trị và

điều trị hóa chất. Với các ung thư miệng đến sớm, việc điều trị phẫu thuật cắt

bỏ khối u có kết quả rất khả quan. Tỷ lệ bệnh nhân sống trên 5 năm lên đến

85%.

Tùy theo tiến triển của u, có thể áp dụng các mức độ điều trị phẫu thuật khác

nhau: Cắt bỏ u đơn thuần; Cắt u và nạo vét hạch cổ; Cắt u, nạo vét hạch cổ

kèm phẫu thuật tái tạo.

Xạ trị có thể được sử dụng phối hợp trước hoặc sau phẫu thuật để tăng thêm

hiệu quả điều trị, tuy nhiên nó cũng có nhiều tác dụng phụ như khô miệng,

sâu răng, loét, chảy máu khoang miệng, hoại tử xương hàm…

Hóa trị liệu có thể dùng phối hợp với xạ trị trong một số trường hợp để làm

tăng tác dụng của xạ trị. Hóa trị thường gây ra những tác dụng phụ như buồn

nôn, nôn, rụng tóc.

Theo dõi sau điều trị

Bệnh nhân sau điều trị ung thư cần được theo dõi chặt chẽ theo lịch trình sau:

Một năm đầu bệnh nhân cần được khám lại mỗi tháng 1 lần; Năm thứ 2 cần

khám lại 2 tháng một lần; Các năm sau khám lại sau mỗi 6 tháng.

Mục đích của việc khám định kỳ là để điều trị các vấn đề răng miệng như sâu

răng, bệnh quanh răng, cải thiện chất lượng cuộc sống và đặc biệt để phát

hiện xử trí tái phát hoặc các ổ ung thư mới nếu có.

Phòng bệnh

Để phòng ngừa ung thư miệng cần áp dụng các biện pháp sau: Bỏ thuốc lá để

tránh cho các tế bào khoang miệng tiếp xúc hóa chất gây ung thư; Không

uống rượu quá mức; Tăng cường ăn các loại rau quả giàu vitamin, đặc biệt là

cà rốt; Riêng với ung thư môi, để phòng ngừa nên tránh tiếp xúc với ánh nắng

mặt trời quá nhiều và nên dùng kem bảo vệ môi khi ra nắng; Khám răng

miệng định kỳ 6 tháng 1 lần ở các cơ sở chuyên khoa.