Trần Ngọc Khánh
VĂN HÓA ðÔ THỊ Giản Yếu
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
Lời tựa
ðô thị là sản phẩm do con người tạo lập. Nó không kém phần kỳ vĩ so với thế giới tự nhiên. Người ta ví ñô thị là “thiên nhiên thứ hai”, vì ñô thị vận ñộng theo quy luật, vận hành theo chu kỳ và vì ñó là môi trường sống của con người.
ðô thị hóa làm biến ñổi các hoạt ñộng con người về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa; làm cho ñời sống con người ngày càng phong phú; giúp con người phát triển toàn diện, cân bằng trong môi trường tự nhiên và xã hội.
Xã hội loài người ñã trải qua nhiều thời ñại. Toàn bộ các thành tựu, các giá trị văn hóa và văn minh, vật chất và tinh thần, trong không gian và thời gian, ñều gắn với các quá trình ñô thị hóa. ðô thị hóa là quá trình tất yếu, là thước ño trình ñộ phát triển văn minh và biểu hiện cách thức, mức ñộ tăng trưởng văn hóa qua các thời kỳ khác nhau.
Tuy nhiên, người ta thường nói ñến văn minh ñô thị, khu biệt qua các sự kiện lịch sử, xác ñịnh các không gian sinh thái, ñề cao các tư tưởng, học thuyết, các kỷ nguyên tiến bộ khoa học, kỹ thuật hoặc các ñiều kiện cơ sở vật chất, xây dựng hạ tầng, v.v. còn văn hóa ñô thị rất ít khi ñược ñề cập, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hoặc chỉ quan tâm các hiện tượng riêng lẻ về lối sống, các hoạt ñộng văn hóa, nghệ thuật ñương ñại trong sinh hoạt thị dân.
Công trình Văn hóa ñô thị của tác giả Trần Ngọc Khánh, dù mới là phần giản yếu, lần ñầu tiên ñược biên soạn một cách hệ thống và công phu. ðô thị không cố ñịnh hoặc ñứng yên, không tách rời khu vực sản xuất, không tách biệt thị dân với nông dân, mà luôn vận ñộng, chuyển hóa trong không gian và thời gian, theo nhu cầu và ước vọng của con người. ðô thị là ñộng lực phát triển nhờ tổ chức hệ thống hoạt ñộng sản xuất, thương mại, dịch vụ và tiêu dùng. ðô thị gắn với môi trường sống, trở thành nguồn lực tăng trưởng, ñáp ứng các nhu cầu ña dạng của con người. Văn hóa ñô thị, theo tác giả, là sợi chỉ ñỏ xuyên suốt lịch sử văn minh nhân loại, là môi trường sống tiến bộ của xã hội loài người.
Nước Việt Nam ngày nay ñang phấn ñấu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện ñại. Tuy nhiên, ñể thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, không thể bỏ qua sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, trong ñó có thể coi văn hóa ñô thị là một trong các lĩnh vực quan trọng và cần thiết...
Thư viện trung tâm ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xin trân trọng giới thiệu công trình này ñến với bạn ñọc gần xa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 1 -
THƯ VIỆN TRUNG TÂM ðẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
Lời nói ñầu
Văn hóa ñược nói ñến ngày càng nhiều trên mọi phương diện hoạt ñộng của ñời sống. Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hóa ñược xem xét theo quá trình tiến hóa, gắn với quá trình hình thành và các ý nghĩa trực tiếp của nó trong ñời sống xã hội. Tuy nhiên, xưa nay người ta vẫn thường tìm cách ñịnh nghĩa văn hóa là gì, phân tích văn hóa về ngữ nghĩa, mà ít quan tâm tìm kiếm các mối liên hệ giữa lịch sử văn hóa và lịch sử tư tưởng; hoặc theo quan niệm của các nhà khai sáng dân tộc học ở Pháp, mô tả văn hóa ñã xuất hiện như thế nào trong các xã hội loài người [Denys Cuche, 2004].
Văn hóa làm biến ñổi xã hội. Song xã hội không phải là ñối tượng làm biến ñổi của văn hóa, mà bản thân văn hóa cũng chịu tác ñộng trải qua các quá trình tiến hóa. Khoảng cuối thế kỷ XIII, văn hóa mang ý nghĩa trạng thái (thửa ñất ñược trồng), sau ñó mới là một hoạt ñộng thuộc về vật chất (chăm sóc ñồng ruộng, thuần dưỡng gia súc) hoặc tinh thần (biết trồng trọt, chăn nuôi); ñến thế kỷ XVI và nhất là kể từ thế kỷ XVIII, văn hóa trở thành một khái niệm trừu tượng, chỉ ra khả năng phát triển, với sự xuất hiện phạm trù “văn minh” ở châu Âu ñể có thể ñịnh nghĩa thế giới ñang chuyển ñộng.
Theo Từ ñiển Hàn lâm Pháp [1718], văn hóa vừa có nghĩa hoán dụ (từ văn hóa trạng thái ñến văn hóa hoạt ñộng), vừa mang nghĩa ẩn dụ (từ trồng trọt ñất ñai ñến chăm sóc tinh thần). Văn hóa vừa biểu hiện các hoạt ñộng của con người ñể xây dựng môi trường sống nhân văn ñối với thế giới bên ngoài, vừa biểu hiện các hoạt ñộng của con người ñể xây dựng chính nó [Bonnemaison, 2000].
Văn hóa là một khái niệm trừu tượng, do ñó, không hiếm khi ghép ñôi với một khái niệm khác như là ñối tượng hoặc thành quả của văn hóa, biểu hiện các ñặc trưng riêng có của xã hội loài người. Chẳng hạn, văn hóa tộc người, văn hóa nông thôn, văn hóa quốc gia, văn hóa ñô thị, văn hóa chính trị, văn hóa kinh doanh, văn hóa nghệ thuật, văn hóa ngôn ngữ, văn hóa thể thao, văn hóa giải trí, văn hóa xã hội, văn hóa thế giới, v.v. Tuy nhiên, cho ñến nay vẫn tồn tại một số quan niệm khác nhau hoặc có thể là chưa thấu ñáo trước hiện tượng cặp ñôi này trong các hoạt ñộng nghiên cứu, giảng dạy và vận dụng trong ñời sống xã hội.
Trước hết, ñó là quan niệm theo quyết ñịnh luận văn hóa, ñề cao các giá trị tĩnh tại, coi văn hóa là chủ ñạo, có tính nền tảng, chi phối cặp ñôi; tập trung lý giải văn hóa theo nghĩa trạng thái; làm cho phần ghép sau là thuộc tính ñơn thuần của văn hóa, biểu hiện một mặt hoạt ñộng của văn hóa; hoặc giới hạn trong phạm vi tiếp cận của văn hóa, bị “văn hóa hóa” (enculturation) khi ñảo ngược cặp ñôi.
Quan niệm thứ hai tách rời cặp ñôi, coi ñó là hai thực thể ñộc lập, riêng rẽ; mặc dù không phủ nhận mỗi thành tố của cặp ñôi này có tính tương tác, bổ trợ, ñiều chỉnh lẫn nhau, song không biểu hiện nhất quán sự tương quan trong quá trình hình thành và phát triển; làm cho phần ghép sau tưởng chừng như tồn tại bên ngoài văn hóa, thuộc về lĩnh vực có tính chất hoặc quy mô riêng biệt, thường gắn với nhau bằng liên từ “và”.
Sau cùng là quan niệm coi cặp ñôi cấu thành một thực thể trừu tượng, không tách rời và luôn biến chuyển, trong ñó văn hóa là một phức hợp tổng thể quy ñịnh bản chất cặp ñôi; phần ghép sau là bộ phận sản phẩm sáng tạo hoặc phương diện biểu hiện của văn hóa, vừa có khả năng vận ñộng tự thân, vừa có chức năng tác ñộng trở lại làm biến ñổi loại hình và các ñặc trưng của văn hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 2 -
Cặp ñôi phổ biến nhất, ra ñời sớm nhất là văn hóa văn minh, trong ñó văn hóa là ñiểm tựa, làm nền tảng cho các giai ñoạn phát triển khác nhau, trong khi văn minh chính là thành quả của văn hóa, trở thành chất xúc tác, làm biến ñổi bộ mặt của văn hóa trong quá trình phát triển. Trong mối quan hệ này, văn hóa bao giờ cũng là cái có trước, tồn tại dưới bốn dạng thức: cái còn lại, cái thành tựu (văn minh), cái thu hoạch (sở ñắc, lưu
truyền) và cái di sản của quá khứ [Bonnemaison, 2000]; còn văn minh là bộ phận “chín muồi” của văn hóa, mang tính hiện ñại, phổ quát và tiến bộ. Từ nguyên văn minh xuất xứ từ civitas – thành thị, gốc tiếng Latinh là civis, chỉ người ñồng hương, có nghĩa là “một tập thể có ý thức và trách nhiệm”, có nghĩa là một xã hội mang tính dân sự; còn từ nguyên tính dân sự (civilité) lại có nghĩa là nghệ thuật, cách thức sống với nhau ñể có văn minh (civilisé).
Tuy nhiên, cặp ñôi này vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Thông thường, người ta tách riêng văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, còn văn minh thuộc lĩnh vực vật chất, kể cả ñối lập giữa văn hóa và văn minh do chịu ảnh hưởng theo quan niệm của ðức từ thế kỷ XVIII; hoặc ñồng nhất văn hóa với văn minh theo quan niệm của Pháp từ thế kỷ Ánh sáng của J.-J. Rousseau và D. Diderot; hoặc quá ñề cao văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, coi “văn hóa là tâm hồn dân tộc” như ở Ý và ðức, dẫn ñến các phong trào Phục hưng (thế kỷ XIV-XVII), các chính sách phát triển văn hóa ở Tây Âu, kể cả cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Quốc từ những năm 1960, hoặc quan niệm bảo thủ nhùng nhằng giữa cái cũ và cái mới, coi văn hóa là bản sắc cần bảo tồn hoặc khôi phục, v.v.
(ðổi mới, tiến bộ) Cũng vậy, cặp ñôi văn hóa ñô thị là một thực thể toàn vẹn thuộc phạm trù văn hóa. Tính chất cặp ñôi làm cho ñô thị không hạn hẹp trong tính văn hóa của ñô thị (urbanité) hoặc các hoạt ñộng văn hóa ở ñô thị. Sự ghép ñôi với thành tố ñô thị làm cho văn hóa gần gũi hơn, gắn bó hơn với ñời sống thực tiễn; ngược lại, thành tố văn hóa làm cho ñô thị mang tính nhân văn, có bề dày của quá trình tăng trưởng. Văn hóa – Văn minh = Phát triển Văn hóa – ðô thị = Tăng trưởng (Xây dựng môi trường sống)
Sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển phân biệt văn hóa ñô thị với văn minh ñô thị. Văn hóa ñô thị ñòi hỏi quá trình lâu dài, gắn quá khứ với hiện tại, truyền thống với ñổi mới, làm tăng trưởng bền vững môi trường sống; ngược lại, văn minh ñô thị không chỉ ñặt ra yêu cầu ñổi mới, mà còn ñòi hỏi sự thích ứng ñể hòa nhập với tiến bộ.
Yếu tố văn hóa chỉ ñịnh ñô thị là một quá trình gồm năm giai ñoạn của quá trình ñô thị hóa: phát hiện (tìm thấy hoặc xác lập ñịa hình, ñịa lợi trong môi trường tự nhiên), phát minh (hình thành cái mới, nhân tạo, theo ý muốn của con người), ñổi mới (ứng dụng vào ñời sống xã hội), tiến hóa (tạo nên chuyển ñộng, biến ñổi) và truyền bá (vừa lan tỏa trong không gian, vừa tiếp nối theo thời gian) [Bonnemaison, 2000].
ðô thị hóa trong văn hóa ñô thị là sự tiếp nối liên tục và xuyên suốt trong lịch sử xã hội loài người. Do ñó, không thể theo quan niệm tách riêng ñô thị hoặc các hình thái ñô thị khác nhau ñể phân biệt thời kỳ tiền ñô thị (proto-) với ñô thị; hoặc ñô thị hóa không chỉ bao gồm các ñô thị xuất hiện trong thời kỳ cách mạng ñại công nghiệp, mà có nguồn gốc từ rất lâu ñời, cách ngày nay trên dưới mười nghìn năm, tương ứng với thời kỳ cách mạng ñá mới, khi con người biểu hiện khả năng tác ñộng vào môi trường tự nhiên ñể sản xuất nông nghiệp. Về thực chất, ñó là công cuộc tạo lập môi trường sống, một “thiên nhiên thứ hai” của con người, dù còn phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên.
Theo Henri Lefèbvre, xã hội tương lai không còn là xã hội công nghiệp mà là xã hội ñô thị. Có thể quan niệm thành thị là một “phiên bản” của thế giới tự nhiên hoặc thiên nhiên thứ hai, vì thành thị bao hàm ba yếu tố: thành thị không tách rời tự nhiên, vận hành theo quy luật vận ñộng của tự nhiên; thành thị là môi trường sống do con người tạo lập; thành thị là tác nhân ñể hoàn thiện và phát triển con người. Như vậy, con người vừa là nhân, vừa là quả của sự kiện thành thị.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 3 -
Các ñô thị nông nghiệp xuất hiện ñầu tiên, rải rác dọc lưu vực các sông lớn hoặc án ngữ các ngã tư thông thương ñường bộ, nằm cạnh vùng nông thôn rộng lớn nhằm bảo
ñảm cung ứng nguồn lương thực thực phẩm, ñáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của số thị dân ban ñầu còn ít ỏi, ñược gọi là bộ phận “tinh hoa” (élites) ở thành thị.
Ngày nay, ñô thị là môi trường sống của số ñông, ñô thị hóa là quá trình phát triển tất yếu. Ở các nước phát triển hoặc ñang phát triển, các thành thị ñều là ñiểm tập trung dân cư ñông ñúc, dân số ñô thị tăng theo cấp số nhân, không gian ñô thị không ngừng mở rộng. ðầu thế kỷ XIX, dân số ñô thị chỉ mới có 2%, ñến nay ñã vượt hơn một nửa dân số thế giới; dự kiến ñến năm 2030 là 60%. Trong vòng 20 năm từ 1970-1990, tỷ lệ tăng dân số hàng năm ở New York là 4%, nhưng không gian ñô thị tăng 46%.
Quá trình ñô thị hóa thu hẹp khoảng cách không gian giữa nông thôn và thành thị. Con người ñược giải phóng khỏi lệ thuộc tự nhiên nhờ phát triển kỹ thuật, nhưng tự nhiên vẫn là bộ phận không tách rời của môi trường văn hóa ñô thị. Tuy nhiên, có quan niệm tách rời nông thôn khỏi thành thị, ñối lập văn hóa nông thôn với văn hóa ñô thị, ñặt ra mâu thuẫn giữa bảo tồn bản sắc truyền thống với biến ñổi thích ứng văn minh.
Nông thôn, nông nghiệp và nông dân bao gồm ñịa bàn cư trú, làm việc và sinh sống, là các bộ phận hữu cơ, tương tác hai chiều với thành thị; không tách rời với quá trình ñô thị hóa, cả về thời gian và không gian. Trong quá trình này, chính lực hút và lực ñẩy của thành thị ñã tạo nên xu thế ñô thị hóa nông thôn. Dẫn chứng mô hình “lối sống Mỹ”, nhờ phát triển xe hơi và nhà ở cá nhân mà ñô thị lan tỏa ra vùng ngoại ô từ những năm 1930, cùng với hệ thống ñường cao tốc kết nối liên tục các ñô thị ngoại vi từ năm 1946; hoặc hiện tượng “Losangélisation” giải tập trung các hoạt ñộng kinh tế, hình thành các ñô thị ña trung tâm, tập hợp các xí nghiệp cùng ngành nghề, mở rộng không gian vùng ngoại vi, tạo nên hiệu ứng “bùng nổ” ñô thị.
ðô thị không hẳn là không gian phi sản xuất, vì sản xuất không ñơn thuần làm ra sản phẩm bằng sức lao ñộng. Sản xuất trong văn hóa là sáng tạo, trong kinh tế là hoạt ñộng ñầu tư tư bản tìm lợi nhuận hoặc khai thác biến tài nguyên thành của cải. ðến thế kỷ XVIII, 85% dân số thế giới khai thác trực tiếp môi trường tự nhiên – nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp… nhưng ñến ñầu thế kỷ XXI tỷ lệ này chỉ còn lại ít hơn 15%. ðô thị là nơi tập trung nhất các hoạt ñộng thương mại, hoặc nói ñúng hơn nhờ các hoạt ñộng thương mại mà ñô thị hình thành và phát triển. ðô thị bao gồm khu vực trung tâm (CBD), các cao ốc văn phòng, các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, bất ñộng sản, các hệ thống thuế khóa, hành chính, luật pháp, v.v. với xu hướng trải rộng ra các vùng ngoại vi của ñô thị thủ phủ (mégapolis) hoặc kết nối (agglomération), kể cả các ngân hà ñô thị (mégalopolis) bao trùm các bề mặt không gian. ðô thị cũng không giản ñơn là nơi có mật ñộ dân số cao, tập hợp các ñiểm dân cư phân bố trên ñịa bàn, mà bản thân dân số, dân cư ñều là các bộ phận chức năng ñô thị, vận ñộng theo quy luật chi phối của ñô thị. Do ñó, ñô thị tập ñại thành các hoạt ñộng xây dựng môi trường sống ngày càng phong phú và tiến bộ của xã hội loài người. Văn hóa ñô thị tổng hòa toàn thể các thành tố văn hóa của loài người trong quá trình hoạt ñộng về mọi phương diện: kinh tế, chính trị, kỹ thuật, xã hội, luật pháp, hành chính, giáo dục, y tế, vệ sinh, tín ngưỡng, tôn giáo, học thuyết, khoa học, kỹ thuật, quy hoạch… nhằm tạo lập ñời sống, cải thiện môi trường sống, làm cho con người phát triển toàn diện và cân bằng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 4 -
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, ñã có nhiều ngành học quan tâm nghiên cứu ñô thị, xuất hiện các chuyên ngành ñô thị như lịch sử ñô thị, ñịa lý học ñô thị, xã hội học ñô thị, nhân học ñô thị hoặc ñô thị học. Tuy nhiên, cho ñến nay trên thế giới cũng như ở nước ta vẫn chưa có môn học nghiên cứu ñô thị gắn với phạm trù văn hóa, trong ñó ñô thị không chỉ là một sự kiện, thực thể riêng biệt hoặc gắn với hoạt ñộng của con người nói chung mà còn là sản phẩm sáng tạo, thành quả hoặc thành tố của văn hóa, gắn với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Từ thế kỷ V, IV trước Công nguyên, nhiều triết gia ñã bắt ñầu chú ý xây dựng các mô hình ñô thị lý tưởng như Platon, Aristote hoặc ñưa ra các ý tưởng ñầu tiên về quy hoạch ñô thị như Hippodamos, Hippocrates; từ các mô hình ñô thị không tưởng của Thomas Moore thế kỷ XVI, Robert Owen, Charles Fourier thế kỷ XIX, hoặc mô hình ñô thị vườn của Ebenezer Howard, ñến mô hình ñô thị hiện ñại của các nhà quy hoạch như Haussmann, Le Corbusier, v.v. ñều thể hiện sự quan tâm sâu sắc ñến môi trường xã hội và nhân văn ở ñô thị.
Trong khi các nhà không tưởng loay hoay tìm kiếm một mô hình ñô thị thích hợp, thì các nhà khoa học chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa sinh học kể từ công trình Nguồn gốc các loài (On the origin of species, 1859) của Charles Darwin, ñã vận dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau ñể tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa và xã hội của loài người như công trình Xã hội cổ ñại (Ancient Societies, 1877) của Lewis H. Morgan, Nguồn gốc gia ñình, chế ñộ tư hữu và Nhà nước (The Origin of the Family, Private Property and the State, 1884) của F. Engels, ñặc biệt là Edward Burnett Tylor nhấn mạnh về tiến hóa văn hóa xã hội, về phát triển kinh tế và văn minh kỹ thuật qua các thời ñại, hoặc về các hình thái phát triển của ñô thị trong lịch sử… ðáng chú ý là các nhà khoa học chịu ảnh hưởng của trường phái mác-xít như Patrick Geddes với công trình Thành thị tiến hóa (Cities in Evolution, 1915); hoặc xuất hiện lần ñầu tiên trường phái xã hội học ñô thị Chicago ở Mỹ vào những năm 1920 và 1930, cho ñến nay vẫn ñể lại nhiều dấu ấn trong các lĩnh vực nghiên cứu ñô thị.
Trong phạm vi văn hóa ñô thị, mặc dù Geddes có thể là người ñầu tiên ñề cập ñến văn hóa ñô thị trong công trình của mình, song có lẽ Lewis Mumford mới là người khai sinh ra ngành học qua công trình Văn hóa ñô thị (The Culture of Cities, 1938) và hàng loạt các công trình khác có liên quan về ñô thị như Kỹ thuật và văn minh (Technics and Civilization, 1934), Thành thị trong lịch sử (The City in History, 1961), Kỹ thuật và Phát triển Nhân văn (Technics and Human Development, 1967), v.v.
ðể góp phần xây dựng ngành học mới, dựa trên các nghiên cứu bước ñầu về văn hóa và ñô thị, chúng tôi ñề xuất các trọng tâm nghiên cứu văn hóa ñô thị theo phương pháp văn hóa tổng quan, hay còn gọi là phương pháp tọa ñộ văn hóa (coordonnées), biểu thị các tương quan về thời gian – không gian và chủ thể văn hóa trong quá trình ñô thị hóa, với các nội dung chính sau:
Thời gian văn hóa ñô thị ñiểm lại sự kiện ra ñời của thành thị; các ñặc trưng văn hóa ñô thị cổ ñại (Hy Lạp và La Mã); quá trình ñô thị hóa từ thành thị trung ñại, cận ñại ñến hiện ñại; chất lượng sống ñô thị và ñặc trưng văn hóa của một số ñô thị lớn trên thế giới. Không gian văn hóa ñô thị gồm có không gian tự nhiên, kỹ thuật và nhân văn, trong ñó ñề cập về sự tiến hóa ñịa hình, ñịa lợi và tổ chức không gian ñô thị; về quy hoạch ñô thị, giao thông vận chuyển và các phân khu chức năng ñô thị; về không gian cư trú, không gian phân tầng và không gian công cộng.
Chủ thể văn hóa ñô thị gắn với hoạt ñộng của con người trong quá khứ, hiện tại và tương lai thông qua các di sản văn hóa ñô thị, chính sách văn hóa ñô thị và môi trường văn hóa ñô thị, nhằm bảo ñảm sự cân bằng, hòa nhập và phát triển hài hòa giữa môi trường tự nhiên, xã hội và nhân văn trong quá trình ñô thị hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 5 -
Chúng tôi tin rằng ngành học Văn hóa ñô thị với những tiếp cận bao quát và toàn diện như trên sẽ là nguồn cung cấp bổ trợ và cập nhật kiến thức gắn với thực tiễn ñô thị, nhằm trang bị nhận thức, thúc ñẩy ứng dụng những vấn ñề mang tính thời sự và nhân văn của xã hội ñương ñại, tăng cường ý thức xây dựng xã hội công dân, góp phần xây dựng môi trường văn hóa – văn minh ñô thị phát triển bền vững, rất cần thiết và xứng ñáng dành một chỗ ñứng trong các môn học ngày nay của khoa học xã hội và nhân văn.
oOo
Trong hơn mười năm qua, chúng tôi ñã triển khai ñề tài này trên một số lĩnh vực nghiên cứu. Trải qua sáu khóa ñào tạo cao học và các lớp ñại học ở khoa văn hóa trường ñại học khoa học xã hội và nhân văn, cấu trúc môn học ñã dần ñược ñịnh hình. Sau các chuyến ñi tiếp cận nghiên cứu tại laboratoire về lý thuyết phát triển ñô thị, viện quy hoạch ñô thị Pháp, trường ñại học Paris 8, chúng tôi càng thêm tin tưởng về yêu cầu cần thiết và tiền ñồ khoa học của văn hóa ñô thị.
Do các tài liệu tham khảo còn tản mạn, chưa ñầy ñủ hoặc chuyên biệt trong từng lĩnh vực, phạm vi khác nhau, chưa ñược tập hợp, gắn kết một cách hệ thống, từ nhiều nguồn phong phú hơn, nên việc tìm hiểu chuyên ñề này còn nhiều hạn chế, khó khăn. Mặt khác, do các vấn ñề ñô thị không ít tác giả xưa nay ñề cập, nhất là ở nước ngoài, với dung lượng nhiều, không gian rộng, thời gian dài, nên tập sách này ñược xuất bản lần ñầu chỉ nên coi là một bước ñi thăm dò, cả về mặt học thuật cũng như ứng dụng thực tiễn.
Về phần chúng tôi, nỗ lực lớn nhất chỉ là những khái quát bước ñầu, dựa trên cấu trúc chuyên ngành và các phương pháp nghiên cứu liên ngành, ở mức ñộ “giản yếu”, chủ yếu nêu ra các kiến thức cơ bản, các ý tưởng, quan niệm khác nhau, “sàng sẩy” từ các nguồn tài liệu tiếp cận còn hạn hẹp, nên chưa dám bàn luận sâu, ñưa ra nhiều hơn các quan ñiểm, lập luận, không ngoài mục ñích bảo ñảm tính chân thực, khách quan khoa học, ñể hướng mở cho các công trình nghiên cứu cụ thể, sâu sắc hơn sau này.
Mặc dù ñã cố gắng biên soạn nghiêm túc, cẩn trọng, tập sách không tránh khỏi những sai sót nhất ñịnh, ñôi chỗ còn sơ sài hoặc chưa tường minh. Xin người ñọc lượng thứ, chỉ dẫn và chung sức bổ cứu, hoàn thiện.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 6 -
ðể hoàn thành công trình này, tôi xin hết lòng tri ân Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự dẫn dắt của PGS.TS. Phan Xuân Biên, là nơi ñã tạo cơ hội thuận lợi cho tôi từ năm 1998 nghiên cứu ñề tài này; tôi xin tri ân Trường ñại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh là nơi ñào tạo, ñặc biệt là Khoa văn hóa học ñã tạo ñiều kiện giúp tôi giảng dạy chuyên ñề này trong nhiều năm qua. Tôi cũng xin ngỏ lời tri ân Viện IFU, Laboratoire TMU, Lab’Urba – trường ñại học Paris 8, ñại học Paris-Est Marne-la-Vallée ñã nhiệt tình tiếp nhận tôi ñến nghiên cứu, với sự hướng dẫn và ủng hộ tận tình của giáo sư Charles Goldblum, bà giám ñốc Elisabeth Decoster. Tôi cũng không quên những người thầy Mạc ðường, Phan An, Ngô Văn Lệ, các ñồng nghiệp TS Huỳnh Quốc Thắng, GS-TSKH Trần Ngọc Thêm, các thân hữu Phạm Hồng Danh, Nguyễn Quang Bình, Nguyễn ðức Toàn, Bùi Hải ðăng… và nhiều lớp học trò, ñã mang ñến cho tôi nguồn ñộng viên lớn, cảm hứng khoa học kiên ñịnh. Tôi cũng xin ñược cám ơn gia ñình tôi, với người mẹ cả ñời hy sinh, vất vả, người vợ chịu thương chịu khó, các em ñã ủng hộ tôi về vật chất và tinh thần. ðặc biệt, xin tỏ lòng thành kính và biết ơn sâu sắc gia ñình ông bà Vigneron, ñã bảo bọc tôi suốt hơn bốn mươi năm qua, luôn sẵn lòng giúp tôi các phương tiện cần thiết, là chỗ dựa tinh thần vững chắc của tôi trong những chuyến ñi và chuỗi ngày phiêu bạt trên ñất Pháp. TNK, 10/2011
PHẦN THỨ NHỨT LÝ THUYẾT VĂN HÓA ðÔ THỊ
CHƯƠNG 1 Cơ sở tiếp cận văn hóa ñô thị
KHÁI NIỆM VĂN HÓA
Con người, về cơ bản, là một loài vật có văn hóa. ðể có văn hóa, con người ñã trải qua quá trình tiến hóa làm người. Quá trình này không ngắn như một ñời người, vài ba thế hệ hoặc dăm bảy nghìn năm mà bắt ñầu cách ngày nay ít nhất 15 triệu năm. Trong quãng thời gian này, con người vừa thích ứng với môi trường tự nhiên, tạo nên các biến ñổi di truyền ñể sinh tồn, vừa thích ứng với môi trường văn hóa bằng nhiều phương thức, trải qua nhiều thời kỳ biến ñổi khác nhau ñể ngày càng phát triển.
Trong quá trình tiến hóa ñầu tiên từ các loài vượn người thành người Homo sapiens sapiens, các bản năng loài vật dần bị thoái hóa, thay thế bằng văn hóa. So với quá trình thích ứng tự nhiên do di truyền, thích ứng văn hóa theo các chức năng của loài người diễn ra nhanh hơn. Văn hóa giúp con người thích ứng với môi trường tự nhiên, thích ứng theo các nhu cầu của chính mình, ñồng thời còn làm cho con người có khả năng biến ñổi tự nhiên, biến ñổi các nhu cầu của ñời sống kinh tế, văn hóa và xã hội.
Khái niệm văn hóa trước hết nhằm giải thích các ứng xử tự nhiên của con người. ðối với con người, không có “tự nhiên” thuần túy. Tự nhiên ñược biểu hiện bằng văn hóa. Khi nói: “Bạn cứ tự nhiên”, thì trên thực tế có nghĩa là “Bạn cứ ứng xử theo cách của bạn”. Các ứng xử lúc ấy không theo bản năng sinh học mà là ứng xử văn hóa.
Văn hóa làm biến ñổi các xã hội loài người. Các nhu cầu theo chức năng sinh tồn của cơ thể như ăn, ngủ, ngồi, ñi lại, tiêu tiểu, tính dục, v.v. ở mỗi xã hội khác nhau là do văn hóa1. Ngay như khác biệt sinh học về giới tính cũng không phải là tự nhiên thuần túy. ðó là sự phân công về vai trò và nhiệm vụ theo giới tính của xã hội loài người.
Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hóa ñược xem xét theo quá trình tiến hóa lịch sử, trực tiếp gắn với quá trình hình thành ý nghĩa văn hóa trong xã hội hiện ñại. Do ñó, vấn ñề không phải là phân tích văn hóa về mặt ngữ nghĩa, ñịnh nghĩa văn hóa là gì, mà tìm kiếm các mối liên hệ giữa lịch sử “văn hóa” và lịch sử tư tưởng [Denys Cuche, 2004].
Các ñịnh nghĩa văn hóa khác nhau về ngữ nghĩa thường ẩn chứa bất ñồng về phương diện xã hội và dân tộc. Kể từ khi xuất hiện vào thế kỷ XVIII, khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng ñược nhiều người chấp nhận. ðó là sự ña dạng về lối sống và cách thức suy nghĩ của con người. VĂN HÓA LÀ GÌ? “Văn hóa” là một từ cổ trong tiếng Pháp, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIII ñể chỉ một thửa ñất ñược trồng trọt [Bénéton, 1975]. Từ nguyên cultura theo tiếng Latinh có nghĩa là chăm sóc ñồng ruộng hoặc súc vật. Từ văn hóa ñược khai sinh trong tiếng Pháp, rồi truyền bá sang tiếng Anh, tiếng ðức dưới hình thức vay mượn ngôn ngữ.
ðầu thế kỷ XVI, văn hóa không chỉ có ý nghĩa trạng thái, thuộc vật chất (thứ ñược trồng), mà trở thành hoạt ñộng, thuộc tinh thần (biết trồng trọt ñất ñai). Và cho ñến giữa thế kỷ XVI, văn hóa mới có nghĩa bóng, chỉ ra khả năng làm cho nó phát triển, nhưng ñến cuối thế kỷ XVII vẫn chưa ñược sử dụng phổ biến.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 7 -
1 Marcel Mauss, Techniques du corps, 1936.
ðầu thế kỷ XVIII, văn hóa ñược ñưa vào Từ ñiển Hàn lâm Pháp [1718], vừa có nghĩa hoán dụ (từ văn hóa trạng thái ñến văn hóa hoạt ñộng), vừa có nghĩa ẩn dụ (từ trồng trọt ñất ñai ñến chăm sóc tinh thần). Tuy nhiên, văn hóa lúc bấy giờ còn ñi kèm với bổ ngữ: “văn hóa” nghệ thuật, văn chương, khoa học... ñể xác ñịnh loại tri thức ñược bồi ñắp. Trong Từ ñiển bách khoa, văn hóa chủ yếu vẫn ñược coi là “trồng trọt ñất ñai”; còn nghĩa bóng nằm trong các chủ ñề khác như: giáo dục, tinh thần, văn chương, triết học, khoa học.
Dần dần, “văn hóa” thoát khỏi bổ ngữ, ñược sử dụng ñộc lập ñể chỉ sự “hình thành”, sự “giáo dục” về tinh thần. Lúc ấy ñã diễn ra hiện tượng ngược lại, văn hóa chuyển biến từ hoạt ñộng (giáo huấn) sang trạng thái (tinh thần ñược dạy dỗ vun ñắp; cá nhân ở tình trạng “có văn hóa”). Văn hóa phát triển thành các khái niệm. Các nhà tư tưởng thế kỷ Ánh sáng quan niệm văn hóa là ñặc trưng riêng có của loài người. Theo Joël Bonnemaison [2000], văn hóa là toàn thể tri thức ñược tích lũy và lưu truyền trong lịch sử nhân loại. Văn hóa tồn tại theo bốn dạng thức :
– Văn hóa là cái còn lại (résidu). Năm 1981, tạp chí Không gian ñịa lý tổ chức cuộc hội thảo về ñịa văn hóa. Các nhà ñịa lý ở các trường ñại học và viện nghiên cứu (CNRS, ORSTOM) tiếp cận văn hóa với quan niệm: văn hóa là cái còn lại không giải thích ñược khi ta ñã giải thích hết. Cái còn lại ấy không ño ñếm ñược, không sờ mó ñược, dành cho con người tự do sáng tạo.
– Văn hóa là cái thành tựu. Từ văn hóa trong ngôn ngữ Ấn-Âu (kwel), ban ñầu có nghĩa là nuôi nấng, chăm sóc, thương mến2. Sau ñó, người Hy Lạp sử dụng trong nông nghiệp, với nghĩa là làm cho cây trồng chín muồi. ðó là thành quả hoạt ñộng, không phải do ngẫu nhiên hoặc “tự nhiên”, tức là không phải do bởi tự nó. ðối với người Hy Lạp, văn hóa là cái thành tựu.
Do các cuộc ñại xâm lăng của người Barbares (nghĩa là “man di”, theo cách gọi của người phương Tây), từ văn hóa biến mất khỏi ngôn ngữ Ấn-Âu. ðến thế kỷ XII và XIII, thời văn minh thượng Trung ñại ở châu Âu, văn hóa xuất hiện trở lại trong tiếng Pháp, với ý nghĩa thiên về tôn giáo là sự thờ cúng, tôn thờ (culte), ñể con người phát triển theo ñường hướng thánh thiện.
Cho ñến thời Phục hưng, nhất là giai ñoạn Ánh sáng thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới có nghĩa rộng như hiện nay. Văn hóa bao gồm tinh thần, tri thức và sự tinh luyện. Văn hóa ñồng nghĩa với tiến bộ, với các giá trị phổ biến; văn hóa trái nghĩa với tự nhiên, man di và dị ñoan. Tóm lại, văn hóa biến ñổi thành văn minh, là thành tựu của con người về tinh thần, là sự sáng tạo không do ngẫu nhiên – giống như ý nghĩa ban ñầu ở Hy Lạp và hầu như không còn mang ý nghĩa tôn giáo.
Như vậy, từ văn hóa có phả hệ quan trọng về ý nghĩa, vì hàm chứa song nghĩa và theo lộ trình ñi lên, từ trật tự cấp thấp tự nhiên ñến cấp cao tinh thần. Văn hóa dựa vào tính chất nhị phân (hai mặt) – vật chất và tinh thần – của con người và hoạt ñộng của con người. Văn hóa vừa là hoạt ñộng của con người ñể xây dựng chính nó, vừa thể hiện hoạt ñộng của con người ñối với thế giới xung quanh ở bên ngoài, ñể xây dựng môi trường sống nhân văn.
Sự phân biệt tương ñối các ý nghĩa bẩm sinh/tri thức hoặc tính hai mặt tự nhiên/văn hóa làm cho văn hóa mang tính nhân tạo, vì con người không thể có mặt này mà thiếu mặt kia.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 8 -
– Văn hóa là cái sở ñắc và ñược lưu truyền. ðó là toàn thể di sản mà con người tiếp nhận từ các thế hệ trước, gồm các biểu hiện, kiến thức, giá trị, tư tưởng và tính biểu 2 Dân tộc Ấn-Âu vốn là các kỵ binh, chiến binh, sinh sống bằng nghề chăn nuôi ở vùng thảo nguyên. Cho nên, văn hóa ñược họ vận dụng trước hết vào việc chăm nom loài vật, ñặc biệt là nuôi ngựa.
cảm. Văn hóa còn là phát minh của con người, trong khoảng thời gian và không gian nhất ñịnh. Mỗi thế hệ, mỗi nhóm người lại phát minh và ñổi mới văn hóa mà họ tiếp nhận. Không có truyền thống ñơn thuần, mà truyền thống ñược diễn ñạt lại và làm phong phú thêm. Văn hóa trở thành truyền thống sống ñộng, pha trộn các ñặc trưng ñược lưu truyền và thụ ñắc qua các biến ñộng của thực tiễn. Truyền thống ñược tái tạo này cấu thành nền tảng bản sắc cộng ñồng, ñịa phương, bộ tộc, vùng miền, quốc gia và các thực thể xã hội khác. Bản sắc không ngừng chuyển ñộng, làm cho văn hóa trở nên mạnh mẽ hoặc suy yếu. Văn hóa sống ñược thì cũng có thể chết ñược. Cho nên, bản sắc cũng có thể biến chuyển, theo các chiều hướng khác nhau.
– Văn hóa là sự say mê quá khứ qua phong tục. Phong hóa vừa bén rễ với truyền thống, vừa luôn chuyển ñộng và biến ñổi. Phong hóa không là một hệ thống bất ñộng, mà trái lại là di sản, cần ñổi mới và hòa hợp. Nietzsche nói: “Một dân tộc không có ký ức là dân tộc không có tương lai” [Bonnemaison, 2000].
ðỊNH NGHĨA MÁC-XÍT VỀ VĂN HÓA Văn hóa về mặt tư tưởng là kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào cấu tạo vật chất và kinh tế của xã hội. Văn hóa dùng ñể tái sản xuất, làm cho tinh thần quen với các giá trị quy ước thuộc về văn hóa, ñể cấu trúc ấy tồn tại lâu dài. Tóm lại, văn hóa tạo nên tinh thần, phụ thuộc vào ý thức hệ thống trị. Tuy nhiên, theo quan niệm Trung Quốc trong “cách mạng văn hóa”, tác ñộng lên cấu trúc thượng tầng có thể tác ñộng lên cấu tạo vật chất và kinh tế.
Văn hóa và văn minh thuộc về hai truyền thống lịch sử và ñịa lý khác nhau. ðối với người Pháp và người Anh, văn hóa biểu hiện toàn thể các truyền thống tinh thần (morales), còn các truyền thống tri thức (intellectuelles) tạo ra văn minh. Văn minh là phương diện cao của nghệ thuật và văn chương. Trong thế kỷ Ánh sáng của Rousseau và Diderot, văn minh là khái niệm gộp: văn minh thâu tóm văn hóa; văn minh là cái thành tựu từ sự chín muồi lâu dài của văn hóa; văn minh thuộc về tư tưởng tiến bộ, mới mẻ hơn, hiện ñại hơn.
Văn minh có tính phổ quát và tiến bộ. Các nền văn minh có xu hướng cho mình ñược quyền nắm giữ tính phổ quát và chân lý, coi ñó là mô thức biểu hiện mà các nền văn minh khác phải theo. Người Pháp coi họ là hình thái phổ quát của Chân (Vrai), phổ cập lý trí; còn người Mỹ coi họ là hình thái phổ quát của Thiện (Bien) [Bonnemaison, 2000].
Ngược lại, ñối với người ðức, văn hóa (kultur) là biểu hiện mang tính ñịa phương, không có tính phổ quát. Văn hóa thuộc về cái ñặc thù, mang tính chủ quan của các dân tộc, làm cho họ trở nên khác biệt. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc. Nước Ý và nước ðức là các nước văn hóa hơn là văn minh. Nếu văn minh là tập hợp thì văn hóa là khác biệt. Chính vì tôn trọng tính khác biệt nên mới có thể ñạt ñến tầm phổ quát.
Oswald SPENGLER (1880–1936), nhà triết học và sử học người ðức, quan niệm văn hóa gồm tâm hồn, ñời sống, tính sáng tạo; ñối lập với văn minh gồm tri thức, lý lẽ, óc phân tích. Văn minh là số phận không thể tránh khỏi của mọi nền văn hóa. Văn hóa mang hình ảnh cái cây: thời kỳ ñỉnh cao là thời kỳ ñâm chồi nẩy lộc và còn non trẻ, nhựa cây phát xuất và ñổi mới từ bên trong; văn minh biểu hiện thời kỳ chín muồi của cây: tiến bộ và kỹ thuật chiếm ưu thế hơn sáng tạo và tinh thần.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 9 -
QUAN NIỆM VĂN MINH ðến thế kỷ XVIII, từ văn hóa gần giống như từ văn minh, cả về ngữ nghĩa và khái niệm. “Văn hóa” và “văn minh” thường ñược dùng ở số ít. ðó là cái riêng có của Con người (viết hoa), không phân biệt dân tộc, giai cấp. Tuy nhiên, khi ñứng cạnh nhau, “văn hóa” thiên về các tiến bộ cá thể; còn “văn minh” thuộc về các tiến bộ tập thể.
Từ văn minh mới xuất hiện ở thế kỷ XVIII, lúc ñầu ñể chỉ sự thuần khiết của phong tục, về sau mới có nghĩa là quá trình ñưa nhân loại thoát khỏi tình trạng vô minh về kiến thức và vô lý về trí tuệ. Văn minh lúc ấy ñược quan niệm là quá trình cải tiến các thiết chế, pháp luật, giáo dục; là cuộc vận ñộng chưa hoàn thành, có thể và cần phải mở rộng ra khai hóa mọi dân tộc của nhân loại.
Kể từ ấy, con người ñược ñặt ở vị trí trung tâm của tư tưởng. Con người là trung tâm của vũ trụ. Denis Diderot [1775] là người ñầu tiên nghĩ ñến việc hình thành một “ngành khoa học nhân văn”; còn Alexandre de Chavannes [1787] là người ñầu tiên ñưa ra từ “ethnologie”, hồi ấy có nghĩa là ngành học nghiên cứu “lịch sử văn minh tiến bộ của các dân tộc”.
Nếu ý tưởng văn hóa từ thời Hy Lạp ñược truyền lại bằng tiếng Latinh (cultura), thì văn minh (civilisation) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, xuất hiện từ thế kỷ XVIII, với ý nghĩa trái với dã man. Châu Âu thế kỷ XVIII cần một khái niệm ñể ñịnh nghĩa thế giới ñang chuyển ñộng, ñể ñịnh vị một nền văn hóa ñược coi là tiến bộ và hiện ñại hơn, ñối lập với dã man.
Văn minh xuất xứ từ civitas, thành thị, có gốc tiếng Latinh là civis, chỉ người ñồng hương, có nghĩa là “một tập thể có ý thức và trách nhiệm”, thuộc về một xã hội mang tính dân sự. Từ nguyên tính dân sự (civilité) có nghĩa là nghệ thuật, cách thức sống với nhau ñể có văn minh (civilisé).
Từ văn minh cũng có hai nghĩa, tùy theo ñược sử dụng ở số ít hay số nhiều. Văn minh ở số ít là nền văn minh phổ quát của cái tốt ñẹp và tiến bộ, gắn với thành thị, với sự phát triển kỹ thuật và tri thức, với sự xét ñoán về giá trị, với sự ngự trị của lý lẽ. Văn minh là văn hóa ñược phổ quát và biến ñổi theo chiều hướng tiến bộ. Văn minh ở số nhiều rất gần gũi với từ văn hóa, chính là các nền văn hóa lớn.
Theo ñịnh nghĩa từ ñiển, văn minh là “Toàn thể các tính chất tôn giáo, ñạo ñức, văn hóa, xã hội và vật chất thuộc về ñặc trưng của một xứ sở hoặc một xã hội”. Tuy nhiên, ở Pháp văn hóa mang ý nghĩa hạn chế hơn văn minh: văn hóa giới hạn ở sự nhận biết về tri thức, ñào tạo về kiến thức. Édouard HERRIOT (1872–1957): “Văn hóa là cái còn lại khi ta ñã quên hết”. Văn hóa ñược coi là toàn thể các phương diện tri thức của một nền văn minh, tương ứng với kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa mác-xít.
Ý NGHĨA VĂN HÓA VĂN MINH TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Văn minh là một tập hợp lớn về xã hội – chính trị – văn hóa và kinh tế; văn hóa là các giá trị chung ñược chia sẻ bởi số ñông, biểu hiện sự liên kết phần tinh túy nhất của tập hợp, là ngọn nguồn của văn minh mà không mang tính toàn bộ (totalité).
Trong khoa học xã hội, ñặc biệt là nhân học, sử học và ñịa lý, từ văn hóa ñược hiểu theo nghĩa rộng hơn. Có các nền văn hóa và có các nền văn minh. Quan niệm này kết hợp hai tầng: các giá trị tinh thần và các giá trị vật chất. ðối với nhà nhân học hoặc ñịa văn hóa – tức là các “nhà văn hóa”, không có văn hóa hoặc văn minh cao cấp, mà ña phần các nền văn hóa và văn minh làm cho nhân loại trở nên thịnh vượng.
Có khuynh hướng xem xét văn hóa và văn minh không do khác biệt về bản chất mà khác nhau về phạm vi. Mỗi nền văn minh ñều chứa ñựng một số lượng không xác ñịnh ñược các nền văn hóa và các hệ thống văn hóa. Văn minh có ý nghĩa và phạm vi không gian rộng hơn so với văn hóa. Thời gian dài, không gian rộng là hai phạm vi ñặc trưng của văn minh; khác với văn hóa vốn thuộc về từng nhóm người, trong phạm vi ñời sống hàng ngày.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 10 -
Văn minh thuộc về mức ñộ xã hội lớn hơn, thuộc phạm vi siêu văn hóa (métaculturelle), dùng ñể mô tả một nền văn hóa khác; ngược lại văn hóa ñược hiểu ở mức ñộ nhỏ hơn, của các nền văn hóa tộc người, quốc gia hoặc vùng miền
[Bonnemaison, 2000]. Tóm lại, văn hóa cần ñối thoại, còn văn minh cần ñấu tranh lẫn nhau. ðó là “cú sốc của các nền văn minh”, vấn ñề cơ bản của thế kỷ XX. CÁC QUAN NIỆM VĂN HÓA KHÁC NHAU TRÊN THẾ GIỚI
ðỨC – ðỐI LẬP VĂN HÓA VỚI VĂN MINH Văn hóa (kultur) theo nghĩa bóng mới xuất hiện từ thế kỷ XVIII ở ðức. Giới thượng lưu ðức, do chịu ảnh hưởng tư tưởng Ánh sáng từ nước Anh, ñã vay mượn từ văn hóa trong ngôn ngữ Pháp ñể diễn ñạt.
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, giới trí thức thượng lưu ðức sử dụng các giá trị “tinh thần” của văn hóa, bao gồm khoa học, nghệ thuật, triết học và tôn giáo, ñể ñối lập lại các giá trị “phong nhã” của giới quý tộc ðức, bị cô lập với các tầng lớp trung lưu trong xã hội, vì bắt chước theo các kiểu cách ñược coi là “văn minh” của triều ñình Pháp. Theo ñó, bất cứ cái gì có tính xác thực, góp phần làm giàu tri thức và tinh thần ñều là văn hóa; ngược lại, cái gì mang vẻ hào nhoáng, hời hợt, sang trọng bề ngoài thì ñược coi là văn minh.
Văn hóa ñối lập với văn minh, giống như sâu sắc phản nghĩa với nông cạn. Có thể nói rằng, chính ý thức dân tộc ðức trước các thế lực phương Tây ñã tạo nên sự ñối lập giữa văn hóa và văn minh, vì trong khi Anh và Pháp ñã hình thành nhà nước sau cách mạng Pháp thì ðức vẫn chưa thống nhất về mặt chính trị.
Johann Gottfried HERDER (1744–1803), nhà triết học người ðức, trong công trình Một triết học khác của lịch sử [1774], là người ñầu tiên sử dụng từ “văn hóa” một cách có hệ thống. Herder chống lại thuyết văn hóa phổ quát và ñồng nhất của triết học Ánh sáng Pháp. Ông giải thích các nền văn hóa theo số nhiều, trên cơ sở phân tích tính ña dạng của ngôn ngữ. Ông ñược coi là người mở ñường cho quan niệm văn hóa mang tính tương ñối.
Kể từ thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc ðức, khái niệm kultur có khuynh hướng vạch ra giới hạn, gia cố các khác biệt dân tộc và nhằm ñịnh nghĩa “tính cách ðức”. ðó không chỉ là tính ñộc ñáo, tính riêng biệt tuyệt ñối, mà gồm cả tính ưu việt của văn hóa ðức.
Văn hóa theo quan niệm ở ðức là toàn thể các thành quả về nghệ thuật, tri thức và ñạo ñức cấu thành di sản của một dân tộc, làm nền tảng cho sự thống nhất. ðó là các thành quả tinh thần, không lẫn lộn với các thành tựu kỹ thuật gắn với tiến bộ công nghiệp, xuất phát từ thuyết duy lý vô hồn. Kể từ ñó, văn minh ñược coi là tiến bộ vật chất, gắn với phát triển kinh tế và kỹ thuật.
PHÁP – VĂN HÓA CỦA CÁC NHÀ KHAI SÁNG DÂN TỘC HỌC Ở Pháp, quan niệm văn hóa theo chiều hướng rất khác biệt. ðó là toàn thể các tính cách riêng của một cộng ñồng, thường có ý nghĩa rộng và chung nhất. Văn hóa không hề ñối lập với văn minh, trong khi “văn minh” ñược sử dụng phổ biến thay thế cho văn hóa3.
ðến ñầu thế kỷ XX, văn hóa vẫn theo quan niệm truyền thống của các nhà triết học Ánh sáng về tính phổ quát, trừu tượng. Văn hóa mang ý nghĩa chung là văn hóa nhân loại. “Trước khi có văn hóa Pháp, văn hóa ðức, văn hóa Ý, ñã có văn hóa loài người”4. Văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, là tri thức dân tộc. Văn hóa không chỉ phát triển tri thức cá nhân, mà trở nên phong phú hơn nhờ tri thức tập thể. Các ñặc thù văn hóa bị thu hẹp; quan niệm thống nhất thắng thế ý thức ña dạng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 11 -
3 Công trình Primitive Culture của Tylor ñược dịch sang tiếng Pháp là “Văn minh nguyên thủy”. Và cho ñến năm 1950, tác phẩm kinh ñiển Patterns of Culture của Ruth Benedict vẫn còn dịch sang tiếng Pháp tựa ñề là Échantillons de Civilisations. 4 Dẫn theo Ernest Renan, tại hội nghị “Qu’est-ce qu’une nation?” năm 1882 tại Sorbonne.
Các nhà khai sáng dân tộc học ở Pháp coi văn hóa mang nội dung miêu tả thuần túy. Họ quan niệm, vấn ñề không phải văn hóa là gì, mà cần miêu tả nó ñã xuất hiện thế nào trong các xã hội loài người.
ðối với vấn ñề thống nhất trong ña dạng, giữa tính ñặc thù của loài người với sự ña dạng của các dân tộc và của các phong tục, ngành dân tộc học Pháp chia thành hai khuynh hướng: một, ưu tiên thống nhất và thu nhỏ ña dạng, bằng cách coi ña dạng là “tạm thời”, theo một sơ ñồ tiến hóa; hai, ngược lại, coi ña dạng là quan trọng, song về cơ bản không mâu thuẫn với tính thống nhất của nhân loại.
Như vậy, từ thế kỷ XVIII ñến thế kỷ XX, sự ñối lập giữa tính ñặc thù ở ðức và tính phổ quát ở Pháp là hai quan niệm khác biệt ñiển hình về văn hóa. ðó cũng là cơ sở của hai cách ñịnh nghĩa khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội hiện nay. MỸ – QUAN NIỆM CỦA CÁC NHÀ NHÂN HỌC VĂN HÓA Ngành nhân học văn hóa Mỹ chia thành ba dòng chính: lịch sử văn hóa của Boas; quan hệ giữa văn hóa (tập thể) và nhân cách (cá thể); quan niệm văn hóa là hệ thống truyền thông giữa các cá thể. Các công trình nhân học văn hóa ở Mỹ bị nhiều chỉ trích, song qua ñó cho thấy khoa học văn hóa phát triển mạnh, góp phần bổ sung, hoàn chỉnh các quan niệm văn hóa trước ñó.
Các nhà nhân học văn hóa Mỹ không quan niệm văn hóa là ổn ñịnh, ở trạng thái tĩnh, mà cho rằng văn hóa tiến hóa thông qua các biến ñổi, tương tác khi thu nhận văn hóa của các cá thể. Tranh luận xảy ra nhiều nhất về cách tiếp cận tương ñối các văn hóa, chú trọng tính số nhiều của các nền văn hóa hơn là tính ñơn nhất của văn hóa.
Theo Boas, ban ñầu thuyết tương ñối là phản ứng về phương pháp luận chống lại thuyết tiến hóa. Tuyệt ñối thì không thể so sánh các nền văn hóa khác nhau, mà chỉ có thể so sánh sau khi ñã nghiên cứu riêng, thấu ñáo từng nền văn hóa.
Thuyết bản chất hoặc thực thể luận của Kroeber [1917] quan niệm văn hóa là một thực thể tự nó, thuộc lĩnh vực “cơ chế thượng tầng”, có các quy luật riêng, tồn tại ñộc lập bên ngoài sự kiểm soát của các cá thể.
Các nhà nhân học Mỹ thuộc trường phái “văn hóa và nhân cách” quan niệm văn hóa là trừu tượng. Chính các cá thể tạo nên văn hóa, chuyển giao và biến ñổi văn hóa. Người ta không thể quan sát văn hóa trên thực ñịa, vì ñó chỉ là các ứng xử cá thể. Và sau cùng, họ quan niệm chính tầm quan trọng của giáo dục ñã làm nên sự khác biệt văn hóa. CÁC HỌC THUYẾT VÀ TRƯỜNG PHÁI VĂN HÓA TYLOR VÀ HỌC THUYẾT PHỔ QUÁT VĂN HÓA Ngài Edward Burnett TYLOR (1832–1917), nhà sáng lập nhân học xã hội Anh, là người ñầu tiên ñưa ra ñịnh nghĩa theo quan niệm dân tộc học về văn hóa: Văn hóa hoặc văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất của dân tộc học, là cái toàn thể phức hợp bao gồm nhận thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, ñạo ñức, pháp luật, phong tục và các năng lực hoặc tập tục khác do con người thụ ñắc với tư cách thành viên xã hội [Văn hóa nguyên thủy, Primitive Culture, 1871, tr.1].
ðịnh nghĩa Tylor miêu tả thuần túy và khách quan, không mang tính chuẩn tắc5. Theo Tylor, văn hóa biểu hiện toàn thể ñời sống xã hội của con người; các ñặc trưng văn hóa thuộc về phạm vi tập thể; văn hóa ñược thụ ñắc, không do di truyền sinh học, trong khi nguồn gốc và tính chất của văn hóa phần lớn do vô thức.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 12 -
ðịnh nghĩa Tylor cũng không làm rõ khái niệm văn minh ñối với xã hội nguyên thủy, vì từ nguyên văn minh thuộc cấu trúc thành thị và trong khoa học lịch sử chủ yếu chỉ các thành tựu vật chất, trong khi các xã hội nguyên thủy còn ít phát triển. Thực ra, 5 Khác với các ngành khoa học ñược coi là ñịnh ra và xác ñịnh các chuẩn tắc gồm: mỹ học, lôgic học, ñạo ñức học.
giữa xã hội nguyên thủy và văn minh không khác biệt về bản chất, mà khác nhau do cấp ñộ phát triển về văn hóa.
Tylor ñịnh nghĩa văn hóa về khái niệm, song không phải là người ñầu tiên sử dụng từ này trong dân tộc học. Tylor chịu ảnh hưởng trực tiếp các nhà dân tộc học ðức, ñặc biệt là Gustave KLEMM [1843], người sử dụng từ văn hóa theo nghĩa khách quan ñể tham chiếu văn hóa vật chất6.
BOAS VÀ HỌC THUYẾT ðẶC THÙ VĂN HÓA Nếu Tylor là người ñầu tiên ñưa ra quan niệm khoa học về văn hóa, thì Franz BOAS (1858–1942) là nhà nhân học ñầu tiên tiến hành ñiều tra thực ñịa bằng quan sát trực tiếp và lâu dài về văn hóa nguyên thủy. Sau chuyến ñi khảo sát người Esquimaux vùng Baffin năm 1883–1884, ông nhận thấy tổ chức xã hội do văn hóa quyết ñịnh hơn là do môi trường tự nhiên.
Theo Boas, khác biệt cơ bản giữa các nhóm là do mô thức văn hóa, không phải do chủng tộc; khái niệm chủng tộc không có liên hệ giữa các ñặc trưng hình thể và ñặc trưng tinh thần; không có khác biệt “tự nhiên” (sinh học) giữa con người nguyên thủy và văn minh. ðó là sự khác biệt về văn hóa ñược thụ ñắc, không phải do bẩm sinh. Boas là người ñầu tiên từ bỏ quan niệm chủng tộc khi giải thích các ứng xử của con người.
Khác với Tylor, mục tiêu nghiên cứu văn hóa của Boas là các nền văn hóa hơn là Văn hóa. Ông quan niệm dân tộc học là ngành khoa học quan sát trực tiếp. Theo ông, khi nghiên cứu văn hóa ñặc thù, phải ghi chép mọi cái ñến từng chi tiết và phải hiểu biết thấu ñáo nền văn hóa ñược nghiên cứu trước khi ñưa ra kết luận chung. Boas cũng là người sáng lập phương pháp quy nạp và bổ cứu thực ñịa. Chính nhờ ông mà nhân học quan niệm thuyết văn hóa tương ñối như là nguyên tắc thuộc về phương pháp luận, bao gồm quan niệm tương ñối về văn hóa.
DURKHEIM VÀ HỌC THUYẾT THỐNG NHẤT CÁC SỰ KIỆN VĂN HÓA Cùng thời với Boas là Émile DURKHEIM (1858–1917), nhà xã hội học người Pháp, người tham gia sáng lập ngành nhân học Pháp, thành lập tạp chí L’Année sociologique [1897], với nhiều công trình chuyên khảo nổi tiếng về dân tộc học.
Durkheim không dùng khái niệm văn hóa, mà thường diễn dịch là “văn minh”. Qua công trình soạn chung với Marcel Mauss Chú thích khái niệm văn minh [Note sur la notion de civilisation, 1913], ông ñưa ra quan niệm khách quan và không chuẩn tắc về văn minh. Durkheim cho rằng các nền văn minh ñặc thù góp phần vào văn minh nhân loại, mà nói như Mauss [1901]: “Văn minh của một dân tộc không phải cái gì khác hơn là toàn thể các hiện tượng xã hội. Không có dân tộc phi văn hóa, không văn minh hoặc «tự nhiên»”.
Theo Durkheim, các hiện tượng xã hội ñều mang tính biểu trưng, nên cần có chiều kích văn hóa. Các hiện tượng xã hội trải rộng trên các khu vực vượt ra ngoài không gian lãnh thổ quốc gia, hoặc phát triển qua các khoảng thời gian vượt ra ngoài lịch sử một xã hội. Ông muốn chứng minh người nguyên thủy hoàn toàn có khả năng tư duy lôgich. Ông không ñồng tình với sơ ñồ tiến hóa ñơn tuyến, mà quan niệm ñó là “một thân cây tỏa ra nhiều nhánh” [1913]. ðối với thuyết văn hóa tương ñối, Durkheim quan niệm: chuẩn tắc của mỗi xã hội là tương ñối và tương quan với trình ñộ phát triển của nó.
Trong sự nghiệp của mình, Durkheim quan tâm ñến việc xác ñịnh bản chất của liên kết xã hội, hơn là ñưa ra một học thuyết mang tính hệ thống về văn hóa. Ông xác ñịnh
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 13 -
6 Klemm chia lịch sử phát triển văn hóa thành ba giai ñoạn: hoang dã, có ñặc trưng sống theo từng hộ gia ñình, không luật lệ, kinh tế chiếm ñoạt (hái lượm, săn bắt); tự cung tự cấp, có luật lệ chặt chẽ ñể liên kết các hộ gia ñình với nhau, phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, có chữ viết; tự do, có ñặc trưng là quyền lực của giới tăng lữ ở thời kỳ trước ñó bị sụp ñổ.
xã hội chiếm ưu thế trên cá nhân. Kể từ công trình Tự tử [Le Suicide, 1897], Durkheim triển khai lý thuyết “ý thức tập thể”, ñược coi là một dạng lý thuyết về văn hóa. Theo ông, mọi xã hội ñều có một ý thức chung, ñược hình thành từ các biểu hiện chung, các lý tưởng, giá trị và tình cảm chung ñối với mọi cá nhân trong xã hội ấy. Chính ý thức tập thể tạo nên sự thống nhất và cố kết của một xã hội. Khái niệm “ý thức tập thể” của Durkheim có khi ñược diễn ñạt là “nhân cách tập thể”, rất gần với khái niệm mô thức văn hóa và “nhân cách cơ bản” của các nhà nhân học văn hóa Mỹ, ñặc biệt là lý thuyết văn hóa về “cơ chế thượng tầng” của Alfred Kroeber [1917].
LÉVY-BRUHL VÀ HỌC THUYẾT TIẾP CẬN KHÁC BIỆT Lucien LÉVY-BRUHL (1857-1939) với công trình Chức năng tinh thần trong các xã hội hạ ñẳng [Les fonctions mentales dans les sociétés inférieures, 1910], nêu lên sự khác biệt văn hóa thể hiện hai quan niệm văn hóa khác nhau trong dân tộc học Pháp thời kỳ ñầu. Khác với Durkheim, Lévy-Bruhl sử dụng khái niệm “tinh thần” thay cho “văn hóa”, nhằm bác bỏ học thuyết tiến hóa ñơn tuyến và luận giải về sự tiến bộ tinh thần.
Lévy-Bruhl cũng không chia sẻ các luận ñiểm Tylor về thuyết vật linh của người nguyên thủy. Trong công trình Tinh thần nguyên thủy [La mentalité primitive”, 1922], ông chống lại tư tưởng coi hoạt ñộng tinh thần của “người nguyên thủy” ở dạng sơ khai (tiền lôgich), trẻ thơ hoặc bệnh lý so với bối cảnh thời ñại. Trái lại, theo Lévy-Bruhl, người nguyên thủy thực hành tinh thần trong ñiều kiện bình thường, kể cả phức tạp và phát triển theo cách của họ. Ông khẳng ñịnh con người có cùng ñời sống tâm lý cơ bản hơn là khác biệt, song ông phản ứng quan niệm chỉ theo một phương thức chức năng duy nhất. Ông cũng không ñồng tình với Durkheim muốn chứng minh con người ở mọi xã hội ñều có tinh thần “lôgich”, buộc phải tuân theo các quy luật của lý trí.
Các quan ñiểm của Lévy-Bruhl hồi ñầu thế kỷ XX mâu thuẫn với thuyết phổ quát (trừu tượng) của triết học Ánh sáng và các nguyên tắc ñạo ñức theo khuôn mẫu của phần lớn các học giả Pháp, do ñó, ñã tạo nên nhiều cuộc tranh luận khoa học sôi nổi về tính khác biệt (altérité) và bản sắc văn hóa.
KROEBER VÀ HỌC THUYẾT TRUYỀN BÁ VĂN HÓA Các học trò của Boas như Alfred KROEBER (1876–1960) và Clark WISSLER (1870–1947) tiếp tục nghiên cứu phạm trù lịch sử của các hiện tượng văn hóa. Họ vay mượn một loạt khái niệm về “vùng văn hóa” và “ñặc trưng văn hóa” của các nhà nhân học “truyền bá” ðức hồi ñầu thế kỷ XX, ñể nghiên cứu sự phân bố trong không gian của một hoặc nhiều ñặc trưng văn hóa của các nền văn hóa ở gần nhau và phân tích quá trình lan truyền của chúng.
“Truyền bá văn hóa” là kết quả quan hệ giữa các nền văn hóa khác nhau và sự di chuyển các ñặc trưng văn hóa. Khi có hiện tượng hội tụ các ñặc trưng giống nhau trong một phạm vi không gian, người ta gọi ñó là vùng văn hóa. Trong ñó, ở khu vực trung tâm là các ñặc trưng văn hóa cơ bản; còn ở khu vực ngoại vi, các ñặc trưng này ñan xen lẫn nhau với các ñặc trưng ñến từ các khu vực văn hóa lân cận.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 14 -
MALINOWSKI VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG VĂN HÓA Bronislaw MALINOWSKI (1884–1942), nhà nhân học Anh gốc Ba Lan, mang quốc tịch Áo, là người ñưa ra thuyết chức năng tập trung ở hiện tại, ñể chống lại thuyết tiến hóa hướng ñến tương lai và thuyết truyền bá hướng về quá khứ. Theo ông, chỉ có quãng thời gian ở giữa là nơi mà nhà nhân học có thể nghiên cứu các xã hội loài người một cách khách quan; cần quan sát trực tiếp các nền văn hóa trong tình trạng hiện tại, không cần truy ngược về nguồn gốc vì hão huyền và không có chứng cứ khoa học; mỗi nền văn hóa hình thành một hệ thống cân bằng theo chức năng, trong ñó các yếu tố phụ
thuộc lẫn nhau, nên cần loại trừ việc nghiên cứu riêng rẽ; văn hóa biến ñổi chủ yếu ñến từ bên ngoài, do sự giao tiếp văn hóa.
ðể giải thích các nền văn hóa có chức năng khác nhau, trong công trình Lý thuyết khoa học về văn hóa [Une théorie scientifique de la culture, 1944], Malinowski xây dựng học thuyết về các “nhu cầu” gây nhiều tranh cãi. Các yếu tố cấu thành một nền văn hóa có chức năng thỏa mãn các nhu cầu chủ yếu của con người. ðối tượng của ngành nhân học không phải là nghiên cứu các ñặc trưng văn hóa vô nghĩa, cũng không phải các sự kiện văn hóa riêng rẽ, mà là các thiết chế (kinh tế, chính trị, pháp luật, giáo dục...) và quan hệ giữa các thiết chế trong tương quan của một hệ thống văn hóa.
Hạn chế của học thuyết chức năng là ít có khả năng giải quyết các mâu thuẫn nội tại, các rối loạn chức năng và các hiện tượng bệnh lý của văn hóa. Tuy vậy, công lao của Malinowski là chứng minh không thể nghiên cứu văn hóa từ bên ngoài và quá lâu về thời gian. Ông không bằng lòng với phương pháp quan sát trực tiếp tại chỗ, mà ñã hệ thống hóa việc sử dụng phương pháp dân tộc học miêu tả, thường gọi là phương pháp “quan sát tham dự”.
TRƯỜNG PHÁI “VĂN HÓA VÀ NHÂN CÁCH” Từ những năm 1930, ngành nhân học Mỹ hướng ñến một hướng ñi mới trong cố gắng tìm cách giải thích một cách kiên trì các khác biệt văn hóa giữa các nhóm người. Họ cho rằng nghiên cứu văn hóa còn quá trừu tượng, trong khi quan hệ giữa cá nhân với văn hóa của mình còn chưa ñược tính ñến; văn hóa không thể tồn tại như một thực thể tự nó, nằm ngoài các cá thể, dù cho mọi văn hóa ñều ñộc lập tương ñối so với các cá thể; mỗi nền văn hóa xác ñịnh một kiểu ứng xử chung cho toàn thể các cá thể tham gia vào nền văn hóa ñó. Vấn ñề cần làm sáng tỏ là văn hóa ñã hiện diện trong cá thể như thế nào, thúc ñẩy họ hành ñộng ra sao và tạo nên cách ứng xử nào.
Vấn ñề cơ bản của trường phái này là nhân cách. Con người ñồng nhất với nhau về phương diện sinh học và tâm lý, song cơ chế nào làm cho các cá thể lúc ñầu có bản chất giống nhau, biến ñổi thành các kiểu nhân cách ñặc trưng khác nhau trong các nhóm riêng biệt. Họ ñặt ra giả thuyết ña số các nền văn hóa tương ứng với nhiều kiểu nhân cách.
Edward SAPIR (1884–1939), nhà nhân học ngôn ngữ Mỹ gốc ðức, cho rằng việc truyền bá các ñặc trưng văn hóa, các yếu tố văn hóa từ nền văn hóa này ñến nền văn hóa khác không ñộc lập với các cá thể, mà chính ứng xử của các cá thể có thể giải thích sự vay mượn văn hóa ñặc thù [1949].
Ruth BENEDICT (1887–1948) ñề xuất khái niệm “mô thức văn hóa” [1934] từ ý tưởng của Boas và Sapir. Theo ñó, mỗi nền văn hóa có một kiểu mô thức ñặc trưng, ñồng nhất và gắn bó với nhau nhờ các thiết chế (ñặc biệt là giáo dục) và các giá trị, qua ñó ñiều khiển các cá thể theo một “sơ ñồ” vô thức trong mọi hoạt ñộng của ñời sống.
Margaret MEAD (1901–1978) nghiên cứu về cách thức, mô hình giáo dục và các hệ quả văn hóa mà cá thể tiếp nhận ñể hình thành nhân cách của mình. ðó là quá trình “truyền giao văn hóa” và xã hội hóa nhân cách bằng giáo dục. Nhân cách cá thể không phải do các ñặc ñiểm sinh học mà do “mô thức” văn hóa ñặc thù của xã hội. ðó là quá trình mà các nhà nhân học gọi là “văn hóa hóa” (enculturation), tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa mô thức văn hóa, phương pháp giáo dục và nhân cách chủ ñạo.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 15 -
Ralph LINTON (1893–1953) cho rằng ngoài tâm lý của từng cá thể còn có tâm lý chung của mọi thành viên trong một cộng ñồng, gọi là “nhân cách cơ bản”. Văn hóa biến ñổi do ưu thế hơn hẳn của một kiểu nhân cách nào ñó mà các thành viên trong một cộng ñồng cùng chia sẻ. Trong công trình Cơ sở văn hóa của nhân cách [1945], ông cho
rằng mỗi nền văn hóa ưu tiên một trong số các kiểu nhân cách ñược xã hội coi là “bình thường”, phù hợp với chuẩn mực văn hóa và hệ thống các giá trị.
Abram KARDINER (1891–1981) ñã cộng tác chặt chẽ với Linton ñể triển khai quan niệm “nhân cách cơ bản”, ñược hình thành ở cá thể thông qua “các thiết chế sơ ñẳng” (trước hết là gia ñình và hệ thống giáo dục) riêng của mỗi xã hội; và nhân cách cơ bản này tác ñộng trở lại văn hóa của nhóm bằng cách sản sinh ra “các thiết chế thứ cấp” (ñặc biệt là hệ thống các giá trị và tín ngưỡng).
LÉVI-STRAUSS VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CẤU TRÚC VĂN HÓA Claude LÉVI-STRAUSS (1908–2009), nhà nhân học người Pháp, người ñược James Frazer xưng tụng là “cha ñẻ ngành nhân học hiện ñại”, ñã ñưa ra một ñịnh nghĩa về văn hóa: Mọi văn hóa ñều có thể xem là toàn thể các hệ thống biểu trưng ñược ñặt lên hàng ñầu gồm ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo. Tất cả các hệ thống này ñều nhằm diễn tả một số phương diện hiện thực của tự nhiên và xã hội, ñặc biệt là các quan hệ mà hai loại hiện thực này trao ñổi lẫn nhau và các hệ thống biểu trưng của từng loại trao ñổi với nhau [1950].
Lévi-Strauss chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ về tính toàn thể của văn hóa, ñặc biệt là của Boas, Kroeber và Benedict do ông ở Mỹ một thời gian khá lâu (1941- 1947). Trong công trình Nhiệt ñới buồn [Tristes tropiques, 1955], ông mượn của Ruth Benedict bốn ý tưởng chủ yếu: một, các nền văn hóa khác biệt do một mô thức nào ñó; hai, các kiểu văn hóa khả dĩ tồn tại với số lượng giới hạn; ba, nghiên cứu các xã hội “nguyên thủy” là phương pháp tốt nhất ñể xác ñịnh sự kết hợp giữa các yếu tố văn hóa; bốn, sự kết hợp này có thể ñược nghiên cứu tự bản thân chúng, ñộc lập với các cá thể trong nhóm và họ không có ý thức gì về sự kết hợp này.
Ngoài việc nghiên cứu các biến ñổi văn hóa, Lévi-Strauss còn phân tích tính không thể biến ñổi của một nền văn hóa ñặc thù mà ông coi là “vốn chung” của nhân loại. Tham vọng về nhân học cấu trúc của Lévi-Strauss là nhận biết và tiếp thu các sự kiện bất biến, tức là các “tư liệu” văn hóa giữa các nền văn hóa luôn luôn giống nhau do tính thống nhất về ñời sống tâm lý của con người, tất nhiên là với số lượng có giới hạn. Tổ chức ñời sống xã hội phụ thuộc vào một nền văn hóa và ñòi hỏi thực hiện các quy ước xã hội. Trong các ñiều kiện chung về chức năng của ñời sống xã hội, có thể tìm gặp các quy ước phổ biến vốn là các nguyên tắc cần thiết của mọi ñời sống xã hội. Chẳng hạn, việc cấm loạn luân là cơ sở cần thiết cho các trao ñổi của xã hội. CÁC TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ðối với các nhà ñịa lý với tư duy thực nghiệm ở Mỹ, văn hóa bao gồm các thứ không thuộc về tự nhiên. Họ phân biệt văn hóa là cái nhìn thấy ñược trong cảnh quan ñịa lý, do con người tạo lập nên và có khả năng làm thay ñổi môi trường tự nhiên. ðó là cảnh quan ñược nhân hóa.
ðối với các nhà nhân học, văn hóa nằm ngay ở ngành học. Mỗi dân tộc ñược ñịnh nghĩa trước tiên là có một nền văn hóa riêng. ðó là một toàn thể phức hợp như là một tổng thể mà con người có ñược. Mỗi cá nhân sinh ra trong xã hội ñều thuộc về một nền văn hóa. Văn hóa mang ý nghĩa tập thể, thuộc về một cộng ñồng, bộ tộc, xã hội... Nói như HÉRODOTE, “Phong tục là vua của mọi thứ”. Có hàng ngàn cách thức ñể thỏa mãn nhu cầu của con người về ăn, ở, ngủ, nghỉ, ñi lại hoặc làm việc.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 16 -
ðối với các nhà văn hóa, họ quan niệm mọi nền văn hóa vừa giống nhau vừa khác nhau trên một số phương diện, vì ñáp ứng các nhu cầu và các mục tiêu chung bằng các cách thức khác nhau. Ở cấp ñộ ñầu tiên thì sự khác biệt tách rời nó ra, ñến cấp ñộ thứ hai thì tập hợp lại.
Song có lẽ chính các nhà ngôn ngữ mới ñưa ra ñịnh nghĩa văn hóa ñầy ñủ và rõ ràng nhất. Émile BENVENISTE (1902–1976), chuyên gia Ấn-Âu, nhà ngôn ngữ học người Pháp, ñịnh nghĩa: “Tôi gọi văn hóa là môi trường của con người, là mọi thứ vượt qua các chức năng sinh học ñể ñem lại cho cuộc sống, cho hoạt ñộng của con người hình thức, ý nghĩa và nội dung” [Bonnemaison, 2000]. Từ văn hóa ñược sử dụng ở ñây vừa thuộc phạm vi vật chất – giống như các nhà ñịa lý Mỹ – vừa thuộc phạm vi trí tuệ và tinh thần. Văn hóa là một hệ thống các thái ñộ, tín ngưỡng và các biểu trưng.
Giống như ngôn ngữ, văn hóa ñược ñịnh nghĩa thông qua việc truyền ñạt. ðó là toàn thể các thứ di sản mà con người nhận ñược từ các thế hệ ñi trước: các biểu hiện, tri thức, giá trị, ý tưởng, tính biểu cảm. Nhưng văn hóa cũng là cái mà con người phát minh, sinh sống trong một thời ñiểm và một không gian nhất ñịnh. Cho nên, người ta nói văn hóa những năm 30, những năm 60, văn hóa vùng miền, văn hóa ñô thị, văn hóa ngoại ô, văn hóa xí nghiệp, v.v. vì văn hóa luôn ñược hoàn thiện, ñổi mới, phát minh trở lại tùy theo các thế hệ, nhóm người.
Không có truyền thống nào là thuần chất. Mọi truyền thống khi truyền ñạt lại ñều ñược các thế hệ, nhóm người diễn giải lại. Chính vì vậy mà văn hóa là một truyền thống sống ñộng, hỗn hợp các ñặc trưng ñược lưu truyền và các ñặc trưng tri thức của một thực thể chuyển ñộng, cấu thành bản sắc.
Văn hóa bao gồm cả văn minh vật chất và văn minh tinh thần. Nhưng hệ luận văn hóa ñòi hỏi cả hai phải gắn với nhau thành một hệ thống, mang tính tổng thể, gọi là phức hợp văn hóa. ðó là một hệ thống ñi từ ñặc trưng vật chất nhất ñến ñặc trưng tinh thần nhất. Văn hóa gần giống như ngôn ngữ. ðó là một toàn thể, một hệ thống tiến triển phức hợp và tương tác. Văn hóa biểu hiện sự chuyển ñộng từ cái này ñến cái kia, từ cách sống ñến ý nghĩa ñời sống [Bonnemaison, 2000].
Ngành ðịa văn hóa nói riêng bao gồm việc nghiên cứu cùng lúc các nền văn hóa và văn minh. Nó không bị lạc hướng khi nghiên cứu sâu vào các quá trình của văn hóa, mà ở các phạm vi khác nhau: quá trình văn minh và quá trình của các nền văn hóa [Bonnemaison, 2000].
ðịa văn hóa phân biệt văn hóa có bốn trình ñộ, từ ñơn giản ñến phức tạp là: ñặc trưng văn hóa hay các yếu tố văn hóa, các tập hợp hay phức hợp văn hóa, các nền văn hóa và các nền văn minh. Cái toàn thể (còn gọi là phức hợp văn hóa hoặc chu kỳ văn hóa) cấu thành từ các yếu tố hoặc ñặc trưng. Văn hóa hội nhập các phức hợp văn hóa khác nhau trong một hệ thống văn hóa tổng quát (global). Một nền văn hóa hay một hệ thống văn hóa bao gồm nhiều tập hợp hoặc phức hợp văn hóa (một tập hợp có nhiều phức hợp). Văn hóa tham gia vào văn minh, hội nhập ở tầng cao của các nền văn minh.
VĂN HÓA LÀ MỘT QUÁ TRÌNH [Bonnemaison, 2000] Quá trình ñược ñịnh nghĩa là sự tiến hóa của một tập hợp các ñối tượng theo một thông số cơ sở. Chẳng hạn, công nghiệp hóa, ñô thị hóa, giao lưu văn hóa là các quá trình. Mọi nền văn hóa ñều là một quá trình, trong ñó có thể phân tích thành 5 giai ñoạn: phát hiện, phát minh, ñổi mới, tiến hóa và truyền bá. – Phát hiện là tìm thấy cái gì ñó tồn tại trong môi trường tự nhiên, chưa từng sử dụng ñến, có thể sử dụng mà không cần sáng tạo
– Phát minh là tạo ra cái gì mới, nhân tạo, xuất phát từ ý muốn của con người. Phát minh cấu thành ñộng lực phát triển xã hội, nhất là khi nó tạo nên sự ñổi mới [Schumpeter, 1911].
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 17 -
– ðổi mới là ứng dụng phát minh hoặc khám phá trong một lĩnh vực kỹ thuật và trong ñời sống xã hội. Chẳng hạn, phát minh ra transistors cho phép ứng dụng một loạt
ñổi mới trong lĩnh vực công nghiệp ñiện tử. Ngược lại, cũng có những khám phá hoặc phát minh không phát sinh ñổi mới vì các lý do văn hóa, kinh tế – xã hội và chính trị. – Tiến hóa là một trào lưu ñi từ ñơn giản ñến phức tạp, từ biến chuyển, ñổi mới lúc ñầu ñến các hệ thống phức tạp hơn.
– Truyền bá là quá trình lan tỏa trong không gian và tiếp nối trong thời gian. Như vậy, quá trình văn hóa là một trào lưu liên tục, vì nó kéo theo một loạt các phản ứng dây chuyền. Xã hội càng tiên tiến, văn hóa càng trở nên phức tạp, không thuần nhất và quá trình ñổi mới diễn ra một cách nhanh chóng.
Lịch sử nhân loại ñã và ñang xảy ra ba cuộc cách mạng : từ cách mạng ñá mới ñến cách mạng công nghiệp và ñến nay là cách mạng thông tin và truyền thông. Quyết ñịnh luận văn hóa hay chủ nghĩa văn hóa ñược coi là phương thế ưu tiên dành cho các phương diện văn hóa giải thích sự cấu thành các hiện tượng lịch sử, xã hội và các tập tính tinh thần (mentalités).
KHÁI NIỆM “TIỂU VĂN HÓA” VÀ “XÃ HỘI HÓA” Trong thế kỷ XIX, xã hội học và dân tộc học ñược hình thành và trở thành các ngành khoa học ñộc lập. Pháp là nơi khai sinh ngành xã hội học. Trong thời kỳ ñầu, xã hội học ở Pháp ñộc quyền nghiên cứu mọi lĩnh vực của xã hội loài người. Các vấn ñề xã hội chiếm ưu thế, làm lu mờ các vấn ñề văn hóa. Dân tộc học dần thu hẹp ở lĩnh vực miêu tả (ethnographie), bị coi là một nhánh phụ của ngành xã hội học.
Sự gần gũi giữa hai ngành học dẫn ñến việc xã hội học vay mượn các phương pháp nghiên cứu của nhân học, còn nhân học ñi vào các lĩnh vực của xã hội học. Các nhà nhân học ñưa ra bằng chứng về sự thống nhất văn hóa ở Mỹ; còn các nhà xã hội học hướng ñến tính ña dạng văn hóa của xã hội Mỹ, dẫn ñến hình thành khái niệm “tiểu văn hóa” của các nhóm tộc người, các tầng lớp xã hội, của người nghèo, kẻ phạm pháp, ñồng tính, thanh thiếu niên, v.v. Các hiện tượng “phản văn hóa” như phong trào “hippie” vào những năm 1960 và 1970 cũng ñược coi là một tiểu văn hóa.
Các nhà xã hội học ở Mỹ còn ñưa ra khái niệm “xã hội hóa”, ñể giải thích tính liên tục qua nhiều thế hệ của các nền văn hóa hoặc tiểu văn hóa ñặc thù giữa các nhóm xã hội khác nhau. Họ quan niệm ñó là quá trình hội nhập của cá thể vào một xã hội hoặc một nhóm người riêng biệt, bằng cách thu mình vào các mô thức văn hóa riêng của xã hội hoặc của nhóm người ñó. Tuy nhiên, khái niệm “xã hội hóa” chỉ sử dụng phổ biến từ cuối những năm 1930, ñể phản ánh vấn ñề cơ bản của xã hội học lúc bấy giờ là làm thế nào cá thể trở thành thành viên trong xã hội của mình và làm thế nào xã hội ñồng nhất về bản sắc.
Theo Émile DURKHEIM [1922], mỗi xã hội ñều thông qua giáo dục ñể truyền lại cho các cá thể cấu thành xã hội toàn thể các tiêu chuẩn xã hội và văn hóa, nhằm bảo ñảm sự ñoàn kết giữa mọi thành viên của xã hội, và các cá thể ñều phải làm theo ở mức ñộ nhất ñịnh.
Nhà xã hội học người Mỹ Talcott PARSONS [1954] tìm cách dung hòa các phân tích của Durkheim và Freud trong quá trình xã hội hóa. Ông cho rằng xã hội hóa hoàn tất ở tuổi thanh niên; ñời sống cá thể càng sớm phù hợp với các tiêu chuẩn, giá trị của xã hội thì càng thích ứng dễ dàng hơn với “hệ thống xã hội”; ngoài gia ñình là tác nhân xã hội ñầu tiên chiếm ưu thế, không thể xem thường vai trò của trường học và nhóm ñồng ñẳng (bạn học và bạn chơi).
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 18 -
Ngoài ra, Robert K. MERTON [1950] còn ñưa ra khái niệm “xã hội hóa ñi trước”, ñể chỉ hiện tượng một cá thể tìm cách thích ứng và thu mình vào trước, theo các tiêu chuẩn và giá trị của một nhóm mà cá thể ấy còn chưa thuộc về nhưng muốn hội nhập.
Peter L. BERGER và Thomas LUCKMANN [(1966) 1986] còn phân biệt “xã hội hóa sơ ñẳng” (thời thơ ấu) và “xã hội hóa thứ cấp” (thời thanh niên). Họ quan niệm xã hội hóa là một quá trình không ngừng trong cuộc ñời của một cá thể, bao gồm các giai ñoạn “giải xã hội hóa” (cắt ñứt hội nhập với mô thức chuẩn mực) và “tái xã hội hóa” (trên cơ sở thu mình vào một mô hình khác).
HỆ THỐNG VĂN HÓA [Bonnemaison, 2000] Một hệ thống văn hóa tạo nên các ñặc trưng nhờ tổ chức ñặc thù bên trong của nó. Hệ thống văn hóa khác với hệ thống xã hội, vì có tính chất bao quát hơn, gồm có bốn yếu tố: kiến thức, kỹ thuật, tín ngưỡng và không gian. ðây cũng là bốn cực hay bốn trụ cột của hệ thống văn hóa.
– Di sản kiến thức: Văn hóa trước hết là di sản kiến thức. ðó là sự hiểu biết về thế giới, làm cho văn hóa mang tính “khoa học”. Bên cạnh khoa học phương Tây có tính phổ quát, còn có các “khoa học” trong mỗi nền văn minh khác nhau, ở mỗi tộc người ngoại lai, gọi là các khoa học tộc người (ethnosciences) ngoài phương Tây, ñược coi là các khoa học hoặc kiến thức tiền hiện ñại. Ngày nay, văn hóa bản ñịa ñược ñánh giá cao, không bị coi là thấp kém như ñầu những năm 1950...
– Di sản kỹ thuật: gồm các kỹ năng và công cụ. Theo cách nói của nhà ñịa lý người Pháp Paul Vidal de la Blache (1845–1918), ñó là các lối sống, dựa vào các kỹ thuật cơ bản, ñáp ứng các nhu cầu ñầu tiên của ñời sống ñể sinh tồn, ñể phân biệt con người với loài vật. ðó còn là nghệ thuật sống, một lý lẽ ñể sống.
– Tín ngưỡng: kiến thức và kỹ thuật “ngoài phương Tây” còn dựa trên tín ngưỡng tôn giáo, thể hiện một cách nhìn về thế giới, thường ñược coi là tầng cao của văn hóa, biểu hiện mối liên hệ cơ bản giữa các giá trị và kỹ thuật.
Văn hóa mang lại ý nghĩa, ñưa ra cách nhìn về thế giới, tức là cách giải thích thế giới. ðó là trật tự của tư duy, dựa trên tín ngưỡng, huyền thoại và các giá trị. ðó cũng là trật tự của văn hóa, kết hợp ý nghĩa ñạo ñức và thẩm mỹ, luân lý và nghệ thuật, lý trí và xúc cảm, thường ñược coi là các biểu hiện. Mọi văn hóa ñều là hệ thống các biểu hiện khác biệt, còn gọi là các biểu trưng ñịa lý.
Không có ký ức thì không có văn hóa, bởi vậy không có tương lai. Ký ức càng xa về thời gian, văn hóa càng phong phú. Nếu thiếu quá khứ, ñời sống văn hóa chỉ gắn với hiện tại, quay lưng với chiều sâu văn hóa... ðó là sự phủ nhận văn hóa.
Trong một số trường hợp, tín ngưỡng tôn giáo ñược thay thế bằng ý thức hệ. Chủ nghĩa mác-xít ñược coi là tôn giáo không có Thượng ñế của con người, xây dựng trên trái ñất một “ngày mai tươi sáng” nhờ vào cuộc ñấu tranh của giai cấp cần lao. Từ ý thức hệ ñến tín ngưỡng chỉ có một bước chân. Như vậy, một cách nhìn về thế giới là một hệ thống cấu thành từ bốn yếu tố: các biểu hiện, các huyền thoại sáng thế, các biểu trưng ñịa lý và ký ức. Hệ thống này biểu hiện tầng cao của văn hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 19 -
– Không gian: Các nền văn hóa ñược xây dựng và ñịnh vị trong một không gian. Fernand BRAUDEL (1902–1985), nhà sử học người Pháp nổi tiếng với Lý thuyết hệ thống kinh tế-xã hội trên phạm vi thế giới, cho rằng văn hóa có một chỗ dựa ñịa lý. Khác với quyết ñịnh luận ñịa lý, nó có quan hệ biện chứng giữa môi trường và văn hóa. Môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn không cách ly lẫn nhau, mà tạo nên môi trường văn hóa và môi trường ñịa lý. Sự phân chia các nền văn hóa trong không gian tạo nên các vùng văn hóa. Vùng văn hóa ñược ñịnh nghĩa là một không gian tương ñối ñồng nhất, trong ñó có kết hợp một số ñặc trưng văn hóa chủ ñạo. Các vùng văn hóa không khép kín, mà có thể tiếp nhận, trao ñổi các ñặc trưng văn hóa với nhau. Có thể hình dung ba cấp ñộ cấu thành một hệ thống văn hóa là: vùng văn hóa, không gian sống và không gian văn hóa.
Không gian văn hóa tương ứng với một nền văn hóa riêng và một khu vực lãnh thổ riêng. Có thể phân biệt các ñịa ñiểm và cái nôi7 văn hóa, các khu vực, các vùng văn hóa và các thế giới văn hóa. Mỗi nền văn hóa và mỗi nền văn minh lớn ñều có một hoặc nhiều cái nôi văn hóa. Khu vực văn hóa còn là một xứ sở (gồm một phức hợp văn hóa và phạm vi lan tỏa của nó). Khi mở rộng một phức hợp văn hóa tương ứng với một không gian ñịa lý sẽ tạo nên khu vực văn hóa; khu vực văn hóa là một nền văn hóa với không gian của nó – ñó là tập hợp của một nhóm các vùng văn hóa có các biến thái chung hoặc cơ sở văn hóa giống nhau; thế giới văn hóa bao gồm nền văn minh và không gian - ñó là siêu văn hóa (métaculturel – cái vượt qua, cái bao gồm) và nguồn cội hoặc các bể chứa văn hóa như : các tôn giáo lớn, ý thức hệ, các trào lưu văn minh, ngôn ngữ, các cộng ñồng quốc tế như EU, OTAN, APEC... và các trục thế giới. CÁC ỨNG DỤNG VĂN HÓA – XÃ HỘI
Trong mấy thập niên gần ñây, văn hóa ñược sử dụng ngày càng nhiều trong ñời sống xã hội. Có khuynh hướng sử dụng từ văn hóa thay thế cho các từ khác như trí tuệ, tinh thần, truyền thống hoặc ý thức hệ. Văn hóa trở nên phổ biến trong từ vựng chính trị: văn hóa chính quyền, văn hóa giải trung ương hóa, hoặc rất thông dụng vì ở mỗi lĩnh vực xã hội ñều muốn có văn hóa của mình như văn hóa hip hop, văn hóa bóng ñá, văn hóa ñiện thoại... Từ văn hóa có khi biểu ñạt ý nghĩa tiêu cực như “văn hóa cái chết” do giáo hoàng Jean-Paul II sử dụng từ năm 1995 trước nạn phá thai; hoặc “văn hóa thù hận” của bộ trưởng Nội vụ Pháp năm 1998 ñể lên án nạn bạo ñộng của một số băng nhóm thanh niên ở ngoại ô. Các ñiển hình trên cho thấy xu hướng ngày càng cấp thiết ứng dụng các lý thuyết khoa học về văn hóa vào các hoạt ñộng của tư tưởng và ñời sống xã hội.
TƯƠNG TÁC VĂN HÓA Sapir hẳn là một trong những người ñầu tiên coi văn hóa như một hệ thống truyền thông giữa cá nhân với nhau. Theo ông, văn hóa là toàn thể các ý tưởng mà các cá thể của một nhóm lan truyền thông qua các tương tác.
ðến những năm 1950, ở Mỹ phát triển một khuynh hướng gọi là “nhân học truyền thông”, ñặc biệt xung quanh Gregory Bateson và trường phái Palo Alto. Truyền thông không ñược quan niệm là quan hệ truyền và nhận, mà theo mô thức dàn nhạc. Nói cách khác, ñó là kết quả của một tập hợp các cá thể họp nhau lại ñể cùng biểu diễn một bản nhạc vô hình, trong tình trạng tương tác bền vững, tham gia một cách liên ñới, song mỗi người theo cách của mình. Bản nhạc ấy là văn hóa, chỉ tồn tại nhờ cách chơi tương tác giữa các cá nhân.
Tiếp cận tương tác dẫn ñến ñặt lại vấn ñề giá trị thu hoạch của khái niệm “tiểu văn hóa”, hoặc ñúng hơn là phân biệt “văn hóa” và “tiểu văn hóa”. Trong xây dựng văn hóa, trước tiên là văn hóa nhóm, văn hóa ñịa phương, văn hóa liên kết các cá thể trong quan hệ tương tác trực tiếp giữa các cá thể này với các cá thể khác, mà không phải là văn hóa tổng quát của tập thể rộng hơn. Do vậy, ñối với tương tác văn hóa, khái niệm “tiểu văn hóa” theo cách nhìn của xã hội học rõ ràng là không thích hợp.
GIAO LƯU VĂN HÓA Từ giao lưu văn hóa có lẽ do nhà nhân học Mỹ J. W. Powell, sử dụng từ năm 1889 khi ñề cập ñến sự biến ñổi của lối sống và lối suy nghĩ của người di dân khi tiếp xúc với xã hội Mỹ. Tuy nhiên, phải ñợi ñến những năm 1930 mới có tư tưởng hệ thống về hiện tượng gặp gỡ giữa các nền văn hóa và có ñịnh nghĩa về mặt khái niệm.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 20 -
7 Foyers tạm dịch là ñiểm xuất phát, thuộc về nguồn gốc.
Năm 1936, Hội ñồng nghiên cứu khoa học xã hội Mỹ lập ra một ủy ban ñể tổ chức nghiên cứu các sự kiện giao lưu văn hóa, trong ñó có Robert Redfield, Ralph Linton và Medville Herskovits. Trong Bản ghi nhớ nghiên cứu về giao lưu văn hóa [1936] có nêu ra ñịnh nghĩa: Giao lưu văn hóa là toàn thể các hiện tượng do việc tiếp xúc liên tục và trực tiếp giữa các nhóm cá thể có văn hóa khác nhau, dẫn ñến những biến ñổi trong các mô thức văn hóa ban ñầu của một hoặc của hai nhóm này.
Giao lưu văn hóa khác với “biến ñổi văn hóa”, thường ñược dùng trong nhân học Anh. Biến ñổi văn hóa mới chỉ là một phương diện, vì có thể là do các nguyên nhân nội tại, khác với hiện tượng biến ñổi văn hóa do ngoại sinh, có thể không theo cùng quy luật.
Giao lưu văn hóa khác “ñồng hóa văn hóa”. ðó là giai ñoạn cuối và hiếm khi ñạt tới của giao lưu văn hóa, vì ñòi hỏi một nhóm phải biến mất hoàn toàn văn hóa gốc của mình và thu nhận toàn bộ văn hóa của nhóm thống trị.
Giao lưu văn hóa cũng không lẫn lộn với “truyền bá văn hóa”, vì truyền bá có thể không có tính liên tục và trực tiếp, và dù sao nó cũng chỉ là một phương diện của quá trình giao lưu văn hóa vốn phức tạp hơn nhiều.
Quá trình giao lưu văn hóa gồm có: các phương thức “chọn lọc” các yếu tố vay mượn hoặc “phản ứng” lại sự vay mượn; các hình thức hội nhập các yếu tố này vào mô thức văn hóa gốc; các cơ chế tâm lý tạo ñiều kiện dễ dàng hay không cho việc hội nhập văn hóa; và cuối cùng là các hậu quả chủ yếu của giao lưu văn hóa, bao gồm các phản ứng tiêu cực, ñôi lúc có thể xảy ra với các phong trào “chống lại giao lưu văn hóa”.
Tóm lại, giao lưu văn hóa là một hiện tượng ñộng, một quá trình ñang xảy ra hoặc ñang thực hiện. Trong các biến ñổi văn hóa của quá trình giao lưu văn hóa, có thể rút ra quy luật chung là các yếu tố không mang tính biểu trưng (kỹ thuật và vật chất) của một nền văn hóa biến chuyển dễ dàng hơn các yếu tố biểu trưng (tôn giáo, ý thức hệ, v.v.).
ðể giải thích sự phức tạp của quá trình giao lưu văn hóa, H. G. Barnett [1940] phân biệt hình thức biểu hiện, chức năng và ý nghĩa của các ñặc trưng văn hóa và nêu ra ba ñặc ñiểm phụ bổ sung: một, dạng thức càng “lạ” (xa cách với văn hóa tiếp nhận) thì càng khó tiếp nhận; hai, các dạng thức biến chuyển dễ hơn các chức năng8; ba, một ñặc trưng văn hóa dù dạng thức và chức năng như thế nào vẫn dễ ñược chấp nhận và hội nhập tốt hơn nếu mang ý nghĩa phù hợp với nền văn hóa tiếp nhận.
Khuôn khổ xã hội của giao lưu văn hóa. Nhà nhân học và xã hội học người Pháp Roger BASTIDE (1898–1974) cho rằng không thể nghiên cứu văn hóa ñộc lập với xã hội. Theo ông, hạn chế lớn nhất của học thuyết văn hóa Mỹ về giao lưu văn hóa là thiếu vắng mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội [1960]. Các quan hệ văn hóa phải ñược nghiên cứu trong các khuôn khổ khác nhau của quan hệ xã hội, gồm quan hệ hội nhập, tranh ñua, xung ñột, v.v.; các sự kiện hỗn hợp, pha trộn thậm chí ñồng hóa văn hóa cần phải ñặt lại trong khuôn khổ cấu trúc và giải cấu trúc xã hội của mình; mọi biến ñổi văn hóa ñều sinh ra các tác ñộng phụ ngoài dự kiến, không tránh khỏi ñược, dù các tác ñộng ấy không diễn ra cùng lúc.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 21 -
Bastide chống lại quan niệm của Lévi-Strauss về thuyết cấu trúc mà ông cho rằng quá “tĩnh”, quá tiêu cực trước các hiện tượng giải cấu trúc trong xã hội thuộc ñịa. Theo ông, văn hóa là một cấu tạo “ñồng bộ”, thường xuyên ñược xây dựng trong ba chuyển ñộng: cấu trúc, giải cấu trúc và tái cấu trúc. Giải cấu trúc có thể vừa là hậu quả gặp gỡ văn hóa, song vừa tác ñộng như là nguyên nhân của tái cấu trúc văn hóa, cho nên lẽ tất nhiên không thể coi là hiện tượng tiêu cực. 8 ðiều này trái với Malinowski, vì theo Barnett, các giả ñịnh tương ñương về chức năng ñược ñưa vào trong một nền văn hóa hiếm khi có thể thay thế một cách hữu hiệu các thiết chế cũ.
Nghiên cứu các sự kiện giao lưu văn hóa còn dẫn ñến việc xem xét lại khái niệm văn hóa. Văn hóa bao gồm một tổng thể năng ñộng, ít nhiều gắn bó và ñồng nhất. Việc xác ñịnh tính liên tục của một nền văn hóa thường phụ thuộc vào ý thức hệ nhiều hơn hiện thực. Tính ñứt quãng của văn hóa hẳn là phải tìm kiếm trong trật tự thời gian nhiều hơn không gian [theo “Nguyên tắc lát cắt” của Bastide, 1955].
Giao lưu văn hóa là ñề tài nghiên cứu chủ yếu và lâu ñời của nhân học. Song việc sử dụng phổ biến từ này ngày càng nghèo ñi về ý nghĩa. Một số tác giả ñưa ra khái niệm mới về các quan hệ liên văn hóa là “lai tạp văn hóa”. Lai tạp không chỉ về sinh học mà còn về văn hóa, thường sử dụng khá thời thượng trong truyền thông và quảng cáo, kể cả trong một số công trình ñể thay thế từ giao lưu văn hóa. Một số tác giả ñưa vào nội dung khái niệm riêng, coi lai tạp là một dạng pha trộn văn hóa ñặc biệt, trái với sự ñối lập giữa ñồng nhất/không ñồng nhất. Họ coi ñó là “con ñường thứ ba” giữa ñồng nhất tăng trưởng và ñỉnh ñiểm của các ñặc thù. Khác với hỗn hợp, lai tạp là một thành phần mà các yếu tố vẫn giữ ñược tính toàn vẹn của mình. Lai tạp mà không hợp nhất, ñối chiếu và ñối thoại ñể cố kết, nên không ngừng chuyển ñộng [François Laplantine, 1997; Alexis Nouss, 2001].
Ngoài ra, Édouard GLISSANT (1928–2011), nhà phê bình văn hóa và tư tưởng ở Martinique (Pháp), xuất phát từ sự hình thành các nền văn hóa hỗn hợp vùng biển Caribê, còn ñưa ra khái niệm “pha tạp ngôn ngữ” ñể chỉ ra quá trình văn hóa có tầm vóc xuyên quốc gia. “ðó là lai tạp văn hóa, nhưng có một kết quả tổng hợp vượt xa hơn và khó lường trước ñược” [1999].
VĂN HÓA THỐNG TRỊ VÀ BỊ TRỊ Trong một không gian xã hội ñược ñề cập luôn có một thứ bậc về văn hóa. Karl MARX và Max WEBER ñã không lầm khi xác ñịnh văn hóa của giai cấp thống trị luôn là văn hóa thống trị. Tất nhiên, nói như vậy không phải văn hóa của giai cấp thống trị ñược coi là có ưu thế nội tại, có sức lan truyền do tự bản chất, làm cho nó thống trị “tự nhiên” các văn hóa khác.
ðối với Marx cũng như Weber, sức mạnh của các nền văn hóa khác nhau khi ñối ñầu phụ thuộc trực tiếp vào sức mạnh xã hội của các nhóm làm bệ ñỡ cho chúng. Nói văn hóa thống trị hoặc văn hóa bị trị là lối nói ẩn dụ, vì trên thực tế chính các nhóm xã hội có các quan hệ thống trị và lệ thuộc lẫn nhau.
Một văn hóa bị trị không bắt buộc phải là văn hóa bị tha hóa, hoàn toàn phụ thuộc. Văn hóa trong quá trình tiến hóa của mình không thể không chú ý ñến văn hóa thống trị, nhưng vẫn có thể chống lại nhiều ít sự áp ñặt của văn hóa thống trị. Theo các nhà xã hội học Claude Grignon và Jean-Claude Passeron [1989], các quan hệ thống trị văn hóa không dẫn ñến việc nắm lấy các quan hệ thống trị xã hội, vì quan hệ giữa các biểu trưng không vận hành theo cùng lôgic với quan hệ giữa các nhóm hoặc các cá thể. Văn hóa thống trị không thể áp ñặt tuyệt ñối văn hóa bị trị như cách mà một nhóm có thể áp ñặt lên một nhóm khác yếu thế hơn VĂN HÓA BÌNH DÂN Các nhà phân tích văn học ñã quan tâm ñến khái niệm bình dân từ thế kỷ XIX, kế ñó các nhà folklore học mở rộng ra các truyền thống nông dân, về sau mới ñến các nhà nhân học và xã hội học ñề cập ñến lĩnh vực nghiên cứu này.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 22 -
Khái niệm văn hóa bình dân thường nhập nhằng về ngữ nghĩa, do tính ña nghĩa của hai từ cấu thành. Trong khoa học xã hội, hai luận ñề ñơn phương hoàn toàn ñối lập nhau thường tránh ñi song song. Văn hóa bình dân không ñược thừa nhận tự nó có tính năng ñộng hoặc sáng tạo, mà chỉ coi ñó là loại văn hóa phái sinh, nằm bên lề; là các bản sao kém cõi, ngày càng nghèo nàn của văn hóa thống trị vốn ñược thừa nhận là chính ñáng,
ñược coi là văn hóa trung tâm, văn hóa quy chiếu. Văn hóa bình dân chỉ có thể là biểu hiện tha hóa xã hội của các tầng lớp bình dân, bị mất quyền ñộc lập. Chỉ có văn hóa “thật” của tầng lớp tinh hoa xã hội. Văn hóa bình dân chỉ là thứ sản phẩm kém chất lượng, chưa hoàn thành.
ðối lập với quan niệm này, văn hóa bình dân ñược coi là bình ñẳng, ñích thực, hoàn toàn ñộc lập, thậm chí cao hơn so với văn hóa tinh hoa. ðối với ña số còn lại cho rằng văn hóa không thiết lập thứ bậc giữa bình dân và “bác học”. Văn hóa bình dân không hoàn toàn phụ thuộc, cũng như không hoàn toàn ñộc lập. Mọi nền văn hóa ñều lắp ghép các yếu tố gốc với các yếu tố du nhập, các yếu tố tự sáng tạo và vay mượn.
Michel de Certeau [1980] ñịnh nghĩa văn hóa bình dân là văn hóa “thông thường” của những người bình thường, tức là thứ văn hóa ñược tạo ra hàng ngày, trong các hoạt ñộng tầm thường, lặp ñi lặp lại mỗi ngày, mất tính sáng tạo. Cho nên, ñó chỉ là văn hóa “tiêu dùng”.
VĂN HÓA ðẠI CHÚNG Khái niệm “văn hóa ñại chúng” nổi lên từ những năm 1960. Một số nhà xã hội học như Edgar MORIN [1962] chủ yếu nhấn mạnh phương thức sản xuất của văn hóa này theo sơ ñồ sản xuất công nghiệp ñại chúng, ñặc biệt là sự phổ biến các phương tiện truyền thông ñại chúng dẫn ñến sự ñồng nhất văn hóa. Các phương tiện truyền thông ñại chúng phát triển ñi ñôi với việc ñưa vào các tiêu chuẩn năng suất, sinh lợi liên quan ñến sản xuất văn hóa. “Sản xuất” có xu hướng thay thế “sáng tạo” văn hóa. Các phương tiện thông tin ñại chúng bị coi là kéo theo sự tha hóa văn hóa, tiêu hủy mọi khả năng sáng tạo văn hóa của cá thể, vì không cách nào tránh ñược ảnh hưởng của truyền thông.
Khái niệm ñại chúng do vậy là không chuẩn xác, vì từ “ñại chúng” vừa thuộc về toàn thể dân chúng, vừa thuộc về thành phần dân chúng. Một mặt, có thể lẫn lộn giữa “văn hóa cho ñại chúng” và “văn hóa của ñại chúng”. Tất nhiên, thông tin ñại chúng là ñồng nhất, nhưng không vì thế mà ñồng nhất cách tiếp nhận thông tin của các cá thể. Mặt khác, thật sai lầm khi cho rằng giới bình dân dễ tiếp nhận thông tin ñại chúng nhất. Các nghiên cứu xã hội học cho thấy truyền thông ñại chúng ñến với tầng lớp trung lưu sâu sắc hơn tầng lớp bình dân.
Việc tiếp nhận thông tin không ñồng nhất mà phụ thuộc nhiều vào các ñặc ñiểm văn hóa của mỗi nhóm, cũng như hoàn cảnh mà mỗi nhóm lĩnh hội khi tiếp nhận. Nói cách khác, văn hóa ñại chúng dù ñược lan truyền trên phạm vi toàn cầu vẫn không dẫn ñến văn hóa toàn cầu. Toàn cầu hóa văn hóa là biểu hiện có tính thời sự của ngày nay mà không phải ngày mai. Nhân loại vẫn không ngừng sản sinh ra khác biệt về văn hóa. Toàn cầu hóa, nếu quả ñúng như vậy, chỉ là về thị trường tài sản, trao ñổi về kinh tế ñược gọi là “văn hóa”. Song ngay ở trình ñộ này, các nghiên cứu gần ñây cũng chứng minh là không dẫn ñến ñồng nhất về tiêu dùng [Warnier, 2003]. Toàn cầu hóa kích thích tạo nên bản sắc tập thể gốc, bằng cách tạo nên nhiều cơ hội trao ñổi và gặp gỡ hơn [Arjun Appadurai, 2001]. Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng hoàn toàn mới mẻ, vì từng có những quá trình khác tương tự. Cuộc chinh phục châu Mỹ là ñiểm xuất phát của toàn cầu hóa dẫn ñến hệ quả như ngày nay, vẫn không làm biến mất mọi khác biệt văn hóa và bản sắc.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 23 -
Theo Jean-Loup Amselle [2001], nỗi lo sợ ñồng nhất văn hóa mang trên mình nó ảo tưởng rằng trước ñây ñã từng có các nền văn hóa thuần túy, cô lập và khép kín. ðiều thực sự nguy hiểm không phải là ñồng nhất, vì “nếu toàn cầu hóa ngày nay bao gồm một nguy cơ, thì ñó chính là nguy cơ thu mình lại và khép kín về bản sắc”. VĂN HÓA GIAI CẤP
Sự không chuẩn xác và kém giá trị của khái niệm văn hóa ñại chúng, văn hóa thống trị và văn hóa bình dân càng làm rõ tính ñộc lập tương ñối về văn hóa của các tầng lớp dưới bị phụ thuộc. Các nhà nghiên cứu phải xem xét lại rõ hơn về quan niệm văn hóa (hoặc tiểu văn hóa) giai cấp, không dựa trên các suy diễn triết học theo truyền thống chủ nghĩa Mác, mà căn cứ vào các cuộc ñiều tra thực nghiệm.
Nhiều nghiên cứu cho thấy các hệ thống giá trị, kiểu cách ứng xử và các nguyên lý giáo dục thay ñổi rõ rệt từ giai cấp này ñến giai cấp khác. Các khác biệt văn hóa có thể quan sát ñược ngay trong các tập quán thông thường nhất hàng ngày. Chẳng hạn, Claude và Christiane Grignon ñã chỉ ra rằng các tầng lớp xã hội khác nhau tương ứng với các kiểu loại thực phẩm khác nhau. Dù ñi mua sắm cùng một siêu thị có thể cho cảm tưởng ñồng nhất về phương thức tiêu dùng, nhưng thực ra ñó còn là các lựa chọn tương phản. Lý do chính không hẳn là cách biệt về sức mua, mà gắn với thói quen và cái “gu” thị hiếu ít thay ñổi theo truyền thống của các giới xã hội khác nhau. Ở Pháp, khi chọn mua thịt, có loại thịt “trưởng giả” như cừu và bê, có loại thịt “bình dân” như heo, thỏ và xúc xích tươi. Cách thức chuẩn bị bếp núc cũng ñể lộ ra cái gu sở thích của giai cấp. Nói theo Claude và Christiane Grignon [1980], ăn uống cũng là phương cách cho thấy mình thuộc về một giai cấp xã hội riêng.
VĂN HÓA CHỦ TƯ BẢN Max WEBER (1864–1920), nhà kinh tế chính trị và xã hội học người ðức, với công trình nổi tiếng ðạo lý Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản [L’Éthique protestante et l’esprit du capitalisme, 1905] nêu lên các sự kiện văn hóa và các giai cấp xã hội. Ông cố tình chứng minh rằng, chỉ có thể hiểu ñược các ứng xử kinh tế của giai cấp chủ tư bản khi chú ý quan niệm của họ về thế giới và hệ thống các giá trị của họ. Sự xuất hiện ban ñầu của họ ở phương Tây không phải ngẫu nhiên, mà nhờ một loạt các biến ñổi văn hóa gắn với sự ra ñời của tôn giáo Tin Lành.
Trong công trình này, Max Weber không nghiên cứu nguồn gốc của chủ nghĩa tư bản theo nghĩa rộng nhất của từ này, mà về sự hình thành văn hóa ñược ông gọi là “tinh thần” của giai cấp mới chủ doanh nghiệp, góp phần tạo ra chủ nghĩa tư bản hiện ñại. Giai cấp ñóng vai trò quyết ñịnh phát triển chủ nghĩa tư bản hiện ñại không phải là ñại tư bản thương mại theo truyền thống, mà ñó là giới chủ tư bản trung lưu, “tầng lớp ñang lên, chủ yếu xuất thân từ các chủ doanh nghiệp” hồi ñầu kỷ nguyên công nghiệp.
Chính giới tư bản trung lưu cùng với hệ thống giá trị của chủ nghĩa tư bản hiện ñại ñã góp phần hiệu quả nhất cho sự truyền bá của mình. ðặc ñiểm của tầng lớp trung lưu, theo ngôn từ của Max Weber, là “lối sống”, “nếp sống”, nói cách khác là một văn hóa riêng, dựa trên tập tính mới là “lối sống thế tục khổ hạnh”, ñoạn tuyệt với các nguyên tắc truyền thống. Tôn giáo Tin Lành ñã tạo ra môi trường văn hóa thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển, bằng cách phổ biến các giá trị khổ hạnh ñược thế tục hóa.
Tập tính tư bản bao gồm ñạo lý về ý thức nghề nghiệp và giá trị lao ñộng như là hoạt ñộng có mục ñích tự thân. Lao ñộng không chỉ là phương tiện ñể kiếm sống. Lao ñộng còn làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Thông qua lao ñộng “tự do” nhờ cơ chế tiền lương, con người hiện ñại thực hiện với tư cách là người tự do và có trách nhiệm.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 24 -
Nếu lao ñộng trở thành giá trị trung tâm của nếp sống mới, ñòi hỏi con người dành hết năng lực và thời gian của mình cho lao ñộng, thì ñiều ñó không chỉ nhằm mục ñích tìm cách làm giàu cho cá nhân. Làm giàu như mục ñích tự thân không phải là ñặc ñiểm của tinh thần chủ nghĩa tư bản hiện ñại. Ngược lại, cái ñược tìm kiếm chính là lợi nhuận và tích tụ tư bản. ðiều này ñòi hỏi về phía cá nhân một dạng “khổ hạnh”, ý tứ và dè dặt, khác xa với lôgic tiêu xài hoang phí và phô trương theo truyền thống. Cá nhân phải sử dụng lợi nhuận của mình theo cách có ích cho xã hội, tức là chuyển sang ñầu tư. ðạo
ñức thế tục mới ñược thừa nhận là ý thức tiết kiệm, tiết chế và nỗ lực. ðó mới là cơ sở kỷ cương của các xã hội công nghiệp.
VĂN HÓA CÔNG NHÂN Ở Pháp, nghiên cứu văn hóa giai cấp chủ yếu là văn hóa công nhân. Các công trình của nhà triết học và xã hội học Maurice HALBWACHS (1877–1945), ñặc biệt trong luận án Giai cấp công nhân và mức sống [La classe ouvrière et les niveaux de vie, 1913], ñã mở ñường phân tích văn hóa công nhân. Theo ông, nhu cầu cá nhân hướng ñến các hoạt ñộng văn hóa do quan hệ sản xuất quyết ñịnh. Sau khi phân tích cấu trúc một loạt ngân quỹ gia ñình công nhân, ông thiết lập mối liên hệ giữa bản chất lao ñộng công nhân và các hình thức tiêu dùng của công nhân.
Richard HOGGART (1918), nhà nghiên cứu văn hóa, văn học và xã hội người Anh, vốn xuất thân từ công nhân, ñã cho ra ñời tác phẩm kinh ñiển Văn hóa người nghèo, nghiên cứu lối sống của giai cấp bình dân ở Anh [1957]. Ông mô tả dân tộc học ñến từng chi tiết riêng tư nhất trong ñời sống hàng ngày, làm nổi bật các ñặc ñiểm luôn mang tính thời sự của văn hóa công nhân, mặc dù kể từ ñầu thế kỷ XX các ñiều kiện vật chất về ñời sống của công nhân ñã có những thay ñổi quan trọng cùng với sự phát triển của truyền thông ñại chúng.
Ngày nay hầu như không còn các cộng ñồng công nhân ñúng nghĩa, tập hợp trong cùng một khu phố, phát triển mạnh mẽ quan hệ láng giềng và thỉnh thoảng họp nhau lại trong các dịp lễ hội tập thể ñều ñặn. ðặc thù văn hóa công nhân trong ngôn ngữ, trang phục, nhà ở, v.v. ít thấy, nhưng không biến mất. Việc “tư nhân hóa” lối sống công nhân rõ ràng ñã làm tăng thêm không gian gia ñình. Mặc dù vậy, theo Olivier Schwartz, quá trình này không có nghĩa làm suy yếu các không gian xã hội, nhờ các không gian riêng tư của công nhân ñược tổ chức theo các chuẩn mực riêng.
VĂN HÓA BẢN SẮC Quan niệm bản sắc văn hóa có ñặc ñiểm ña nghĩa và lỏng lẻo. Từ những năm 1950, các nhóm nghiên cứu tâm lý xã hội ñặt ra khái niệm bản sắc văn hóa. Họ muốn có công cụ phù hợp ñể giải quyết các vấn ñề hội nhập của di dân. Quan niệm này tiếp cận bản sắc văn hóa ñể xác ñịnh hạnh kiểm của các cá thể và ít nhiều có tính bất biến. Về sau, cách tiếp cận này bị lỗi thời vì có quan niệm năng ñộng hơn, không coi bản sắc ñộc lập với bối cảnh các quan hệ.
Ở thời kỳ ñầu, bản sắc văn hóa thuộc về vấn ñề rộng lớn hơn của bản sắc xã hội. ðối với ngành tâm lý xã hội, bản sắc là công cụ phản chiếu rõ rệt về tâm lý và xã hội của cá thể. Bản sắc biểu hiện kết quả tổng hợp các tương tác khác nhau giữa cá thể và môi trường xã hội của mình, vừa gần gũi vừa xa lạ. Bản sắc xã hội của cá thể có ñặc trưng là toàn thể cái gì thuộc về mình trong hệ thống xã hội: giới tính, lứa tuổi, xã hội, quốc gia, v.v.
Bản sắc cho phép cá thể nhận ra mình trong hệ thống xã hội và bản thân nó ñược nhận trở lại về mặt xã hội. Song bản sắc xã hội không chỉ liên quan ñến cá nhân. Bản sắc xã hội vừa bao gồm vừa loại trừ: nó vừa ñồng nhất hóa một nhóm (là thành viên nhóm khi họ giống nhau trong một quan hệ nào ñó) vừa làm cho nhóm ñó khác với các nhóm khác (các thành viên khác với nhóm kia trong cùng một quan hệ).
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 25 -
Ngày nay, bản sắc là vấn ñề của văn hóa. Người ta muốn thấy văn hóa ở khắp nơi, ñồng thời muốn có bản sắc cho mọi người. Khủng hoảng văn hóa là khủng hoảng về bản sắc. Phải chăng cần ñặt lại vấn ñề phát triển bản sắc trong khuôn khổ mô hình Nhà nước yếu ñi, do mở rộng hội nhập chính trị siêu quốc gia và toàn cầu hóa về kinh tế? Thực ra, mốt bản sắc gần ñây là kéo dài hiện tượng ủng hộ sự khác biệt xuất hiện từ những năm 1970, là sự kiện ảnh hưởng khác biệt về ý thức hệ, thậm chí ñối nghịch
nhau. Một mặt người ta ñề cao xã hội ña văn hóa, mặt khác quan niệm “mỗi người có chỗ của mình ñể vẫn là chính mình”. Văn hóa phần lớn thuộc về quá trình vô thức; trong khi bản sắc thuộc về một chuẩn mực phụ thuộc, cần có ý thức, vì dựa vào các mâu thuẫn mang tính biểu trưng.
Từ quan niệm khách quan/chủ quan ñến khái niệm quan hệ/hoàn cảnh của bản sắc. Văn hóa ñược coi là “thiên nhiên thứ hai”, cho nên bản sắc là cái vốn có và không thể xóa bỏ ñược. Cội nguồn là cơ sở của mọi bản sắc văn hóa. Nói cách khác, bản sắc là cái có trước, nên cá thể phải bám chặt vào, nếu không muốn ở bên lề hoặc “mất gốc”. Bản sắc ñược quan niệm là di sản sinh học thuộc gien di truyền [Van den Berghe, 1981], là ñiều kiện nội tại của cá thể, dựa trên tình cảm thuộc về, mang tính bẩm sinh, ổn ñịnh.
Một tiếp cận khác thuộc về di sản văn hóa quan niệm cá thể gắn với tính xã hội trong nhóm văn hóa của mình, thu nhận các mô thức văn hóa và tự nhận mình thuộc về một nhóm gốc. Bản sắc cũng là cái có trước, bất biến. Bản sắc văn hóa – tộc người là cái chủ yếu, cái thuộc về ñầu tiên và cơ bản nhất của xã hội, vì ñó là các quan hệ dựa trên phả hệ chung [Geertz, 1963].
Các quan niệm trên ñược coi là “khách quan”, vì dựa trên nguồn gốc chung (di truyền, phả hệ), có cùng ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, tâm lý cộng ñồng (“nhân cách cơ bản”), lãnh thổ chung, v.v. Trái lại, quan niệm chủ quan coi bản sắc văn hóa không thuộc tính tĩnh, bất biến hoặc chỉ ñược tiếp nhận một lần. Bản sắc văn hóa – tộc người không phải cái gì khác hơn là tình cảm thuộc về, hoặc ñồng nhất với một cộng ñồng, ít nhiều do trí tưởng tượng. Bản sắc phải là các biểu hiện mà cá nhân tạo ra từ thực tiễn xã hội, do cá nhân lựa chọn tự do. Cách tiếp cận chủ quan ñáng chú ý ở tính biến ñổi của bản sắc, song chỉ ở mức ñộ thoáng qua, trong khi không hiếm trường hợp bản sắc tương ñối ổn ñịnh.
Do cách tiếp cận bản sắc thuần túy khách quan hoặc chủ quan ñều lâm vào bế tắc, nên người ta ñặt nó vào bối cảnh quan hệ ñể giải thích tại sao bản sắc ñược xác lập hoặc bị ñẩy lùi ở một thời ñiểm nào ñó. Fredrik BARTH [1969] là người tiên phong quan niệm bản sắc là biểu hiện của quan hệ khi ñối chiếu nhóm này với các nhóm khác. Bản sắc luôn ñặt trong hoàn cảnh quan hệ với người khác. Bản sắc ñi ñôi với khác biệt, nên có thể quan niệm bản sắc là quá trình “ñồng nhất hóa” [Gallissot, 1987]. Còn theo Simon [1999], bản sắc là quá trình ñiều ñình, thỏa hiệp giữa bản sắc “tự có” (auto- identité) với bản sắc “khác” (hétéro-identité) hoặc bản sắc “ngoại lai” (exo-identité).
Ngoài ra, bản sắc còn ñược coi là cuộc ñấu tranh xã hội về “thứ hạng”9, tùy thuộc vào vị trí, ảnh hưởng quyền lực trong hệ thống các quan hệ liên kết giữa các nhóm với nhau. Bản sắc còn là công việc chính trị của Nhà nước hiện ñại. Ý thức hệ quốc gia hay bản sắc dân tộc có khuynh hướng loại trừ các khác biệt văn hóa, làm cho các Nhà nước hiện ñại có quan niệm tỏ ra cứng nhắc hơn so với các xã hội truyền thống, có khi gây nên phản ứng trong các cộng ñồng dân tộc thiểu số.
Do vậy, ngày nay người ta còn ñề cập ñến bản sắc “ña chiều”, vì mỗi cá thể ý thức bản sắc thay ñổi theo khuôn khổ, vị trí của nhóm tham chiếu trong một hoàn cảnh quan hệ nào ñó, ngay cả khi hai cực tham chiếu của bản sắc ñặt ở cùng trình ñộ. Bản sắc chỉ là tương ñối vì có thể biến ñổi, hoặc ñó là công cụ, phương tiện ñể ñạt mục ñích, nên tùy hoàn cảnh xã hội mà có các chiến lược bản sắc linh hoạt. Bản sắc là một cấu trúc xã hội, không ngừng chuyển ñộng: tự cấu trúc, tự giải cấu trúc và tự tái cấu trúc tùy theo hoàn cảnh. Do vậy, bản sắc luôn là hệ quả của quá trình ñồng nhất hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 26 -
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ 9 Theo giải thích của Pierre Bourdieu trong bài báo ñược xếp vào loại kinh ñiển “L’identité et la représentation” [1980].
Khái niệm văn hóa chính trị ñặt ra ñể các nhà nghiên cứu tìm hiểu chiều cạnh văn hóa trong chính trị, chẳng hạn vấn ñề tính phổ quát về “quyền làm người” [Abou, 1992]. Khái niệm này ra ñời trong bối cảnh các nước thuộc ñịa giành ñược ñộc lập. Các Nhà nước mới trong thế giới thứ ba hình thành cho thấy việc ñưa vào các thiết chế dân chủ không ñủ bảo ñảm vận hành dân chủ. Nhà xã hội học tự hỏi về các cơ sở văn hóa của nền dân chủ.
Mọi hệ thống chính trị xuất hiện ñều gắn với một hệ thống các giá trị và các biểu hiện – nói khác ñi là văn hóa, về các ñặc ñiểm của một xã hội. Khái niệm văn hóa chính trị lúc ñầu gần giống như khái niệm “tính cách quốc gia” xuất hiện trước ñó. Thành công của khái niệm văn hóa chính trị là nhờ ñịnh hướng so sánh. Chẳng hạn, hiểu ñược cái gì là thuận lợi hoặc cản trở việc vận dụng thiết chế hiện ñại một cách hiệu quả; phân tích so sánh ñể thấy rằng chính trị không tồn tại theo cách phổ quát.
Hai nhà nghiên cứu Mỹ, Gabriel ALMOND và Sidney VERBA [1963] ñã so sánh năm nước (Mỹ, Anh, ðức, Ý và Mêhicô), bắt ñầu từ việc phân tích các hình thức ứng xử chính trị khác nhau. Họ lập bảng phân loại các văn hóa và các cấu trúc chính trị có chức năng phù hợp: văn hóa “xóm ñạo”, tập trung vào các lợi ích ñịa phương, tương ứng với cấu trúc chính trị truyền thống và giải trung ương hóa; văn hóa “lệ thuộc”, duy trì tính thụ ñộng ở cá thể, tương ứng với cấu trúc dựa trên quyền lực; và cuối cùng là văn hóa “tham dự” ñi ñôi với cấu trúc dân chủ. Cả ba mô thức văn hóa nói trên có thể cùng tồn tại, nhưng tùy theo mô hình thống trị thích ứng nhiều hay ít, và cấu trúc vận hành có thể giải thích hệ thống chính trị ñáp ứng mức ñộ nào, ñặc biệt là các thiết chế dân chủ.
Ngành nhân học chính trị phát triển dẫn ñến việc xem xét lại tư tưởng khác nhau của các nhà chính trị trong mỗi xã hội. Các quan niệm về quyền lực, luật pháp, trật tự khác nhau một cách sâu sắc, vì ñược xác lập trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống văn hóa. Khi tìm hiểu ý nghĩa các hoạt ñộng chính trị trong một xã hội, không tránh khỏi tham chiếu toàn thể hệ thống các ý nghĩa thuộc về văn hóa của xã hội ñó.
VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ Khái niệm văn hóa doanh nghiệp xuất hiện ñầu tiên ở Mỹ từ những năm 1970, nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố nhân văn trong sản xuất. Cú sốc về “tinh thần” và khó khăn trong quan hệ do hệ quả từ việc hợp nhất, tập trung các xí nghiệp xảy ra trước thời kỳ tăng trưởng kinh tế, khiến người ta nghĩ ñến những khái niệm mới ñể vận hành doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp không phải là một khái niệm ñể phân tích, mà ñể hợp thức hóa tổ chức lao ñộng trong mỗi xí nghiệp. Việc sử dụng khái niệm này giúp giới chủ doanh nghiệp một phương tiện chiến lược ñể ñạt ñến sự ñồng tâm, thái ñộ trung thành và hiệu quả của người lao ñộng gắn với các mục tiêu của doanh nghiệp. Nói cách khác, chấp nhận làm việc là chấp nhận văn hóa doanh nghiệp.
Tuy nhiên, quan niệm về văn hóa theo nghĩa hẹp của dân tộc học gây ra nhiều tranh cãi, vì ñó là một thế giới khép kín, hầu như không thay ñổi, tạo nên vẻ bề ngoài của một tập thể ñồng nhất về thái ñộ và cách thức ứng xử của cá nhân, trong các phạm vi giới hạn. Văn hóa doanh nghiệp ñòi hỏi các thành viên chấp nhận hệ thống các biểu hiện và các giá trị của tổ chức.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 27 -
ðối với các nhà xã hội học, họ không cần ñến khái niệm “văn hóa doanh nghiệp” mà ñề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn ñề văn hóa trong xí nghiệp. Họ phân tích về một thế giới văn hóa không ñồng nhất giữa các loại lao ñộng khác nhau, giống như bên ngoài xã hội. Người lao ñộng ñưa vào doanh nghiệp văn hóa nghề nghiệp, văn hóa giai cấp (văn hóa công nhân), về cơ bản không phụ thuộc doanh nghiệp nào. Văn hóa doanh
nghiệp không tồn tại ngoài các cá thể của doanh nghiệp. Nó không có trước, mà ñược xây dựng trong quan hệ tương tác lẫn nhau.
Renaud Sainsaulieu [1977] chứng minh rằng có thể xác ñịnh các sơ ñồ ứng xử văn hóa khác nhau cùng tồn tại và ñan xen trong cùng một doanh nghiệp, tùy theo loại nghề nghiệp – xã hội có trình ñộ chuyên môn cao thấp. Michel de Certeau [1980] mô tả thực tiễn “làm lén” trong doanh nghiệp. Hiện tượng làm lén chỉ xảy ra khi có sự thông ñồng với các thành viên khác của nhóm, tức là chỉ khi nào văn hóa chung gắn các thành viên cùng nhóm lại với nhau. Cho nên, theo ông, làm lén là một biểu hiện văn hóa của nhóm. Văn hóa doanh nghiệp hình thành không hẳn từ các quyết ñịnh ñộc ñoán, mà nhờ phức hợp tương tác giữa các nhóm, các yếu tố xã hội cấu thành doanh nghiệp. ðể ñịnh nghĩa văn hóa doanh nghiệp, phải bắt ñầu từ các tiểu văn hóa của nhóm là các bộ phận của doanh nghiệp. Các tiểu văn hóa này bảo ñảm công việc vận hành hàng ngày, nhịp ñộ lao ñộng, quan hệ lao ñộng, nghĩ ra các giải pháp kỹ thuật cho sản xuất của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp nằm ở giao ñiểm của các tiểu văn hóa hiện diện trong doanh nghiệp. Các tiểu văn hóa này không nhất thiết phải hòa hợp với nhau, vì không thể không có va chạm khi tiếp xúc lẫn nhau.
Mặt khác, nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp không thể ñộc lập với môi trường xung quanh. Doanh nghiệp càng hiện ñại, càng phụ thuộc vào môi trường, cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện xã hội và văn hóa. Nói cách khác, văn hóa doanh nghiệp không thể thu hẹp một cách giản ñơn là văn hóa tổ chức. Bằng nghiên cứu so sánh, có thể chứng minh các doanh nghiệp như nhau, xây dựng ở các nước khác nhau, ñược vận hành theo các hệ thống văn hóa khác nhau. VĂN HÓA DI DÂN VÀ VĂN HÓA GỐC “Văn hóa di dân” xuất hiện ở Pháp vào những năm 1970. Theo Abdelmalek Sayad [1978], người ta quan tâm các ñiều kiện hội nhập, các hậu quả khác biệt văn hóa, trong ñó văn hóa của người nhập cư nói chung có bị ñồng hóa theo cách loại trừ văn hóa gốc hay không?
Thực ra, văn hóa không phải là hành lý mang theo khi di chuyển. Khái niệm văn hóa gốc còn có những bất tiện khác, vì khó nhận ra “nguồn gốc” nào? quốc gia, vùng, ñịa phương, dân tộc, xã hội? Có thể chỉ ra văn hóa của nhóm gốc mà người di dân thuộc về trước khi di dân. Hơn nữa, các cấu trúc xã hội và gia ñình của nhóm gốc di dân xuất phát từ một nước còn cho phép giải thích các khác biệt về cách thức hội nhập và giao lưu văn hóa trong xã hội tiếp nhận.
Văn hóa không phải là cái “vốn có” (donné) mà là cái “ñang là” (construit). Việc di truyền văn hóa không phụ thuộc vào tính di truyền, cũng không thuộc về “di sản” truyền từ ñời này sang ñời khác. Văn hóa luôn ñược tạo thành và tiến triển trong các quan hệ với bối cảnh xã hội xung quanh và các biến ñổi của nó.
Theo Dominique Schnapper [1974], những người di dân gốc Ý ở Pháp và ở Mỹ phát triển rất khác nhau. Mỹ là nơi tồn tại mô hình ña văn hóa, chấp nhận một loại “liên bang văn hóa”, nên người nhập cư gốc Ý phát triển rất sống ñộng, với những khu phố “tiểu Ý” trong các không gian ñô thị. Ngược lại, Pháp là nơi theo mô hình “tập trung văn hóa” nhằm ñồng hóa người nước ngoài nhập cư, nên người di dân gốc Ý phải chấp nhận các phương thức ứng xử xã hội trong phạm vi công như người Pháp; cho nên, họ phải tập trung trong phạm vi riêng của gia ñình ñể cố gắng duy trì truyền thống Ý, tất nhiên không tránh khỏi một số biến ñổi.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 28 -
Các di dân không gắn bó với các tập quán văn hóa truyền thống như nhau. Tuy nhiên, thế nào là “văn hóa truyền thống”? Văn hóa truyền thống không tồn tại tự thân. Chúng chỉ tồn tại trong quan hệ với một trật tự xã hội nào ñó làm cơ sở cho các quan hệ
xã hội và hình thành các quan hệ xã hội mà chúng biểu hiện. Trong khi ñó, các cá thể lại không có cùng ñịa vị trong các quan hệ xã hội này, nên không thể có cùng lợi ích ñể duy trì truyền thống. Một truyền thống chỉ có ý nghĩa trong một bối cảnh xã hội riêng. Nếu bối cảnh ấy thay ñổi và giả như người ta bất chấp vẫn cố gắng duy trì truyền thống cũ, thì lúc ñó không tránh khỏi việc giải thích lại truyền thống theo bối cảnh mới. Nếu bối cảnh không còn như trước nữa, thì chức năng của truyền thống cũng không thể như cũ ñược.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 29 -
Tuy nhiên, cũng giống như các dân tộc lưu tán và khái niệm văn hóa dân tộc lưu tán, cái tạo ra mối liên hệ ñoàn kết bên trong và bên ngoài của các nhóm khác nhau cấu thành dân tộc lưu tán là ý thức chung về bản sắc thuộc về bản chất tộc người; họ tham gia các biểu hiện của cộng ñồng lưu tán, vì qua ñó sẽ tạo ra thực thể cùng chia sẻ một lịch sử và cùng một văn hóa. Cho nên, không thể có dân tộc lưu tán nếu như không có một ký ức cộng ñồng không ngừng ñược khích lệ [Denys CUCHE, 2004]. Nếu vậy, phải chăng văn hóa di dân và khái niệm văn hóa gốc cũng tồn tại ý thức về một bản sắc dân tộc trong các cộng ñồng, với các ñặc trưng văn hóa và lịch sử. Dân tộc trong trường hợp này không chỉ là một thực thể trong ký ức hoặc trên danh nghĩa, mà còn ñược thúc ñẩy mạnh mẽ bởi các hoạt ñộng cộng ñồng tồn tại sống ñộng trên thực tế.
CHƯƠNG 2 Văn hóa ñô thị như một ngành khoa học
VĂN HÓA ðÔ THỊ
Từ ñầu thế kỷ XX, nhiều công trình nghiên cứu về ñô thị xuất hiện. Cho ñến thời kỳ này, trong khi các nhà không tưởng vẫn loay hoay tìm kiếm một mô hình ñô thị thích hợp, tạo nên môi trường sống tiện ích cho con người, thì một số các nhà khoa học chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa sinh học, công trình Nguồn gốc các loài [1859] của Charles DARWIN ñã bắt ñầu vận dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, về nguồn gốc của xã hội loài người (Morgan, Engels), về sự phát triển của kỹ thuật qua các thời ñại văn minh, về các hình thái phát triển của ñô thị trong lịch sử… ði ñầu là các nhà khoa học chịu ảnh hưởng của trường phái mác-xít.
Bên cạnh ñó, trong thời kỳ này còn có một loạt các công trình khác nghiên cứu về ñô thị, ñáng kể nhất là sự xuất hiện trường phái xã hội học ñô thị Chicago ở Mỹ vào những năm 1920 và 1930; trong khi ngành ñịa lý cũng hướng vào các lĩnh vực nghiên cứu về môi trường sinh thái và nhân văn như Paul Vidal de La Blache.
Patrick GEDDES (1854-1932), nhà tư tưởng xã hội và quy hoạch ñô thị người Scotland, với công trình Thành thị ñang tiến hóa [Cities in Evolution, 1915:46]. Theo ông, tiến hóa ñô thị vẫn chỉ bắt ñầu và tồn tại ở các thành thị chưa từng ñược xây dựng lại. Geddes là người ñầu tiên nêu ra ý tưởng ñô thị liên hợp (conurbations) trước các hiện tượng phát triển công nghiệp và ñô thị ở Anh. Geddes có thể ñược coi là người ñầu tiên ñặt nền móng xây dựng ngành học. Công trình của Geddes ñã ñể lại nhiều ảnh hưởng ñối với Lewis Mumford sau này.
Lewis MUMFORD (1895-1990) có lẽ và cần ñược tôn vinh là cha ñẻ của ngành học Văn hóa ñô thị. Mumford xuất bản công trình Văn hóa ñô thị (The Culture of Cities, 1938) cùng với một loạt hàng chục công trình ñồ sộ khác có liên quan về ñô thị như Kỹ thuật và văn minh (Technics and Civilization, 1934), Thành thị trong lịch sử (The City in History, 1961, giải thưởng sách quốc gia), Kỹ thuật và Phát triển Nhân văn (Technics and Human Development, 1967), v.v.
Lewis Mumford (1895-1990)
Bên cạnh ñó, nhiều tác giả uy tín nước ngoài còn có những công trình lớn về lịch sử ñô thị, coi ñô thị như là một hệ thống thế giới, phát triển theo các quy luật tất yếu của xã hội loài người như Pierre GEORGE (1909-2006), nhà ñịa lý nhân văn người Pháp, với hàng loạt công trình trong nửa cuối thế kỷ XX, trong ñó có Thành thị, sự kiện ñô thị khắp thế giới [La Ville, le fait urbain à travers le monde, 1952], v.v.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 30 -
Tuy nhiên, văn hóa ñô thị trên thế giới vẫn chưa ñược coi là một ngành học, mặc dù có nhiều ngành học khác nhau ngày càng quan tâm nghiên cứu ñô thị. ðầu tiên là các nhà sáng lập xã hội học thuộc trường phái Chicago tỏ ra nhạy cảm ñối với lĩnh vực văn hóa trong các quan hệ xã hội. Họ chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ, chú ý ñặc biệt vấn ñề di dân ñầu thế kỷ XX; nghiên cứu các “cộng ñồng” ñô thị những năm 1930. Gần ñây, trong các ngành khoa học xã hội truyền thống, ñã xuất hiện các chuyên ngành ñô thị như xã hội học ñô thị, nhân học ñô thị, ñịa lý học ñô thị và bước ñầu ñã xuất hiện ngành ñô thị học. Riêng ñối với ngành ñịa lý, do khuynh hướng gắn với các
hoạt ñộng và chú ý ñến tác ñộng của con người trong môi trường sinh thái tự nhiên, khoa học ñịa lý ngày càng ñi vào khía cạnh nhân văn, với các nhà ñịa lý tên tuổi. Gần ñây, ở Pháp ñã xuất hiện chuyên ngành ðịa văn hóa, do cố giáo sư Joël Bonnemaison khởi xướng, song ñô thị vẫn chưa phải là trọng tâm chính.
Trong lĩnh vực nghiên cứu, nhóm “Văn hóa ñô thị” của Jean Frébault bắt ñầu hoạt ñộng từ năm 1986 ở Pháp, chủ yếu nghiên cứu các hệ thống xã hội và giá trị văn hóa ñô thị mang tính thị dân, tại không gian công là các khu phố yếu kém về cơ sở trang bị nằm ở phía ðông thành phố Lyon. Nhóm này do sở quy hoạch ñô thị thành phố Lyon thành lập, dưới sự chủ trì của các viện nghiên cứu xã hội học và dân tộc học (IRESE), viện nghiên cứu thế giới Ả Rập hiện ñại (IRMAC) và hội nghiên cứu và tham gia hoạt ñộng xã hội học và dân tộc học (ARIESE).
Theo quan ñiểm của Isaac Joseph, thành viên chủ lực của nhóm, “Văn hóa ñô thị là biểu hiện cần khẳng ñịnh lại bền bỉ trong bối cảnh mới về các phẩm chất gắn với nguồn gốc, ñiều kiện xã hội hoặc ñịa ñiểm cư trú”10; ñến lượt mình, “Việc phân tích các hệ thống xã hội ñô thị, làm rõ ñược trình ñộ văn hóa ñô thị, có thể mang lại các yếu tố ñể hiểu biết hơn về ñô thị sau này như lối sống (số ít hoặc số nhiều)”.
Ngoài ra, ở một số nơi như Viện ðịa lý thuộc ðại học Sorbonne-Paris 4 cũng thành lập nhóm nghiên cứu “văn hóa ñô thị”. Song các lĩnh vực nghiên cứu còn rất giới hạn, chủ yếu ñề cập vấn ñề hội nhập văn hóa của di dân hoặc một số hoạt ñộng văn hóa ở ñô thị. Như vậy, việc nghiên cứu các phương diện văn hóa và phát triển văn hóa trong môi trường ñời sống ñô thị vẫn là một ngành học còn rất mới mẻ.
VĂN HÓA VÀ MÔI TRƯỜNG SỐNG ðÔ THỊ Văn hóa ñô thị là một từ ghép giữa hai khái niệm trừu tượng. Nếu văn hóa ñược khái quát là quá trình tạo lập nên môi trường sống của con người, thì ñô thị không phải gì khác hơn là môi trường sống, nơi con người phát triển các mối quan hệ ngày càng cân bằng hơn ñối với môi trường tự nhiên và xã hội. Nói cách nào ñó, nếu văn hóa biểu hiện ước muốn duy lý về sự thăng hoa của con người, thì ñô thị chính là nơi thể hiện, cụ thể hóa các mong ước ấy. ðó không phải là sự thỏa mãn tại chỗ, tức thì, lập tức, mà trải qua thời gian lâu dài, với không ít thăng trầm từ các mầm mống hình thành ñô thị phôi thai ñến trưởng thành qua các thời kỳ hoàng kim, kể cả không hiếm khi bị lụi tàn. ðô thị giống như một cơ thể sống, trong ñó ñường sá là huyết mạch nuôi sống các bộ phận của cơ thể. Như vậy, ñô thị và văn hóa ñều là quá trình xây dựng môi trường sống, trước hết nhằm thỏa mãn các nhu cầu ñời sống vật chất và tinh thần của con người.
ðể xây dựng môi trường sống, ñô thị cũng có quá trình giống như văn hóa, ñược gọi là quá trình ñô thị hóa hoặc thời gian văn hóa ñô thị. Trải qua các thời kỳ, tùy theo sự phát triển các nhu cầu ngày càng phong phú, mà ñô thị biến ñổi khác nhau về hình thái ở bề ngoài và về chức năng ở bên trong. ðô thị vừa là thực thể vừa là khái niệm, không chỉ ñịnh cụ thể một ñô thị nào, mà trở thành giá trị hoặc phạm trù trừu tượng giống như văn hóa. Tuy nhiên, khác với các giá trị văn hóa tương ñối ổn ñịnh, ít biến ñổi, ñô thị luôn bao hàm tính ñộng, luôn chuyển biến. Do vậy, ñô thị là một thành tố văn hóa gắn với sự phát triển, khá tương ñồng với văn minh11. Mặt khác, ngay như các thành tố văn
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 31 -
10 Nguyên văn: “les cultures urbaines sont l’expression d’une redéfinition constante dans de nouvelles configurations des qualifications, qu’elles soient liées à l’orgine, à la condition sociale, ou à l’assignation résidentielle” – Groupes sociaux et cultures d’agglomération, Cultures Urbaines, 12/1986, tr. 6-7. 11 Từ “văn minh” hoặc “có văn minh” ñược dùng từ thế kỷ XVI, nhưng thuật ngữ “văn minh” với ý nghĩa trạng thái “chuyển sang văn minh” chỉ mới xuất hiện năm 1756 trong công trình Người bạn của loài người hoặc Luận cương về dân số của nhà kinh tế Mirabeau. Theo ñịnh nghĩa cổ ñiển, văn minh liên quan
hóa của ñô thị cũng không phải là các yếu tố bất di bất dịch, mà ñó là các giá trị chuyển dịch, biến thiên trong không gian và thời gian, do tác ñộng của ñô thị. Người ta không mang nếp sống nhàn nhã, linh hoạt, trọng tình ở nông thôn vào ñô thị, song không phải vì vậy mà người năng ñộng sống ở ñô thị không thích hưởng nhàn, ứng xử cứng nhắc theo các quy tắc hoặc chỉ biết lý lẽ.
ðô thị là sản phẩm của văn hóa, là thành quả sáng tạo ra môi trường sống của xã hội loài người, nên còn ñược gọi là “thiên nhiên thứ hai”. ðô thị không hẳn là nơi xuất phát ñầu tiên của văn hóa, song ñó là cái nôi sáng tạo các phương diện ñời sống văn minh vật chất và tinh thần. ðô thị không hẳn là không gian phi sản xuất, vì sản xuất không ñơn thuần là làm ra sản phẩm chỉ bằng sức lao ñộng của mình. Sản xuất theo nghĩa văn hóa còn là sáng tạo, quan trọng hơn về kinh tế chính là hoạt ñộng ñầu tư tư bản hoặc khai thác biến thành lợi nhuận. Cũng vậy, ñô thị không chỉ là nơi có mật ñộ dân số cao, là các ñiểm dân cư phân bố trên ñịa bàn, mà bản thân dân số, dân cư cũng là một chức năng, phải vận ñộng theo quy luật chi phối của ñô thị. ðô thị, do ñó là tập ñại thành các hoạt ñộng xây dựng môi trường sống ngày càng phong phú và tiến bộ của xã hội loài người.
VĂN HÓA ðÔ THỊ VÀ VĂN MINH ðÔ THỊ ðô thị sáng tạo ra các giá trị văn hóa, sản sinh ra nhiều thành tố văn hóa. Song các tài sản văn hóa không phải là của riêng ñể chiêm ngưỡng qua các thời ñại như các sản phẩm nghệ thuật hoặc thuộc về sở hữu, ñặc quyền dành riêng của tầng lớp tinh hoa. Các thành quả văn hóa ñô thị là của chung, dành cho mọi tầng lớp cư dân hưởng dụng. Tuy nhiên, có xu hướng bảo thủ ñối lập nông thôn với thành thị, ñẩy lên thành sự mâu thuẫn, ñấu tranh giai cấp giữa các thành phần nông dân, công nhân với các bộ phận trung gian như nhà tư bản, trí thức, thương nhân; và phải ñợi ñến thời kỳ phát triển nền văn minh công nghiệp, ñô thị mới thực sự trở thành môi trường sống của số ñông.
ðô thị ñi với văn hóa là một cặp ñôi, giống như văn hóa và văn minh. ðô thị không phải là sản phẩm của nền văn minh vật chất kỹ thuật; không là phần phụ thêm vào ñể chỉ ñịnh nơi cư trú hoặc là không gian ñịa lý “ở thành thị” của văn hóa. ðô thị cũng không ñồng nhất với tính văn hóa của ñô thị (urbanity) hoặc các hoạt ñộng văn hóa ở ñô thị. ðô thị trở thành biểu hiện, thuộc tính của văn hóa. Yếu tố ñô thị làm cho văn hóa gần gũi hơn, thiết thực hơn với ñời sống thực tiễn. Ngược lại, yếu tố văn hóa làm cho ñô thị mang tính nhân văn, có bề dày của quá trình tăng trưởng, xây dựng môi trường sống. (Tiến bộ) = Tăng trưởng (Xây dựng môi trường sống) Văn hóa – Văn minh = Phát triển Văn hóa – ðô thị
Sự khác nhau giữa tăng trưởng và phát triển phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa văn hóa ñô thị và văn minh ñô thị. Văn hóa ñô thị ñòi hỏi quá trình lâu dài, gắn quá khứ với hiện tại, truyền thống với hiện ñại ñể môi trường sống tăng trưởng bền vững; ngược lại văn minh ñòi hỏi sự ñổi mới, thích ứng ñể hòa nhập với tiến bộ.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 32 -
Văn hóa ñô thị, do ñó, là một tập hợp gồm toàn thể các thành tố văn hóa của loài người trong quá trình hoạt ñộng về mọi phương diện: kinh tế, chính trị, kỹ thuật, xã hội, luật pháp, giáo dục, y tế, vệ sinh, tín ngưỡng, tôn giáo, học thuyết, khoa học, công nghệ, ñến sự phán ñoán giá trị, khác với trạng thái hoang dã hoặc ngược lại với dã man; còn theo nghĩa hiện ñại, “văn minh” gần như ñồng nghĩa với “văn hóa”. Theo Claude Strauss, văn minh là “tập hợp các phong tục, tín ngưỡng, thiết chế như nghệ thuật, luật pháp, tôn giáo, các kỹ thuật của ñời sống vật chất, tóm lại là tất cả các tập quán và năng lực do con người ñạt ñược với tư cách là thành viên của xã hội”. ðối với Samuel Huntington, người ñưa ra quan niệm “Cú sốc của các nền văn minh” (1993), văn minh là “hình thái cao nhất của tái tập hợp và trình ñộ cao nhất của bản sắc văn hóa mà con người cần có ñể phân biệt với các loài khác”. Văn minh có ñặc trưng là “vừa do các yếu tố khách quan như ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, phong tục và các thiết chế, vừa do các yếu tố chủ quan là tự mình xác ñịnh bản sắc (auto-identification”).
quy hoạch… nhằm tạo lập ñời sống, không ngừng cải thiện môi trường sống và làm cho con người phát triển cân bằng, toàn diện.
Văn hóa ñô thị tổng hòa các giá trị văn hóa truyền thống với các tiến bộ văn minh của thời ñại, nhằm ñáp ứng các nhu cầu ñời sống vật chất và tinh thần của mọi thành phần cư dân. Văn hóa ñô thị phát triển các mối quan hệ giữa người và người, trong tương quan lợi ích cá nhân, cộng ñồng và xã hội ngày càng ña dạng, rộng lớn. Tính ña dạng của văn hóa ñô thị ñòi hỏi sự tương ứng về hình thức, quy mô và tính chất hoạt ñộng của các công trình văn hóa ñô thị, kể cả các hoạt ñộng kinh tế gắn với các nhu cầu của kinh tế thị trường. Các nhân tố văn hóa, trang bị văn hóa, tính chất văn hóa quy ñịnh các hoạt ñộng của văn hóa ñô thị.
VĂN HÓA ðÔ THỊ VÀ VĂN HÓA NÔNG THÔN Xuất phát từ ñặc ñiểm các thành phần dân cư không thuần nhất trong quá trình ñô thị hóa, cùng với các nhu cầu ngày càng cao của ñời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục... ñòi hỏi văn hóa ñô thị phải tái cấu trúc không gian, quy hoạch các công trình ñô thị phù hợp với các chức năng riêng biệt, ñể kiến tạo môi trường sống mới ngày càng phong phú.
Trong khi ñó, văn hóa nông thôn là bộ phận cấu thành của văn hóa ñô thị, góp phần hình thành và phát triển văn hóa ñô thị, ñặc biệt quan trọng nhất là nhân tố con người trong các hoạt ñộng tương tác nhằm tạo lập ra môi trường sống. Quá trình ñô thị hóa có thể diễn ra ở nông thôn (rurbanisation) hoặc ở các vùng ngoại vi (periurbanisation). Song quá trình ñô thị hóa không triệt tiêu văn hóa nông thôn, mà có thể diễn ra quá trình nông thôn hóa ñô thị, trong các quan hệ tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, bảo tồn các giá trị thuộc về bản sắc văn hóa, di sản văn hóa, nếp sống văn hóa, vì hơn bất cứ giống loài nào khác con người có ký ức, có xúc cảm thẩm mỹ và có tri thức. Nông thôn trong quá trình ñô thị hóa vẫn là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu. Ngoài ra, ñó còn là khu vực cảnh quan, khung cảnh sống, kể cả môi trường sống của ñô thị. Văn hóa nông thôn thuộc phạm trù lịch sử, trong chừng mực nào ñó là bộ phận truyền thống, biểu hiện bản sắc và thuộc về di sản văn hóa ñô thị. Mặc dù vậy, văn hóa ñô thị khác về chất so với các hoạt ñộng văn hóa ở nông thôn. Trong khi văn hóa nông thôn chủ yếu gắn với ñất ñai nông nghiệp, phụ thuộc tự nhiên, mang tập tính cộng ñồng và tương ñối khép kín, thì văn hóa ñô thị gắn với các công trình trang bị nhân tạo, mang tập tính xã hội gồm nhiều nhóm cộng ñồng, nhằm thỏa mãn từng mặt các nhu cầu ñời sống vật chất và tinh thần của cư dân.
Văn hóa ñô thị ở trình ñộ cao hơn, bao quát hơn, rộng mở hơn so với văn hóa nông thôn. Nông thôn và ñô thị không mâu thuẫn hoặc ñối lập nhau căn cứ trên sự khác biệt mang tính quyết ñịnh luận về hình thái xã hội hoặc phương thức sản xuất kinh tế. Xã hội phát triển biến ñộng với nhiều giới, tầng lớp, thành phần; kinh tế có vai trò quan trọng, song ñó chỉ là một mặt biểu hiện của ñời sống vật chất, là một trong các sự kiện của ñời sống văn hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 33 -
Các nền văn minh lớn trong lịch sử ñều không tách rời thành thị. Nhà dân số học Nathan Keyfitz [1996] cho rằng: ở nông thôn khó nhận ra sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội. Phát minh nông nghiệp ñã tạo tiền ñề hình thành các ñô thị nông nghiệp. ðô thị nông nghiệp ñã hình thành và phát triển trên nền tảng sản xuất nông nghiệp. Nếu văn minh nông nghiệp, ñô thị nông nghiệp không dành riêng cho nông dân, thì văn minh công nghiệp, ñô thị công nghiệp cũng không hẳn thuộc về công nhân. VĂN HÓA ðÔ THỊ TRÊN THẾ GIỚI
Các nền văn minh nói chung và các hình thái ñô thị nói riêng phát triển gắn với văn hóa ñô thị, làm cho ñô thị mang tính tổng hòa (totalité), tổng thể (globalité), trong các tương quan với thời gian và không gian của các chủ thể phát triển văn hóa.
Trên phạm vi thế giới, văn hóa ñô thị chỉ ñược nói ñến nhiều khi quá trình ñô thị hóa bắt ñầu ñi vào chiều sâu, khi môi trường ñô thị, không gian ñô thị, chủ thể ñô thị ñều nhắm ñến mục tiêu cải thiện chất lượng sống của cư dân hơn là chỉ quan tâm phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng của ñô thị. Ở Tây Âu, ñó là thời kỳ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, kể từ giữa thế kỷ XX, tức là mới chỉ năm sáu thập kỷ gần ñây.
- Hình: Tháp Babel TK VII BC (theo Cựu Ước), 90m x 90m.
- Hình: Tháp Babel thế kỷ XXI: ở Bujg Dubai (các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất), 160 tầng, 700m cao nhất thế giới.
Hình: Vạn Lý Trường Thành dài 6.352 km của Trung Quốc, xây dựng dưới thời nhà Minh, từ cuối thế kỷ XIV ñến ñầu thế kỷ XVII, ñể chống lại người Mông Cổ, người Thổ và các nhóm bộ tộc du mục khác ñến từ các vùng thuộc Mông Cổ và Mãn Châu hiện nay. Một số ñoạn tường thành xây dựng từ thế kỷ thứ III TCN; phần nổi tiếng nhất của Vạn Lý Trường Thành xây từ năm 220 TCN và 200 TCN, dưới thời hoàng ñế Tần Thủy Hoàng , nằm ở phía bắc xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành xây dưới thời nhà Minh, và hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
Ở các nước công nghiệp mới (NICs), quá trình ñô thị hóa ñược kết hợp theo chiều rộng và chiều sâu, nhờ ñó tạo nên các bước phát triển thần kỳ theo kiểu “ñi tắt ñón ñầu” rất tiêu biểu. Có thể kể ñến là các ñô thị Thượng Hải, Hồng Kông, Kuala Lumpur hoặc ở các nước Hàn Quốc, Singapore, ñặc biệt là Trung Quốc...
Ngày nay, văn hóa ñô thị ở các nước phát triển trên thế giới là các sự kiện văn hóa ñược tổ chức ở ñô thị, với nhiều chương trình liên hoan, hoạt ñộng nghệ thuật ña dạng, phong phú. Thành phố Créteil (Pháp) hàng năm phối hợp với Bộ Văn hóa tổ chức Liên hoan quốc tế ñô thị trong ba ngày vào tuần lễ thứ ba tháng Chín, nhằm chia sẻ với số ñông nghệ sĩ các thực tiễn, sự tiến hóa và phát triển mong ñợi của các ñô thị, nơi có gần 8/10 người Pháp sinh sống. Liên hoan tổ chức nhiều cuộc biểu diễn nghệ thuật, văn hóa và thể thao ở nhiều ñịa ñiểm trong ñô thị, tạo nên “quảng trường công” làm không gian trao ñổi và thảo luận, triển lãm và thông tin, ñặt dưới sự cổ ñộng của Hội ñồng quốc gia các ñô thị, có sự cộng tác của các hiệp hội và các nhóm dân chúng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 34 -
Từ năm 1996, tại thành phố Villette diễn ra các cuộc gặp gỡ hàng năm về văn hóa ñô thị trong các lĩnh vực sân khấu, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình và khiêu vũ. ðiểm nhấn ñáng chú ý của sự kiện này nhằm phản ánh vùng ngoại ô như là “trung tâm thực nghiệm của tương lai”. Vùng ngoại ô không phải là nơi khép kín về lãnh thổ hoặc các thủ tục, mà là nơi thực hành ñổi mới nghệ thuật qua các phương thức sản xuất, ngôn ngữ và các tác ñộng. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VĂN HÓA ðÔ THỊ
Phương pháp nghiên cứu văn hóa ñô thị dựa trên các cơ sở lý thuyết chung về văn hóa. ðó là các thành tựu khoa học kể từ thế kỷ XIX của các học thuyết về tiến hóa văn hóa của Morgan và Darwin; về phức hợp văn hóa của Edward B.Tylor (Văn hóa nguyên thủy, 1871), về các nhu cầu và chức năng của Bronislav Malinowski (mỗi thiết chế ñáp ứng một nhu cầu riêng biệt12), về xã hội của Emile Durkheim, về yếu tố vật chất kỹ thuật trong văn hóa của André Leroi-Gourhan, về văn hóa ứng xử cá nhân và ứng xử xã hội của Sapir... Phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa ñô thị vận dụng lý thuyết tương quan ñể có thể nhận biết thấu ñáo các tiến trình tương tác và chuyển biến của sự kiện ñô thị trong các phạm vi không gian và thời gian.
LÝ THUYẾT TƯƠNG QUAN Mọi sự vật, hiện tượng dù tồn tại ở mọi trạng thái ñều ñã trải qua một quá trình tương tác trong không gian và biến chuyển theo thời gian. Không hiếm trường hợp người ta chỉ nhìn thấy tương quan ñồng ñại mà không thừa nhận tương quan lịch ñại, chỉ biết quả mà không cần biết nhân (feed-back), hoặc chỉ ñể ý tương quan gần, bên trong mà bỏ qua tương quan xa, bên ngoài là các nguồn gốc, xuất xứ.
Các tương quan diễn ra khách quan theo quy luật vận ñộng hoặc tiến hóa, luôn song hành với các yếu tố chủ quan thể hiện lòng ham muốn và khả năng tác ñộng của con người. Các yếu tố khách quan xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài, thường ñược coi là ngoài ý muốn, hoặc biện bạch là do tác ñộng, chi phối của ngoại cảnh khi con người tỏ ra bất lực, không thể thích ứng ñược với hoàn cảnh, còn gọi là nghịch cảnh.
Tương quan ngoài và tương quan trong là một trong muôn vàn cặp ñôi biểu hiện nguyên lý hai mặt của một hiện tượng, sự vật hoặc sự kiện trong tiến trình vận ñộng. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, hoặc theo cảm tính chỉ chấp nhận mặt này mà không chấp nhận mặt kia. Sự tương phản không hẳn là thể hiện hai gam màu tối sáng, mà cấu thành bộ phận theo quy luật vận ñộng, ñòi hỏi tương tác và biến chuyển, là ñộng lực tiến bộ và phát triển giống như tương quan giữa văn hóa và văn minh, nông thôn và thành thị, ngoại vi và trung tâm trong văn hóa ñô thị.
* NGUYÊN LÝ ðỘNG – TĨNH Trong sự kết hợp giữa văn hóa và ñô thị, trạng thái tĩnh của văn hóa tạo nên các giá trị tương ñối ổn ñịnh trong một không gian nhất ñịnh, song không vì thế mà các giá trị văn hóa trở nên bất biến, bất di dịch. Ngược lại, trạng thái ñộng là bản chất của hiện tượng ñô thị, làm cho ñô thị không ngừng biến ñổi về hình thái và chức năng trong quá trình ñô thị hóa. Quá trình biến chuyển làm cho văn hóa ñô thị vừa mang hiệu ứng “tích cực” (tăng trưởng dân số) vừa tạo ra những hệ quả “tiêu cực” (kinh tế suy thoái, ñô thị suy sụp).
Vận dụng nguyên lý ñộng – tĩnh trong nghiên cứu văn hóa ñô thị: • Về thời gian: quá trình ñô thị hóa diễn biến mang tính liên tục và xuyên suốt. ðây là cơ sở tham chiếu của thời gian văn hóa ñô thị. Quá trình ñô thị hóa không chỉ diễn ra trong nền văn minh công nghiệp, mà có thể và cần ñi ngược thời gian kể từ khi thành thị xuất hiện trên thế giới cho ñến nay. ðó là các ñô thị nông nghiệp của nền văn minh nông nghiệp (lưu vực các dòng sông), ñô thị thương nghiệp gắn với các thời kỳ phát triển thương nghiệp, ñặc biệt là sự phát triển hệ thống giao thông ñường bộ (con ñường tơ lụa) hoặc ñường biển (cảng thị).
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 35 -
• Về không gian: ñô thị là không gian sống. ðó không chỉ là các ñịa ñiểm tập trung dân cư ở thành thị, khác với nông thôn, thuộc về chức năng cư trú ñơn thuần, mà là ñiểm gặp gỡ, giao tiếp trong các quan hệ ña dạng của xã hội loài người, làm cho 12 Dẫn theo Jean Caune, Culture et Communication, convergences théoriques et lieux de médiation, La Commnunication en plus, Presses universitaires de Grenoble, 1995, tr. 23.
thành thị trong quá trình hình thành và phát triển của mình tập trung nhiều chức năng khác nhau. Thành thị là trung tâm phòng thủ (thành, chức năng quân sự), trung tâm hành chính (ñô, chức năng hành chính) hoặc trung tâm trao ñổi thương mại (thị, chức năng kinh tế), bên cạnh các hình thái ñáp ứng các nhu cầu khác nhau như trung tâm hành hương (chức năng tôn giáo), trung tâm khai mỏ, công nghiệp, du lịch, v.v.
Bên cạnh ñó, trong bất kỳ thời ñại nào, nông thôn luôn là bộ phận không tách rời của thành thị. Nói cách khác, thành thị sẽ không tồn tại và phát triển nếu không có “hậu phương” nông thôn là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, nguồn cung ứng nhân lực và nguồn dự trữ về ñất ñai, tài nguyên khoáng sản. Trong quá trình ñô thị hóa, nông thôn có nhiều biến chuyển, chủ yếu do sự thay ñổi về hình thái cư trú, về phương thức lao ñộng kiếm sống... thực chất là sự biến ñộng về môi trường sống của các bộ phận dân cư, tạo nên cuộc cách mạng ñô thị, làm cho ñô thị và quá trình ñô thị hóa trở thành quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người.
• Về chủ thể: con người vừa là tác nhân sáng tạo văn hóa, cả về phương diện vật chất và tinh thần, vừa là ñối tượng tiêu thụ văn hóa, ñồng thời vừa là sản phẩm văn hóa. ðó là ba bộ phận tạo nên các tầng lớp, ñẳng cấp, nhu cầu, lợi ích khác nhau, với các hoạt ñộng ña dạng trong ñời sống chính trị, kinh tế, xã hội và... văn hóa của thế giới loài người, kể cả không hiếm khi xảy ra mâu thuẫn, ñối lập nhau giữa các chủ thể văn hóa trong môi trường ñô thị. Bản thân con người cũng luôn thích ứng ñể tự ñổi mới chính mình và phát triển hài hòa trong môi trường ñô thị. Lý thuyết ñộng – tĩnh ñược vận dụng trong quá trình ñô thị hóa theo hai nguyên tắc: chuyển tiếp và quan hệ.
QUAN HỆ Kiến tạo / Giao thoa Phát triển (văn minh) Biến ñổi / Tương tác Tăng trưởng (văn hóa)
Chức năng (fonctions) Hình thái (formes) Nhu cầu (besoins)
Không gian văn hóa Chủ thể văn hóa 1. Nguyên tắc chuyển tiếp (về văn hóa) Các nền văn minh kế tục nhau, có tác ñộng chuyển hóa sâu sắc, tạo nên các thời kỳ phát triển khác nhau trong thời gian văn hóa ñô thị; các tác ñộng của quá trình ñô thị hóa làm chuyển hóa môi trường sống về hình thái, chức năng, kể cả nhu cầu con người trong không gian ñô thị. Thời gian văn hóa
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 36 -
2. Nguyên tắc quan hệ (về văn minh) – Quan hệ giao thoa (interference): các thành tố văn hóa có tác ñộng tương hỗ và chuyển hóa lẫn nhau trong môi trường tự nhiên và xã hội. Chẳng hạn, yếu tố lãnh thổ gắn với một cộng ñồng cụ thể; hoặc quá trình toàn cầu hóa không xóa bỏ các ranh giới lãnh thổ thuộc phạm vi quốc gia, dân tộc. – Quan hệ kiến tạo: ñòi hỏi phát triển môi trường sống theo các tiêu chí văn minh, phát triển bền vững. – Quan hệ phát triển: làm cho các nhu cầu ñời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng ña dạng, phong phú.
Các nguyên tắc kể trên dẫn ñến hệ quả tất yếu của quá trình vận ñộng, biến ñổi, tương tác lẫn nhau, tăng trưởng và phát triển của văn hóa và văn minh ñô thị.
* NGUYÊN LÝ ðẦY – RỖNG Hiện tượng ñầy trong không gian ñô thị bao gồm các công trình xây dựng nhà ở, tòa nhà, tường thành, cầu cống, bến cảng... ðầy không phải là dày ñặc về mật ñộ hoặc ngập ứ về công suất, mà ñòi hỏi phải có ñộ rỗng nhất ñịnh, theo yêu cầu về kích cỡ một cách cân ñối, hợp lý. Rỗng, do ñó, là không gian trung gian gồm có ñường phố, công trường, công viên, ñường cao tốc, bãi ñậu xe, khu ñất trống... là các bộ phận cần thiết ñể diễn ra các hoạt ñộng ñô thị. Rỗng không có nghĩa là “trống”, theo nghĩa là không gian bỏ không hoặc không sử dụng, không có công dụng. Các phạm vi, khoảng cách của không gian “rỗng” ñược quy ñịnh chặt chẽ trong môi trường ñô thị, ñặc biệt là trong thiết kế kiến trúc về khoảng lùi của chiều cao công trình so với ñường sá, trong xây dựng về cự ly khoảng cách của các công trình.
Mặt khác, hiện tượng “ñầy” trong quá trình ñô thị hóa còn làm ñô thị bị tràn ngập, dân số phình lên... ñòi hỏi mở rộng không gian ra vùng ngoại vi, ñô thị hóa nông thôn hoặc thành lập các ñô thị vệ tinh. ðại ñô thị ở các nước phát triển do mở rộng không gian, khác với hiện tượng ñô thị “to ñầu” ở các nước ñang phát triển do tập trung dân số, ñặt ra yêu cầu phát triển không gian ñô thị hài hòa, vừa ñầy vừa rỗng, theo một quy hoạch hợp lý.
Ngoài ra, trong phạm vi không gian ñô thị, về mặt ñịa lý, có thể vận dụng nhiều cặp ñôi khác như ñịa hình và ñịa lợi (site/situation), hoặc ñịa ñiểm và nơi chốn (lieu/non- lieu), v.v.
– ðịa ñiểm là không gian thu nhỏ, nơi có bề dày lịch sử và bản sắc, nhờ ñó con người phát triển các quan hệ xã hội và ñồng nhất vào không gian. ðịa ñiểm cũng là ñiều kiện giao tiếp của con người trong một phạm vi không gian; khác với nơi chốn là những nơi thiếu các ñặc trưng trên, như: sân bay, nhà ga, bệnh viện, ñiểm cư trú mới...
– Cũng vậy, khác với ñịa hình thuần túy tự nhiên, ñịa lợi là ñiều kiện thuận lợi của tự nhiên, ñược con người lựa chọn ñể phát triển các phương diện hoạt ñộng, xây dựng môi trường sống của mình.
ðỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ðối tượng nghiên cứu của văn hóa ñô thị là toàn bộ các phương diện hoạt ñộng ñời sống vật chất và tinh thần do con người tạo lập trong quá trình ñô thị hóa. ðó là quá trình thiết lập các quan hệ tương tác với:
– Môi trường tự nhiên, gồm có: thế giới vật chất của vạn vật; thế giới phàm của sinh vật tự nhiên (con người tự nhiên); thế giới thiêng ñối với người chết; thế giới nhân hóa của thần linh và thế giới nhân bản của con người, trong quan hệ ứng xử tổng hòa với tự nhiên.
– Môi trường kỹ thuật, gồm có: kỹ thuật chế tác, từ nghề thủ công thô sơ ñến tinh xảo và sản xuất theo quy trình, công nghệ hiện ñại của con người sáng tạo (homo sapiens - homo faber); phát triển các công trình tiện ích, giao thông, quy hoạch ñô thị theo các phân khu chức năng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 37 -
– Môi trường nhân văn, gồm có: môi trường sống giữa người và người trong các cộng ñồng xã hội theo huyết thống, nghề nghiệp, tôn giáo, dân tộc, quốc gia...; các hoạt ñộng dịch vụ, tiện ích, ñáp ứng các nhu cầu ñời sống (con người tiêu dùng); và các hoạt ñộng trong quan hệ ứng xử tương tác với tự nhiên (biến cải môi trường sống) và xã hội (cải thiện ñời sống vật chất và tinh thần). MẤY QUAN ðIỂM VẬN DỤNG
Văn hóa ñô thị nghiên cứu các phương diện ñời sống và các hoạt ñộng của con người trong quá trình ñô thị hóa, với nhiều biến chuyển trải qua các thời kỳ khác nhau (thời gian văn hóa ñô thị), trong mối quan hệ tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội (không gian văn hóa ñô thị), gồm có:
– Các thành tố văn hóa (khía cạnh xã hội) là các thành tựu của xã hội loài người thuộc về ñời sống vật chất (cơ sở kỹ thuật hạ tầng, nhà ở, ñường sá, công trình...) và ñời sống tinh thần (luật pháp, giáo dục, chính trị, xã hội, văn học...); – Các hoạt ñộng tương tác (khía cạnh nhân văn) làm chuyển hóa môi trường tự nhiên và xã hội, làm biến ñổi môi trường sống.
Cụ thể, có thể tóm lược mấy quan ñiểm chủ yếu sau về các phạm vi nghiên cứu: 1. ðô thị trong văn hóa ñô thị không phải là các nơi chốn cố ñịnh (non-lieu) ở thành thị, mà ñó là một thực thể chuyển hóa do các quan hệ tập hợp, vận ñộng và phát triển. Ngày nay, ñô thị không ñứng riêng rẽ mà trở thành hệ thống thế giới, biểu trưng các giá trị của thời ñại trong quá trình toàn cầu hóa. 2. ðô thị hóa là quá trình tất yếu của nhân loại, trong ñó thành thị ñóng vai trò trung tâm thông tin, nguồn lực ñổi mới, ñộng lực phát triển. 3. Quá trình hình thành và phát triển ñô thị có thể phân biệt ñã trải qua hai thời kỳ hoặc hai mô thức văn hóa chủ yếu:
– Ở nông thôn (ứng xử với môi trường tự nhiên của các cộng ñồng làng xã); – Ở thành thị (ứng xử với môi trường tự nhiên, xã hội và nhân văn của các cộng ñồng ñô thị).
4. Quá trình ñô thị hóa ngày càng thu hẹp khoảng cách không gian giữa nông thôn và thành thị. Trong quá trình này, con người dần dần ñược giải phóng khỏi lệ thuộc “tự nhiên”; khung cảnh tự nhiên trở thành một bộ phận của môi trường văn hóa ñô thị. 5. Văn hóa nông thôn là một bộ phận của văn hóa ñô thị:
– Văn hóa nông thôn là bộ phận truyền thống thuộc về di sản văn hóa ñô thị; – Văn hóa ñô thị vừa là thành quả vừa là mục tiêu của quá trình ñô thị hóa. 6. Các thành tố văn hóa ñô thị không ñịnh vị tại chỗ, rời rạc, giới hạn trong các hiện tượng ñô thị hoặc xã hội ñô thị, mà luôn biểu hiện tính ñộng, gắn với yêu cầu phát triển. Văn hóa ñô thị là một phức hợp, kết hợp sự vận ñộng của:
– Thời gian văn hóa ñô thị ⇒ quá trình - ở các thời kỳ khác nhau; – Không gian văn hóa ñô thị ⇒ quan hệ tương tác - ở khắp các vùng miền, lãnh thổ, tương ứng theo các chức năng;
– Chủ thể văn hóa ñô thị ⇒ hoạt ñộng - thể hiện ở cách thức ứng xử theo các tiêu chí văn minh, nhằm cải thiện ñời sống, xây dựng môi trường sống.
7. Văn hóa ñô thị hội nhập với văn minh ñô thị về mặt tính chất và trình ñộ theo kiểu “hòa nhập mà không hòa tan” với các yêu cầu phát triển của thời ñại. Yếu tố văn minh trong văn hóa ñô thị ñòi hỏi ñô thị phải luôn vận ñộng, chuyển hóa qua các thời kỳ phát triển; yếu tố văn hóa trong văn minh ñô thị ñòi hỏi không phát triển “nóng”, bất chấp mọi giá hoặc chỉ thiên về kinh tế, chỉ tiêu lợi nhuận, mà bảo ñảm tăng trưởng hài hòa, bền vững, bảo tồn bản sắc, bề dày truyền thống của các chủ thể văn hóa ñô thị.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 38 -
MẤY PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN * PHƯƠNG PHÁP CẤU TRÚC HỆ THỐNG Hệ thống là một phức hợp gồm nhiều yếu tố khác nhau kết hợp lại dựa trên các quan hệ; các yếu tố ñược coi là các tiểu hệ thống. Do vậy, hệ thống là một phức hợp các tiểu hệ thống.
Sự tiến hóa của hệ thống do các biến ñổi từ bên trong hệ thống ảnh hưởng ñến các yếu tố; do các biến ñổi trong quan hệ liên kết giữa các bộ phận khác nhau của hệ thống; và do các tương tác giữa hệ thống và môi trường bên ngoài. Người ta gọi ñó là các biến ñổi ñịnh tính làm thay ñổi hệ thống. Ngược lại, các biến thiên về mặt ñịnh lượng không làm thay ñổi cấu trúc tập hợp của tiểu hệ thống, tức là không làm thay ñổi cấu trúc các quan hệ thuộc về hệ thống13.
Các nhà ñịa lý Pháp phân biệt giữa hệ thống (réseau) và mạng lưới (armature). Từ một ñiểm (point) hoặc nhiều ñiểm cấu thành mắt (maillage) có thể kết hợp thành tuyến (ligne), cụm, quầng (auréole), tạo nên một hệ thống. Hệ thống có thể cho một nhóm người, hệ thống cho mọi người, hệ thống cho mọi người và các hệ thống cho mọi người.
Hệ thống ñô thị gồm toàn thể các ñô thị trong không gian phân bố ñô thị của một vùng lãnh thổ hoặc quốc gia. Các ñô thị không cùng kích cỡ hoặc chức năng, cũng không có tương quan về vị trí hoặc xếp loại theo thứ bậc. Một hệ thống ñô thị có thể tập hợp nhiều vùng ảnh hưởng, trong ñó chính ñô thị trung tâm tạo nên các mạng lưới của hệ thống, khác với hệ thống ñược phân chia theo các ñịa hạt hành chính.
Ở các nước XHCN, hệ thống ñô thị ñược hình thành dựa trên cơ sở tạo ra sự trùng khớp giữa các dịch vụ với các ñịa hạt hành chính. Tuy nhiên, các giới hạn về lãnh thổ hành chính không phải là rào chắn vô hình ñối với các hoạt ñộng thương mại hoặc các dịch vụ y tế. Trong một hệ thống ñô thị, không phải các thành thị chi phối lẫn nhau, mà chính các tiểu hệ thống như các quan hệ thương mại, khoảng cách di chuyển, thứ bậc trang bị cơ sở khác nhau... ñóng vai trò chủ yếu [Beaujeu-Garnier, 1995:301-304].
Mạng lưới bao gồm các phạm trù lớn hơn, dùng ñể duy trì, bảo vệ thuộc về chức năng, tổ chức, trách nhiệm. Mạng lưới có các chức năng phối hợp và phát triển kinh tế (Dematteis, 1977). Cả hệ thống ñô thị và mạng lưới ñô thị ñều không có thứ bậc, mà ñó là các ñô thị khác nhau tạo nên khái niệm phức hợp.
Theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, ñô thị có 4 yếu tố cơ bản tạo nên phức hợp của hệ thống gồm có: lao ñộng, tư bản, chính sách và ứng xử của các cá nhân có liên quan. Trong khi ñó, nhà ñịa lý học người Mỹ Steiss [1974] tập hợp thành 5 tiểu hệ thống: xã hội, kinh tế, chính trị, ứng xử và vật chất. Năm tiểu tập hợp này quan hệ gắn bó lẫn nhau rất phức tạp, vì cùng lúc thuộc về các quan hệ vật chất (vận chuyển, truyền thông dưới nhiều hình thức), kinh tế (dòng tiền, tài sản...), tâm lý xã hội (truyền thông tin, thành lập các nhóm...), trong ñó ñiều cốt yếu là cách thức liên kết giữa các yếu tố khác nhau theo các quá trình feed-back [Beaujeu-Garnier, 1995:28]. Nguyên tắc hệ thống ñòi hỏi thiết lập các quan hệ ñể cho người sử dụng lựa chọn,
bảo ñảm ba yêu cầu tương ứng về không gian, thời gian và chủ thể:
– Khắp nơi (ubiquité) – Tức thời (instantanéité) và – Trực tiếp (immédiateté), ñể người hưởng dụng có thể tiếp cận ñược.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 39 -
Các hệ thống ñô thị có tính ñộng, chưa hoàn thành, có thể biến ñổi hình thái (protéiforme), thích ứng trong không gian và thời gian. Chẳng hạn, thành 13 Warfield, 1972, 1973, 1974; Baldwyn, 1975; Barel, 1977. Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr.24.
phố trục thẳng (Ciudad Lineal) theo ý tưởng của Soria y Mata, dài khoảng 80 km (mới thực hiện 5 km), về nguyên tắc có thể thích ứng với các yêu cầu mở rộng ñô thị.
Cerda kết hợp một cặp ñôi cơ bản của thành thị là lưu trú (nhà ở) và lưu thông (ñường sá). Ông quan niệm thành thị là một hệ thống vialidad phổ biến (vialidad có nghĩa là bắt buộc phải chuyển ñộng, lưu chuyển nhanh, trực tiếp, khắp nơi không giới hạn). Còn theo Joël Tarr, các ñô thị lớn ở phương Tây phải mất 150 năm ñể chuyển từ ñô thị ñi bộ (pedestrian city) sang ñô thị hệ thống (networked city).
Abraham Moles ñưa ra mô hình “thành phố dây cáp”, biểu hiện chất lượng sống mới về truyền thông trong hệ thống-lãnh thổ của thị dân, mà ông gọi là “huyền thoại ñộng” (mythe dynamique)14. Quan ñiểm tiếp cận này của A. Moles không chỉ dành cho các tế bào xã hội cơ bản, hệ thống các ñơn vị nhà ở, mà còn cho các tác nhân kinh tế như tổ chức lại các xí nghiệp nhờ sử dụng hệ thống các phương tiện kỹ thuật và truyền thông ñể quản lý các quan hệ.
Người ta gọi ñó là chiến lược giải hoạt (désactivation) và/hoặc phân nhánh (ramification) trong “nền kinh tế hệ thống” theo quan niệm mới của các nhà kinh tế15. Chiến lược giải hoạt sẽ giúp xí nghiệp tập trung vào quản lý một tập hợp các quan hệ. Chẳng hạn, công ty taxi quản lý hệ thống ñiện ñàm trung tâm sẽ không cần bãi ñậu taxi hoặc ñội ngũ lái xe, mà có thể ñiều ñộng các chủ sở hữu xe tham gia vào hệ thống. Chiến lược phân nhánh giúp xí nghiệp mở rộng các hệ thống thông tin liên quan ñến thị trường, nhu cầu, cung cấp, v.v. Chẳng hạn, hệ thống ñặt mua vé ở các công ty hàng không phân về các công ty khác, các hãng lữ hành hoặc các quầy bán vé.
Phương pháp cấu trúc hệ thống có thể coi là phương pháp ñặc thù có thể vận dụng trong nghiên cứu Văn hóa ñô thị. Các phức hợp văn hóa ñược biểu hiện dưới hai phương diện: tính ñộng của mỗi thành tố và quan hệ tương tác giữa các thành tố, dẫn ñến các hiện tượng biến thiên trong thời gian và không gian.
* PHƯƠNG PHÁP VĂN HÓA TỔNG QUAN (TỌA ðỘ VĂN HÓA) Quá trình ñô thị hóa không chỉ tạo ra môi trường sống, mà còn tạo ra chính bản thân con người. Con người vừa là tác nhân sáng tạo, vừa là sản phẩm sáng tạo, ñồng thời là trung tâm của sự vận ñộng và chuyển hóa. Nói cách khác, trong văn hóa ñô thị, tính nhân văn không chỉ là con người, hoặc dựa trên mối quan hệ giữa người và người, mà còn biểu hiện sự tương tác giữa con người với thời gian và không gian, trong ñó cả ba luôn vận ñộng, tương tác và chuyển hóa ñể kiến tạo môi trường sống.
Do ñó, khi ñịnh vị một sự vật hoặc một hiện tượng của văn hóa ñô thị, cần ñặt sự vật, hiện tượng ấy trong tương quan của bộ ba thời gian, không gian và chủ thể. ðó là phương pháp văn hóa tổng quan, hay còn gọi là phương pháp tọa ñộ văn hóa (coordonnées).
Theo phương pháp này, con người ở ñịa vị chủ thể, với tư cách tác nhân, sản phẩm thích ứng và ñối tượng hưởng dụng các thành quả văn hóa; các sự vật, hiện tượng ñược ñịnh vị trong một khoảng thời gian và trong một phạm vi không gian nhất ñịnh. Tuy nhên, thời gian văn hóa ñô thị không phải là khoảnh khắc lắng ñọng theo cái nhìn lịch ñại của các chuỗi sự kiện, mà ñó là một quá trình liên tục trải qua các thời kỳ khác nhau; không gian văn hóa ñô thị không chỉ là không gian ñịa lý tự nhiên, mà biến ñổi do tác
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 40 -
14 Moles A., “La Cité câblée: une nouvelle qualité de vie?”, Les Annales de la recherche urbaine, No.34, printemps-été 1987 – dẫn theo Gabriel Dupuy, sñd., tr.52. 15 Bressand A., Distler C., Nicolaidis K., “Vers une économie de réseaux”, Politique industrielle, hiver 1989; Frybourg M., “Transports: les mille et une manière d’innover”, Politique industrielle, No. 19, printemps 1990 – dẫn theo Gabriel Dupuy, sñd., tr.55.
ñộng của các cộng ñồng cư dân qua các thời kỳ, thường ñược gọi là không gian văn hóa hoặc nói theo các nhà ñịa lý là không gian sống.
Có thể coi ñây là phương pháp ñặc thù trong nghiên cứu văn hóa, nhằm tìm hiểu thấu ñáo các sự vật, hiện tượng trong một quá trình có nhiều biến chuyển và trong các quan hệ tương tác lẫn nhau. Vận dụng phương pháp văn hóa tổng quan trong nghiên cứu văn hóa ñô thị thông qua kết hợp bộ ba giữa: thời gian – không gian và chủ thể văn hóa ñô thị có các ñặc ñiểm sau:
– Thời gian: Thành thị xuất hiện trải qua nhiều hình thái khác nhau, ñồng thời quá trình ñô thị hóa gắn với sự ra ñời của nhiều thành tố văn hóa cấu thành các nền văn minh của xã hội loài người. ðó là quá trình tạo lập “môi trường thứ hai” của xã hội loài người.
– Không gian: Không gian ñô thị không ngừng mở rộng phạm vi và biến ñổi theo các chức năng ñô thị qua các thời kỳ nhằm ñáp ứng các nhu cầu ngày càng phong phú và ña dạng của con người.
– Chủ thể: Các chủ thể văn hóa là tác nhân, ñối tượng và là sản phẩm của các hoạt ñộng xây dựng môi trường văn hóa ñô thị trong quá trình ñô thị hóa, thông qua các cơ chế, chính sách, phương tiện trang bị, ñể con người thích ứng với môi trường sống ngày càng văn minh, hiện ñại.
* PHƯƠNG PHÁP LIÊN NGÀNH Trong nghiên cứu văn hóa nói chung và văn hóa ñô thị nói riêng, không thể không kết hợp, vận dụng các thành tựu tri thức các ngành học khác, cả về nội dung và phương pháp. Cụ thể: – Về nội dung, ñó là các chuyên ngành: ñịa lý học ñô thị, nhân học ñô thị, xã hội học ñô thị, lịch sử ñô thị, ñô thị học, v.v. – Về phương pháp, chủ yếu bao gồm các phương pháp của các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Vận dụng phương pháp liên ngành không chỉ là việc kế thừa, tổng hợp, chắt lọc, kiểm nghiệm kết quả nghiên cứu của các ngành học khác, mà quan trọng hơn chính là việc sử dụng kết hợp các phương pháp, làm cho các chủ ñề nghiên cứu càng thêm phong phú và sâu sắc, bảo ñảm tính chân xác khoa học gắn với thực tiễn. TƯƠNG QUAN CÁC NGÀNH HỌC
Yêu cầu trước hết và quan trọng nhất của một ngành học là xác ñịnh ñối tượng nghiên cứu không trùng lắp với các ngành học khác. Văn hóa ñô thị nghiên cứu các thành quả sáng tạo của con người trong quá trình ñô thị hóa, thông qua các quan hệ tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội, trong thời gian và không gian văn hóa ñô thị.
Về thời gian, văn hóa ñô thị nghiên cứu quá trình tăng trưởng của môi trường ñô thị, bao gồm các biến chuyển và các quan hệ tương tác tạo nên giá trị tích hợp là các thành quả văn hóa, không giới hạn trong khuôn khổ biên niên về năm tháng, không chú ý tường thuật hoặc liệt kê các diễn biến hoặc chuỗi sự kiện như ngành lịch sử ñô thị.
Về không gian, ngành ñịa lý học có xu hướng ngày càng gần gũi hơn với môi trường sinh thái và nhân văn nên có phạm vi khá tương ñồng với không gian văn hóa ñô thị. Tuy nhiên, văn hóa ñô thị không chỉ quan tâm khía cạnh ñồng ñại mà còn kết hợp với lịch ñại, xem xét các quá trình tiến hóa hoặc chuyển biến; trọng tâm không gian không chỉ là ñất ñai, khí hậu... mà cấu thành phức hợp của môi trường tự nhiên trong tương quan tác ñộng hai chiều với các hoạt ñộng của con người.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 41 -
Về chủ thể ñô thị liên quan ñến con người là thế mạnh của ngành nhân học, cũng như liên quan ñến xã hội là thế mạnh của ngành xã hội học. Tuy nhiên, ñối tượng con
người trong văn hóa ñô thị không phải con người biểu hiện tính cách, cách thức hoạt ñộng hoặc các kỹ năng, cũng không chỉ gắn với lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau, mà ñó là con người chủ thể với ba ñặc ñiểm chủ yếu là sáng tạo, sản phẩm thích ứng và ñối tượng tiêu thụ, thông qua các chính sách, chủ trương, giải pháp xây dựng môi trường sống ñáp ứng các nhu cầu của con người.
VĂN HÓA ðÔ THỊ Quan hệ tương tác
NHÂN HỌC ðT Con người XHH ðÔ THỊ Xã hội hoạt ñộng biểu hiện các nhóm lợi ích ðÔ THỊ HỌC Chất lượng sống ở ðT môi trường, tiện ích ðỊA LÝ ðÔ THỊ Không gian, ñất ñai hiện tượng ñô thị
ðỊA LÝ HỌC ðÔ THỊ ðịa lý là ngành học ñầu tiên có nhiều nghiên cứu tiếp cận ñô thị. ðịa lý học ñô thị nghiên cứu chủ yếu về không gian, hiện tượng chiếm dụng ñất ñai ở thành thị, cùng với các biến ñổi về ñịa hình – ñịa lợi (site – situation) thuộc khung cảnh ñô thị. Georges CHABOT là người ñầu tiên có công trình về ðịa lý ñô thị cùng với R. Murphy ở Mỹ, còn Milton Santos nghiên cứu thành thị ở các nước ñang phát triển.
ðịa lý học ñô thị tiếp cận ñô thị như là một hiện tượng. Do ñó, các chủ ñề nghiên cứu chính của ðịa lý ñô thị gồm: hệ thống thành thị, tổ chức tiêu dùng không gian, sử dụng ñất, giao thông ñô thị...
Tuy nhiên, theo Jacqueline Beaujeu-Garnier [1980, ðịa lý ñô thị]: nghiên cứu không gian, các hoạt ñộng của người dân và vai trò của thành thị là một bộ ba theo quan ñiểm của các nhà ñịa lý học ñô thị. Do vậy, ñịa lý học ñô thị có xu hướng tiếp cận gần gũi với ngành ñịa lý học nhân văn. XÃ HỘI HỌC ðÔ THỊ Xã hội học ñô thị giới hạn nghiên cứu trong phạm vi không gian và xã hội, nơi xảy ra các hiện tượng ảnh hưởng ñến thị dân, cũng như các tác ñộng làm biến ñổi ñời sống ñô thị.
Xã hội học ñô thị coi tác nhân xã hội ở thành thị là ñối tượng nghiên cứu chính. Các nhà xã hội học quan tâm các quan hệ chức năng của hiện tượng, mà ít chú ý yếu tố thời gian hoặc các diễn biến lịch sử.
Trọng tâm nghiên cứu của xã hội học ñô thị là xem xét các khái niệm về mặt xã hội và không gian: tính trung tâm, sự chia tách, không gian công cộng, tính lãnh thổ, tính ñô thị...
Ledrut RAYMOND [1968, Xã hội học ñô thị] quan niệm: dân số và mật ñộ dân số không thể giải thích tập hợp cư dân “thành thị”, mà chính “các thiết chế xác ñịnh các quan hệ ñặc biệt giữa các tác nhân xã hội”.
Maïté CLAVEL [2002, Xã hội học ñô thị] quan niệm: Xã hội học ñô thị tiếp cận tính ña dạng xã hội trong các không gian ñô thị, xem xét các ñộng tính và lãnh thổ, các hình thái phát triển của xã hội ñô thị hiện nay. Maurice Halbwachs là người ñầu tiên ñưa nghiên cứu ñô thị vào ngành khoa học xã hội ở Pháp [1909], qua luận án “Trưng dụng và giá ñất ở Paris (1860-1900)”.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 42 -
Khác với các nhà kinh tế quan tâm thị trường ñịa ốc, Halbwachs nghiên cứu vấn ñề trưng dụng. Mục tiêu nghiên cứu là: những thay ñổi về hình thái của một thành phố lớn
(từ ñề xuất ñầu tiên của Émile DURKHEIM lập chuyên ngành Hình thái xã hội, 1897- 1898). Theo ông, những biến ñổi của thành thị không hoàn toàn do cơ chế kinh tế, cũng không do các quyết ñịnh cá nhân hoặc các lý do chính trị nhất thời, mà do các khuynh hướng xã hội, nhu cầu cộng ñồng và các hệ quả biến ñộng dân số.
NHÂN HỌC ðÔ THỊ Nhân học ñô thị xuất phát từ các chức năng cơ bản của thành thị ñể ñưa ra quan niệm về phát triển của thời ñại.
ðô thị ñược các nhà nhân học coi là một tổng thể không gian tạo nên môi trường xã hội và văn hóa phong phú ở các thành thị. Các nhà nhân học ðức thế kỷ XIX ñưa ra quan niệm ñầu tiên về sự ñồng nhất của các “hình thái văn hóa”, sau ñó làm rõ thêm tính ñộng và sự phát triển liên tục của các ñô thị.
Nhân học ñô thị khai sinh cùng thời với sự xuất hiện trường phái Chicago (ñầu TK XX), và ngay từ ñầu ñã có quan hệ mật thiết với ngành xã hội học ñô thị và lịch sử ñô thị. Các nhà nhân học ñô thị khảo cứu nhiều ñô thị ở Mỹ, coi ñó là phòng thực nghiệm các xã hội ñô thị.
Nhân học ñô thị dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau: – Mô tả thực ñịa – Phân tích so sánh – Kết hợp với các dữ kiện có liên quan về lịch sử, ñịa lý và xã hội học ñô thị. Ba chủ ñề nghiên cứu lớn của Nhân học ñô thị gồm: – Các giai cấp xã hội, ñặc biệt là công nhân và ñại tư sản; – Các dân tộc thiểu số ở thành thị; – Các tầng lớp, lứa tuổi. Mấy nội dung nghiên cứu chủ yếu của Nhân học ñô thị: – Mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn có biến mất? – Ảnh hưởng của văn minh Hồi giáo ñối với sự phát triển ñô thị ở phương Tây thời trung cổ?
– Khái quát ý nghĩa từ “ghetto”? – Các ñặc trưng ñô thị... ðÔ THỊ HỌC ðô thị học chú trọng các ñặc ñiểm phát triển ñô thị trong thời ñại hiện nay, nhằm bảo ñảm các tiêu chuẩn về chất lượng sống của thị dân, ñáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 43 -
ðô thị học có thể coi là môn học chuyên sâu của Văn hóa ñô thị về các vấn ñề phát sinh trong ñời sống xã hội ñô thị. Tuy vậy, ñiểm khác biệt cơ bản là ñô thị học chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi không gian ñô thị, khắc phục tại chỗ các vấn ñề xã hội nảy sinh, nên khá gần gũi với ngành xã hội học ñô thị. Một số nội dung nghiên cứu của ðô thị học: – ðô thị hóa và hiện tượng thành phố cực lớn; – Cấu trúc xã hội và sự phát triển bền vững; – Khủng hoảng môi trường sinh thái ñô thị; – Nhà ở, ñiện, nước, ñường sá giao thông, phương tiện ñi lại, v.v... ở ñô thị.
PHẦN THỨ HAI THỰC TIỄN VĂN HÓA ðÔ THỊ
CHƯƠNG 3 ðô thị và ñô thị hóa ðỊNH NGHĨA ðÔ THỊ
Bách khoa Tự ñiển [1765] từng ñịnh nghĩa: thành thị là “tập hợp… các căn nhà, với những con ñường và nằm bên trong một bức tường chung”.
ðịnh nghĩa này coi thành thị như là một hình thái cư trú với ba nhân tố: nhà ở, ñường sá và tường thành bao quanh. Tuy nhiên, các tiến bộ kỹ thuật và sự xuất hiện của nền văn minh công nghiệp ñã làm thay ñổi cách nhìn truyền thống. Thành thị ñối mặt với nhiều vấn ñề ngày càng phức tạp hơn, do sự biến ñổi của các nhu cầu và chức năng của thành thị.
Theo Lewis MUMFORD, trước khi trở thành nơi cư trú, thành thị là nơi gặp gỡ mà con người tụ hội theo ñịnh kỳ: chợ, ñiểm hành hương. Thành thị trước hết là nơi gặp gỡ: ðó còn là một nơi thiêng mà các nhóm du mục trở về theo ñịnh kỳ, thực hiện các nghi thức cúng tế. Mộ phần, ñền thờ, nơi diễn ra các lễ thức cúng tế ñã tồn tại trước khi xây dựng các nhà xưởng, vòng thành, chợ trung tâm. Quan niệm của Mumford ñã giải thích về nguồn gốc và chức năng ra ñời của thành thị.
Georges-Hubert de Radkowski, trong bài báo “Thời hoàng hôn của người ñịnh cư” (L’Homme de la Ville, Janus, 1967), cho rằng: cư dân ñô thị “ở” không còn là ở nữa mà giao tiếp (communiquer), dù tiềm năng hay hiện thực16.
M.G. CHABOT [1948] tổng kết các ñịnh nghĩa ñô thị của các nhà sử học và ñịa lý học. Theo Chabot, các ñịnh nghĩa này căn cứ trên hai loại dữ liệu về hình thái và chức năng. Ông quan niệm thành thị gồm ba yếu tố: ñịa hình, ñịa thế và ñịa lợi. – ðịa hình (site): phạm vi lãnh thổ quy ñịnh diện mạo kiến trúc; – ðịa thế (position): so với các yếu tố hoạt ñộng nông nghiệp và phi nông nghiệp; – ðịa lợi (situation): chức năng thuần kinh tế (thương mại, thủ công) của thành thị.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào tính biến ñổi về hình thái và chức năng theo thời gian và không gian, thì vẫn chưa nêu ñược tác nhân của sự biến ñổi, kể cả các biến ñổi về nhu cầu của các chủ thể trong quá trình ñô thị hóa. H. Lefebvre quan niệm chợ (halle) là một “phát minh thiên tài”, nơi diễn ra các hoạt ñộng mua bán thuận tiện cho chính quyền kiểm soát.
Pierre GEORGE [1952:30-34] cho rằng thành thị ñược khai sinh từ môi trường thương mại, ñến thế kỷ XIX mới trở thành môi trường kỹ thuật và nhân văn. Theo ông, sự kiện ñô thị gồm năm hình thái, phát triển theo năm nhóm, do ñó khi ñịnh nghĩa thành thị, cần xem xét các nhu cầu và phương thức thực hiện ở mỗi hệ thống:
1. Ban ñầu, ñô thị có dạng chợ nhỏ, kèm theo là trung tâm phòng thủ, hành chính và tôn giáo. Các thành thị xuất hiện chủ yếu ở các ñịa ñiểm thuận tiện ñể trao ñổi thực phẩm hiếm (nhất là ở các cảng) hoặc trong các vòng thành. Có thể tìm thấy dạng ñô thị này ở châu Á, Trung Quốc, Tibet;
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 44 -
16 Dẫn theo Gabriel Dupuy, sñd., tr.7.
2. Thế hệ ñô thị thứ hai là các thành thị thương mại ở các thời kỳ khác nhau. Việc buôn bán phát triển ở thời cổ ñại, trung ñại và cận ñại, trước khi xuất hiện nền kinh tế công nghiệp và tiền TBCN, chủ yếu diễn ra ở châu Âu và vùng ðịa Trung Hải trước thế kỷ XIX;
3. Loại ñô thị thứ ba là các thành phố thương mại và công nghiệp gồm nhiều loại, xuất phát từ cuộc cách mạng công nghiệp và TBCN, chủ yếu là sự hình thành các ñô thị thủ phủ công nghiệp ở châu Âu và Bắc Mỹ;
4. Nhóm thứ tư là các thành phố thuộc ñịa do nhu cầu bành trướng kinh tế TBCN ở Tây Âu TK XIX và XX, gồm các nước vẫn còn ở giai ñoạn kinh tế và cơ cấu chính trị nông nghiệp;
5. Sau cùng, loại thứ năm là các thành phố XHCN theo hình thái ban ñầu là nơi tổ chức SX, phân phối và trang bị xã hội, trong ñó các chức năng hành chính và công nghiệp vượt trội hơn so với chức năng lưu chuyển hàng hóa và phân phối sản phẩm.
Khác với các hình thái ñô thị xuất hiện trước ñó, thành phố XHCN không lẫn lộn giữa nơi ở và nơi làm việc; các phân khu phát triển một cách có hệ thống. Thành thị có cơ chế ña trung tâm, tổ chức theo thứ bậc:
– Khu vực trung tâm ñô thị tập trung các thiết chế hành chính, xã hội và văn hóa chủ yếu, xung quanh là các khu công nghiệp và khu cư trú, nối kết với nhau nhờ các phương tiện vận chuyển, nhưng cách nhau bởi các dải xanh...
– Mỗi khu phố cấu thành một trung tâm nhỏ mang tính thứ yếu, có các cơ sở hành chính, xã hội và văn hóa cơ bản ñể bảo ñảm các nhu cầu ñời sống hàng ngày của cư dân; – Thành phố XHCN ít quan tâm ñến sự tham gia của người dân vào các hoạt ñộng công cộng của thành thị.
ðịnh nghĩa thành thị của P. George ñi vào nguồn gốc và quá trình phát triển ñô thị. Tuy nhiên, khi ñề cập ñến tính hệ thống ñể phân loại ñô thị thuộc ñịa và XHCN, ông chịu ảnh hưởng thế giới phân cực trong thời kỳ chủ nghĩa ñế quốc và chiến tranh lạnh, nên chưa thể phân tích sâu hơn về hình thái phát triển của thị trường ngày nay, thông qua các trung tâm tài chính thế giới hoặc phân biệt giữa các nước phát triển và ñang phát triển.
Nhìn chung, ñến nay vẫn chưa có ñịnh nghĩa nào khả dĩ áp dụng chung cho các thành thị. Tuy nhiên, ñiều có thể nhận thấy là thành thị trong quá trình phát triển luôn mang tính ña trung tâm và ña chức năng.
Thành phố Cusco rất nổi tiếng ở Nam Mỹ (Pêru), thủ ñô của Incas cổ ñại, thành lập khoảng năm 1000 BC; ñến 1534 người Tây Ban Nha xây dựng lại theo phong cách châu Âu; nay ñược UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 45 -
Các tiêu chí ñô thị ngày nay: 1- Dân số, hoặc kết hợp dân số với mật ñộ dân số, tổ chức ñơn vị hành chính hoặc kinh tế.
• Dân số: > 200 dân (Islande, Na Uy, ðan Mạch); > 2.000 dân (Éthiopie, Pháp); > 2.500 dân (Mỹ); > 5.000 dân (Áo); > 10.000 dân (Sénégal), > 20.000 dân (Hà Lan), > 50.000 dân (Nhật Bản)...
• Dân số kết hợp mật ñộ dân số: > 1.000 dân + > 400 người/km2 (Canada). • Dân số kết hợp tổ chức hành chính: Canada, Mỹ, Na Uy, Thổ Nhĩ Kỳ. • Dân số kết hợp kinh tế: Pêru. Ở Ý, phải có 50% dân số hoạt ñộng phi nông nghiệp
• Dân số kết hợp kinh tế + hành chính...: > 5.000 dân + > 75% dân số hoạt ñộng phi nông nghiệp (Botswana); tối thiểu 5.000 dân + mật ñộ dân số > 390 người/km2 + tối thiểu ¾ nam thanh niên hoạt ñộng kinh tế phi nông nghiệp (Ấn ðộ).
Khác với Trung Quốc: > 50.000 dân = thành thị; > 5.000 dân (thị trấn nông nghiệp). Nhiều nước thỉnh thoảng thay ñổi các tiêu chí xếp loại, như: Na Uy, Thụy ðiển từ năm 1930; Tây Ban Nha từ 1950...
Châu Phi
Châu Mỹ
Châu Ðại dương
Châu Âu
Châu Á
2- Tiêu chí diện tích ñô thị: • Mêhico (1990): vùng trung tâm gần 2 triệu dân/140 km2 + vùng ñô thị kết nối = 8 triệu dân/1.500 km2 + khu vực ñô thị ngoại vi = 15 triệu dân/4.600 km2. • Tokyo (2003): vùng trung tâm hơn 8 triệu dân + vùng ñô thị kết nối = 12 triệu dân + khu vực ngoại vi ñại ñô thị (gồm Yokohama) = 34,4 triệu dân. Phân bố thị dân (3 tỷ) trên các lục ñịa (2003):
THUẬT NGỮ ðÔ THỊ
Trải qua nhiều thời kỳ, ñô thị không ngừng biến ñổi, với nhiều hình thái và các chức năng khác nhau. Do ñó, khái niệm ñô thị cũng biến ñổi, có nhiều ñặc ñiểm về tính chất khác biệt.
– ðô thị có nhiều cách gọi khác nhau tùy theo ñặc ñiểm hình thành hoặc tính chất, quy mô ñô thị. Thành thị hay thành phố là cách gọi chung nhất, trong ñó yếu tố “thành” mang tính chất khép kín, cho thấy chức năng bảo vệ, phòng thủ hoặc tín ngưỡng xuất hiện ở các thời kỳ ñầu tiên; bên cạnh yếu tố “thị” (chợ) hoặc “phố” (mua bán các mặt hàng tiêu dùng tiểu thủ công nghiệp) có tính chất “mở”, ñể lộ căn nguyên ban ñầu hoặc không thể thiếu của thành thị là chức năng thương mại, nơi tụ hợp ñể trao ñổi, mua bán hàng hóa. ðô thị hay ñô thành với yếu tố “ñô”, xác lập chức năng hành chính, lãnh thổ, thuế khóa. Thành thị có thể coi là trung tâm ña chức năng, nơi tổ chức và vận hành các hoạt ñộng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, tôn giáo, hành chính, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, giáo dục và giải trí cho các thành phần cư dân khác nhau.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 46 -
ðối với các ñô thị nhỏ, các từ thị xã, thị trấn ñược sử dụng ñể chỉ ñịnh một khu vực trung tâm ñô thị nằm giữa các làng xã ở nông thôn. Ngoài ra, còn có từ hương trấn, không theo tiêu chí dân số, ñể chỉ loại hình ñô thị ở nông thôn Trung Quốc; giống như các commune (tạm dịch hương trấn) là ñơn vị hành chính nhỏ nhất gồm hơn 36.000 communes bao trùm toàn bộ lãnh thổ nước Pháp, song không phải commune nào cũng là ñô thị vì dân số rất chênh lệch, có khi chỉ trên dưới 100 người.
Trên thế giới, thuật ngữ ñô thị cũng sử dụng rất khác nhau. Ở Pháp, từ ville (thành phố) ñược sử dụng phổ biến, rất gần với từ village (làng xã); cũng có khi người ta dùng từ cité với nghĩa tương ñương hoặc ñể chỉ một khu vực trung tâm thành phố nhỏ hơn, song có nhiều bản sắc hơn như là khu phố cổ hoặc nơi tập trung về tri thức. Ngược lại, ở Mỹ, từ city có nghĩa là ñô thị rộng lớn hơn, còn town tương ñương với cité ở Pháp. Có lẽ từ liên quan ñến ñô thị thông dụng và sử dụng thống nhất hơn cả là urbain/urban, urbanité/urbanity thường làm bổ ngữ hoặc ñể nêu tính chất ñô thị, có từ nguyên Ur là tên gọi của một trong các thành phố cổ xưa nhất, nằm ở cửa sông Euphrate ñổ ra vịnh Ba Tư.
– ðô thị hóa (urbanisation) là quá trình hình thành và phát triển ñô thị về ñịnh tính và về ñịnh lượng khi di dân nông thôn ñổ về thành thị. ðô thị hóa còn ñược dùng ñể chỉ quá trình ñô thị hóa nông thôn (rurbanisation)17 như ở Ấn ðộ, ñô thị hóa ngoại thành (suburbanization), mà Los Angeles ñược coi là mô hình tiêu biểu, ñô thị hóa ngoại vi (periurbanisation, exurbanisation) khi vùng nông thôn trở thành ñô thị nhờ cải thiện việc làm, giáo dục, nhà ở và vận chuyển... Theo Liên hợp quốc, ñến cuối năm 2008, một nửa dân số thế giới sinh sống trong các ñô thị.
– ðô thị nông nghiệp: xuất hiện sớm nhất ở Trung ðông (khoảng năm 8.500 – 8.000 trước Công nguyên), châu Mỹ chậm hơn 15 thế kỷ và châu Âu sau ñó 2.000 năm. Có quan niệm cho rằng ñô thị chỉ xuất hiện ở thời kỳ phát triển công nghiệp, các ñô thị trước ñó thuộc hình thái tiền ñô thị. Tuy nhiên, không thể phủ nhận các hình thái ñô thị khác nhau và sự xuất hiện của ñô thị ở lưu vực các dòng sông ñã ñánh dấu bước ngoặt quan trọng trong các nền văn minh nhân loại.
– ðô thị thương mại: gắn với hoạt ñộng của các tầng lớp thương nhân ở các cảng thị, nhất là ở các thời kỳ phát triển kinh tế hàng hóa nhờ hệ thống giao thông ñường bộ, ñặc biệt là hàng hải.
– ðô thị công nghiệp: xuất hiện sớm nhất ở châu Âu – Anh (1750, dệt), Nhật (1868), Trung Quốc (1950)... Ở Bungarie, ñô thị công nghiệp hình thành trên cơ sở các liên hợp sản xuất nông-công nghiệp.
- ðại ñô thị (mégapole/megacity): tập hợp nhiều thành phố ñông ñúc hàng triệu dân, tạo nên một vùng ñô thị có mật ñộ dân số cao, có tiềm lực kinh tế ñạt cấp ñộ thế giới. Ngưỡng ban ñầu là 5 triệu dân, từ 1950 ñến 1990 ñã vượt lên 8 triệu và 37 triệu, chiếm 7% ñến 16% dân số thế giới.
- ðô thị thủ phủ (métropole/metropolitan): là cực ñô thị năng ñộng, có chức năng ñiều hành, có các quan hệ thuộc tầm cỡ quốc gia hoặc có chức năng hoạt ñộng thuộc hệ thống thế giới.
- ðô thị kết nối (agglomération): là hình thái phát triển ñô thị giản ñơn nhất về không gian, mà theo ñịnh nghĩa cổ ñiển là thành thị có khu vực trung tâm và vùng ngoại ô bao quanh. Ở Pháp, ñô thị kết nối áp dụng cho các phạm vi ñô thị có trên 50.000 dân, trong ñó ñô thị trung tâm có ít nhất 15.000 dân. Ngày nay, ñô thị kết nối mở rộng trở thành vùng ñô thị liên tục, có các quan hệ hữu cơ. Các ñô thị kết nối lớn nhất thế giới hiện nay
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 47 -
17 Phân biệt với counter urbanization, còn gọi là white flight của người da trắng. ðây là hiện tượng mất dân số của thành thị, khi các hộ giàu rời bỏ thành thị về sinh sống ở nông thôn gần kề, do các phương tiện liên lạc ñược cải thiện và vì họ lo sợ môi trường tệ nạn và nghèo khó ở ñô thị, ñặc biệt ñối với hiện tượng các nhóm dân tộc ñông ñảo ở các khu phố trung tâm. Ngoài ra còn có hiện tượng giả ñô thị hóa (pseudo- urbanization), dẫn ñến hiện tượng bùng nổ dân số ở thành thị, xảy ra chủ yếu trong thế giới thứ ba, do lực ñẩy của nông thôn ñưa dân nghèo vào thành thị, trong khi thành thị chưa chuẩn bị ñể tiếp nhận họ.
là: Tokyo (34 triệu dân), Quảng Châu, Seoul (24 triệu), Mexico City, Delhi (23 triệu), Mumbai, New York City (22 triệu)...
– ðô thị liên hợp (conurbations): loại hình ñô thị theo ý tưởng ñề xuất của P. Geddes [Cities in evolution, 1915], là tập hợp các khối ñô thị gần nhau, bổ trợ các chức năng của nhau như vận chuyển, cấp nước, năng lượng, hoặc chuyên môn hóa... kể cả ñô thị vệ tinh hoặc phòng ngủ, không bị lệ thuộc như ñô thị kết nối, thường có các khu ñất nằm ở giữa chưa ñô thị hóa, nên còn gọi là ñô thị sinh ñôi, nhiều ñầu hoặc ña cực.
– Ngân hà ñô thị (mégalopolis): dạng ñô thị liên hợp rộng lớn nhất, kết nối nhiều ñại ñô thị nằm trên một dải không gian liên tục, trong ñó các ñô thị vẫn giữ tính chất hoạt ñộng ñộc lập của mình. Trên thế giới hiện có 7 ngân hà ñô thị, trong ñó Dải Boswash (Mỹ) nối các cảng biển từ Boston xuống Washington qua New York, Philadelphie và Baltimore dài hơn 1.000 km, gồm 45 triệu dân; dải Tokaido (Nhật Bản) gồm tập hợp Tokyo, Yokohama, Nagoya, Gifu, Osaka, Kyoto và Kobe, dài 500 km, 50 triệu dân. Doxiadis từng dự báo gọi ñó là các oekouménopolis của thời ñại.
– ðô thị phòng ngủ: Người dân ở một nơi và ñi làm việc ở thành thị trung tâm, dẫn ñến hiện tượng “chuyển ñộng con lắc” (commuting) hoặc “di chuyển hàng ngày” từ nơi ở ñến nơi làm việc và ngược lại.
– ðô thị vệ tinh (satelites/spoutnik): gồm nhiều ñô thị trung bình và nhỏ, có cấu trúc hành chính tự trị, tạo ra việc làm tại chỗ. Theo Davidovitch [1962], ở Liên Xô “cư dân ñô thị vệ tinh ñến ñô thị trung tâm ñể làm việc” [Beaujeu-Garnier, 2000]. Người dân vào ñô thị trung tâm ñể mua sắm, dịch vụ; trung tâm bảo ñảm một số dịch vụ, ñặc biệt là văn hóa; vệ tinh có thể tiếp nhận cư dân trung tâm ra nghỉ ngơi, giải trí. Thành phố Leningrad có 39 ñô thị vệ tinh, trong phạm vi bán kính 70 km. Ngoài ra, còn có các ñô thị tinh vân là các ñô thị nhỏ nằm gần nhau, có hoạt ñộng khá thuần nhất hoặc chuyên biệt như các thành phố công nghiệp, thành phố mỏ.... ñể người ñi làm không phải di chuyển xa.
– ðô thị nấm: là các ñô thị phát triển nhanh ñột ngột về dân số và kinh tế. ðó là các ñô thị phụ thuộc vào một hoạt ñộng hoặc nguồn tài nguyên nào ñó như lâm sản, mỏ (dầu, vàng, bạc) hoặc các thành phố công nghiệp cuối thế kỷ XIX và ñầu thế kỷ XX. Khi tài nguyên cạn kiệt hoặc nhà máy không còn hoạt ñộng, loại hình ñô thị này có nguy cơ suy sụp, tạo nên ñô thị ma.
– ðô thị to ñầu: hội chứng ñô thị phát triển không cân ñối trong phạm vi lãnh thổ, xuất hiện nhiều nhất ở các thành thị thuộc ñịa như: Montevideo, Tunis, Abidjan hoặc ở các nước ñang phát triển.
– ðô thị hai ñầu, ba ñầu: khá phổ biến ở nhiều nước, là các ñô thị lớn tập trung ñông dân và tách rời nhau về không gian. Chẳng hạn, Bồ ðào Nha (Lisbonne – Porto), Hy Lạp (Athènes – Salonique), Thổ Nhĩ Kỳ (Istambul – Ankara), Ai Cập (Le Caire – Alexandrie), Nga (Moscou – Saint-Pétersbourg), Việt Nam (Hà Nội- Tp.HCM)... Hoặc trường hợp ñặc biệt ba ñầu ñối với các nước có nhiều ñô thị, như: ở Trung Quốc (Bắc Kinh – Thượng Hải – Hồng Kông), Ấn ðộ (Delhi – Bombay – Calcutta).
– ðô thị sinh ñôi, thường nằm cạnh các bờ sông, về sau phát triển bờ bên kia nối ngang qua mặt nước như trường hợp Minneapolis – Saint-Paul. Phổ biến nhất là các ñô thị gồm hai phần như ở London, Tours…
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 48 -
– ðô thị chậm (cittaslow), là phong trào xuất hiện gần ñây, kể từ năm 1999 ở Ý. Loại hình ñô thị này có nguồn gốc từ phong trào “ăn chậm” (slow food) nhằm bảo vệ chất lượng ăn uống, tôn trọng môi trường và tính năng ñộng của các cộng ñồng ñịa phương. Cách mạng ñô thị chậm chú ý ñến chất lượng sống, tôn trọng cảnh quan, phản
ñối các khu thương mại và công nghiệp... ðến nay, phong trào này ñã tập hợp 140 ñô thị ở 21 nước, chủ yếu là các ñô thị nhỏ, từ 10 – 20 nghìn dân.
Ngoài ra, ñể chỉ hiện tượng bùng nổ ñô thị xâm chiếm ñất ñai và phần thêm vào của ñô thị, người ta còn sử dụng một số khái niệm khác như: phản ñô thị hóa [Kayser, 1990], ñô thị hóa ngoại vi (périurbanisation) – mở rộng không gian ñô thị, hình thành vùng ngoại ô và ñô thị hóa dịch chuyển (exurbanisation) – chuyển một số các hoạt ñộng từ trung tâm ra vùng ngoại vi hoặc ñô thị kết nối của ñô thị [Dézert, Metton và Steinberg, 1991]. CHỨC NĂNG ðÔ THỊ
Thành thị có nguồn gốc từ cuộc cách mạng ñá mới và phát minh nông nghiệp. Thành thị xuất hiện khi có nhu cầu trao ñổi sản phẩm (nông nghiệp, hàng tiểu thủ công nghiệp); song thành thị phát triển chủ yếu nhờ hoạt ñộng thương nghiệp, khai thác thị trường nguyên liệu, sản phẩm và các loại hình cung ứng dịch vụ ñáp ứng theo các nhu cầu tiêu dùng.
Theo quan ñiểm mác-xít, thành thị xuất hiện do các tiến bộ về phân công lao ñộng xã hội, cùng với sự tách ra khỏi nông nghiệp của tầng lớp thợ thủ công rồi thương nhân (kiểm soát sản xuất, sử dụng tiền tệ, phát triển vận chuyển...).
Theo M.G. CHABOT, các chức năng chính của thành thị là: quân sự, thương mại, công nghiệp, du lịch và văn hóa. Hiến chương Athènes [1941] xác ñịnh thành thị gồm bốn chức năng chính, tách rời nhau về không gian là: ở, làm việc, ñi lại và giải trí.
Quy luật hoạt ñộng ñô thị là nơi ở riêng và thường cách xa nơi làm việc, do thành thị tập trung các chức năng sản xuất, trao ñổi và ñầu cơ bất ñộng sản. Hệ quả trực tiếp là người lao ñộng trong mọi nghề nghiệp ñều cần thiết phải di chuyển hàng ngày ñể ñi làm việc. Mỗi công trình xây dựng ñược sử dụng dành riêng cho một hoạt ñộng duy nhất. Ở Paris, nơi ở nhìn chung tách biệt với cửa hiệu bán hàng [George, 1952:12-13]. Tuy nhiên, trong các thành thị ở châu Á và châu Phi vẫn còn người buôn bán nhỏ và thợ thủ công ở ngay trong cửa hàng hoặc xưởng nghề của mình.
Thành thị ở mỗi thời ñại ñều là sản phẩm của một hình thái tổ chức các quan hệ kinh tế và xã hội. Các hình thức quan hệ giữa thành thị và nông thôn ñã biến ñổi nhiều kể từ thế kỷ XVIII. Công nghiệp phát triển ñã làm phát sinh các hình thức quan hệ mới giữa thành thị và môi trường [George, 1952:61-63].
Cuộc cách mạng CN và phát triển kinh tế TBCN từ thế kỷ XIX và ñầu thế kỷ XX ñã làm ñảo lộn kích cỡ, diện mạo ñô thị trên thế giới theo mô hình châu Âu, trong ñó hình thành hệ thống ñô thị ở các nước thuộc ñịa. ðô thị, với các chức năng hành chính, quân sự, chính trị, kinh tế, từ chỗ là nơi tập trung các thành phần tinh hoa (élites) kể từ giữa thế kỷ XX ñã có chuyển biến lớn trở thành môi trường sống của số ñông các thành phần cư dân.
Theo phân loại của Beaujeu-Garnier [1995:39-45], các chức năng ñô thị tương tác lẫn nhau và ñược chia thành ba nhóm: chức năng làm giàu, chức năng trách nhiệm, chức năng sáng tạo và truyền ñạt.
Chức năng làm giàu có ý nghĩa thuần túy về kinh tế gồm có công nghiệp, thương mại, du lịch và các dịch vụ tài chính; chức năng trách nhiệm gồm có hành chính, giáo dục, y tế; chức năng sáng tạo và truyền ñạt liên quan ñến việc phổ cập văn minh, lối sống, các thành quả ñô thị ñến với người dân gồm các phương tiện vận chuyển nội thành và ngoại thành, và các phương tiện truyền thông ñô thị khác.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 49 -
1- Trong các chức năng làm giàu, công nghiệp là chức năng ñô thị chủ yếu, thông qua các kênh ñầu tư ñể xây dựng các cơ sở công nghiệp, nhà xưởng, trích nộp thuế
khóa, lợi nhuận tích lũy và tái ñầu tư (Falk, 1976)18, trực tiếp hoặc gián tiếp làm phát sinh một phần chức năng thương mại. Quan hệ giữa công nghiệp hóa và ñô thị hóa rất ñặc trưng ở các nước ñang phát triển.
Chức năng thương mại là chức năng ñô thị căn bản, trong quá khứ ñã khai sinh và phát triển nhiều ñô thị. ðiển hình nhất là liên minh Hanse19 thống trị các hoạt ñộng thương mại vào ñầu thế kỷ XV ở vùng phía Bắc và ðông châu Âu, tập hợp khoảng 160 thành thị. Thương mại có mục ñích tạo ra lợi nhuận, tích lũy tiền tệ, nhờ vậy kích thích tăng trưởng, tăng cường khối lượng tiền tệ trực tiếp sử dụng, làm cho thành thị gia tăng quyền lực kinh tế.
Chức năng du lịch rất tương ñồng với hai chức năng trên, thường ñược xếp vào ngành công nghiệp hoặc dịch vụ. Sản phẩm du lịch là các yếu tố hấp dẫn khách du lịch (phong cảnh, khí hậu, di tích lịch sử, thể thao). Nhiều thành phố dành riêng cho các hoạt ñộng du lịch. Ngành du lịch thu hút khách nước ngoài, mang lại ngoại tệ, tuyển dụng việc làm, bán các sản phẩm ñịa phương.
ðối với chức năng tài chính, thành thị là nơi ñặt trụ sở ngân hàng, các cơ chế tài chính, bảo hiểm. Chức năng tài chính có ñối tượng là sinh sản các của cải và tài sản do khối lượng tiền tệ tập trung trong các cơ chế ñô thị. “Chức năng tài chính là chức năng ñô thị nhất, cùng với chức năng chính trị” [Labasse, 1974]20.
Các chức năng làm giàu này không tách rời nhau. Công nghiệp, thương mại hoặc du lịch ñều có liên quan trực tiếp ñến hoạt ñộng tài chính. Các hoạt ñộng này tập trung nhiều người, thường xuyên hay tạm thời, làm cho chức năng cư trú phát triển, kèm theo các dịch vụ khách sạn, nhà hàng... mang tính chất bán thương mại và bán thủ công.
2- Các thành thị ở các quy mô lớn nhỏ khác nhau ñều phải có nền hành chính, các hình thức giáo dục cơ bản và trang bị y tế cơ sở thuộc về chức năng trách nhiệm. Trách nhiệm này chỉ mang ñến các nguồn tài chính một cách gián tiếp hoặc thứ yếu. Song sự can thiệp của quyền lực Nhà nước về kinh tế và xã hội ngày càng nhiều. Ở Mỹ hoặc Canada, trong một thành phố có thể có trường ñại học của Nhà nước và một hoặc nhiều ñại học tư (ðại học Québec và Montréal ở Montréal).
3- ðối với chức năng sáng tạo và truyền ñạt, việc sử dụng các phương tiện vận chuyển liên kết nội thành và ngoại vi, mức ñộ cơ giới hóa bảo ñảm cho thành thị các ñiều kiện có thể tiếp cận về vật chất. Thành thị còn là môi trường tổ chức biểu diễn, xuất bản, hội họp văn hóa và thể thao. Các thiết chế này làm biến ñổi ñời sống tinh thần, văn hóa, tri thức của người dân một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua báo chí, truyền thanh, truyền hình. QUY MÔ ðÔ THỊ
Mật ñộ cư trú dày ñặc và không gian liên tục là ñặc trưng dễ thấy của thành thị. Khác với nhà ở nông thôn, công trình xây dựng ñô thị tập trung khối lượng lớn và nhiều tầng. ðô thị phát triển không chỉ theo chiều cao mà còn ở chiều sâu, do nhu cầu ñất ñai xây dựng tăng cao và nhu cầu tập trung các cơ sở hạ tầng (ñường sá, vận chuyển và các nhu cầu thiết yếu ñiện, nước, dịch vụ...) của cư dân ñô thị.
Thành thị có quy mô lớn nhỏ tùy thuộc vào vị trí ñịa lý (cạnh sông lớn, ven biển), ñịa thế trung tâm, ñịa hình chiến lược; hệ thống phân cấp quản lý hành chính: thủ ñô,
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 50 -
18 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 40 19 Hanse từ liên minh các nhà buôn hàng hải trở thành hiệp hội các thành thị thương mại hoạt ñộng với nhiều ñặc quyền ở vùng biển Bắc nước ðức và biển Baltique cho ñến Novgorod, ñặc biệt là các thành thị Lubeck, Hambourg, Danzig... Từ thế kỷ XII, Hanse dần dần thống trị về thương mại và cả về chính trị ở châu Âu cho ñến khi suy tàn ở thế kỷ XVII, sau hiệp ước Westphalie (1648). 20 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 226.
thành phố trực thuộc trung ương hoặc ñịa phương; và quy mô dân số. Khoảng năm 1800, ước lượng mới có 45 thành phố trên 100 ngàn dân; nhưng ñến 1900, ñã có gần 2.000. Quy mô dân số ñô thị ngày càng lớn:
- Năm 1900, có 12 ñại ñô thị trên 1 triệu dân gồm: Londres (6,6T), New York (4,2T), Paris (3T), Berlin, Birmingham, Chicago, Saint-Pétersbourg, Manchester, Moscou, Osaka, Philadelphie và Tokyo; ñến năm 1975, ñã có 195 ñô thị trên 1T dân (529T); và năm 2005 là 430 (1,2 tỷ)...
- Năm 1975, chỉ có 4 ñại ñô thị trên 10 triệu dân (gồm trên 60T dân); ñến năm 2005, ñã có 20 ñại ñô thị trên 10T dân (gần 300T dân) như Tokyo, Mêhicô, New York. ðáng chú ý là trong số này, có 15/20 ñại ñô thị ở các nước ñang phát triển, trong ñó 11 ở châu Á.
Quy mô phát triển ñại ñô thị cho thấy tính tất yếu của lực hút ñô thị trong quá trình ñô thị hóa. Vấn ñề không phải là quy mô dân số lớn nhỏ, không gian ñô thị rộng hẹp, mức ñộ công nghiệp hóa nhiều ít, mà ñó vừa là xu hướng tích cực ñể phát triển ñô thị, vừa là dấu hiệu bất thường, tiêu cực của hội chứng thành thị to ñầu trong tương quan về chất lượng sống và kinh tế thị trường trong môi trường ñô thị, nhất là ở các nước ñang phát triển. QUÁ TRÌNH ðÔ THỊ HÓA ðô thị hóa hình thành trong lịch sử nhân loại từ khi con người gắn bó với ñất ñai, từ bỏ lối sống du mục, tức là bắt ñầu kể từ thời kỳ phát triển nông nghiệp và chăn nuôi.
Theo G. CHAMBON [1975:14], hoạt ñộng ñô thị hóa ñầu tiên là tạo lập ra chỗ ở của con người, nơi có các trục ñường ñi lại kích cỡ khác nhau, các ñường cống ngầm, tường thành bảo vệ, quảng trường, các khoảng không gian vườn tược hoặc có khi là ñồng cỏ thả súc vật và các công trình dành cho cộng ñồng. Trong thời kỳ ñầu, ñô thị hóa ít có thành tựu ñáng chú ý, chủ yếu là hoạt ñộng của các nhà kiến trúc, một số triết gia, nhìn chung chưa thiết lập ứng xử trong quan hệ hàng ngày giữa con người với môi trường tự nhiên.
Không gian ñô thị nguyên thủy ñược tổ chức theo các sơ ñồ hình chữ nhật ñều ñặn như Kahun ở Ai Cập (-2500 trCN) hoặc hình tròn như Zendjirli ở Syrie (-1300 trCN, có ñường kính 720m). Một số tác giả quan tâm ñến các hiện tượng “ñô thị hóa” ở thời kỳ này thường ñược coi là các nhà “canh tân”, hoặc “không tưởng”.
Hiện tượng ñô thị hóa kéo dài 30 thế kỷ, kể từ thế kỷ X Thành phố Kahun (Ai Cập) trước Công nguyên ñến TK XIX, diễn ra theo kiểu “rùa bò”. Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ XVIII, ñô thị hóa ñược gọi là “phi mã”, phát triển theo chiều rộng kéo dài một thế kỷ (1840-1940) và ñi vào chiều sâu kể từ giữa thế kỷ XX ñến nay.
Paul BAIROCH [1996] phân biệt bốn giai ñoạn chủ yếu của quá trình ñô thị hóa: 1. Cách mạng ñá mới (néolithique): Theo Bairoch, không có cách mạng ñá mới thì không có ñô thị hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 51 -
2. Cách mạng ñô thị: chính phát minh nông nghiệp ñã tạo ra các tiền ñề ñô thị hóa, trong ñó phải kể ñến các nhân tố: có lương thực thừa ñể trao ñổi, làm tăng mật ñộ dân số và bước ñầu xuất hiện quan hệ cung – cầu của hoạt ñộng thương mại. 3. Cách mạng công nghiệp: Nước Anh là nước ñô thị hóa phát triển sớm nhất, ñạt 45% năm 1850 và 75% năm 1910; nước Mỹ từ 5% năm 1800, lên 57% năm 1950. 4. ðô thị hóa trở nên phổ biến ở các nước ñang phát triển.
Theo Beaujeu-Garnier [1995:20], ñô thị hóa mạnh mẽ ở các nước thế giới thứ ba kể từ giữa các năm 1950 và 1975, có thể sánh cùng nhịp ñộ với các nước phát triển giữa các năm 1875 và 1900, nhưng có ñặc ñiểm là tập trung số lượng dân cư nhiều hơn và không phát triển song song cùng với các tiến bộ về kỹ thuật.
ðô thị là ñịa ñiểm tập trung dân cư, ñồng thời là không gian ñặc quyền ñể ñịnh vị một số chức năng cho thị dân và nông dân. ðô thị là trung tâm tái sản xuất tư bản, vừa tập trung lớn tư bản, vừa tiêu thụ mạnh tư bản, do ñó, ñóng vai trò rất ñặc biệt so với nông thôn và cả với Nhà nước. B. Kayser [1966] ñã khái quát thành công thức: “Quan hệ giữa các cư dân ñược cấu thành xung quanh một trung tâm có quyền tự trị và có chức năng hội nhập vào nền kinh tế tổng thể”21.
Qua nhiều thế kỷ, ñô thị không ngừng tích tụ trở nên giàu có nhờ vào nông thôn. Các chức năng ñô thị ngày càng phát triển nhờ phân công lao ñộng xã hội. Tầng lớp lãnh chúa và tăng lữ ñược ñặc quyền thu nhận từ việc sản xuất của nông dân bằng nông sản hoặc tô tức bằng tiền. ðây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng trao ñổi sản vật, xuất hiện tầng lớp thương nhân nắm trong tay việc lưu thông phân phối.
Thành thị ñược chuyên môn hóa về chức năng, trở thành các hạt nhân tập trung trao ñổi sản vật ngày càng phát triển về số lượng và khoảng cách. ðó là thời kỳ của các ñô thị lệ thuộc và các ñô thị thương mại [Metge và Belhoste, 1974]. Một số thành thị trở nên giàu có muốn mua lại quyền ñộc lập của mình từ lãnh chúa hoặc tu viện, như các thành thị vùng Flamande và các nước cộng hòa ở Ý [Beaujeu-Garnier, 1995:233-234].
Trong các ñô thị lệ thuộc, tiền bạc của tầng lớp ñặc quyền thu gom ñược chủ yếu sử dụng ñể tiêu dùng cho các hoạt ñộng phi kinh tế như: tiến hành chiến tranh, xây cất lâu ñài, các cơ sở tôn giáo. ðiều này không trực tiếp làm tăng gia sản xuất, nhưng góp phần tạo nên dấu ấn về cảnh quan ñô thị, làm cho ñô thị thành nơi uy tín và có tiếng.
Trong các ñô thị, việc trao ñổi buôn bán ngày càng phát triển, cùng với việc thay ñổi phương thức sản xuất, tạo nên tầng lớp tư sản ở thành thị. Nhờ ñó, một phần các lợi nhuận ñược tái ñầu tư vào sản xuất. Với cuộc cách mạng công nghiệp, lợi nhuận không chỉ tăng lên từ mua bán trao ñổi, mà còn có thêm giá trị thặng dư từ sản xuất công nghiệp hàng loạt ngày càng hoàn thiện.
Khác với những người hưởng lợi nhờ ñược lệ thuộc thường sử dụng tiền của ñể thỏa mãn nhu cầu hoặc nguyện vọng phi thương mại, các nhà tư bản mới mong muốn tăng thêm lợi nhuận, bằng cách ñầu tư ít nhất một phần của cải kiếm ñược vào kinh doanh như xây dựng các nhà máy ñể tăng gia sản xuất, phát triển phương tiện giao thông và tổ chức kiểm soát ñể thuận lợi buôn bán, ñẩy nhanh vòng quay và chu kỳ tăng tư bản.
Ở thời kỳ này, thành thị không chỉ thu lợi từ môi trường nông thôn, mà có thể sử dụng từ chính sự giàu có của mình ñể ñịnh hướng sản xuất theo chiều hướng có lợi nhất. “Thành thị trở thành công cụ phụ thuộc vào lao ñộng thông qua tư bản” [Metge và Belhoste, 1974]. Giữa thế kỷ XIX, các nhà công nghiệp ở Manchester ñược chính quyền Anh cho nhập khẩu lúa mì với giá thấp ñể nuôi sống công nhân mà không phải tăng lương. ðó là cú sốc lớn cho các nhà trồng trọt ở nước Anh (Beaujeu-Garnier, 1995:234].
Tư bản ban ñầu ñược hình thành từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài sự phát triển ñô thị nhờ quan hệ giữa thành thị và các vùng nông thôn ngoại vi, thì thương mại và giao thông kết hợp với các hội chợ nổi tiếng thời Trung ñại ñã làm cho nhiều thành thị ở châu Âu trở nên thịnh vượng. Vào thế kỷ XVII, Birmingham ñã thu lợi từ thuế cầu ñường vận chuyển ñường bộ và ñường thủy nội ñịa; ñến cuối thế kỷ, nhờ phát triển
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 52 -
21 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 278.
thương mại với Tây Ấn mà các quyền lợi thuế quan của Liverpool ñã tăng gấp hàng chục lần.
ðiển hình như thành phố cảng Detroit, vào ñầu thế kỷ XIX ñã có các hoạt ñộng buôn bán lúa mì và da lông thú; khoảng từ năm 1850, tăng cường phát triển ña dạng công nghiệp cơ khí nhờ các thương nhân ñầu tư thêm tư bản ñể sửa chữa các ñội tàu, thiết kế các máy hơi nước sử dụng cho tàu thuyền lưu thông trên ðại Hồ, chế tạo các toa tàu lưu thông trên ñường bộ. Các nhà công nghiệp tích tụ tư bản ban ñầu nhờ buôn gỗ, ñã hợp tác với những người tiên phong trong ngành xe hơi lập ra các công xưởng ñầu tiên. ðến cuối thế kỷ XIX, các thành công quá nhanh chóng ñã thu hút thêm nhiều tư bản từ bên ngoài, ñặc biệt từ vùng ðông-Bắc công nghiệp hóa, làm cho Detroit trở thành ñô thị ñại công nghiệp, là pháo ñài của ngành công nghiệp xe hơi.
Mặt khác, tư bản tích tụ vào tay cá nhân và gia ñình còn góp phần công nghiệp hóa ñô thị ở thế kỷ XIX. ðó là các xí nghiệp trong ngành dệt hoặc luyện kim ở Anh, Pháp, ðức; hoặc các cá nhân có tầm ảnh hưởng quyết ñịnh mang lại sự thịnh vượng cho thành thị ở thời kỳ này như các gia ñình danh tiếng Mac Cormick, Ogden, Wright, Wentworth... ở Chicago [Glazer, 1965]; gia ñình Schneider ở Creusot, Michelin ở Clermont-Ferrand...
Công nghiệp phát triển sản xuất hàng loạt, giá rẻ, ñiển hình nhất là sáng kiến của Henry FORD trong ngành xe hơi mẫu T từ năm 1909. Sản xuất công nghiệp cần nhiều tư bản, nguồn tài chính gia ñình ñược tập hợp lại trong các công ty mạnh. Nhờ các cơ chế ngân hàng22, chứng khoán, tư bản dồn dập ñổ về các xí nghiệp. Họ thành lập hội sở ở thành thị, có phạm vi ảnh hưởng không chỉ trong vùng, quốc gia mà còn mở ra quốc tế. Các ngã tư lớn ngày nay chính là thủ phủ của các ñô thị lớn thế giới như New York, Tokyo, London, Zurich, Osaka, Chicago, Paris, San Francisco...
Như vậy, ñô thị hóa ñã có quá trình tiến triển từ rất lâu ñời, trải qua nhiều giai ñoạn khác nhau, từ tiệm tiến ñến ñột biến, xuất phát từ các biến chuyển trong các hoạt ñộng của ñời sống kinh tế. Các nền văn minh nông nghiệp và công nghiệp sản xuất ra hàng hóa ñáp ứng cho các nhu cầu tiêu dùng và trao ñổi chính là tiền ñề, ñiều kiện và ñộng lực của ñô thị hóa. Ngày nay, ñô thị hóa ñược quan niệm ñồng nhất với khái niệm tạo ra “khung cảnh sống” của loài người [Chambon, 1975:13].
Hệ quả của quá trình ñô thị hóa là hiện tượng tập trung dân cư ở thành thị và mật ñộ dân số ở ñô thị tăng nhanh. Tỷ lệ ñô thị hóa cho thấy xu thế phát triển tất yếu: ñầu thế kỷ XX, có khoảng 10% dân số ñô thị trên thế giới trên tổng số 1,6 tỷ dân; ñến 1950, tỷ lệ này ñạt 28,2%. Dự kiến ñến năm 2010 sẽ vượt quá 50%. Tiêu biểu ở Nga:
• 1920 = 15% • 1960 = 50% • 2000 = 80 – 85% Tỷ lệ ñô thị hóa ở các nước châu Âu (1300-1700) ðVT: (%)
Nước Châu Âu
– Ý – Tây Ban Nha 1300 10 21 22 1700 11 23 20
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 53 -
22 Ngân hàng có chức năng là cơ cấu tổ chức ñể tích tụ, quản lý và tái sản xuất tư bản, thông qua các mô hình quỹ tiết kiệm như ở CHLB ðức, công ty tín dụng như Crédit Agricole, Crédit Mutuel ở Pháp...
– Hà Lan – Pháp – ðức – Nga (châu Âu) 14 8 8 5 39 12 8 5
Tỷ lệ ñô thị hóa giữa các nước châu Âu và Mỹ (1800-2005) ðVT: (%)
Nước
– Anh – Bỉ – Pháp – Hà Lan – ðức Châu Âu
– Mỹ 1800 23 20 12 37 9 12 5 1850 45 34 19 36 15 19 14 1910 75 57 38 51 49 41 42 1950 83 64 48 75 53 51 57 2005 89,2 97,3 76,7 66,8 88,5 73 80,8
MẤY ðẶC ðIỂM ðÔ THỊ VIỆT NAM
Tính ñến nay, Việt Nam ñã có trên 743 ñô thị các loại, 160 khu công nghiệp tập trung, 10 khu ñô thị mới, 28 khu kinh tế cửa khẩu và khu kinh tế ñặc thù. Tỷ lệ ñô thị hóa trên phạm vi cả nước ñạt gần 30%.
Cổ Loa, kinh ñô nước Âu Lạc, là ñô thị cổ nhất Việt Nam, khoảng năm 200 trước CN, có cấu trúc hình tròn, 9 lớp thành, mang tính chất phòng thủ. Ngoài ra còn có các kinh ñô Hoa Lư (968), Thăng Long (1010), Phú Xuân (1802).
Trong thời gian bị phong kiến phương Bắc ñô hộ, hoạt ñộng thủ công nghiệp phát triển, hình thành các trạm dịch ở các cảng sông, các ñầu mối kinh tế quan trọng như: Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc Ninh), Long Biên, ðại La (Hà Nội), Lạch Trường (Thanh Hóa). ðô thị thương mại phát triển ở cảng Vân ðồn (cuối thế kỷ 13), Phố Hiến (Hưng
Yên, thế kỷ 15); cảng Hội An (Quảng Nam, ñầu thế kỷ 17); ñô thị hành chính Bến Nghé (cuối thế kỷ 17); ñô thị cổ gồm Thăng Long, Nam ðịnh, Quy Nhơn, Sài Gòn – Gia ðịnh, Hà Tiên…
ðặc ñiểm chung của ñô thị Việt Nam thời kỳ này là trung tâm cai trị hành chính – chính trị thuộc yếu tố “ñô”, nhưng yếu tố “thị” vẫn rất quan trọng, gắn với các loại chợ thành, chợ dinh, chợ trấn.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 54 -
ðô thị Việt Nam ngày nay gồm 3 cấp quản lý: 1. Thành phố trực thuộc TW 2. Thành phố thuộc tỉnh; thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương, thị xã thuộc tỉnh 3. Thị trấn thuộc huyện.
Quy mô ñô thị Việt Nam ñược quan niệm là các ñiểm dân cư tập trung. Theo Mạc ðường [2002]: ñến năm 1990, sau nhiều năm ñiều tra và nghiên cứu, Nhà nước VN ñã xác ñịnh những quan niệm cơ bản tối thiểu và xu hướng phát triển ñô thị Việt Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ những năm cuối thế kỷ XX cho ñến 20 năm ñầu của thế kỷ XXI. Quyết ñịnh 132 ngày 5-5-1990 của HðBT (nay là CP) nêu rõ: hạt nhân của ñô thị và ñiểm xuất phát của quá trình ñô thị hóa là “ðiểm dân cư ñô thị”: “ðó là một ñiểm dân cư tập trung phần lớn những người dân phi nông nghiệp, họ sống và làm việc theo kiểu cách thị dân”.
Nghị ñịnh số 42/2009/Nð-CP ban hành ngày 7-5-2009 về phân loại ñô thị, thay thế Nghị ñịnh số 72/2001/Nð-CP, quy ñịnh ñô thị Việt Nam gồm 6 loại khác nhau: ñô thị ñặc biệt và ñô thị từ loại 1 ñến loại 5. ðô thị là “khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật ñộ cao và chủ yếu hoạt ñộng trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc ñẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một ñịa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”
ðô thị Việt Nam gồm các ñặc ñiểm cơ bản sau: 1- Trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc ñẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của một vùng lãnh thổ.
2- ðô thị mang tính chất là vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, vùng thành phố trực thuộc trung ương, hoặc vùng trong tỉnh trong thành phố trực thuộc trung ương, vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. 3- Quy mô dân số có ít nhất là 4.000 người, mật ñộ dân số tối thiểu là 2.000 người/km2. 4- Tỷ lệ lao ñộng phi nông nghiệp tối thiểu là 65% tổng số lao ñộng trở lên ñối với khu vực nội thành phố, thị xã, thị trấn. 5- ðạt 70% mức tiêu chuẩn thiết kế hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và quy hoạch xây dựng cho từng loại ñô thị.
Mạng lưới ñô thị Việt Nam hình thành và phát triển dựa trên các ñô thị trung tâm, gồm 5 thành phố cấp quốc gia (thủ ñô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, ðà Nẵng, Cần Thơ), 14 thành phố trung tâm cấp vùng (Mỹ Tho, Biên Hòa, Vũng Tàu, Nha Trang, ðà Lạt, Buôn Mê Thuột, Quy Nhơn, Huế, Vinh, Thanh Hóa, Nam ðịnh, Hạ Long, Việt Trì, Thái Nguyên), cùng với các thị xã là ñô thị trung tâm cấp tỉnh, các thị trấn cấp huyện, các ñô thị vệ tinh.
Các ñô thị trung tâm phân bố ñều trong 10 vùng kinh tế trọng ñiểm: vùng Bắc Bộ và ñồng bằng sông Hồng, vùng Nam Bộ và ðông Nam Bộ, vùng miền Trung và Trung Trung Bộ, vùng ñồng bằng sông Cửu Long, vùng Nam Trung Bộ (Bình ðịnh – Phú Yên – Ninh Thuận – Bình Thuận), vùng Tây Nguyên, vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh), vùng Cao Bằng – Bắc Cạn – Thái Nguyên – Lạng Sơn – Bắc Giang – Bắc Ninh, vùng Lào Cai – Yên Bái – Hà Giang – Tuyên Quang – Vĩnh Phú và vùng Tây Bắc. ðến tháng 3-2007, cả nước có 729 ñô thị theo các thứ bậc sau:
Loại ñô thị Chức năng Quy mô dân số Mật ñộ dân số
Số lượng 02 Lao ñộng phi NN > 90% > 1,5 triệu > 15.000 người/km2
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 55 -
ðô thị loại ñặc biệt ðô thị loại 1 > 85% > 500.000 > 12.000 người/km2 Thủ ñô hoặc ña chức năng 04 ða chức năng, liên tỉnh
ðô thị loại 2 > 80% > 25.000 > 10.000 người/km2
ðô thị loại 3 > 75% > 10.000 > 8.000 người/km2
ðô thị loại 4 39 > 70% > 6.000 > 6.000 người/km2 13 ða chức năng, liên tỉnh 36 ða chức năng, nội tỉnh Trung tâm, nội tỉnh/vùng ðô thị loại 5 635 Trung tâm, > 65% > 4.000 > 2.000 người/km2 huyện/cụm xã
Các ñô thị không chỉ phát triển quy mô về diện tích, mà còn nâng cao chất lượng hệ thống công trình hạ tầng, kỹ thuật, dịch vụ, từng bước hình thành các ñô thị văn minh, hiện ñại.
ði chợ Xuống chợ
Chợ chồm hổm Gian hàng VN tại hội chợ – bán hàng xôn Accenta, Bỉ, 2006
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 56 -
Tuy nhiên, trước ñây ở Việt Nam, ñô thị ñược quan niệm là không gian phi sản xuất (hiểu là phi SX nông nghiệp), là nơi có mật ñộ dân số ñông (chủ trương quản lý hộ khẩu, hạn chế nhập cư hoặc giãn dân). Quá trình ñô thị hóa chủ yếu là các hoạt ñộng xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng, ñáp ứng nhu cầu tiện ích của cư dân theo các cấp loại ñô thị ñược Nhà nước công nhận. Các vấn ñề xã hội và nhân văn ít ñược chú ý hoặc mang tính hình thức, ñối phó. ðô thị và quá trình ñô thị hóa còn thiếu các chiến lược ñồng bộ, chưa ñược coi là nguồn lực ñể xây dựng và phát triển ñất nước.
CHƯƠNG 4 Dân số và dân cư ñô thị
Dân số thế giới thời kỳ Homo erectus cách ngày nay trên 1 triệu năm dao ñộng khoảng từ 500-700 nghìn người; ñến thời Homo sapiens, cách ngày nay từ 50.000 ñến 200.000 năm, dân số thế giới có khoảng hơn 1 triệu người23.
Khoảng 4.000 năm trước CN, không chỉ ở Cận ðông và châu Âu, mà ở châu Phi (Sahel, Soudan, Éthiopie và Yémen), tây bắc Ấn ðộ, Trung Quốc, Nhật Bản và các cao nguyên ở châu Mỹ ñều ñã vượt qua giai ñoạn săn bắt – hái lượm và chuyển sang giai ñoạn phát triển nông nghiệp – chăn nuôi.
Ở thời ñại ñá mới, khoảng 6.000 năm trước Công nguyên, dân số thế giới24 ñã tăng lên ñến 30 triệu người (hai nghìn năm trước ñó chỉ có 6-7 triệu), và hai nghìn năm sau ñó lên ñến 100 triệu nhờ việc thay thế nông nghiệp dùng cuốc sang dùng cày làm tăng năng suất25.
Dân số ñô thị có quá trình tăng trưởng dựa trên hai sự kiện: tăng trưởng tự nhiên và tăng trưởng di dân. Trong suốt một thời kỳ dài, dân số ñô thị ít có tăng trưởng. Cho ñến ñầu thế kỷ XIX, dân số Paris vẫn quanh quẩn khoảng 500.000 dân. Nguyên nhân là do ñiều kiện và chất lượng sống tồi tệ làm mức tử nhiều hơn mức sinh, cộng thêm các thời kỳ suy giảm dân số do bệnh dịch, ñói kém và di dân nông thôn-thành thị chưa có nhiều. Cuộc ñại cách mạng công nghiệp, cùng với các tiến bộ không ngừng về vận tải, trước tiên là ñường sắt, rồi ñến xe hơi; ñặc biệt là các tiến bộ y học ñã làm tăng trưởng tự nhiên rõ rệt hơn, làm cho thành thị tăng trưởng.
CÁC HIỆN TƯỢNG DÂN SỐ
TẬP TRUNG DÂN CƯ KHÔNG ðỀU Hiện tượng œkoumène (oekonomicus): Ngay từ thời xa xưa ñã có hiện tượng dân cư phân bố không ñều trên bề mặt trái ñất, do các nhu cầu của ñời sống kinh tế. Các hình thái văn minh cũng phát triển không ñều, dẫn ñến sự chia tách các khu vực ñịa lý, dân cư nơi nhiều nơi ít, do nhu cầu và cách thức tập hợp khác nhau.
Dân cư tập trung không có cùng hình thức hoặc mục ñích: kinh tế nông nghiệp phát triển, hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn; ngược lại, trong nền kinh tế công nghiệp, dân cư tập trung nhiều ở các thành thị. Hệ quả là quá trình ñô thị hóa xảy ra không thuần nhất, luôn biến ñộng, chuyển hóa tùy lúc, tùy nơi.
P. GEORGE [1952] khái quát hiện tượng tập trung dân cư theo hai nguyên nhân: 1. Mọi hình thái văn minh ñều có nhu cầu tập trung một bộ phận dân cư theo các cơ chế và chức năng riêng;
2. Công nghiệp phát triển ñòi hỏi tập trung dân cư càng ñông... Do ảnh hưởng kinh tế TBCN, ñô thị trở thành ñiểm tiếp xúc giữa kinh tế công nghiệp và thương mại với kinh tế nhà nước. Tuy vậy, tập trung dân cư và các hoạt ñộng thương mại không phải chỉ mới xuất hiện kể từ thời kỳ kinh tế công nghiệp.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 57 -
23 ðến ñầu năm 2011, dân số thế giới ước khoảng 6,94 tỷ người. Dự kiến ñến ngày 1/11/2011 dân số thế giới ñạt 7 tỷ người. 24 Khoảng năm 8.000 trước CN, lãnh thổ Trung quốc ở lưu vực sông Hoàng Hà không quá 600.000 m2. Khoảng năm 4.000 trước CN, dân số Trung Quốc có khoảng 800.000 dân; khoảng -3000 là 3-4 triệu và ñến khoảng -2000 giữa 15-20 triệu dân. 25 Graziella Caselli, Jacques Vallin et Guillaume Wunsch, sous la direction de, “Démographie: analyse et synthèse”, vol.5, Histoire du peuplement et prévisions, Éd. Institut National d’Études Démographiques, tr. 21.
Một yếu tố khác về mật ñộ dân cư do quy hoạch ñô thị các kiểu nhà ở: nhà cao tầng, ñường hẹp sẽ ñi kèm với mật ñộ dân cư ñặc biệt cao; và ngược lại ñối với nhà thấp, có không gian rộng.
Mặt khác, cần phân biệt tính chất chiếm dụng không gian ngoài chức năng cư trú. Trong các ñô thị phương Tây, các khu phố công nhân thường dày ñặc hơn, nhà ở nhỏ hơn, có mật ñộ cao hơn chủ yếu trong các khu cư trú của người có thu nhập thấp. Chẳng hạn, Neuilly có mật ñộ cao gấp ba lần khu cư trú ngoại ô của công nhân như Saint- Denis, nhưng trong trường hợp ñầu ñường sá phủ rợp bóng cây, còn trường hợp sau có thừa ñất rộng làm nhà máy, nhà kho, nên cho dù thế nào cũng không thể so sánh không gian sử dụng làm khu dân cư.
200 - 300 triệu người 275 triệu người 545 triệu người 1.171 triệu người 2.500 triệu người 3.000 triệu người 4.000 triệu người 5.000 triệu người 6.500 triệu người
TĂNG DÂN SỐ THEO CẤP SỐ NHÂN Số liệu thống kê tình hình dân số thế giới dưới ñây cho thấy, so với các thời ñại từ ñá cũ sang ñá mới kéo dài hàng triệu năm, thì chỉ trong vòng một thiên niên kỷ trở lại ñây dân số thế giới ñã tăng vọt gấp hàng mấy chục lần. Người ta gọi ñó là hiện tượng dân số tăng theo cấp số nhân. • ðá cũ => ñá mới: • Năm 1000: • Năm 1650: • Năm 1850: • Năm 1950: • Năm 1960: • Năm 1975: • Năm 1980: • Năm 2000: ðầu Công nguyên, thế giới có khoảng 250 triệu dân, trong khi Trung Quốc ñã có gần 50 triệu. Ở thành phố Delhi (Ấn ðộ), năm 1901 có hơn 200.000 dân; ñến 2001 ñã có gần 13 triệu dân. BÙNG NỔ DÂN SỐ ðÔ THỊ Các thành thị hiện ñại hình thành do các thành thị cũ bị chìm ngập với các làn sóng di dân mới ñến, ít nhất gấp ba hoặc bốn lần dân số giữa thế kỷ XIX.
Năm Rome (Ý)
1800 1851 1910 1946 Londres (Anh) 959 2.363 4.06326 Birmingham (Anh) 71 242 1.141 Hambourg (ðức) 130 139 1.712 153 184 1.327 ðVT: ngàn Paris (Pháp) 547 1.053 2.72515
Nguyên nhân của hiện tượng tăng trưởng dân số ở các ñô thị lớn này do: 1. Từ nơi khác ñến, kể cả từ nước ngoài. Trường hợp Paris, năm 1946, chỉ có hơn 40% gốc Paris, còn lại ñến từ các vùng khác. 2. Biến ñổi cân bằng dân số. Các vùng ñô thị kết nối hiện ñại thu hút dân cư vì mức sinh yếu, nhất là ở Pháp.
3. Số lượng các thành phố lớn tăng lên kèm theo biến ñổi về cấu trúc xã hội của dân số ñô thị, nhất là khu vực kinh tế thứ ba. Trong mọi trường hợp, số người ăn lương
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 58 -
26 Chỉ tính riêng thành phố, trong khi vùng ñô thị kết nối ở London là 8.700.000, còn Paris là 5.500.000 dân. Nguồn: Tổng hợp theo P. George, sñd., tr. 50.
bao giờ cũng chiếm ưu thế hơn so với giới chủ xí nghiệp, tạo nên khác biệt chủ yếu về nghề nghiệp so với các ñô thị cũ thời kỳ tiền công nghiệp. ðỘNG THÁI DÂN SỐ THẾ GIỚI
ðặc ñiểm chung của ba thời kỳ phát triển dân số thế giới • Sinh nhiều – Chết nhiều: ñến 1650, dân số thế giới có khoảng 500 triệu người. • Sinh nhiều – Chết ít: kể từ cuộc cách mạng công nghiệp 1750, do cải thiện các ñiều kiện vệ sinh, y tế.
• Sinh ít – Chết ít: từ giữa thế kỷ XX, ñô thị hóa ñi vào chiều sâu, môi trường sống cân bằng hơn, ñược chú ý hơn trong các hoạt ñộng của con người. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ 1846 – 1935, ñã có khoảng 60 triệu di dân châu Âu rời bỏ ñại lục ñi tìm kiếm môi trường sống mới, chủ yếu vì các lý do kinh tế.
HỌC THUYẾT NHÂN MÃN Học thuyết nhân mãn của Thomas Robert MALTHUS (1766-1834), nhà kinh tế và dân số học người Anh. Trong công trình ñược tái bản ñến lần thứ sáu: Về nguyên tắc dân số liên quan ñến cải thiện tương lai của xã hội [An essay on the principle of population, as it effects the future improvement of society, 1798], Malthus chỉ ra nguyên nhân của nghèo khổ do tỷ lệ tăng trưởng dân số theo cấp số nhân, trên lý thuyết sẽ ñạt số lượng gấp ñôi trong vòng 20-25 năm, trong khi các ñiều kiện gia tăng của cải với sản xuất thực phẩm và ñồ tiêu dùng chỉ tăng theo cấp số cộng. Bùng nổ dân số và nghèo ñói sẽ ñe dọa vận mệnh nhân loại. Malthus gọi ñó là “cuộc ñấu tranh vì sự sống” hoặc “cạnh tranh sinh tồn” do cách mạng công nghiệp và ñô thị hóa. Học thuyết Malthus ảnh hưởng ñến học thuyết tiến hóa sinh học bằng chọn lọc tự nhiên của Charles Darwin. ðến những năm 1950, xuất hiện học thuyết nhân mãn mới (Neo-Malthusianism) chủ
CM Y tế?
Cách mạng Công nghiệp
Ðô thị hóa
Cách mạng Nông nghiệp
Trồng trọt
Săn bắt – Hái lượm
trương kiểm soát hạn chế sinh sản và kế hoạch hóa gia ñình. D â n s ố
T h ờ I g I a n
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 59 -
6,5 tỷ (2000)
BiỂU ðỒ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ THẾ GIỚI Kỹ thuật
5 tỷ (1980)
4 tỷ (1975)
3 tỷ (1960)
2 tỷ
Kim khí
1 tỷ
ðá mới ðá cũ
1.000
0 1.000 2.000
10.000 năm
5.000 năm
MẬT ðỘ DÂN SỐ ðÔ THỊ Mật ñộ dân số thời ñá mới khoảng 0,1 người/km2, tức mỗi người chiếm 500 ha. Thời kỳ phát triển nông nghiệp, canh tác theo kiểu khai hoang ñốt rẩy, tăng lên 2-3 người/km2; thời cổ ñại khoảng 4-10 người/km2; thời trung ñại, luân canh theo chu kỳ hai năm khoảng 10-15 người/km2; luân canh ba năm khoảng 15-35 người/km2.
Có thể so sánh, dân số nước Anh và Galles ñạt khoảng 1,5 triệu người thời La Mã, tức 10 người/km2; lên ñến 1.200.000 người cách nay 900 năm, tức 8 người/km2; khoảng 5 triệu vào cuối thế kỷ XVII, tức 35 người/km2; và khoảng 37.300.000 người năm 1965, tức khoảng 330 người/km2 [Nicholson, 1973:186]. Groenland có gần 60.000 dân, diện tích hơn 2,150.000 km2, mật ñộ dân số dưới 3 người/100 km2.
Năm 3000 trước Công nguyên, dân số thế giới 40-70 triệu; thị dân mới chỉ có 1-2 triệu; tỷ lệ ñô thị hóa 2 - 4%. Năm 1700, dân số thế giới trên ½ tỷ người (560-720 triệu); thị dân ñạt 60-80 triệu; tỷ lệ ñô thị hóa 10% (9-11%). Năm 1950, thị dân ñạt 29%; dự kiến ñến 2030 có 60% dân số ở ñô thị. Hiện tượng tập trung dân cư vừa có ñặc ñiểm liên tục, vừa không liên tục về không gian, làm cho phạm vi ñô thị càng rộng thì mật ñộ dân số càng giảm. 17.500 người/km2
: : : : 1,6 người/km2 1 người/5 km2 75.000 người/km2
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 60 -
– Trung tâm New York – Mongolia – Falkland (Argentina) (cid:1) Tân ðịnh (Tp.HCM, VN) Người ta gọi là hiện tượng “City” không chỉ có ở London mà hầu như ở khắp các thành phố trên thế giới, khi mật ñộ dân số kém hoặc trống không bất thường ở khu vực trung tâm do tác ñộng cạnh tranh giữa nơi ở và các hoạt ñộng kinh tế. London với hạt nhân trung tâm của City dân số gần như không ñáng kể (100 người/km2); vành ñai tiếp theo là không gian xây dựng trước 1914 có mật ñộ 8.400 người/km2; ñến vành ngoại ô là 3.800 người/km2; phần vành biên ở rìa ngoại ô là nơi thiết lập vành ñai xanh có mật ñộ 1.450 người/km2; và ở vành ngoài cùng là vùng không gian xanh bảo vệ có mật ñộ 600 người/km2 [Chaline, 1973].
Xu hướng giảm ñều dân số bắt ñầu từ khu trung tâm là hợp lý về mặt lý thuyết [Beaujeu-Garnier, 1995:170]. Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngược lại do các ñiều kiện lịch sử, mật ñộ dân số cao trong các khu phố cổ do ñường sá hẹp, nhà cửa chất chồng, nhất là trong các ñô thị cổ (médinas) ở các nước Hồi giáo hoặc ở các ñô thị cổ ở châu Á: thành phố Delhi cũ có 136.536 người/km2, trong khi ở thành phố mới (New Delhi) có mật ñộ 8.419 người/km2; ở khu vực trung tâm thành phố Bắc Kinh lên ñến 69.000 người/km2, song ở vành ngoại vi tiếp theo chỉ có 11.540 người/km2.
Hiện tượng tập trung dân cư ñược tính bằng mật ñộ dân số. Ở nông thôn, trong một số ñồng bằng chật hẹp và màu mỡ ở châu Á như Java, châu thổ sông Hồng, mật ñộ cũng chỉ ñạt 1 – 2.000 người/km2. Trong khi ở các thành thị cổ ñại có thể ñã ñạt mật ñộ dân số kỷ lục khi xem xét khu vực hạt nhân tách biệt với các khu vực nối dài ở bên ngoài.
ðô thị cổ (casbah) Alger ở Bắc Phi, trước năm 1879 là nơi có 91% các căn hộ bằng ñá khối chồng chất lên nhau thành nhiều tầng, ñã ñạt mức 200.000 người/km2, tức là 5 m2/người [Pelletier, 1959]; hoặc như thành phố Victoria (Hồng Kông) ñạt mật ñộ dân số tối ña là 250.800 người/km2. Trong khi New York, một trong các vùng ñô thị kết nối ñông nhất thế giới chỉ có 8.832 người/km2; hoặc Calcutta ñông dân ở Ấn ðộ cũng chỉ có hơn 33.000 người/km2.
Như vậy, theo quy luật chung, cấu trúc ñô thị cổ có dân cư dày ñặc hơn so với ñô thị hiện ñại. Cho nên, khi xem xét một hệ thống ñô thị nếu chỉ dựa trên các số liệu ñịnh lượng là không ñủ, mà cần bổ sung các dữ liệu ñịnh tính ñể ñánh giá các ñặc ñiểm quan hệ dân số/không gian, vì ngoài mật ñộ trung bình chung, còn có nhiều cách tính khác.
Ở Strasbourg, mật ñộ trung bình (tính gộp) là 2.567 người/km2, nhưng nếu trừ phần diện tích rừng, ñất bỏ hoang, trồng trọt và ñất trống chiếm 53,15% thì mật ñộ so với diện tích thực sự là 5.517 người/km2 [Nonn, 1962]. Hoặc ở Singapore, mật ñộ ở trung tâm là 75.000 người/km2, nhưng nếu trừ diện tích trống sẽ lên ñến 375.000 người/km2. Ngoài ra, còn có cách tính theo diện tích cư trú, ngoài diện tích không xây dựng còn trừ ñi diện tích ñường giao thông, cơ sở công nghiệp, hành chính, tôn giáo... Một cách tính khác dựa trên diện tích sàn ở, tức là xem xét số tầng sử dụng thực tế ñể ở, không kể mặt bằng dùng cho thương mại, văn phòng, nhà kho...
Trong vùng ðại Paris (Île-de-France), tính trung bình nhà ở riêng lẻ ñạt 16 căn hộ/ha; nhưng nếu là nhà cao tầng ở tập thể có thể ñạt 45 căn hộ/ha. Qua ñó cho thấy sự phức tạp, khó khăn hoặc tương ñối khi so sánh mật ñộ dân số khác nhau giữa các ñô thị. Chẳng hạn, thành phố London chỉ có 304 km2; nhưng với ðại London (khác với MPD – Metropolitan Police District) trải rộng trên diện tích 14.915 km2; còn ñối với vùng ñô thị kết nối London còn rộng hơn nữa. Cũng vậy, thành phố Paris chỉ có 105 km2, vùng ñô thị kết nối là 750 km2, nhưng vùng ñô thị kết nối mở rộng là 1.450 km2; thành phố Tokyo với 579 km2 có mật ñộ 14.000 người/km2, còn tính cho toàn vùng ñô thị kết nối có diện tích 2.031 km2 thì mật ñộ chỉ ñạt 5.000 người/km2; Bombay 41.300 người/km2, so với con số tương ứng là 9.400 người/km2. DÂN CƯ ðÔ THỊ
TĂNG TRƯỞNG DÂN SỐ ðÔ THỊ Tăng trưởng dân số là nguyên nhân và kết quả của quá trình ñô thị hóa, làm phát triển kinh tế các trung tâm ñô thị. Hiện tượng phi tập trung ñô thị nhờ phát triển các phương tiện giao thông làm tăng chuyển dịch dân số từ bên trong ra bên ngoài, phát triển dân số vùng ngoại ô, như các trường hợp ở Anh hoặc Pháp.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 61 -
Ở vùng Île-de-France, trong hai thập niên từ 1954-1975, các tỉnh ở ngoại vi như Essonne tăng dân số gấp ba lần; Yvelines và Val-d’Oise tăng gấp hai lần, trong khi các tỉnh ở vành ñai một chỉ tăng 30 – 40%; còn ở các hương trấn giáp Paris và ngay trong
thủ ñô thì giảm 22%. Như vậy, nhịp ñộ phát triển dân số ở các thành phố nhỏ và vừa nhanh hơn nhịp ñộ ở các thủ phủ lớn.
Ở Mỹ, từ những năm 1970, người ta nhận thấy dân số ở các quận nằm kề các vùng thủ phủ tăng cao. ðó là quá trình mở rộng ñô thị (urban sprawl) ra ngoại vi các ñô thị kết nối lớn do sự phát triển xe hơi, nới rộng công nghiệp ra ngoại vi và phát triển các cơ sở thuộc khu vực kinh tế thứ ba, ñặc biệt là thương mại. Ngoài ra, có hiện tượng phát triển các ñô thị nhỏ từ 25 – 50.000 dân trong các môi trường còn rất nông thôn khiến người ta ñặt câu hỏi “Phải chăng nông thôn hóa (ruralisation) sẽ tiếp nối ñô thị hóa?” [Lévy, 1975] 27. THÀNH PHẦN DÂN CƯ ðÔ THỊ
Ở các nước Tây Bắc Âu, ñặc biệt ở Anh, ñô thị hóa ngày nay diễn ra theo nhịp ñộ chậm, dân cư ñô thị tùy thuộc vào các yếu tố dân số hơn là tầm quan trọng của di dân. Nếu tính trên toàn bộ dân số quốc gia, giới nam có phần ít hơn giới nữ (92,4% ở Anh và xứ Wales), tỷ lệ dân cư ñô thị gồm 93,6% nam so với 100 là nữ. Tình hình này càng mất cân ñối hơn ở các vùng ñô thị kết nối: chiếm tỷ lệ 89,2% trong 7 ñô thị liên hợp ở Anh hoặc 88,4% chỉ tính vùng ñô thị kết nối London. Tình hình này cũng phản ánh thực tế toàn vùng ñô thị ở châu Âu: Số lượng ñàn ông / 100 phụ nữ của dân số ñô thị
93,6% 96,7% 92,6% 92,1%, so với 97,6% 93,1% 93,9 116,6% Anh + xứ Wales Thụy ðiển Tây Ban Nha Ailen Canada Mỹ Braxin Ấn ðộ (Nguồn: theo thống kê của Liên hiệp quốc) [Beaujeu-Garnier, 1995:182].
Trong các nước phát triển, phụ nữ có xu hướng thích tiện nghi ở thành thị hơn sinh hoạt ở nông thôn. Nhìn chung ở Bắc Mỹ, tỷ lệ ñàn ông so với phụ nữ trong dân số cao hơn ở châu Âu. Theo thống kê những năm 1920 và 1930 ở Mỹ, phụ nữ chiếm ưu thế ở thành thị. Nhưng trước ñó, làn sóng người di cư gồm ña số là ñàn ông: chiếm 68% trên tổng số năm 1900; 72% năm 1907; sau khi có luật hạn chế di dân, vẫn còn 56% năm 1925; nhưng ñến năm 1967 thì chậm hẳn chỉ còn 48%. Năm 1970, so với 100 phụ nữ trên tổng dân số, ñàn ông chỉ có 95,1%. Tuy nhiên, trong mỗi bang có tình hình khác nhau tùy hình thái ñô thị. Ở các ñô thị công nghiệp hoặc hầm mỏ, luyện kim... tỷ lệ nam chiếm ưu thế hơn nữ.
Cũng vậy, ở các nước ñô thị hóa nhanh như Braxin, trong khi tỷ lệ ñàn ông là 91,4 so với 100 phụ nữ ở thành thị thì ở São Paulo ñạt tỷ lệ 98; ở Ấn ðộ, trong các thành phố công nghiệp, tỷ lệ ñàn ông ñạt mức kinh khủng : 175,4% ở Calcutta; 162,6% ở Howrah; 130,7% ở Ahmenabad. Ngược lại, trong các ñô thị là trung tâm nghỉ dưỡng, nơi ở lý tưởng cho những người về hưu, tỷ lệ phụ nữ lại rất ấn tượng: vùng Bournemouth ở Anh, chỉ có 71,6% ñàn ông so với 100 phụ nữ; và sự mất cân bằng giới còn tăng lên so với ñộ tuổi, tính ra phụ nữ gấp ñôi ñàn ông khi trên tuổi 65. Hiện tượng này còn thấy ở vùng ngoại ô quanh London, nơi có nhiều phụ nữ ñộc thân là nhân viên văn phòng hoặc cơ quan hành chính ở thủ ñô. Vùng Nice ở Pháp ñược coi là thành phố
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 62 -
27 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 174-175.
phụ nữ, vì có 61% dân số là phụ nữ. Tình hình này cũng xảy ra ở Florida, nhất là ở California.
Ở châu Phi và châu Á, theo truyền thống ñàn ông thường ñến thành thị một mình, hoặc do họ còn ñộc thân, hoặc họ ñể vợ con ở lại làng xã, thỉnh thoảng về quê thăm. Sự mất cân bằng càng nhiều hơn trong các thành thị lớn và khi phải di chuyển xa hơn.
Tuy vậy, theo các thống kê gần ñây ở Ấn ðộ và một số nước ở châu Phi ñen, hiện tượng này ñang giảm dần. Chẳng hạn, ở Dakar, ñàn ông trên 30 tuổi ở thành thị nhiều hơn, chiếm 147%; trong khi phụ nữ từ 15-30 tuổi lại chiếm số ñông. Tình hình cũng rất khác biệt ở châu Mỹ Latinh. Thành phần cư dân ñô thị là phụ nữ ở các nước Braxin, Áchentina, Chilê, Vênêzuêla... chiếm số ñông, cũng giống như các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Thành phần dân số ở ñộ tuổi thanh niên rất phong phú là ñặc ñiểm cơ bản của dân cư ñô thị, bên cạnh số lượng trẻ em tương ñối hạn chế. Tỷ lệ dân số ñô thị theo ñộ tuổi Trên 60 tuổi STT Nước / ðô thị Từ 20 – 60 tuổi
Paris
1 Nước Mỹ 2 New York 3 Chicago 4 Houston 5 Los Angeles 6 7 Nước Braxin São Paulo 8 56 54,98 58,4 56,4 59,3 41,7 55,4 Dưới 20 tuổi 37,1 27,7 29,06 29,8 28,8 18,5 53 42,5
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 63 -
16,3 15,94 11,8 14,8 22,1 5,3 2,1 Nguồn: Thống kê các ñô thị lớn thế giới, 1992. Tokyo Metropolitan (Beaujeu-Garnier, 1995:184].
CHƯƠNG 5 Nông thôn và thành thị
Theo Lewis MUMFORD, thành thị xuất hiện trong xã hội loài người có tầm quan trọng giống như ngôn ngữ. Thành thị là ñộng lực của văn minh, là môi trường tối ưu ñể thực hiện các cải tiến kỹ thuật.
Về vai trò của thành thị, Paul Bairoch [1985] khẳng ñịnh: “Không có tiến bộ thực sự nào của văn minh mà không có thành thị”; trong khi theo F. Braudel: thành công ñầu tiên của văn minh phương Tây là “thâu tóm nông thôn và văn hóa nông thôn vào thành thị”. Trước những tác ñộng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp, F. Choay quan niệm: “Văn minh công nghiệp là ñô thị”, còn M. Rochefort cho rằng: “Nhà máy không làm nên thành thị”...
Trước các hiện tượng ñô thị hóa nông thôn, L. Mumford [1964:41] cho rằng: “Tăng trưởng dân số không ñủ biến làng thành ñô thị”. Nông thôn không tự mình chuyển biến ra thành thị, chỉ bằng việc tăng trưởng dân số. ðối với sự bùng nổ ñô thị, ñặc biệt ở các nước ñang phát triển, Paul Bairoch [1996] cảnh báo: “ðô thị hóa không ñi ñôi với phát triển”; và chỉ ra “lạm phát thành thị” ở các nước ñang phát triển. QUAN HỆ TRUYỀN THỐNG NÔNG THÔN – THÀNH THỊ
ðô thị tồn tại không phải do vận ñộng tự thân mà nhờ quan hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh, ñặc biệt là vùng nông thôn. Các không gian ngoại ô, ngoại thành, các vành ñai ngoại vi của thành thị không ngừng mở rộng, nhất là ñối với các vùng nông thôn liền kề, làm cho ñô thị phát triển như một hệ thống, vừa có chức năng là ñịa ñiểm trung tâm28, vùng thu hút thương mại, vừa có chức năng vùng tập hợp dân cư ñến từ khắp nơi, vừa có chức năng kinh tế, tài chính, kể cả hành chính ñối với nông thôn.
ðô thị vận hành theo hệ thống mở, tập hợp các quan hệ giữa ñô thị với không gian bên ngoài, ñặc biệt qua việc chiếm dụng ñất ñai. ðiều này dẫn ñến hai quan niệm khác nhau về quan hệ giữa hai thế giới nông thôn và thành thị: hoặc là quan hệ ñối lập, mâu thuẫn, xung ñột, hoặc là quan hệ tương tác, phụ thuộc lẫn nhau.
ðỐI LẬP VÀ MÂU THUẪN Quan niệm thành thị “ñối lập” với nông thôn do quan hệ khác biệt giữa hai nền văn minh truyền thống về lương thực và hiện ñại có tính ñầu cơ. Nông thôn phụ thuộc vào khu vực kinh tế thứ nhất, trong khi hoạt ñộng thành thị thuộc khu vực kinh tế thứ hai và thứ ba. Văn minh ñô thị làm biến ñổi môi trường nông thôn, di dân nông thôn ñổ xô về thành thị làm suy giảm trầm trọng dân số nông thôn, và những va chạm giữa các ứng xử theo tập quán phong tục truyền thống và các giá trị hiện ñại…
Ngay từ thời Trung ñại, văn minh ñô thị và nông thôn khác nhau ñã về hình thái, chức năng và tư pháp, ñặc biệt ở các vùng nam châu Âu, từ vùng tây bắc ñến vùng Aquitaine tây nam nước Pháp. Sự khác biệt ñược xác ñịnh nằm trong biểu hiện vật chất và tổ chức ñời sống: mô hình làng xã tập hợp nông dân ñể trồng trọt, khai thác và chăn nuôi ñại gia súc hơn là chỗ ở; nên tập hợp nông dân ít có quan hệ, ngoại trừ quan hệ tôn giáo tín ngưỡng; trong khi các hoạt ñộng chủ ñạo ở thành thị là thủ công và thương mại, ñời sống cộng ñồng bị chi phối bởi các thiết chế riêng, rất nghiêm ngặt về tư cách pháp lý.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 64 -
28 Walter Christaller sau khi nghiên cứu các ñô thị ở miền nam nước ðức ñã ñưa ra lý thuyết ñịa ñiểm trung tâm [1933] về thứ bậc các trung tâm phụ theo sơ ñồ hình lục giác dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc thị trường theo quy luật cung – cầu về kinh tế; nguyên tắc vận tải và nguyên tắc hành chính của ñô thị.
Quan hệ duy nhất giữa hai mô hình về kinh tế và dân số này là chợ, nơi mua bán trao ñổi. Nhưng xã hội xung quanh chợ và chức năng hành chính của ñô thị theo mô thức khác với xã hội nông thôn.
Ngoài ra, mô thức thành lũy (bastide) cuối thời Trung ñại (thế kỷ XIII-XIV), tập hợp dân số các vùng bị chiến tranh tàn phá, kết hợp mọi loại hình kinh tế của vùng, kể cả nông nghiệp, ñối lập với các ñô thị cổ ở miền Nam.
Truyền thống vùng ðịa Trung Hải khác với châu Âu, do gắn với các ñặc ñiểm chủ yếu của luật La Mã, ñúng hơn là do có nguồn gốc văn minh tiền La Mã... ðó là tập hợp các cư dân, nông dân cũng như nghệ nhân và thương nhân, thành các cộng ñồng ñược tổ chức rất vững chắc và bảo ñảm phòng thủ; chăn nuôi gia súc ít quan trọng; nhà ở của nông dân khá giống thị dân, khó phân biệt. Và nhờ liên kết các chức năng nông nghiệp, thủ công và thương mại, làng gần gũi với thành thị, khác xa mô hình làng vùng tây bắc châu Âu... Nhìn chung, thành thị ñược khai sinh từ synœcisme – tập hợp cộng ñồng nhiều làng trong một nhà nước mới ở cổ Hy Lạp... [George, 1952:42-43].
KHÁC BIỆT VÀ TƯƠNG PHẢN MỨC SỐNG Cuộc cách mạng công nghiệp ñánh dấu thời kỳ suy tàn của cấu trúc xã hội nông thôn và thời kỳ hoàng kim của văn minh thành thị. ðến ñầu thế kỷ XIX, vẫn chưa có nước nào ñạt trên 20% dân số ở thành thị (Anh 16,9%; Mỹ 3,8%); nhưng sang ñầu thế kỷ XX, nhiều nước công nghiệp trên thế giới ñã trở thành nước ñô thị hóa cao (hình).
80
70
60 50
Anh
40
Mỹ M?
30
Pháp (1816)25.5 Ph? (1816)25. 5
20
10 0
1801
1920
Giữa ñô thị và nông thôn có nhiều khác biệt, thậm chí tương phản lẫn nhau. Khác biệt cơ bản trước hết thành thị là môi trường nhân tạo, không gian ngày càng rộng mở, vừa có lực hút và lực ñẩy ñối với các khu vực ngoại vi ở xung quanh và có quan hệ kết hợp với các ñô thị; trong khi nông thôn phụ thuộc vào môi trường tự nhiên, hoạt ñộng nông nghiệp theo chu kỳ thời tiết; tổ chức không gian nông thôn có giới hạn – quy mô nhỏ, giãn cách giữa các làng, nơi ở gần nơi làm việc; hệ thống xã hội có sự tương tác và kiểm soát lẫn nhau trong nghề nghiệp, ñời sống gia ñình và nhiều phương diện khác; hệ thống văn hóa tương ñối ñồng nhất – cả làng cùng chia sẻ một thứ văn hóa, ñược coi là tích cực bên trong nhằm bảo tồn bản sắc, và tiêu cực bên ngoài do phân biệt làng này làng khác29.
Ngoài ra, ñó còn là do khác biệt về mức sống, lối sống và tiện ích tiêu dùng. So với nông thôn, thành thị khác biệt rõ rệt về mức sống và các cơ sở trang bị: lương cao, trình ñộ học vấn tốt hơn, tiếp cận các dịch vụ và thông tin, tỷ lệ sinh – tử thấp hơn.... Quá trình ñô thị hóa tỷ lệ thuận với mức sống.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 65 -
29 Jean Remy và Liliane Voyé, La ville: vers une nouvelle définition?, Éd. L’Harmattan, Paris 1992, tr. 21-24.
Thành thị không chỉ tiêu thụ, mà còn có các hoạt ñộng trung gian và ñược tổ chức theo một cơ chế riêng là thương mại, bán sỉ hoặc bán lẻ[Beaujeu-Garnier, 1995:281]. J. F. Troin [1974] chứng minh vai trò của các chợ (souks) ở Maroc trong các hoạt ñộng thương mại. Thành thị có sự năng ñộng ngay chính bản thân nó. Sự năng ñộng này có các biểu hiện khác nhau, song trước hết phải phù hợp với chợ và các hội chợ, nơi mở ra các cơ hội gặp gỡ trong quan hệ thành thị-nông thôn về tổ chức thương mại theo ñịnh kỳ ñều ñặn.
Chợ cũng là ñịa ñiểm tiếp xúc, trao ñổi thông tin, so sánh sản phẩm, trao ñổi từ vùng này ñến vùng khác; ñó cũng là khu vực việc làm và các dịch vụ, trung tâm tiêu dùng, truyền bá thông tin và ñổi mới, trung tâm vui chơi giải trí... Cho nên, thành thị cần các ñịa ñiểm thích hợp ở ngoại vi cho các sân vận ñộng, các cơ sở giải trí, không gian xanh, nơi ở phụ... nhờ mức sống tăng cao và vận chuyển thuận tiện [Cribier, 1969]. QUAN HỆ TƯƠNG TÁC THÀNH THỊ - NÔNG THÔN
Quan hệ tương tác trên cơ sở phụ thuộc lẫn nhau, thành tố văn hóa nơi này có thể là tiền ñề, ñiều kiện tác ñộng, chuyển hóa nơi kia. ðó là các tương tác về dân số, môi trường và phát triển; giữa ñô thị hóa và phát triển bền vững.
TƯƠNG TÁC PHỤ THUỘC Thành thị - nông thôn phụ thuộc lẫn nhau trước hết về dân số. Thành thị và vùng ñô thị kết nối càng lớn, các hoạt ñộng thương mại phát triển, có nhiều nhà máy, văn phòng thì có thể tập trung dân cư từ các nơi xa. Nhờ các phương tiện giao thông nhanh chóng và hiệu quả, dẫn ñến hiện tượng di chuyển con lắc (commuting) ñể ñi làm việc hàng ngày tăng cao, từ nơi ở ñến nơi làm việc và ngược lại.
Cũng vậy, ñịa bàn cung cấp lương thực thực phẩm cho thành thị không chỉ phụ thuộc ngoại thành và vùng nông thôn lân cận mà ngày càng xa hơn. Các nghề thủ công, hoạt ñộng gia công ở nông thôn gắn với thị trường thành thị, và thành thị chi phối các hoạt ñộng tiền tệ, tài chính, tín dụng ở nông thôn, kể cả ñầu cơ và sở hữu ñất ñai.
Thành thị có xu hướng ñưa các hoạt ñộng sản xuất công nghiệp, kể cả thương mại ra vùng ngoại vi, nhờ ñó duy trì dân số, việc làm và nhà cửa ở nông thôn, góp phần ñô thị hóa nông thôn, ñể cư dân sống ở nông thôn vẫn có thể tiếp cận các tiện ích thành thị, biến ñổi nông thôn không còn chỉ gắn với các hoạt ñộng nông nghiệp. Gần ñây, phát triển mạnh xu hướng tìm nhà ở nông thôn, có thể coi là biểu hiện phản ứng ñối với các thành phố lớn ồn ào và chật chội [Kayser, 1990]. Có thể khái quát mấy ñặc ñiểm quan trọng từ quan hệ tương tác thành thị-nông thôn như sau:
1- Dân cư nông thôn không ñồng nhất với nông nghiệp, không hẳn là dân số nông nghiệp. Nông thôn còn là nơi ở của thợ thủ công, thương nhân, nhà giáo, thầy thuốc, người về hưu… chưa kể số người cư trú ở nông thôn ra làm việc ở thành thị gần ñó.
Theo nghiên cứu của R. Blanchard ở Annecy, ngay từ thời kỳ ñầu thành thị ñã bao gồm nhiều nông dân, với xu hướng ngày càng gia tăng: năm 1838, 68,5% thị dân sinh ra ở thành thị, 27,5% sinh ra ở nơi khác; năm 1919, con số tương ứng là 37,5% và 40,5%; ñến năm 1954, 31% và 33,5%.
Ở Colmar thế kỷ XVI, có hơn ½ là nông dân; ñến năm 1773 vẫn còn hơn 1/3. Ở Mỹ, ñến năm 1970 nông dân chỉ chiếm 20% dân số ở nông thôn. Ở Pháp, năm 1954, còn 44% dân số ở nông thôn, nhưng chỉ có 22,3% là nông dân; ñến 1962, tỷ lệ tương ứng là 36,6% và 18%. Trong khi tại Auxerre, ñến năm 1950 chỉ có ¼ thị dân sinh ra ở thành thị.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 66 -
Theo H. Lefebvre: “Ở châu Âu, nông thôn có trước công nghiệp và thành thị phát triển trong môi trường nông thôn... nên ở mức ñộ nào ñó có thể nói về “văn hóa” nông
thôn. Còn ở Mỹ, nông thôn tiếp nhận các mô thức văn hóa của mình từ thành thị”30. Trong ñiều kiện này, có thể hiểu nơi ở không nhất thiết giống như trước nữa... tức là nông thôn không hẳn chỉ có nông dân.
2- Hiện tượng di chuyển ñi làm việc hàng ngày (commuting). Thông thường, trong phạm vi bán kính 30 – 60 km từ trung tâm thành thị, tương ứng 40 phút – 1 giờ ñi bằng ôtô, tạo nên vành ñai người di chuyển ñi làm việc (commuters’ belt). Nông dân di chuyển vào thành thị làm việc thường xuyên dần dần thâm nhập các tiện ích, lối sống thành thị vào nông thôn. Nông dân góp sức lao ñộng cho thành thị; thị dân phân phối tiền lương hoặc lợi tức của mình cho nông thôn. Mặt khác, người làm việc ở thành thị cũng cần “commuting”, với ý nghĩa là cần không gian thoáng rộng hơn, có không khí yên tĩnh hoặc trong lành hơn và có giá nhà ở phù hợp hơn.
3- Chuyển biến quan hệ cư trú thành thị - nông thôn. Nơi cư trú của thị dân ngày càng mở rộng ra xa khu trung tâm, hình thành các vùng ngoại ô. Vùng ngoại thành ñô thị hóa tạo nên các ñô thị kết nối, ñô thị lớn (mégalopolis), hoặc tạo ra hiện tượng cận ñô thị hóa, còn gọi là ñô thị hóa ngoại thành (suburbanisation).
Trong quan hệ này, khung cảnh nông thôn nhìn bề ngoài ít bị ảnh hưởng, song dân số nông nghiệp giảm sút nhanh chóng, bị tác ñộng bởi các tiện ích và lối sống ñô thị, làm cho nông thôn biến thành khu vực ngoại vi của thành thị (périurbaines).
4- Quan hệ kinh tế thành thị - nông thôn có ñịa bàn ngày càng mở rộng. Nhờ giao thông vận tải phát triển, thành thị ít phụ thuộc vào cung cấp sản phẩm của vùng nông thôn xung quanh. Tuy nhiên, thành thị vẫn duy trì và phát triển quan hệ kinh tế với nông thôn dưới hai hình thức: sở hữu ñất ñai ở nông thôn và thương mại hóa các sản phẩm nông nghiệp.
Hàng năm, ở những vùng lúa mì như Dakotas (Mỹ) hoặc Saskatchewan (Canada)... người khai thác ñất ñai chỉ ñến ở vài ba tuần, khoảng giữa tháng 5 và tháng 9, ñi bằng xe hơi hoặc máy bay, ñể làm ba việc cần thiết cho trồng trọt ngũ cốc là cày, gieo và thu hoạch; thời gian còn lại họ sống ở thành thị [Rougerie, 1975:147].
Trước năm 1950, các nhà công nghiệp ñầu tư phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp ở nông thôn bằng phương thức sản xuất gia công impannatore, không cần ñặt nhà máy. Tuy nhiên, xu hướng công nghiệp hóa tại chỗ ở nông thôn là nhu cầu thực tế hơn ñối với nguồn nhân lực ở nông thôn.
CHỨC NĂNG HÀNH CHÍNH CỦA THÀNH THỊ Trên thực tế, thành thị là nơi xác lập vai trò và chức năng hành chính, nhất là các hoạt ñộng thu thuế và cảnh sát. ðó chính là bộ xương nắm giữ mọi cơ cấu lãnh thổ, do chính quyền trung ương kiểm soát.
Theo Miossec và Signoles [1978], các thành thị tăng trưởng nhanh nhất là các thành thị tách biệt, ñóng vai trò là trung tâm hành chính [Beaujeu-Garnier, 1980, 1995:286]. Sự can dự hành chính chiếm một tỷ lệ lớn các công việc thuộc khu vực kinh tế thứ ba, gồm 40% ở các thành thị Tunisie, chiếm 18% tổng số việc làm ở ñô thị.
Chức năng hành chính của thành thị không chỉ củng cố vững chắc hơn sự thống trị của Nhà nước ở các ñịa phương, mà còn làm tăng trưởng dân số và kinh tế, mở ñường cho việc thiết lập các cơ sở khác như trường học, bệnh viện, thương mại và các cơ sở dịch vụ tư nhân... dựa trên ưu thế tổ chức các hoạt ñộng vận tải. Gắn với hành chính, vận tải là phương tiện thiết yếu mà nếu thiếu nó thì mọi chức năng và ngay cả sự tồn tại của ñô thị trở nên vô hiệu.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 67 -
30 H. Lefebvre, Du rural à l’urbain, 1970. Dẫn theo Gabriel Rougerie, Les cadres de vie, PUF., 1975, tr. 142.
Việc cải thiện hệ thống vận tải hoặc các phương tiện giao thông dẫn ñến hội nhập các phạm vi lãnh thổ rộng lớn, tạo nên sự thay ñổi lập tức về kiểu canh tác và khai thác dọc theo các tuyến ñường như trồng rau ở Yaoundé, khai thác lâm sản ở Libreville.
Beaujeu-Garnier và Delobez [1977] nêu ra trường hợp các nước XHCN thường lẫn lộn giữa phạm vi ảnh hưởng của một trung tâm ñô thị và cường ñộ vận hành của nó với các cơ cấu hành chính vốn không có cùng ý nghĩa. Cơ cấu thương mại có ñặc ñiểm phân chia không gian mang tính cạnh tranh; trong khi cơ cấu hành chính phản ánh sự áp ñặt về tổ chức trên phạm vi quốc gia. Chẳng hạn, các cơ sở y tế, trường học có thể trùng khớp về ñịa bàn với các lĩnh vực khác nhau về chính trị, tôn giáo, quân sự hoặc cảnh sát, song mang tính chất rất khác biệt.
Ở Ghana và ở các nước mới ñộc lập như Algérie, Bờ Biển Ngà, các trung tâm ñô thị hình thành gắn chặt với các trung tâm hành chính và có quan hệ mật thiết giữa thành thị với các thị trấn ở nông thôn như một số khu vực châu Mỹ Latinh. ðiều này cho thấy: “Tổ chức hành chính của thành thị có tầm ảnh hưởng và có ý nghĩa nhất ñối với không gian xung quanh, ngoài hoạt ñộng kinh tế” [Marguerat, 1974]; và nhiều trường hợp trong kinh tế, thông qua ñầu tư, có những ñiểm chung với quản trị hành chính [Lefort, 1976]31.
Tuy nhiên, tác ñộng về tài chính ñóng vai trò chủ yếu và ngày càng quan trọng ở nông thôn, làm biến ñổi nông nghiệp, phát triển thương mại và vận tải, cải thiện các hoạt ñộng dịch vụ, ñổi mới quan hệ thành thị - nông thôn. ðể có tiền ñóng thuế, ñầu tư mùa vụ, cho con cái ăn học... nông dân cần tham gia quy trình sản xuất ra ñể bán. ðất ñai trở nên có giá, từ tài nguyên tự nhiên ñể khai thá c trở thành phương tiện sản xuất, hàng hóa trao ñổi; và hệ thống sở hữu theo truyền thống cũng thay ñổi về chất: khái niệm sở hữu tập thể thay thế khái niệm sở hữu tư nhân.
Tình hình này trước ñó ñã xảy ra ở châu Âu thời Trung ñại cho ñến ñầu thế kỷ XIX, làm biến ñổi các quan hệ giữa thành thị-nông thôn, hình thành nên các “xứ, vùng” (pays, contadi), phụ thuộc vào hạt nhân ñô thị trung tâm như Toulouse, Metz, Mâcon, Liège, các thành thị ở Ý... Giới tư sản dân sự hoặc tôn giáo liên quan ñến việc thúc ñẩy gia tăng sản xuất nông nghiệp ñể tăng thêm lợi tức; trong khi giới thương buôn, thông qua phân công lao ñộng, lo phát triển thị trường, lưu thông hàng hóa. Người ta phân biệt ít nhất hai loại trung tâm, với phạm vi ảnh hưởng khoảng 48 km và 24 km, với ñiều kiện là có thể tiếp cận trực tiếp ñến trung tâm nhờ các phương tiện vận tải, cơ sở hạ tầng và tốc ñộ [Juillard, 1970].
Theo truyền thống, thành thị ñược ñịnh nghĩa là vùng dân cư phi nông nghiệp. Tuy nhiên, thành thị có thể xác lập dựa trên căn cứ: cấp ñộ khu vực kinh tế thứ ba (không trực tiếp sản xuất); tầm ảnh hưởng của thành thị; chất lượng cơ sở trang bị tiện ích và các dịch vụ.
R. Dugrand phân biệt thành thị khác với làng, thị trấn hoặc những vùng không buôn bán sỉ (trừ mặt hàng lương thực)… Song trên thực tế, thị trấn ở nông thôn cũng là trung tâm thu hút và có tầm ảnh hưởng ñến một số vùng như các thành thị nhỏ.
Các quan hệ thành thị - nông thôn còn ñược củng cố nhờ tiến bộ của các phương tiện truyền thông, giao thông vận tải ngày càng nhanh chóng và hữu hiệu, làm thay ñổi các ñiều kiện sống, lối sống, phổ biến các tư tưởng và thông tin.
Các nước kém phát triển ñều có ñô thị hóa thấp, chỉ có khoảng 25-30% dân số ở thành thị. Trong khi thành thị ngày càng phát triển “bền vững”: môi trường sống tốt, cải
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 68 -
31 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 286.
thiện nhà ở, ñi lại, thu nhập. Môi trường ñô thị ngày càng mở rộng phạm vi tương tác, không chỉ ở ñịa phương, mà cả khu vực và toàn cầu.
HIỆN TƯỢNG DI DÂN Hiện tượng di dân bắt ñầu sớm nhất ở Anh (TK XIX), Pháp (giữa 1848 và 1881), Mỹ (1880-1890), Ý (1930 ở vùng núi và sau thế chiến II ở ñồng bằng), Nhật (1950)… Chính hiện tượng này là một trong các nhân tố chủ ñạo tạo nên cuộc cách mạng về dân số. Phân biệt hai hiện tượng di dân: nông thôn và thành thị.
* DI DÂN NÔNG THÔN P. Anderson GRAHAM trong công trình The Rural Exodus, the problem of the village and the town [1892] coi di dân nông thôn là thảm họa, vì sẽ làm nông thôn suy sụp, nơi mức tử còn khá cao. Ngày nay, di dân nông thôn ñược quan niệm do hệ quả nhân khẩu thừa tương ñối ở nông thôn và cơ hội việc làm lớn hơn ở thành thị. Di dân nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa bao gồm hai hiện tượng: lao ñộng nông thôn bỏ ra thành thị là quá trình ñã diễn ra liên tục; dẫn ñến hệ quả dân số nông thôn ngày càng giảm.
* DI DÂN ðÔ THỊ Di dân ñô thị (escurbanisation) diễn ra khá thường xuyên, nhất là ở các nước phát triển. Ngoài ra còn có nhiều cuộc di dân khác, trong nội vùng ñô thị, giữa các vùng nông thôn, và di dân từ thành thị này ñến thành thị khác, gây ra hiện tượng biến ñộng dân số ở thành thị.
Xe ô tô xuất hiện, trở thành phương tiện cơ giới hóa cá nhân. Con người có khả năng cơ ñộng cao, có thể sống ở nông thôn và làm việc ở ñô thị. Nông thôn ñược hưởng các tiện ích mà trước kia chỉ có ở thành thị: ñiện, nước, gaz; radio, ñiện thoại, TV; nhà ở thông thoáng… Trong khi thành thị lớn lâm vào khủng hoảng: tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm, ñắt ñỏ. Từ ñó, có hiện tượng di dân từ vùng trung tâm và mở rộng ra vùng ngoại vi, tái phân bố mới các chức năng bên trong không gian ñô thị.
Các thành thị nhỏ, thị trấn có hiện tượng dân số tăng lên, nhờ phát triển các trung tâm dịch vụ. Bên cạnh ñó, phát triển công nghệ dẫn ñến hiện tượng tập trung dân số trong các quần thể ñô thị lớn và ở các ñô thị kết nối. Người ta gọi ñó là xu hướng tiêu thụ không gian nhiều hơn tỷ lệ gia tăng dân số, tạo nên các vùng ñô thị.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NÔNG THÔN Bên cạnh cuộc chiến nồi ñất và nồi sắt giữa nghề thủ công cổ truyền ở nông thôn với sản phẩm ñại công nghiệp ở thành thị, việc thiết lập hệ thống ngân hàng lớn ñã thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ nông thôn về thành thị. Jean Labasse [1955] coi sự xâm nhập của ngân hàng vào nông thôn là một trong những biến ñổi lớn nhất của thế kỷ XIX.
Hoạt ñộng nông nghiệp ngày càng ít sinh lợi hơn so với khoản thu chênh lệch của thương nghiệp hoặc công nghiệp. Giá lương thực thực phẩm ñưa vào thành thị tiêu thụ ñắt gấp ñôi hoặc nhiều hơn so với trị giá sản phẩm ở nông trại (mặc dù ñó không phải lãi ròng). ðể chống lại chênh lệch lợi nhuận quá mức, theo Leclerc, thương mại còn là dịch vụ công. Giá cả nhiều ngành hàng nông sản như lương thực, sữa… không bị thả nổi tự do mà do Nhà nước ấn ñịnh. Song có thể nhận thấy mọi cố gắng tỏ ra không có nhiều hiệu quả.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 69 -
Hiện tượng ñầu cơ ñất ñai là do các thương nhân hoặc các nhà công nghiệp ở thành thị muốn kiểm soát từ gốc nguồn sản phẩm của mình. ðầu cơ không phải là sự lệch chuẩn của chủ nghĩa tư bản, mà ñó là thực thể cốt yếu của nó. Nông nghiệp ngày càng bần cùng, các nghề thủ công biến mất dần ở nông thôn, và tiểu công nghiệp nông thôn không ñủ sức cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng loạt.
Công nghiệp hóa nông thôn là cuộc ñấu tranh không cân sức giữa nông thôn và thành thị. Do ñó, ñô thị hóa nông thôn là yêu cầu cấp thiết trong quá trình ñô thị hóa.
ðÔ THỊ HÓA NÔNG THÔN Thành thị là gạch nối giữa kinh tế công nghiệp và kinh tế nông thôn cũ, là ñiểm gặp gỡ ñể dần dần làm cho tương ñồng và tiến hành thống nhất kinh tế, bó chặt trong các mắt lưới cùng một hệ thống các thành thị và nông thôn [George, 1952:66].
ðô thị hóa nông thôn (rurbanisation) hay là quá trình chinh phục nông thôn của thành thị, mới xuất hiện từ những năm 1960, nhiều nhất ở các nước phát triển. ðó là biến ñổi các làng xã, lúc ñầu là nông thôn, tách biệt với thành thị, trong các hương trấn ñang ñô thị hóa, bằng cách xây dựng các loại nhà ở cá nhân hoặc tập thể và các trang bị chức năng xuất phát từ thành thị. Khác với ñô thị hóa vùng ngoại vi (périurbanisation) vốn là các khu ñất phân lô, các quần thể kiến trúc mới hoặc khu ñô thị mới, có tính liên tục với khu trung tâm ñô thị.
Ba nguyên nhân ñô thị hóa nông thôn: 1. Lực ñẩy ñô thị, do giá ñất cao và các bất lợi khác như lưu thông khó khăn, bụi, ô nhiễm hoặc có khi vì mất an ninh;
2. Lợi thế riêng ở nông thôn ngoại vi, ít ra trong thời gian ñầu, tránh các bất lợi ở thành thị và thường có quãng ñường ñi lại gần trung tâm các vùng hoạt ñộng và các trung tâm thương mại ở ngoại vi.
3. Thay ñổi lối sống nhờ phổ biến xe hơi và các tiện nghi trước kia dành cho thành thị: ñiện thoại, ñiện, ga, tủ lạnh, tủ ñông... Theo J.-F. Gravier, cấu trúc “ngoại thành
liên tục” với ñô thị. Các vành ñai xanh (green belts) nhanh chóng ñô thị hóa. Không hiếm trường hợp các làng nằm trong vùng ñô thị - nông thôn kết nối (agglomération) tăng gấp ñôi hoặc gấp ba dân số, có chức năng ña trung tâm, hình thành các ñô thị liên hợp (conurbations); khuynh hướng di dời các nhà máy hoặc nhà kho ra vùng ngoại thành; công nghiệp hóa có khuynh hướng xây dựng cơ sở dọc tuyến ñường sông, ñường sắt hoặc trục lộ giao thông huyết mạch, các xa lộ như ở Mỹ, tạo ra các ngân hà ñô thị (mégalopolis); không gian tự nhiên của thành thị trở nên vô tận, không có ñiểm kết thúc như trường hợp mégalopolis vùng ðông-Bắc Mỹ (600 km giữa Washington và Boston), Nhật (trên 500 km từ Tokyo ñến Osaka)…
B. Verlet nhận ñịnh: “Phát triển thành thị ở phương Tây là một quá trình lâu dài. ðó là sự thích ứng tiệm tiến giữa tự nhiên và con người… Trong khi công nghiệp hóa dẫn ñến quy hoạch ñô thị không phải là kết quả của nền văn minh nông nghiệp cổ, mà ñiểm khởi ñầu là công nghiệp nặng…”. Nông nghiệp càng hiện ñại hóa càng tiến ñến loại bỏ nông thôn(?!). Vì theo nguyên tắc chung, hiện tượng di dân nông thôn tạm thời chỉ diễn ra ở nơi nào không có công nghiệp hóa nông thôn.
Chombart de Lauwe ñề cập “khu vực kinh tế thứ ba của nông nghiệp” với việc hình thành các trung tâm dịch vụ ở nông thôn. Các trung tâm này có thể vừa là các trung tâm kỹ thuật, hành chính, xã hội và văn hóa, có thể giảm bớt phần nào những bất lợi do thiếu ñô thị hóa trên không gian tự nhiên rộng lớn của vùng nông thôn.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 70 -
Mặc dù vậy, các nước công nghiệp phát triển ngày càng ñòi hỏi bảo vệ không gian tự nhiên, tức là di sản không gian nông thôn theo truyền thống, giống như các công trình di tích lịch sử!
TƯƠNG LAI QUAN HỆ THÀNH THỊ - NÔNG THÔN Giao thông vận chuyển tiến bộ là cơ sở làm biến ñổi các ñiều kiện truyền thống trong quan hệ thành thị-nông thôn. Các phương tiện vận chuyển vật chất, phổ biến tư tưởng và thông tin. Các phương tiện vận chuyển liên tục xuất hiện ngày càng nhanh hơn, hữu hiệu hơn ñã làm thay ñổi ñiều kiện sống.
Kể từ thế kỷ XIX, ñường sắt ra ñời làm cho thành thị vượt qua các giới hạn ràng buộc trong môi trường tự nhiên tại chỗ. Xe hơi làm cho không gian thành thị lan tỏa không còn theo hình sao mà rộng khắp, lấp ñầy các khoảng trống ở ngoại vi. Thành thị tỏa thành vành liên tục ra ngoại ô. Nhờ các tiến bộ về máy móc và xây dựng ñường cao tốc, các phương tiện vận chuyển cá nhân ñã làm thay ñổi ñời sống con người và xã hội.
Ngày nay, máy bay trở thành phương tiện thông dụng, vượt qua mọi khoảng cách ñịa hình. Nhưng quan trọng hơn hết là các phương tiện thông tin ngày càng phổ biến, từ báo chí, ñến truyền thanh, truyền hình, không chỉ ở thành thị mà xuống tận nông thôn. Hệ thống bán dẫn (transistor) lên ngôi mà không cần nhiều cơ sở hạ tầng, giống như xe hơi so với các loại phương tiện vận chuyển truyền thống khác.
Ở các nước phát triển, cách biệt của thế giới nông thôn với thành thị nhỏ ở ñịa phương (thị trấn), nơi người ta mang nông sản ra chợ, ñể gặp gỡ và trao ñổi thông tin không còn nữa. Ngày nay, mọi thứ ñều phải nhanh. ðó là ñòn xeo hiệu quả mà thành thị ở ñịa phương chiếm giữ một phần các chức năng truyền thống, làm trung gian giữa nông thôn và thế giới bên ngoài32.
Không dừng lại ở ñó, phép lạ viễn thông còn giúp con người nói chuyện hoặc nhìn thấy nhau mà không cần gặp gỡ; có thể ñiều hành, chỉ ñạo từ xa nhờ máy tính, rôbô và các khám phá khác ñã thay thế sự hiện diện của con người trên một phạm vi nào ñó. Không còn là con người với ñất ñai, con người với thành thị, mà từ nay là con người với máy móc.
Thông qua những biến ñổi về kỹ thuật, con người về mặt tâm lý cũng thay ñổi cách thức ứng xử. Người ở nông thôn không cần thiết phải hoạt ñộng nông nghiệp, bằng chứng hiển nhiên là việc di chuyển ñi làm việc mỗi ngày không ngừng mở rộng, nên họ không còn theo lối sống khác, mà cũng tham gia vào nền văn minh tiêu dùng. Nông thôn và thành thị dần dần ñều có những công xưởng, có cùng hệ thống thương mại và cùng các mối bận tâm như nhau. Con người muốn ñi xa vì bị kích thích tìm cách thay ñổi nơi ở; ñòi hỏi có nhiều thời gian nghỉ ngơi, nên nông dân bỏ dần nghề chăn nuôi vì họ cho là bị gò bó.
Con người cần ñến máy móc, nếu không nói lệ thuộc vào máy móc là ñặc ñiểm chung ñối với toàn bộ cư dân, dù ở ñô thị hay ở nông thôn. Thêm vào ñó là thói quen tiền tệ phát triển. Ở thành thị, mọi thứ ñều phải trả tiền; mọi người ñều phải tính toán khả năng mua sắm theo mức sống của mình. Ở nông thôn ngày nay cũng vậy. Nông nghiệp ñòi hỏi phải bảo hiểm, trợ cấp, giá cả ñịnh trước và làm sao có lợi tức tương ñương với mức sống ở thành thị. Vì vậy, khi ngày nay thị dân cảm thấy mệt mõi với thành thị, họ cũng ñòi hưởng các lợi ích như nông dân: trở lại với ñời sống tự nhiên, có không gian xanh, nhà ở cá nhân, nông nghiệp sinh thái. Nếu như ngày xưa, kể cả ở các nước ñang phát triển hiện nay, thành thị ñược coi là miền ñất hứa, thì ngày nay ở các nước phát triển có thể nói là người ta có ý thức và phản ứng ngược lại.
Hệ thống thành thị-nông thôn có sự cộng sinh, liên kết chặt chẽ với nhau theo truyền thống. Công nghiệp hóa phát triển ñã gây nên ñảo lộn ñầu tiên, ñó là tạo ra các thành thị ít còn quan hệ với nông thôn. Ngày nay có hiện tượng ngược lại, ñó là sự chi phối từ
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 71 -
32 Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 288.
bên ngoài trên toàn bộ sinh hoạt của ñô thị, biểu hiện do các tác ñộng của Nhà nước và các hoạt ñộng ñầu tư.
Ở các nước XHCN, quyền lực Nhà nước là tối thượng, trong khi ở các nước tư bản ngày càng trở nên ñộc tài hơn thông qua các văn bản pháp quy, quy hoạch ñô thị và các quá trình tài chính. Thành thị nằm trong tay Nhà nước, vì các thành thị nhỏ và trung bình không thể ñối mặt với các vấn ñề tăng trưởng; các ñô thị thủ phủ lớn cũng không thể tài trợ cho các biến ñổi và quản lý của mình. Nhiều ñô thị lớn như New York, Tokyo, Madrid, Barcelona ñều ở bên bờ vực phá sản. Nhà nước-tài chính cân ñối sự trợ giúp và bảo ñảm một số nghĩa vụ nào ñó, làm cho thành thị mất ñi phần nào quyền tự chủ quản lý môi trường của mình [Smith, 1988].
Một sự kiện khác nguy hiểm không kém là ñầu tư, vì không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trở thành vấn ñề quốc tế. Có thời ñiểm nhà máy ñặt ở một thành thị nào ñó thì có lợi, nhưng khi hoàn cảnh ít thuận lợi thì bị rút ñi; các công ty ña quốc gia có thể làm cho kinh tế thành thị trở nên thịnh vượng hoặc sụp ñổ. Thành thị không còn khả năng kiểm soát về quản lý, về cách thức phát triển...
Tất cả các nhân tố này có thể tóm lược trong một nhận ñịnh chủ yếu và duy nhất: thành thị thôn tính nông thôn, cả về không gian và xã hội, làm cho nông thôn ñánh mất vai trò truyền thống.
Về không gian, xoay quanh hạt nhân trung tâm ñầy ứ các hoạt ñộng và cư dân di dời khỏi chỗ ở, mở rộng và lấn sâu ra ngoại vi, làm cho không gian nông thôn ngày càng giảm sút. Về xã hội, cư dân ngoại ô, ngoại thành trong hoàn cảnh bán nông thôn, bán thành thị, vừa có lợi, vừa bất lợi, ñặc biệt do các biến ñộng và xung ñột về ñất ñai.
Thành thị bùng nổ, tăng trưởng về không gian, các quan niệm về quy hoạch ñô thị cùng với năng lực vận tải tạo ra xu thế ña dạng hóa thêm các chức năng. Các vùng công nghiệp, các trung tâm thương mại ở vùng ngoại vi có không gian rộng rãi làm ñảo lộn tập quán mua sắm. Thay vì ñổ dồn về trung tâm, các hoạt ñộng trong ñời sống ñô thị tản mác ra. ðối với cư dân nông thôn, trung tâm thương mại ở nơi gần nhất thay thế sức hút của ñô thị truyền thống. Các xì-lô dự trữ nông sản xây dựng gần bên các nhà ga và bến cảng ñể chờ bán theo các ñơn ñặt hàng với giá cả cố ñịnh, trên bình diện quốc gia hoặc quốc tế. Nông sản không dồn về các nhà kho hoặc cho người tiêu dùng ở thành thị. Chức năng “chợ vùng” biến mất. Nhờ phát triển vận tải, các nguồn hàng trái cây, lương thực có quanh năm, không còn theo mùa như trước, dần dần ít còn phụ thuộc vào ruộng ñất.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 72 -
Tuy vậy, một vài cơ sở ñô thị, ñặc biệt là thương mại, các phân cấp hành chính hoặc trường học thể hiện xu hướng giữ cho thành thị vai trò “ñịa ñiểm trung tâm”. Song ñó là các quan hệ theo kiểu tiền tệ hoặc theo quy chế, tạo ra sự cộng sinh giữa thành thị và môi trường của mình, xa hoặc gần. Thành thị không còn là “nòng cốt” cho các vùng nông thôn bao quanh, mà chỉ là một bộ phận giản ñơn trong ñời sống kinh tế và xã hội. Một số tác giả, nhiều nhất ở Bắc Mỹ coi ñó là dấu chấm hết của một nền văn minh; một số khác tìm thấy ở ñó các mầm móng của hiện tượng “oekumenopolis”.
PHẦN THỨ BA THỜI GIAN VĂN HÓA ðÔ THỊ CHƯƠNG 6 Sự kiện thành thị
CÁC THÀNH THỊ ðẦU TIÊN TRÊN THẾ GIỚI
Thành thị xuất hiện ở nhiều nền văn minh: Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba Tư, Bắc Ấn ðộ (Pakistan ngày nay), Bắc Trung Hoa. ðặc ñiểm chung ở các vùng này là có bình nguyên rộng, nhiều nước, tiến bộ nông nghiệp cho phép tăng gia sản xuất lương thực, giải phóng một phần dân số lao ñộng khỏi ñất ñai, hình thành nên các ñô thị ñầu tiên, thường nằm gần cạnh con sông lớn hoặc hải cảng33.
Nền văn minh Lưỡng Hà (Mésopotamie) gắn với vùng châu thổ hai con sông Euphrates, Tigris và vùng ñất nằm giữa hai con sông theo cách gọi bằng tiếng Hy Lạp hoặc Ả Rập, nay chủ yếu nằm trên lãnh thổ nước Iraq. Văn minh Lưỡng Hà xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 4 trước CN, nơi ra ñời nhiều thành thị nổi tiếng như Ur, Uruk, Nippur, Babylone. Nông nghiệp Lưỡng Hà canh tác bằng cày, phát triển hệ thống ñập, kênh dẫn nước ñể tưới tiêu. Nền văn minh Ai Cập nổi tiếng với các vị vua Pharaon huyền
thoại, kỹ thuật ướp xác và các kim tự tháp khổng lồ34, nơi có kênh Suez nối Biển ðỏ và ðịa Trung Hải (1869). Ai Cập cổ ñại ở vùng bắc châu Phi là một trong các nền văn minh sớm nhất trên thế giới, nằm trong lưu vực sông Nile. Sông Nile dài khoảng 6.500 km, gồm bảy nhánh lớn ñổ ra vịnh ðịa Trung Hải. Phần hạ lưu sông Nile rộng lớn, có nơi rộng từ 10 – 50 km. Hàng năm nước lũ sông Nile dâng lên từ tháng 6 – 9, làm tràn ngập cả vùng ñồng bằng màu mỡ. Từ 7.000 năm trước Công nguyên, cư dân vùng sông Nile ñã biết canh tác, trồng lúa mạch trên vùng ñất ñen nhiều phù sa. Họ biết tính lịch dương từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên, chia mỗi năm thành 365 ngày; biết sử dụng kim loại từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên.
Các thành thị của nền văn minh Lưỡng Hà khác với nền văn minh Ai Cập. – Ở Lưỡng Hà: vua không tự coi mình là thiên tử; con người ñối nghịch tự nhiên; thần dữ tợn; nhà nước ñộc ñoán; dân cư bị cai quản trong các vòng thành; xuất hiện nhiều nhà thông thái và triết gia.
– Ở Ai Cập: các pharaons ñược ví với thượng ñế, là con cháu các vị thần linh, nên tự phong mình là vua vũ trụ, vua vĩ ñại ñồng thời còn gọi là người chăn dắt, cai quản thần dân. Thành thị trước hết là trung tâm tôn giáo, nơi quyền lực tối cao; sa mạc, biển và ñồi núi là các tường thành “tự nhiên” bảo vệ; xuất hiện kiểu thành thị dành cho người chết; có nhiều tư tế, các tư tưởng tôn giáo.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 73 -
33 Người ta cho rằng trên thế giới có bốn nền văn minh nổi tiếng phát sinh dọc các con sông, ngoài Lưỡng Hà còn có: châu thổ sông Nile ở Ai Cập, sông Indus (còn gọi là sông Ấn, nay thuộc Pakistan), lớn thứ hai sau sông Hằng ở Ấn ðộ và châu thổ sông Hoàng Hà ở Trung Quốc. 34 Vương triều Ai Cập ñầu tiên bắt ñầu khoảng năm 3.100 trước Công nguyên, kinh ñô ở thành Memphis. Trải qua 30 vương triều, kéo dài cho ñến năm 332 trước Công nguyên, cuối cùng bị vua nước Macédonie là Alexandre ðại ðế thôn tính, ñóng ñô ở Alexandria của Ai Cập. Pharaon tức là ngôi nhà lớn dùng ñể chỉ triều ñình, ñược các vua Ai Cập sử dụng kể từ vương triều thứ 12 vào cuối thiên niên kỷ II trước CN. Kim tự tháp của vua Khufu ở Giza, khoảng 2.700 năm trước CN, ñược coi là lớn nhất và là một trong bảy kỳ quan thế giới, ñã xây cất trong 20 năm, sử dụng 300.000 nhân công.
Thành thị phương Tây35 xuất hiện ñầu tiên khoảng 8.500 năm trước Công nguyên, ở vùng Trung ðông (nay thuộc Irak, Liban, Syrie, Jordanie, Israël và Palestine). Cư dân vùng Lưỡng Hà thuộc lưu vực sông Tigre và sông Euphrate làm 2 vụ lúa/năm, nhờ ñó có sản phẩm thừa ñể trao ñổi. Ở Jéricho, con người ñã biết tưới ñất ít nhất từ 7.000 năm trước CN [Nicholson, 1973:182].
ðầu tiên là các thành thị ñộc quyền về thương mại của nước Phénicie ở vùng vịnh ðịa Trung Hải (khoảng năm 3000 trước CN, nay thuộc lãnh thổ nước Lebanon, một phần Syrie và Palestine) gồm có: Tyr, Byblos, Sidon (nay thuộc Lebanon)... Khác với các thành thị Hy Lạp gắn với vùng ñất ñai phì nhiêu ñể trồng trọt, hầu hết các thành thị Phênêxi ñều nằm dọc bờ biển, cạnh các hải cảng, với các cư dân chuyên nghề hàng hải, trong ñó nổi tiếng là thành Carthage (thành lập năm -814, nay thuộc Tunisie) sau này là ñối trọng của thành Rome. Các tường thành chưa xuất hiện trong các thành thị Phénicie (ngoại trừ thành Sardaigne), vì biển ñược coi là “thành trì” phòng thủ vững chắc nhất.
Sau khi Phénicie suy tàn và biến mất (-332), ñến lượt các thành thị Hy Lạp nối tiếp từ năm 700 trước Công nguyên ở Ý, Sicile, rồi Gaule (Nice, Antibes, Marseille...), Tây Ban Nha; và từ thế kỷ V trước Công nguyên ở Bắc Âu và Anh, tạo nên tấm bản lề thành thị giữa Trung ðông và phương Tây.
Bốn thời kỳ phát triển của các thành thị cổ trung ñại ở phương Tây: 1. Thành thị Hy Lạp: có cấu trúc Polis - nông thôn nhập vào thành thị ñể quản lý về chính trị, hình thành không gian công dân. Polis là biểu hiện về ñạo ñức, chính trị và tôn giáo. 2. Thành thị La Mã: phát triển quy hoạch ñô thị của ñế quốc nhằm chiếm hữu ñô thị, ñồng hóa các thành phần cư dân về chính trị và văn hóa. 3. Thành thị Trung ñại: do tác ñộng xâm chiếm của người Barbares - du nhập vào châu Âu văn minh ñô thị có nguồn gốc phương ðông – ñô thị thương mại phát triển. 4. Thành thị tự trị: Từ TK X, có phạm vi không gian riêng, ngày càng khác với môi
trường phong kiến. CÁC ðIỀU KIỆN RA ðỜI CỦA THÀNH THỊ
Theo quan ñiểm mác-xít, thành thị xuất hiện do các tiến bộ về phân công lao ñộng xã hội, cùng với sự tách ra khỏi nông nghiệp của tầng lớp thợ thủ công rồi thương nhân (kiểm soát sản xuất, sử dụng tiền tệ, phát triển giao thông vận tải...). Theo Valquin [1977], “Dù nói gì thì nói, tiền tệ là quyền lực kinh tế xây dựng ñô thị”36.
Theo Beaujeu-Garnier [1995:51-53], thành thị ra ñời từ ba nguyên do: kinh tế, chính trị và phòng thủ, trong ñó phòng thủ có thể coi là một mặt của chính trị, nhằm bảo vệ các quyền lợi về kinh tế, bảo ñảm các hoạt ñộng kinh tế.
Tất cả các nền văn minh lớn ñều bắt nguồn từ thành thị. Pirenne gọi thành thị là “con gái của thương mại”. Thành thị xuất hiện và phát triển chủ yếu ở các ngã tư, cảng sông hoặc cảng biển. Tập trung dân số tạo nên các nhu cầu về dịch vụ cho cư dân. Một thế hệ thành thị khác ra ñời do phát triển công nghiệp từ cuối thế kỷ XVIII. Các phương tiện kỹ thuật ñược cải thiện; xuất hiện nhiều thành thị chuyên môn hóa: khai mỏ, luyện kim, dệt vải... Hàng trăm thành thị ở Bắc Mỹ và nước Úc ñược hình thành nhờ dân nhập cư vào khai thác các giá trị lãnh thổ, với hai nhân tố lớn là thương mại và công nghiệp trên phạm vi toàn cầu.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 74 -
35 Phân biệt ñô thị phương Tây (Occident), khác với châu Âu (Europe) có nghĩa là “xứ sở buổi chiều tà”, phần ñất nằm phía tây Hy Lạp và ðịa Trung Hải. Khi thành thị xuất hiện phổ biến ở vùng ñất này thì châu Âu hầu như vẫn chưa có thành thị. 36 Dẫn theo Jacqueline Beaujeu-Garnier, sñd., tr. 29.
Chính trị kết hợp với kinh tế dưới nhiều hình thức nhằm quản lý quyền sở hữu tài nguyên, ñất ñai lãnh thổ và dân cư. Ở Liên Xô sau cách mạng 1917 cũng bùng nổ ñô thị công nghiệp, thường gọi là “các thành phố công nhân” (cités ouvrières) do Nhà nước ñứng ra tổ chức. Cũng vì các lý do chính trị mà xuất hiện các thủ ñô mới, như: Ankara ở Thổ Nhĩ Kỳ, Canberra ở Úc, Abuja ở Nigeria, Yamoussoukro ở Bờ Biển Ngà.
Chính trị còn kết hợp với xã hội là công thức hình thành nhiều “thành phố mới”, ñể người dân ở ñô thị có ñời sống dễ dàng và hạnh phúc: nhà ở mới, trang bị thích hợp, việc làm gần nơi ở, có không gian xanh, giao thông thuận lợi và hữu hiệu.
Mặt khác, vì lý do quân sự mà nhiều ñiểm bảo vệ chiến lược ở biên giới trở thành ñô thị (Besançon, Metz...), hoặc các thành lũy (bastides) do các vua Pháp xây dựng ở vùng Tây Nam làm cứ ñiểm ñương ñầu với quân ñội của vua Anh. Tóm lại, thành thị ra ñời do sự kết hợp của nhiều nhân tố chủ yếu bao gồm: kinh tế, xã hội, dân số và tổ chức.
1. Về kinh tế: xuất hiện các hoạt ñộng trao ñổi, thương mại nhờ có sản phẩm làm vật trao ñổi. Theo Harvey [1973], nhiều thành thị ñược khai sinh có nguồn gốc là do “sự thặng dư phát xuất từ kinh tế chợ”. Cuộc cách mạng ñá mới, chế tác các vật dụng thủ công và phát triển các hoạt ñộng sản xuất nông nghiệp, tạo tiền ñề về kinh tế cho thành thị ra ñời. 2. Về xã hội: phân công lao ñộng xã hội và nghề nghiệp phát triển; hình thành tầng lớp trung gian, trong ñó có thương nhân lưu chuyển hàng hóa.
– Thành Babylone bên dòng Euphrate, là thành thị-ñế quốc hùng mạnh vùng Mésopotamie kể từ năm 1.700 trước CN, dân số 300.000 người, có hoạt ñộng thương mại phát triển mạnh.
3. Về dân số: ñạt mức nhất ñịnh, bình quân khoảng 15 nghìn dân (ở Pháp, ngưỡng thành thị từ 2.000 dân, ở Mỹ là 2.500, trong khi ở Nhật trên 30.000 dân).
4. Về tổ chức: có bộ máy quyền lực ñể quản lý, ñiều hành các hoạt ñộng trên phạm vi lãnh thổ. Do ñó, thành thị còn ñược coi là trung tâm chính trị. Các thành thị-nhà nước (states-cities) thành lập từ thiên niên kỷ 2 trước CN tại Phénicie, kế ñó là Hy Lạp và châu Âu thời trung ñại giữa thế kỷ X và XIII, từ Ý ñến Bắc Âu. Ở ðịa Trung Hải (kể cả ở bờ biển Bắc châu Phi) và lục ñịa châu Á, thành thị ñã xuất hiện hàng nghìn năm hoặc có từ rất lâu ñời.
Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm và không hoàn toàn giống với phương Tây, song các ñế quốc thảo nguyên và các nền văn minh vườn tược ñều ñã xuất hiện thành thị từ hàng chục thế kỷ. Bên ngoài kinh ñô Bắc Kinh là vườn tược mênh mông của các thành phố vườn cây; xung quanh các công trình kiến trúc ở Ả Rập và Ấn ðộ, làng mạc chiếm nhiều ưu thế hơn so với thành thị.
Trước khi sự kiện thành thị lan tỏa ở châu Âu TK XIX, lục ñịa ñen (châu Phi) là nơi duy nhất có rất ít thành thị. Ngoại trừ vùng rừng Tây Phi (Soudan) ñã xuất hiện các ñô thị nông nghiệp, ở lưu vực Công-gô và phần lớn ðông Phi, Nam Phi ñều không có thành thị. Theo P. George [1952:3], nguyên nhân của hiện tượng này là do:
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 75 -
1. Chưa có các tổ chức chính trị - xã hội ổn ñịnh; 2. Quan trọng nhất là do khối lượng sản phẩm trao ñổi còn quá ít ỏi.
Ngày nay, 62.1% dân số châu Phi còn ở nông thôn, song tỷ lệ phát triển ñô thị lại nhanh nhất thế giới, ñạt gần 4% /năm, gần gấp ñôi so với mức tăng trung bình của thế giới. Trong khi ñó, các nền văn minh cổ ñại của người Indiens ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, xuất phát từ nền văn minh thuần nông, vẫn có truyền thống thành thị phát triển liên tục. CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG ðẦU TIÊN VỀ THÀNH THỊ
HIPPODAMOS Hippodamos (498-408), sinh trưởng ở thành Milet thời Hy Lạp cổ ñại, là nhà kiến trúc, quy hoạch, vật lý, toán học, khí tượng và triết học. Hippodamos ñược coi là ông tổ của ngành quy hoạch ñô thị. Ông chủ trương xây dựng thành thị trật tự và ñều ñặn.
Theo Hippodamos, thành thị lý tưởng gồm 10.000 công dân tự do, cộng thêm phụ nữ, trẻ em và nô lệ có thể ñạt 50.000 người. Ông chia công dân thành thị gồm ba tầng lớp: các chiến binh, thợ thủ công và các nông dân, tương ứng với ba chế ñộ ñất ñai dành cho: thiêng, công và tư.
Sơ ñồ kẻ ô (grilles, tiếng Anh là grids) thường ñược gán cho ông gồm một loạt các con ñường thẳng và rộng, cắt nhau thành góc vuông. Ở khu vực trung tâm có một quảng trường rộng, là trung tâm của ñô thị và xã hội như Agora.
Hippodamos còn là người ñưa ra khái niệm luật sáng chế từ rất sớm, theo ñó ông ñề xuất xã hội nên tưởng thưởng cho các cá nhân làm ra ñiều gì hữu ích cho xã hội, sau này ñược Aristote nhắc ñến nhiều trong công trình Politics.
HIPPOCRATES Hippocrates (khoảng 470-370) không chỉ là ông tổ của nghề y (sáng lập trường Y ở ñảo Kos, Hy Lạp), mà ñược coi là người ñầu tiên ñưa ra những ý tưởng mới mẻ về quy hoạch ñô thị.
Trên cơ sở quan sát và nghiên cứu cơ thể con người, ông cho rằng cơ thể không phải là một tập hợp rời rạc của các bộ phận mà phải ñược coi là một tổng thể. Hippocrates quan niệm bệnh tật không phải do nguyên nhân từ
các sức mạnh siêu nhiên, xuất phát từ những ý nghĩ tội lỗi hoặc do báng bổ thần thánh. Ông ñịnh ra các nguyên tắc căn bản ñể chọn lựa ñịa ñiểm xây dựng thành thị ñảm bảo các ñiều kiện vệ sinh. Công trình nổi tiếng của Hippocrates là “Nước, không khí và ñịa hình”. Theo ông, thành thị nên thiết lập ở nơi có nguồn nước dự trữ trong lành, tránh nơi ñầm lầy. Ông ñịnh ra các con ñường phù hợp ñể giảm tác ñộng của ánh nắng mặt trời và ñể có gió mát lưu chuyển.
PLATON Platon (428-348) xuất thân từ dòng dõi quý tộc thành Athènes, học trò ruột của Socrate37. Ông sáng lập ra trường phái triết học kinh viện (académie) lớn nhất thời cổ ñại.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 76 -
37 Socrate (khoảng 470-399), nhà triết học Hy Lạp chủ trương không dùng chữ viết xơ cứng mà bằng lời nói, ñối thoại sinh ñộng ñể truyền ñạt tư tưởng hoặc ñạo ñức. Khác với các nhà thông thái trước ñó, Socrate không quan tâm ñến thế giới tự nhiên mà tự bạch về con người. Câu nói ñược khắc trước ngôi ñền Delphes “Hãy tự nhận biết chính mình” trở thành vấn ñề trung tâm của triết học bấy giờ. Triết học của Socrate không phục vụ chính trị. Triết học về mặt ngữ nguyên là tình yêu, tìm kiếm sự khôn ngoan, hơn là sở hữu chân lý. Công thức nổi tiếng của Socrate: “Tôi biết là tôi không biết gì cả”. Ông bị tòa án Athènes kết án tử hình, vì không thừa nhận các thần linh của thành thị, làm thanh niên hư hỏng, quay lưng với ñời sống chính trị. Các học trò xúi ông bỏ trốn, nhưng ông tỏ ý kiên quyết tuân giữ luật pháp, dù bị ñối xử bất công (Dẫn theo Jean-François Braunstein và Bernard Phan, Manuel de culture générale, Armand Colin, Paris, 1999, 2006, tr. 30, 32).
Với công trình République38, Platon ñưa ra mô hình thành thị không tưởng ñầu tiên về chính trị, trong ñó nghệ thuật và thi ca bị gạt bỏ ñể người dân tránh khỏi ủy mị; tư hữu tư nhân bị cấm ñoán; phụ nữ và trẻ em là của chung.
Trong các công trình Critias, La République và nhất là Les Lois, Platon ñưa ra các nguyên tắc thiết lập thành thị như: lựa chọn ñịa hình bảo ñảm ñiều kiện trong lành, hoạt ñộng kinh tế. Tuy nhiên, Platon không muốn xây dựng thành thị ở vùng biển.
Mô hình thành thị lý tưởng của Platon gồm có ba phần, dành cho: nông dân và thợ thủ công, các chiến binh hay người bảo vệ (360 người) và các triết gia, mà theo ông tương ứng với ba phần của linh hồn là: thèm ăn (ở phủ tạng), can ñảm (ở tim) và thông minh (ở ñầu). Sau khi dựng ñền thờ Acropole cho các vị thần Vesta, Zeus và Athéna có tường
thành bao quanh, thành thị ñược chia thành 12 phần ñều nhau, tùy theo ñất tốt xấu, dành cho 12 vị thần, mang tên của 12 thị tộc.
Platon và Aristote Bức tranh École d’Athènes của Raphaël (1511) vẽ Platon và Aristote ñang tranh cãi, trong ñó Platon làm dấu tay chỉ lên trời (Platon là người ñầu tiên dự tính sử dụng toán học ñể mô tả các hiện tượng tự nhiên), kêu gọi khám phá các thực thể ở trên thế giới sinh vật; còn Aristote chỉ tay xuống ñất như muốn nói cứ từ từ, vì chính ở ñây là nơi mà thế giới này ñang diễn ra.
Ông chủ trương thành thị không nên có tường thành bao quanh, vì sẽ ảnh hưởng lòng can ñảm của chiến binh; tài sản công dân là của chung; dân chúng phải ngoan ngoãn như loài vật nuôi ñối với tầng lớp trên; thuộc ñịa và chiến tranh sẽ kích thích con người tiến bộ! Theo Platon, thành thị lý tưởng nhờ nông nghiệp. Ông chủ trương không mở cửa buôn bán với bên ngoài. Trong công trình “République”, Platon ñưa ra quan niệm dân số lý tưởng của thành thị gồm 5.040 công dân tự do, ñể họ có thể tự nuôi sống bằng sản phẩm ñịa phương. ðất ñai thành thị ñược chia thành các mảnh bằng nhau cho các gia ñình công dân, nhưng không ñược chia nhau hoặc chuyển nhượng ñể chống ñầu cơ. Cũng trong công trình này, Platon ñề xuất nếu bán một mảnh ñất với giá cao gấp 4 lần giá trị của nó, thì người bán phải nộp phần dư ấy cho Nhà nước. Ông nhận thấy cần thiết lập quan hệ giữa con người, gia ñình của họ và ñất ñai sở hữu. ðể cân bằng trong ñời sống, ông khuyên mỗi công dân nên có nhà ở thành thị và ở nông thôn [Chambon, 1975:15].
ARISTOTE Aristote (384-322), học trò của Platon, ñược coi là lý thuyết gia quy hoạch ñô thị của Hy Lạp cổ ñại. Trái với Socrate, ông quan niệm nhà triết học phải sở hữu “toàn bộ tri thức, nhiều nhất có thể”. Trong công trình Éthique à Nicomaque, ông cho rằng chỉ có ở thành thị con người mới thực hiện ñạo ñức ñầy ñủ. Aristote ñưa ra ñịnh nghĩa nổi tiếng: con người “về cơ bản là con vật chính trị”. Aristote lập ra trường học Lycée ñầu tiên ở Athènes39. Ông quan niệm linh hồn gồm có ba bộ phận: thực vật (như cây cối), cảm tính (như loài vật) và trí năng (chỉ có ở con người).
ðền Apollon - Delphes
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 77 -
38 Từ công trình không tưởng ñầu tiên về chính trị này của Platon, về sau trở thành cảm hứng cho các công trình của Thomas More (Utopie, 1516) hoặc J.J. Rousseau (Contrat social; Émile, 1762). 39 Aristote ở lại 20 năm trong Académie cho ñến khi Platon mất. Ông vừa ñi vừa giáo huấn ñệ tử, nên ñệ tử của ông ñược gọi là péripatéticierns.
Aristote nghiên cứu sự hình thành của 158 thành thị Hy Lạp, ñặc biệt là liên minh chính trị giữa các thành thị. Theo ông, các thành thị Hy Lạp hình thành hai chế ñộ chính trị: chính trị ngang nhau (isopolitie) giữa các thành thị ñộc lập và chính trị cùng nhau (sympolitie) liên kết giữa các thành thị trong toàn thể quyền lực.
Trong Politique, ông dự kiến thành thị có 10 nghìn công dân, gồm ba tầng lớp: thợ thủ công, nông dân và chiến binh. ðất ñai lãnh thổ của thành thị ñược chia làm ba phần:
• Phần thiêng có lợi tức dùng ñể thờ cúng thần linh; • Phần công ñể bảo ñảm lương thực cho quân ñội; và • Phần tư của nông dân. Aristote quan niệm có thể thiết lập thành thị ở vùng biển và nông thôn. Tuy nhiên, cần chọn ñịa ñiểm và chọn hướng thuận lợi cho sức khỏe người dân và tạo nên các ñiều kiện sống tốt hơn. Ngoài yêu cầu môi trường trong lành, thành thị cần dễ dàng cung cấp thực phẩm. Ông quan tâm chất lượng tường thành bảo vệ ở các ñịa hình; phân biệt nguồn nước uống và nước sử dụng thông thường. Ông chủ trương xây dựng ñường sá theo hệ thống Hippodamos, thẳng và ñều.
Cấu trúc thành thị theo các phân khu chức năng, gồm: khu thương mại hoặc thủ công; khu ở; khu hành chính và tôn giáo. Trong ñó, Aristote ñặc biệt chú ý lập hai quảng trường công cộng: chợ dành cho các hoạt ñộng mua bán và nơi hội họp chính trị. Ông còn muốn xây dựng một phòng tập thể dục, ñể người lớn tuổi có thể tập luyện tại chỗ, khỏi ra ngoài trung tâm thành thị.
So sánh tư tưởng về thành thị giữa Platon và Aristote: • Quan niệm của cả hai nhà tư tưởng Platon và Aristote ñều thiên về cấu trúc thành thị tĩnh, ít phụ thuộc vào các yêu cầu phát triển.
• Trong Les Lois, Platon thừa nhận lợi ích của việc tham gia trực tiếp: “ðiều tốt nhất ở một Nhà nước là cá nhân mọi công dân ñều có thể nhận biết”. Trong khi Aristote ñưa ra giải pháp thỏa hiệp giữa tham gia và hệ thống ñại diện, cùng với việc ñặt ra giới hạn kích cỡ của thành thị. • Tuy nhiên, các thành thị Hy Lạp ñã theo ñuổi chính sách bóc lột ñế quốc, ñể tìm
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 78 -
kiếm bánh mì và việc làm cho dân chúng ngày càng trở nên ñông ñảo.
CHƯƠNG 7 ðặc trưng văn hóa các ñô thị cổ Hy – La
THÀNH THỊ HY LẠP “Thành thị Hy Lạp làm nên châu Âu, mặc dù thế giới Hy Lạp không hẳn là thế giới châu Âu” [Lucien Fèbvre, 1999].
Thành thị Hy Lạp là một cộng ñồng (polis40), gồm các công dân ở thành thị và cả ở nông thôn. Ngoài tính chất tôn giáo như các nền văn minh nguyên thủy khác, thành thị Hy Lạp còn là một hành vi chính trị, thông qua hình thức liên hiệp giữa các làng, gọi là synœcismes (cộng ñồng các ngôi nhà). ðó là sự tuân phục theo ý muốn của tập thể, biểu hiện bằng luật pháp.
Ngoại trừ các thành thị lớn gồm Athènes, Milet và Corinthe, còn lại ña số có quy mô không quá 10 nghìn dân, do diện tích trồng trọt ít, cung cấp nước khó khăn. Hầu hết các thành thị Hy Lạp chưa có tường thành bao quanh, kể cả Athènes; thương nhân không ñược coi là công dân.
Theo Wycherley, thành Athènes thời kỳ phát triển nhất có gần 40.000 công dân là ñàn ông, cùng với khoảng 150.000 người là kiều dân, phụ nữ và trẻ con không có quyền công dân và khoảng chừng 100.000 nô lệ. Nói cách khác, chỉ có khoảng 1/7 dân số Athènes ñược hưởng các ñặc quyền công dân, trong ñó số lượng công nhân và thợ tiểu thủ công không ngừng tăng lên.
Theo Hérodote, văn hóa Hy Lạp chịu ảnh hưởng văn minh Ai Cập. Song gần ñây, thông qua thế giới các vị thần và huyền thoại, F.M. Comford ñã chứng minh Hy Lạp chịu ảnh hưởng nhiều hơn của thành Babylone thuộc văn minh Lưỡng Hà. Từ thế kỷ VII trước CN, thành thị Hy Lạp phát triển theo hai hướng: – Nhóm Acropole: ở bán ñảo lục ñịa, trung thành với truyền thống cũ; phát triển chậm. – Nhóm Agora: ở các thuộc ñịa phương ðông, nơi có các hoạt ñộng thương mại chiếm ưu thế hơn so với nông nghiệp; phát minh tiền kim loại, sử dụng bảng chữ cái.
Trong nền dân chủ Hy Lạp, thượng ñế - thành thị và công dân hòa lẫn vào nhau, nhằm khẳng ñịnh “cái tôi” (ego) theo nghĩa triết học; yếu tố duy lý xuất hiện và hùng biện trở thành công cụ chủ yếu của chính trị. Ba trung tâm văn hóa lớn của nền văn minh Hy Lạp thu hút khách viếng thăm và hành hương là: Olympie, Delphes và Cos.
– Olympie: thành lập năm 776 trước CN, tổ chức các trò chơi 4 năm một lần. – Delphes: có ñền thờ Apollon và các ñiểm linh thiêng. Nguyên tắc Delphes là: “Hãy tự nhận biết chính mình” (Socrate). – Cos: nổi tiếng là trung tâm y tế, nơi có trường y và xuất hiện nhà hiền triết Hippocrate (460-375 trước CN).
Ba cơ sở văn hóa quan trọng trong các thành thị của nền văn minh Hy Lạp là: Trường tập thể dục (trước ñó là sân chơi palestre), nhà ñiều dưỡng và sân khấu ngoài trời (thường nằm trên các ngọn ñồi ở bên ngoài thành thị).
MẤY CỘT MỐC • Năm 3000 – 1700 trước CN: khởi ñầu hình thành cư dân Hy Lạp.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 79 -
40 Phân biệt polis và civitas: polis có từ lâu ñời, chỉ công dân, là một thực thể trừu tượng. Thành viên polis ñược gọi là polites, politikos; civitas có từ nguyên tiếng latinh là civis, chỉ người ñồng hương (khác với công dân).
• Năm 1700 – 1200 thời kỳ trước CN: Mycénienne. Khoảng -1250, xảy ra cuộc chiến thành Troie. • Năm 1200 – 800 trước CN: ñược gọi là “Những thế kỷ tăm tối” khi Hy Lạp vươn qua châu Á.
• Năm 800 – 500 trước CN: thời cổ Hy Lạp với sự bành trướng các thuộc ñịa Hy Lạp ở ðịa Trung Hải; ñô thị phát triển; năm -776, lần ñầu tiên tổ chức các trò chơi Olympiques. • Năm 500 – 336 trước CN: thời cổ ñiển, sự kiện chiến thắng của Hy Lạp năm - 490 ở Marathon).
• Năm 336 – 146 trước CN: thời kỳ Hellénistique, các thành thị ñặt dưới quyền vua Alexandre nước Macédoine, song vẫn ñược quyền tự trị; thành lập nước Alexandrie ở Ai Cập; -146 ñế chế La Mã thiết lập quyền bính ở Hy Lạp.
THÀNH ATHÈNES Khoảng giữa thế kỷ X và VII trước CN, thành Athènes41 ñược khai sinh từ synœcisme, kết hợp cư dân giữa các làng và thị trấn, không phân biệt giữa nông thôn và thành thị42.
Trong thành Athènes gồm có ba loại người: công dân (từ 18 tuổi, có ñăng ký và ở các tổng – thị trấn của Athènes), kiều dân (người tự do, sinh ra nơi khác và ở trong vùng Attique; không ñược sở hữu ñất ñai hoặc kết hôn và phải có người ñại diện hợp pháp) và các nô lệ là nhân lực cho thành thị vận hành. ðể trở thành công dân Athènes phải có cha là người ở Athènes; từ sau năm -451 phải có cả cha lẫn mẹ. ðến thế kỷ V trước CN, Athènes trở thành một thành thị dân chủ, ở ñó tất cả quyền
Nữ thần Athéna của các thành thị Hy Lạp
lực ñều thuộc về mọi công dân. Các cơ sở của nền dân chủ Athènes là: – Luật pháp (ñược coi là quan trọng giống như tường thành của thành thị); – công dân có quyền tự do cá nhân tuyệt ñối (trừ phụ nữ, nô lệ và các kiều dân); – ðược quyền ngôn luận rộng rãi và tham gia với số lượng lớn nhất vào hội ñồng công dân (ecclesia).
Mỗi bộ lạc tổ chức rút thăm ñể cử ra 50 vị ñại diện; 500 ñại diện của 10 bộ lạc tham gia vào hội ñồng, gọi là boulê. Boulê là cơ quan hành chính, tài chính và tư pháp, hội họp hàng ngày, trừ ngày lễ; mỗi cuộc họp ñều chỉ ñịnh ra một vị làm chủ tịch. Các vị ñại diện của mỗi bộ lạc chịu trách nhiệm 36 ngày/năm (# 1/10 năm), khi ñi họp ñược trả tiền bồi thường (mithos), qua ñó ñể khuyến khích công dân nghèo ñều có thể tham gia sinh hoạt chính trị. CẤU TRÚC THÀNH THỊ
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 80 -
41 Tương truyền có sự cạnh tranh giữa hai vị thần Athéna và Poseidon ñặt tên gọi cho thành thị, bằng cách mỗi vị tặng cho thành thị một món quà. Poseidon sản xuất ra con suối biển uốn lượn bằng cách dùng cây ñinh ba ñập ñất, thể hiện quyền lực biển; trong khi Athéna tạo ra cây ô liu, biểu trưng cho hòa bình và thịnh vượng. Người dân thành Athènes, dưới quyền cai trị của Cecrops, ñã chấp nhận cây ô liu và từ ñó chấp nhận cây ô liu và ñặt tên thành thị là Athènes. 42 Ngoài Athènes còn nhiều ñô thị cổ Hy Lạp khác theo mô hình này, kéo dài cho ñến thế kỷ VI trước CN, như: Megalopolis (-369) ở vùng Arcadie, Cos (-365) và nhiều ñô thị Hy Lạp khác ở khắp vùng, từ Macédoine ñến Tiểu Á... Theo Thucydide, sử gia người Hy Lạp, các ngôi làng nằm rải rác và phòng thủ kém cần liên kết với nhau trong synœcisme không ngoài mục ñích chống lại nạn cướp bóc.
ðến thế kỷ VI trước CN, thành thị Hy Lạp có thể nhận thấy sự kết hợp giữa hai yếu tố: thành ở Acropole và thị ở phần thấp là Agora, không có tường thành, các hoạt ñộng thương mại phát triển. Khu vực trung tâm thành thị gồm hai quảng trường lớn gọi là: Acropole và Agora.
* ACROPOLE (tiếng Anh là Acropolis) theo từ nguyên tiếng Hy Lạp là thành phố trên cao (akros = top; polis = city). ðó là khu vực ñền thờ, nằm ở chân hoặc sườn ñồi dốc ñứng. ðó vừa là trung tâm tôn giáo, vừa là biểu trưng quyền lực chính trị của thành thị.
Acropole Phân chia quyền lực giữa tôn giáo và chính trị ñánh dấu sự thay ñổi quan trọng ở thành thị Hy Lạp. Tòa thị chính mang tên gọi gốc là prytaneion, là nơi ở hoàng gia, và một ngọn lửa thiêng ñược ñốt ở ñó ñể vinh danh nữ thần Hestia. Mỗi vị thần Hy Lạp biểu trưng một loại ñạo ñức hoặc
phẩm chất: công lý, sự hiểu biết, lòng ñam mê, tình yêu...
* AGORA, nằm ở vùng thấp, trong các thành thị Hy Lạp là ñịa ñiểm tập hợp; nơi có quảng trường công cộng ñể dân chúng tụ họp. ðó là phần chủ yếu và quan trọng nhất của thành thị, ñược coi là không gian tự do; có các hoạt ñộng thương mại và thủ công; tổ chức các hoạt ñộng vui chơi, biểu diễn, duyệt binh.
Agora gồm có hai chức năng chính: chính trị và thương mại. Agora dần chiếm lĩnh vai trò chính trị và tôn giáo của Acropole, trở thành trung tâm chính trị và hành chính của polis. Agora dần dần trở thành nơi tập trung các hoạt ñộng tôn giáo, ñặt các ñền thờ, tượng; xung quanh có các dinh thự và công trình kiến trúc. Mặc dù vậy, tất cả các hoạt ñộng buôn bán ở Agora ñều nằm trong tay các kiều dân (métèques). Agora ñược coi là tương ñương với các forum thời ñế quốc La Mã về sau.
Thị dân Hy Lạp ñược hưởng các ñiều kiện sống tốt hơn, nhờ xây dựng hệ thống ñường sá, các nhà hát mới và nhờ các cống dẫn nước từ trên núi về nên có nhiều bể tắm công cộng. Mặc dù vậy, ñường sá còn hẹp, rộng không quá 4 – 5m, ñược lát ñá, chủ yếu dành cho người ñi bộ và súc vật thồ.
Các nhà hát và phòng tập ñặt bên ngoài thành thị. ðến thế kỷ III - IV trước CN, các phòng tập ñược ñưa vào nội thành, trở thành các trung tâm tri thức, gồm có thư viện, bảo tàng và giảng ñường. ðáng chú ý nhất là khu ðại học Académie (Academy) của Platon, trường Trung học Lycée (Lyceum) của Aristote và trường tập thể dục Cynosargue của Antisthène43 sáng lập, nơi tiếp nhận những người chỉ có tư cách bán công dân.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 81 -
* HỆ THỐNG ðƯỜNG SÁ ðến thế kỷ V trước CN, ñường sá ở thành thị Hy Lạp cổ ñại còn chật hẹp, thường chỉ ñủ cho người và lừa ñi song song; mùa ñông bùn lầy, mùa hè bụi bặm... Mặc dù vậy, 43 Antisthène (444 – 365), nhà triết học Hy Lạp theo thuyết ñộc thần,, học trò của Socrate, là người sáng lập trường phái cynique khoảng năm 390 trước CN, chủ trương tách khỏi các tập tục xã hội, kêu gọi thực hành ñời sống ñơn giản, phù hợp với tự nhiên.
ñường sá thành thị Hy Lạp ñược xây dựng theo hai hệ thống chủ yếu là trực giao và phân ô bàn cờ. - Hệ trực
thống giao (orthogonal), xuất hiện từ nửa ñầu thế kỷ V trước CN, bắt nguồn từ việc xây dựng lại thành Milet (bị người Ba Tư phá hủy năm 494). Hệ thống này tạo nên khối hình chữ nhật kẻ ô vuông, liên kết các công trình kiến trúc. Hầu hết thành thị Hy Lạp ñều theo hệ thống trực giao với hai ñặc ñiểm chú ý: ñường sá có bề rộng ñồng nhất; kích cỡ các khối nhà cân ñối, ñều ñặn.
- Hệ thống bàn cờ (échiquier), theo sơ ñồ Hippodamos, nhà triết học và kiến trúc sư ở thành Milet. Khi xâm chiếm các thuộc ñịa, vì không có nhiều thời gian nghiên cứu các ñiều kiện ñịa hình, sử dụng sơ ñồ phân ô (quadrillage) cho phép chia ô nhanh và gần như bằng nhau giữa các khu vực. Nhờ sơ ñồ phân ô mà việc mở rộng ñường sá trở thành ñặc trưng của thành thị Hy Lạp kể từ thế kỷ III trước CN, có thể dùng ñể diễu hành hoặc duyệt binh.
CHỨC NĂNG THÀNH THỊ Theo Platon, thành thị Hy Lạp là trung tâm chính trị, không còn là nơi biểu hiện quyền lực của các vị thần linh như Zeus hoặc Athéna. Các cuộc họp của Hội ñồng boulé trước ñó diễn ra ngoài trời, nay ñược ñưa vào họp trong nhà vuông, nơi ñược coi là công trình mang tính thế tục ñầu tiên.
Athènes là thủ ñô của Hy Lạp, ñược coi là cái nôi phát sinh nền dân chủ và triết học, nơi ñầu tiên ñưa ra quan niệm về cái ñẹp và cái tốt, có tác ñộng không chỉ trong thế giới Hy Lạp mà còn La Mã và phương Tây cho ñến sau này.
Clisthène ñã tiếp tục công cuộc hoàn thiện nền dân chủ Hy Lạp, bắt ñầu từ cuối thế kỷ VI trước CN (509-506), với những cải cách triệt ñể như: kiểm soát quyền lực và ñất ñai của giới ñại quý tộc; công nhận quyền bình ñẳng chính trị của các tầng lớp thị dân trong polis. Clisthène chủ trương phân chia các công dân thành 10 bộ lạc theo các tiêu chí ñịa lý, bất kể nguồn gốc và ñiều kiện xuất thân. Mọi thiết chế ñều phải phù hợp theo hệ thống thập phân của các bộ lạc. Mỗi bộ lạc luân phiên giữ vai trò thường trực của hội ñồng boulê trong 1/10 năm. Ngoài giới quý tộc, tầng lớp thị dân còn bao gồm các thành phần dân tự do: thợ thủ công, thương nhân, nô lệ ñược giải phóng, kể cả các kiều dân ñến lưu trú ở thành thị. Các kiều dân này gốc Hy Lạp, Phénicie, Ai Cập hoặc Ả Rập, ñến thế kỷ V trước CN có khoảng 20.000 người, chiếm một nửa số lượng công dân của thành thị Hy Lạp. Sau Clisthène, ñến lượt Éphialtès và Périclès hoàn thành thiết lập chế ñộ dân chủ trong các thành thị ở khắp Hy Lạp. THÀNH THỊ LA MÃ “Mọi con ñường ñều dẫn ñến Roma” (ngạn ngữ phương Tây)
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 82 -
Thành thị La Mã có lịch sử trải dài hơn một thiên niên kỷ, từ khi hình thành ñến chế ñộ Cộng hòa rồi ðế quốc. Thành thị La Mã dựa trên hai nền văn minh: Étrusque và Hy Lạp. Étrusque còn gọi là Toxcan, vốn là dân tộc xâm chiếm và khai hóa vùng Bắc Ý, mang theo các mê tín và tín ngưỡng tôn giáo.
Theo truyền thống, La Mã ñược hình thành từ nhiều bộ lạc, ñặt dưới quyền lãnh ñạo của một bộ lạc gọi là gens romana, ở trên núi Palatin. Theo Lavedan, việc xác ñịnh một nơi buôn bán chung, gọi là Forum, trở thành biểu tượng của liên minh.
Thành thị La Mã ñạt ñến thời hoàng kim ở hai thế kỷ ñầu công nguyên. Cho ñến thế kỷ V, trước khi ñế quốc La Mã sụp ñổ, từ một trung tâm thành thị ban ñầu, người La Mã ñã thành lập ít nhất 5.627 ñô thị kết nối, ñược hưởng quy chế thành thị riêng. Dưới sự bảo hộ của ñế quốc La Mã, các tường thành cũ trở nên hoang phế, các thành phố mới ñược xây dựng thông thoáng. Cơ sở của quyền lực La Mã là người dân biết tuân thủ kỷ luật và trật tự.
Vào thế kỷ VI trước CN, Athènes có khoảng 300.000 dân; trong khi thành Rome năm 189 trước CN có khoảng 1.100.000 dân, trong ñó 275.000 dân sinh sống trong nội thành (“intra-muros”). Một vài thành thị tiêu biểu khác như: thành Babylone có 700.000 dân dưới thời trị vì của Semiramis, ñường sá mở rộng lên ñến 10m, nhà cao ba bốn tầng, có sân thượng và có nước ñưa lên tới nơi; thành Ninive khoảng 800 – 900.000 dân...
Các thành thị La Mã chú ý phát triển về chất lượng sống, song không phải ở thành Rome rộng lớn, nơi ñược mệnh danh là “Bà hoàng thành thị”, mà ở các thành thị có dân số không vượt quá vài nghìn người. Thành thị La Mã quan tâm nhiều nhất ñến việc lát ñường, cống dẫn nước và cống lớn thoát nước (cloaca maxima).
MẤY CỘT MỐC • Năm 753 trước CN: Romulus lập thành Rome. • Năm 509 trước CN: thành lập nền Cộng hòa. • Năm 146 trước CN, La Mã thiết lập quyền bính ở Hy Lạp. • Năm 27 trước CN: chấm dứt nền Cộng hòa; thiết lập ñế chế Auguste (năm 14
sau CN), bắt ñầu bành trướng lãnh thổ ñế quốc. • Thế kỷ III: bị áp lực từ người Barbares và Ba Tư. • Năm 395: ñế quốc La Mã chia ñôi: phương Tây (nông thôn hóa, thành thị thu hẹp, biến mất) và phương ðông (ñô thị hóa, theo Kitô giáo).
• Năm 476: ñế quốc La Mã phương Tây suy tàn. LỄ THỨC THÀNH LẬP Sự ra ñời của thành thị La Mã là một hành vi thiêng, trải qua 4 giai ñoạn: 1. Bói ñiềm: nhằm bảo ñảm thượng ñế không chống lại ý muốn thiết lập thành thị. 2. ORIENTATIO: xác ñịnh hai trục ñường chính giao nhau, gồm:
• Decumanus (hướng ðông-Tây) • Cardo (hướng Bắc-Nam) Các ñường này dẫn ñến bốn cửa thành ở bốn phương, vì người ta tin rằng như vậy thành thị sẽ sáp nhập vào trật tự chung của vũ trụ.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 83 -
3. LIMITATIO: cày một luống rãnh, dừng lại ở nơi dự kiến sẽ làm cổng thành. Người ta tin rằng như vậy sẽ tạo ra tuyến Pomerium, nơi xây dựng tường thành bảo vệ, ñể ngăn chận ma quỷ vượt qua.
4. Tế lễ: ñặt thành thị dưới sự bảo hộ của các vị thần. ðó là bộ ba ở ñiện thần Capitole là: Jupiter (thần trời, Zeus), Junon (vợ thần trời, Héra) và Minerve (nữ thần thông thái, hộ mệnh thành La Mã, còn gọi là Athéna)44.
CẤU TRÚC THÀNH THỊ ðế quốc La Mã phân biệt hai thứ bậc thành thị: EX NIHILO – thành thị mới thành lập ở thuộc ñịa; MUNICIPES – thành thị có từ trước ñược nâng cấp lên.
Chính quyền La Mã có các quy ñịnh về xây dựng, ño ñạc phân ra từng vùng, có các dịch vụ thị chính quan trọng. Các thành thị thuộc ñịa do các ñơn vị quân ñội La Mã xây dựng theo một ñồ án giống nhau hình chữ nhật, có bốn cửa, ñược phân chia ño vẽ ñịa hình bên trong rất ñặc trưng.
Thành thị La Mã chú ý mở rộng không gian công nhằm tiến hành chính sách ñồng hóa: ñối với dân chúng, thông qua các hoạt ñộng giải trí; ñối với trí thức, thông qua các trường học dạy tiếng latinh, các tri thức luật học, ñể tuyển chọn thành phần ưu tú quản lý các hoạt ñộng công. Ở thành thị La Mã, các nhu cầu chủ yếu như bánh mì, ñiều kiện vệ sinh, trò chơi ở nhà xiếc ñều miễn phí hoặc với giá cả không ñáng kể khi vào nhà tắm công cộng.
Thành tựu ñáng kinh ngạc của thành thị La Mã là cống ngầm thoát nước, cống dẫn nước và ñường sá ñược lát. Các cống dẫn nước từ thời La Mã cho ñến nay vẫn tồn tại như cống Ségovie, cầu Gard... thường ñược gắn với tên tuổi nhà kiến trúc La Mã Vitruve.
* TƯỜNG THÀNH: ít ñược gia cố, có nơi phá bỏ ñể mở rộng thành thị, do nền hòa bình của ñế chế La Mã (pax romana) kéo dài. Tường thành có giá trị tôn giáo kết hợp với ý nghĩa ma thuật khi tiến hành lễ thức phân chia ranh giới thành thị.
* ðƯỜNG SÁ: Năm 312 trước CN, Appius Claudius cho xây dựng con ñường ñầu tiên của La Mã, gọi là via Appia. Theo Jérome Carcopino, thành Rome thời Cộng hòa chỉ có hai ñường xứng ñáng gọi là via, tức là có chiều rộng ñủ cho hai xe ngựa chạy ngược chiều nhau: via Sacra, dùng cho các ñám rước; via Nova, mới hơn như tên gọi của nó.
Hầu hết ñường sá ñều có lề ñường, ñược lát ñan, xây dựng theo các hệ thống bàn cờ (échiquier), cờ ô vuông (damier), vuông góc (équerre), trực giao (orthogonal), kẻ ô vuông hay chữ nhật (quadra) hoặc ô vuông kiểu Mỹ (gridiron)... Chiều rộng ñường sá La Mã không ñồng nhất, các ñường quan trọng có từ 4 – 8 m, trung bình là 5 m.
ðến ñầu Công nguyên, ñường sá có quy chuẩn ưa thích là: trục Decumanus rộng khoảng 20m; trục Cardo rộng bằng một nửa. Nhiều cửa hiệu ñặt dưới các dãy cột tráng lệ, bảo vệ người ñi bộ khỏi mưa nắng, biến các trục lộ thành nơi hoạt ñộng thương mại sầm uất.
Khi César lên cầm quyền, một trong các quyết ñịnh ñầu tiên là cấm xe cộ lưu thông ban ngày trong thành phố (ngoại trừ xe của các xưởng xây dựng ñược phép vào thành Rome ban ngày).
* FORUM: Forum vốn là chợ, trung tâm sinh hoạt công cộng, nơi tụ họp, gặp gỡ các thành phần cư dân, thường nằm ở ñiểm giao nhau của hai trục Decumanus và Cardo, cũng là nơi cấm xe cộ lưu thông. Kích cỡ Forum ñược tính toán tùy theo số dân. Chiều rộng có tỉ lệ bằng 2/3 chiều dài. Ngoài Forum còn có các Fora dành cho các hoạt ñộng thương mại.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 84 -
44 Ban ñầu ở ñiện thần Capitol gồm: Jupiter, Mars (thần chiến tranh) và Quirinus (thần sản xuất), về sau này mới thay ñổi do chịu ảnh hưởng Étrusque vùng Trung Ý. Theo Georges Dumézil (1898-1986), bộ ba các vị thần ñầu tiên ở ñiện Capitol biểu hiện ba chức năng chủ yếu ñược tôn vinh của các dân tộc Ấn-Âu thời cổ ñại là: quyền uy, chiến tranh và sản xuất.
Bên cạnh các hoạt ñộng thương mại, ở Forum còn có: • Các công trình tôn giáo: ñền CAPITOLE nơi thờ ba vị thần Jupiter, Junon và Minerve. • Các công trình thế tục: ñiện BASILIQUE nơi hội họp và tư pháp; CURIE của hội ñồng thành phố và PRAETORIUM dinh tổng trấn. Forum ñược coi là trung tâm dân sự, thuộc về ñời sống cộng ñồng của thành thị La
Mã. ðối với người La Mã, Forum là một phức hợp toàn thể, gồm có các ñền thờ, bàn thờ, các sân tư pháp và các phòng hội nghị, các dinh thự, ñược bao quanh bằng các dãy cột và không gian trống rộng nơi diễn giả có thể nói chuyện với ñám ñông.
Mỗi thời hoàng ñế ñều cố làm ñẹp Forum, xây dựng thêm một tòa nhà hoặc tiện ích nào ñó. * NHÀ Ở: gồm 2 loại, gọi là DOMUS và INSULAE. Domus: chiếm vị trí quan trọng, thường là nhà ở dành cho sinh hoạt gia ñình, chỉ có 1 tầng, hoặc có khi là lâu ñài to lớn.
Insulae: nhà ở nhiều tầng, có khi 6 – 7 tầng, gồm nhiều căn hộ. Một số ít Insulae có ñầy ñủ tiện nghi, dành cho giới thượng lưu. Hầu hết các Insulae ñều là nơi ở tầm thường, thiếu tiện nghi; kể cả phần dưới mái cũng ñược dùng làm nơi ở, giống loại nhà ổ chuột.
Thành Rome có khoảng 4.600 tòa nhà, mỗi căn chứa trung bình 200 người. Juvénal ở thế kỷ II từng kêu lên: “Hãy nhìn chiều cao các tòa nhà kỳ vĩ này, mỗi nhà ít nhất có mười tầng” [Mumford]. Qua ñó cho thấy, mật ñộ dân số thành Rome khá cao. Tuy nhiên, Auguste phải giới hạn chiều cao nhà mặt tiền là 70 bộ romains45, vì thời ñó xây cất bằng vật liệu nhẹ, nhiều nhà bị sụp ñổ, làm chết hàng trăm người.
ðể giải phóng ñất ñai canh tân ñô thị, Neron (37-68) ñã cho châm lửa ñốt thành Rome, gây ra vụ ðại hỏa hoạn vào năm 64 sau CN, làm cháy 8 khu phố, sau ñó ông cho lập sơ ñồ tổng thể ñể xây dựng lại (Domus aurea).
Công trình “Nhà vàng” của Neron ñược coi là “kỳ quan tối thượng của thành La Mã”. Các tòa nhà bao phủ 300.000 m2, có công viên rộng bao quanh lâu ñài, với các vườn tược, bãi cỏ, bể nuôi các loài thủy sinh, kho chứa thịt thú săn, gà vịt, rượu nho, nước uống, giếng nước, thác nước, hồ, các ñường hành lang trong cung. Một số bức tường ñược khảm ngọc trai và nhiều loại ñá quý. Phòng ăn có trần hình tròn bằng ngà voi, trên ñó vẽ bầu trời và các vì sao, có ñặt máy giấu bên dưới sàn nhà ñể nó quay vòng thường xuyên và một dãy phòng cho các dịch vụ nhà tắm, nóng, lạnh, nước biển, hơi hoặc lưu huỳnh.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 85 -
CÁC THIẾT CHẾ Dưới thời hoàng ñế Claude (-10 – 54), vị hoàng ñế thứ tư của ñế quốc La Mã, một năm có 159 ngày ñược coi là ngày lễ, trong ñó hơn 93 ngày (bằng ¼ năm) dành cho tổ chức các cuộc biểu diễn, do kinh phí nhà nước ñảm trách. Khi sức mạnh ñế quốc La Mã càng suy giảm thì số ngày nghỉ càng tăng nhiều. Năm 354 trước CN, có 175 ngày dành 45 Một bộ romain bằng 29,64cm. ðơn vị ño lường nhỏ nhất của người La Mã tính bằng ngón tay (18,525mm).
cho biểu diễn các trò chơi, gần gấp ñôi thời Claude. Như vậy, tổng số ngày nghỉ lên ñến 200, tức là hơn một nửa năm. Khoảng năm 300 sau CN, thành La Mã có 8 khu vườn lớn và công viên sử dụng cho các trò chơi và tập thể dục, và chừng 30 cái nhỏ hơn phân bố trong thành thị.
Theo Lewis Mumford, hai thiết chế thành thị Hy Lạp là trường tập thể dục và nhà hát có nguồn gốc thiêng từ các trò trong ñám ma và lễ thức làm mới lại cây cối và làm chín trái cây; các hoạt ñộng biểu diễn ở ñấu trường và nhà tắm của thành thị La Mã cũng có nguồn gốc tương tự, biểu hiện nhiều ñặc ñiểm về kiến trúc của thành thị La Mã.
* HÍ TRƯỜNG (ñấu trường, nhà bậc, trường xiếc, nhà hát) Các cuộc biểu diễn ở ñấu trường là thiết chế tiêu biểu của người La Mã. Thực ra, ñó là sự tái diễn tập quán cũ về hiến tế của con người dưới hình thức thuần túy thế tục. Người La Mã mê ñua xe, các trận thủy chiến mô phỏng trên các bể vịnh lớn nhân tạo và thể loại kịch câm phóng ñảng.
Năm 234 trước CN, nhân lễ tang cha mình, toàn quyền Decimus Junius Brutus khai trương các cuộc giác ñấu ñầu tiên. Ban ñầu, người tham gia là những tội phạm bị kết án, với ý nghĩa cho họ có cơ hội sống sót, song thực tế ñây là “dây chuyền chết chóc”. Các ñội quân La Mã tổ chức các cuộc chinh chiến còn nhằm cung cấp ñội ngũ người và thú vật cho trường xiếc.
Hí trường thường xây dựng nơi vùng ñất trủng hẹp, giữa các ngọn ñồi, có các thềm bậc cấp bao quanh, với ñường băng dài dành ñua xe ngựa. Các cuộc biểu diễn ñua xe ngựa hai bánh không hiếm khi bị bể xe, hất tung người lái và bị vó ngựa giẫm ñạp. Hí trường ñầu tiên là Flaminius, xây năm 221 trước CN ở Champ de Mars, cạnh sông Tibre, nơi tổ chức các cuộc giác ñấu.
Các trận chiến của các ñấu sĩ thâm nhập sâu sắc vào lối sống của xã hội La Mã. ðến năm 326, việc ñưa các tội ñồ vào hố sư tử ñược hủy bỏ; còn các trận giác ñấu mãi ñến năm 404 mới ñược hoàng ñế Honorius ra lệnh cấm.
Có thể hình dung ít nhất có ñến một nửa dân số thành Rome ñặt chỗ trong các ñấu trường hoặc nhà bậc. Trường xiếc Maximus ñược cho là cổ xưa nhất, ñược César xây dựng lại, có ít nhất 385.000 chỗ (Jérôme Carcopino ñưa ra con số 255.000; còn Curtius ñánh giá phải chứa ít nhất là 80.000 người). Biểu diễn xiếc thường bắt ñầu từ buổi sáng, không ít người ở lại ñó ñể xem suốt ngày. Thành Arles có 15.000 dân, song ñấu trường nhà bậc có sức chứa 25.000 chỗ; nhà hát thành Pompéi có sức chứa 20.000 người.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 86 -
Nhà xiếc ñược sắp ñặt ñể dùng vào nhiều mục ñích khác nhau. Sân khấu hình bán nguyệt khép lại theo hình vòng cung; các buổi diễn kịch Hy Lạp ñược thay bằng opéra trên sân khấu lớn; còn hát opéra nhường chỗ cho kịch câm, có lẽ vì diễn ngoài trời, trước hàng chục nghìn khán giả nên khó nghe lời thoại.
Nhà hát ñược xây bằng ñá, nơi ñất bằng, dành cho các ñấu sĩ, khác với thành thị Hy Lạp thường khoét vào sườn ñồi.
Nhà hát Colisée ở thành La Mã, hoàn tất xây dựng dưới triều hoàng ñế Titus, có thể tiếp nhận 45.000 khán giả.
* NHÀ TẮM CÔNG CỘNG Là khu nhà sang trọng dành cho mọi thị dân, có thể sánh ngang với các trung tâm mua sắm hiện ñại ngày nay. Ngoài quan niệm vệ sinh cơ thể, các nhà tắm công cộng còn ñược ví như ñền thờ - thần thể xác có vị trí danh dự trong ñiện thờ Panthéon của người La Mã.
Nhà tắm có các hoạt ñộng ña chức năng, gồm: các sảnh ñi dạo, thư viện, phòng ñọc, phòng tập TDTT, nhà hàng... Bộ phận chính của nhà tắm gồm hai phòng kích thước lớn, nơi có các hồ tắm nước nóng, lạnh và ấm, một dãy phòng dành cho massage, thư giãn hoặc dùng bữa tập thể, các trường thể dục ñể huấn luyện các môn thể thao và các thư viện cho người thích ñọc sách hoặc nghiên cứu.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 87 -
Nhà tắm rất nổi tiếng, có thể phục vụ cùng lúc cho 60.000 công dân. Nhà tắm công cộng Caracalla cần 70.000 m3 nước mỗi ngày. Do ñó, cần có hệ thống ñường và cống dẫn nước. Số lượng nước tiêu thụ khoảng 1.000 lít mỗi ngày tính trên ñầu người dân.
CHƯƠNG 8 Các quá trình ñô thị hóa trên thế giới
THÀNH THỊ TRUNG ðẠI
Thuật ngữ “Trung ñại” xuất hiện từ giữa thế kỷ XVIII ñể chỉ thời kỳ từ lúc ñế quốc La Mã sụp ñổ năm 476 cho ñến khi người Thổ chiếm ñóng Constantinople năm 1453 hoặc theo cách dùng phổ biến kéo dài ñến lúc tìm ra châu Mỹ năm 1492.
Có xu hướng coi thời Trung ñại diễn ra chậm chạp, thậm chí ñen tối trong các thành thị bất ñộng... Nhưng dần dần người ta khám phá thời kỳ này có nhiều biến ñổi tích cực, phong phú.
Từ thế kỷ III, trước những cuộc xâm lăng của người Barbares46, hoặc theo cách nói của các nhà lịch sử ðức là “các cuộc di dân lớn” dồn dập từng ñợt qua nhiều thế kỷ, ñế quốc La Mã biến mất ở phương Tây.
Barbares “người Germains” sống bằng nghề chăn nuôi và trồng trọt; theo tín ngưỡng ña thần, thờ thảo mộc, sông suối và ñá; giỏi thuật luyện kim và kim hoàn. Họ ñưa vào châu Âu kỹ thuật luân canh 3 năm/lần. Họ tiếp biến ngôn ngữ Latinh và theo Cơ ðốc giáo, nhờ ñó giữ ñược tính liên tục giữa ñế quốc La Mã với các triều ñại Barbares thông qua Nhà thờ (nhập civitas vào polis).
Cho ñến năm 406, chưa có dân tộc Barbares nào vượt qua ñược sông Rhin và thượng nguồn sông Danube. Từ năm 407, quyền lực La Mã ở vùng Bretagne lơi lỏng dần. ðến giữa thế kỷ V, ở vùng Gaule chỉ còn các khu phố La Mã ngăn cách nhau bởi các cơ sở của người Barbares. Ở Tây Ban Nha, người Barbares chiếm ñóng ¾ lãnh thổ, dần dần hình thành các vương quốc Barbares, ñánh dấu sự khởi ñầu thời ñại phong kiến ở châu Âu từ cuối thế kỷ IX.
MẤY ðẶC ðIỂM Do sự xâm chiếm của người Barbares, thành thị ngày càng xuống dốc, hệ quả của tình trạng vô chính phủ về chính trị và khủng hoảng về kinh tế. Tầng lớp quý tộc rời bỏ thành thị về sống ở nông thôn.
Hai thiết chế chính của nền văn minh Trung ñại là nhà thờ và thành thị. ðầu thời trung ñại, có hai quyền lực ñối trọng nhau là: chính quyền ñịa phương của thành thị và các thế lực vương quyền.
Thành thị tiếp tục tồn tại chủ yếu nhờ chức năng tôn giáo. Tiếng Latin trở thành ngôn ngữ thông dụng. Công giáo ñược thừa nhận là tôn giáo nhà nước năm 313. Người
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 88 -
46 “Barbares” theo cách gọi của người Hy Lạp ñể chỉ người Ba Tư và người phương ðông không nói tiếng Hy Lạp, hàm nghĩa dã man, không có văn hóa(!).
ta tin rằng Nước trời hiện thân dưới dạng thành thị. Nhà thờ ñứng ra tổ chức, duy trì mọi sinh hoạt ở thành thị. Mỗi thành thị là trú sở của một vị giám mục Công giáo. Các giám mục kiêm phụ trách quyền lực chính trị, kể cả việc chỉ huy các ñội quân.
Thành thị phát triển gắn với nghề thủ công và tăng cường việc mua bán trao ñổi thông qua các kỳ hội chợ (forum). Trong các thành thị Trung ñại, 4/5 dân số là thợ thủ công và công nhân sản xuất, mặc dù các hoạt ñộng thương mại không ngừng tăng lên (trong khi ở các ñô thị hiện ñại, khu vực sản xuất chiếm không ñến 1/5 dân số hoạt ñộng).
Kể từ thế kỷ IX, X, thành thị hồi sinh nhờ hoạt ñộng buôn bán nô lệ với phương ðông Hồi giáo, nhất là ở các ñịa ñiểm có cảng sông, cảng biển. Từ thế kỷ X ñến XV, nhiều thành thị mới ñược thành lập và không ngừng lớn mạnh. Về kinh tế, thời Trung ñại xuất hiện nhiều kỹ thuật mới như: mắc ách cho ngựa kéo, ngựa kéo hàng ñàn, bánh lái sống ñuôi tàu ñể kéo cày và vận chuyển.
Thành thị duy trì tính tự trị và ñộc lập, giới hạn về mặt vật chất bởi tường thành. Các tường thành bằng gỗ hoặc bằng ñá ñược mở rộng thêm về không gian, “ngoại ô” ñược ñưa vào nội thành.
Thành thị Trung ñại không làm trì trệ lịch sử phát triển nhân loại mà cho thấy sự tiến bộ rõ rệt hơn so với các nền văn minh trước ñó, vì ña phần dân chúng là người tự do. Hiến chương miễn trừ ñược các lãnh chúa dành cho thợ thủ công và thương nhân ở các thành thị cũ hoặc thành thị mới mang tính chất là một bản hợp ñồng xã hội. Người dân ở thành thị ñược bảo ñảm về luật pháp cũng như an ninh quân sự; còn ñối với các tá ñiền, sau khi ở thành thị ñược một năm và một ngày, sẽ có ñược tư cách người công dân tự do. Quyền miễn trừ tạo ñiều kiện ñể thành thị có ñược quyền tự trị ñầy ñủ. Theo Max WEBER, thành thị Trung ñại ở phương Tây phát triển do hội tụ ba hiện tượng: 1. Xóa bỏ luật pháp phong kiến mang tính cách mạng, làm cho “khung cảnh thành thị là tự do”. 2. Hình thành các “hương trấn” (commune) trên cơ sở bình ñẳng giữa các cá nhân, gọi là “liên hiệp các công dân có danh nghĩa cá nhân”.
3. Vai trò quyết ñịnh của Nhà thờ ở thành thị. Khác với Do Thái giáo và Islam dựa trên các lễ thức trong gia ñình, Kitô giáo có ñặc trưng dựa trên cơ sở niềm tin cá nhân, làm giảm tính thiêng trong các quan hệ bộ tộc và gia ñình.
VĂN MINH ISLAM VÀ SỰ XUẤT HIỆN CÁC THÀNH THỊ THƯƠNG MẠI Từ thế kỷ VII - VIII, tôn giáo Islam bành trướng mạnh ở phía nam châu Âu, ñầu tiên là Tây Ban Nha (711) rồi Sicile (902).
Về thuật ngữ, “Islam” có nghĩa là sự phục tùng, từ bỏ mọi sự theo ý muốn của Thượng ñế. Tôn giáo Islam ñược sáng lập dựa trên kinh Coran, tức là lời nói của Thượng ñế với tiên tri Mahomet (572-632). Kỷ nguyên Hồi giáo bắt ñầu từ năm 622. Tôn giáo Islam tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa ñời sống tôn giáo với ñời sống xã hội và chính trị. Trong vòng một thế kỷ (632-732), các hậu duệ của Mahomet chiếm giữ phần lãnh thổ trải dài từ Pyrénées ñến Himalaya, vượt qua diện tích chiếm ñóng của ñế quốc La Mã thời kỳ trước ñó.
Giống như ñế quốc La Mã, ñế quốc Ả Rập này tạo lập thành thị (Le Caire, Bagdad) hoặc khôi phục các trung tâm cũ (Damas, Séville, Lisbonne...) chủ yếu nhờ vào các hoạt ñộng thương mại.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 89 -
Chính việc xây dựng các thành thị có chức năng phòng thủ ñã cho phép mở lại các con ñường thương mại vùng và quốc tế. Hệ thống các con ñường thông thương từ Trung
Quốc ñến Tây Ban Nha, từ lục ñịa ñen ñến vùng Trung Á, hình thành các thị trường ñô thị rộng lớn nhờ các hoạt ñộng thương mại.
Cuộc Thập tự chinh ñầu tiên nổ ra năm 1096 ñánh dấu sự khơi mào cuộc chiến giữa Công giáo và Islam. Từ thế kỷ XI, Islam suy sụp ở phương Tây, tái lập giao thương trong vùng vịnh ðịa Trung Hải.
Giữa thế kỷ XI và XIII, sản xuất công nghiệp và thương mại ñã phát triển ñáng kể, do tăng trưởng diện tích ñất ñai nông nghiệp. Việc sử dụng hợp lý phân bón, bao gồm sử dụng hệ thống rác thải ñô thị ñể tái tạo ñất ñai, ñã cải thiện năng suất các nông trại. Thế kỷ XIII là thời kỳ hoàng kim của nền văn minh và kiến trúc Trung ñại. Theo Lewis Mumford, thành thị phát triển phụ thuộc chặt chẽ vào nông nghiệp thịnh vượng. Thực là sai lầm nếu tách thịnh vượng của thành thị ra khỏi vùng nông thôn nuôi sống họ.
Từ thế kỷ XII, thành thị Trung ñại phát triển mạnh nhờ: thương nhân và nông dân nhập cư làm tăng dân số; ñiều kiện an ninh và tình trạng pháp lý ñược cải thiện; các kỹ thuật nông nghiệp ngày càng hoàn thiện; nhiều khu phố thợ thủ công và thương mại lập ngay ở cổng thành, dọc ñường cái hoặc bờ sông, bến cảng, hình thành các vùng ngoại ô bao quanh; nhiều thành thị mới mọc lên, ở các nơi có ñiều kiện giao thương thuận lợi như bên cạnh các tòa lâu ñài của lãnh chúa, tu viện, nhà thờ.
Công nghiệp thủy tinh và hầm mỏ phát triển mạnh. Chăn nuôi ngựa ñược cải thiện thông qua việc chọn giống, hoàn thiện phương pháp thắng bộ yên cương, lắp móng sắt cho ngựa, cũng như tăng số lượng cối xay nước và sử dụng gió làm nguồn năng lượng quan trọng cho các cộng ñồng cư dân ñô thị. Phát minh máy dệt sử dụng bàn ñạp chân là nguồn gốc các ñảo lộn kinh tế, có thể so sánh với việc sử dụng năng lượng thủy lực trong công nghiệp kéo sợi sau ñó năm thế kỷ47.
Vùng ñất thấp ñầm lầy ở Hà Lan, vốn là nơi ở của vài nhóm dân chài, ñã trở thành một trong những vùng màu mỡ nhất châu Âu. Khoảng năm 1150, Hà Lan xây dựng các ñê ñập và kênh ñào ñể khai thác các vùng ñất lấn biển ñầu tiên. Những người lao ñộng tự do, không chịu sự cai quản của nhà vua hoặc thủ lĩnh tôn giáo ñã xây dựng các con ñê khổng lồ và tôn cao ñất ñai ñể xây dựng thành thị, mở ra cuộc vận ñộng lớn phát triển công nghiệp thế kỷ XVII.
CẤU TRÚC Cấu trúc thành thị Trung ñại bao gồm nhiều thành thị nhỏ, trên một khu vực lãnh thổ rộng, có quan hệ chặt chẽ với các làng xung quanh. Tuy nhiên, trong các thành thị Trung ñại, ñiểm cách xa nhất có bán kính không quá 1km so với trung tâm. Thành thị Trung ñại (médina) gồm:
– Khu trung tâm có tư dinh tổng ñốc và nhà thờ Hồi giáo. – Khu thương mại là không gian ñược tổ chức văn minh quy cũ, dành cho thương mại và hàng thủ công (gọi là souk, bazar), với các tòa nhà giao dịch thương mại (gọi là foundouk, khan, fondaco...). – Khu nhà ở có xu hướng tập hợp theo dòng họ và tộc người, trong ñó khu Do thái và Công giáo thường ở gần vùng trung tâm.
Ngoài ra, ở mỗi khu phố ñều có các nhà tắm (maures) và tiểu thánh ñường. Các ñô thị cổ La Mã có dạng gốc là tập hợp một khối hình chữ nhật, biểu trưng trật tự vũ trụ. Các thành thị Trung ñại xây mới theo hình ô bàn cờ (damier), chung quanh một không gian trung tâm dành họp chợ và tụ họp công cộng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 90 -
47 Xem thêm: Jean Gimpel, La révolution industrielle du Moyen Âge, Éd. du Seuil, 1975, 256 tr.
ðến giữa thế kỷ VIII và XII, ñịa ñiểm Forum bị bỏ rơi. Chợ ñược chuyển ñến phạm vi ñược bảo vệ của ñồi Capitole. Có thể coi ñây là dấu hiệu ñầu tiên cấu thành một kiểu thành thị mới, thành thị trung ñại.
Thành thị Trung ñại thường lấy tòa lâu ñài làm ñiểm trung tâm, mà chu vi là các bức tường thành, nên diện tích bị thu hẹp lại. Ở Bordeaux, phần bên trong tường thành chỉ bằng 1/3 diện tích trước ñó; còn thành Autun do Auguste xây dựng rộng 250 ha thì bấy giờ chỉ còn lại là một ngôi làng khiêm tốn 12 ha. Vật liệu xây cất nhà cửa chủ yếu là gỗ; ñường sá bằng ñất nện. Nhiều nhà có khu vườn ñể sản xuất tự túc gia súc (gà, heo, bò). Hầu hết các thành thị Trung ñại ñều có chức năng kinh tế. ðến nửa sau thế kỷ XIII và XIV, mới có thêm chức năng chính trị và quân sự. Thành thị trung ñại có ñặc ñiểm ña trung tâm. Các thành thị mới thu hút dân cư khai thác ñất ñai nông nghiệp, tạo ñộng lực phát triển kinh tế.
Vào thế kỷ XIII, các kỵ binh ðức thành lập ở Áo hàng trăm thành thị cách nhau từ 30 ñến 40 km. Trong vòng bốn thế kỷ, ðức ñã thành lập 2.500 thành thị. Ý là nước ñi ñầu trong phong trào phục hưng ñô thị. Thành Venise và Milan hồi ñó ñã vượt con số 100.000 dân.
CÁC NHÂN TỐ CHÍNH Ba nhân tố chính của thành thị Trung ñại là: tu viện, phường buôn và nhà thờ. ðầu thời Trung ñại, các tổ chức thương mại và tôn giáo kết hợp với nhau. Các cơ sở thương mại xây dựng các quy tắc gần giống với thiết chế tôn giáo.
Thế kỷ IV, thánh Augustin, giám mục thành Hippone, thành lập tu viện ñầu tiên. ðến thế kỷ VI thánh Benoît de Nursie ñưa ra quy tắc mà tất cả các cơ sở tôn giáo mới thành lập ñều bắt chước hoặc sửa ñổi theo. ðó là ñiểm khởi ñầu của một kiểu văn minh tôn giáo mới. Các tu viện ñóng vai trò lớn trong việc mở rộng không gian nông nghiệp. Các tu viện dòng Bénédictins bảo tồn kiến thức về các kỹ thuật nông nghiệp của người La Mã và y khoa của người Hy Lạp.
Phường hội có xuất phát là một cộng ñồng tôn giáo, ñặt dưới sự bảo trợ của một vị thánh, có nguồn gốc từ người Anglo-Saxonne trước năm 1892, nhằm tổ chức các cuộc vui chung hoặc sẵn sàng hỗ trợ giúp ñỡ nhau khi hoạn nạn và tang ma, theo lời thề conjuratio. Các phường hội buôn tổ chức và kiểm soát kinh tế thành thị, quy ñịnh giá cả và các ñiều kiện bán hàng, ngăn cản cạnh tranh bất chính và cố gắng bảo vệ người buôn bán chống lại các rối loạn khác nhau của thị trường. ðến cuối thời Trung ñại, tính thế tục dần chiếm ưu thế hơn so với các thực hành tôn giáo; sự “tín nhiệm” (crédit) quan trọng hơn so với “ñức tin” (foi).
Các nhà thờ Công giáo ñược xây dựng nhiều trong thời kỳ này. Theo Fitz Stephen, vào thế kỷ XII, London có 13 nhà thờ lớn và 126 nhà nguyện, trong khi dân số không quá 25.000 người.
ðặc ñiểm chung của các thành thị Trung ñại là ñường phố hẹp, quanh co, chủ yếu dành cho người ñi bộ; kích cỡ xây dựng khiêm tốn trừ nhà thờ và tòa thị chính; dân số ít; quan hệ mang tính gia ñình; các khu phố phân theo nghề nghiệp, khoảng 2-3.000 dân và ñều có một bệnh viện; mang tính tự trị. Mỗi khu phố có nhà thờ, chợ ñịa phương, ñược cung cấp tự do nước sạch từ máy nước hoặc giếng.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 91 -
* DÂN SỐ Dân số thành thị Trung ñại thay ñổi từ vài ngàn ñến 40.000 dân – số dân của thành London vào thế kỷ XV. Trước thế kỷ XVII, hiếm có thành thị nào vượt quá 100.000 dân, trừ Paris, Venise, Milan và Florence. Một số thành thị ở Ý có tỷ lệ dân số khá cao, do truyền thống từ thời La Mã. Nước ðức có khoảng 150 thành thị lớn, song thành thị quan trọng nhất không quá 35.000 dân.
Ngay cả lãnh thổ màu mỡ Hà Lan nơi có công nghiệp dệt rất phát triển, có những vùng ñô thị kết nối quan trọng, cũng không vượt con số trung bình: Ypres năm 1412 có 10.376 dân; Louvain năm 1450 có 25.000 dân và Bruxelles có 40.000 dân. Trung tâm quan trọng nhất là Bruges cũng không quá 70.000 dân.
* ðƯỜNG SÁ Cho ñến thế kỷ XII, thành thị phát triển chủ yếu theo hai dạng: • Theo chiều dài, dọc ñường cái hoặc dòng sông; • Do sức hút từ một hạt nhân hoặc các công trình kiến trúc (tòa lâu ñài, tu viện, nhà thờ).
ðến cuối thời Trung ñại, các con ñường làng hình thành ở các thị trấn tập trung quanh nhà thờ. Mãi ñến giữa thế kỷ XII, nhất là kể từ thế kỷ XIII, thành thị quay lại hệ thống ñường sá theo kiểu trực giao. ðường sá ở các thành thị cũ chật hẹp, ngoằn ngoèo, nay ñược nới rộng và thẳng ñều hơn. Hầu hết các con ñường của thành phố Paris ban ñầu không quá 1–2m, lúc này ñạt 8-10m.
Cuối thế kỷ XII, vua Philippe-Auguste cho lát ñan các ñường phố chính. Việc lát ñường ñể thuận tiện cho người ñi bộ bắt ñầu từ năm 1185 ở Paris, 1235 ở Florence, 1310 ở Lübeck. ðến năm 1339, tất cả ñường phố Florence ñều ñược lát. ðến thế kỷ XIV, ñường sá ở hầu hết các thành phố lớn ñều ñược lát.
Cho ñến thế kỷ XVI, các chủ hộ bị buộc phải lát ñường và lo việc chiếu sáng trước nhà mình, kể cả việc rửa ñường. Thói quen này vẫn giữ ở London cho ñến thế kỷ XIX, và chỉ biến mất khi không còn vận chuyển bằng sức kéo ñộng vật.
* NHÀ Ở Nhà ở thời Trung ñại kết hợp với buôn bán, nên thường nhô ra trên các ñường phố, tầng trệt có thêm ban công hoặc hàng hiên. ðặc biệt, xung quanh các quảng trường xuất hiện các dãy nhà có hàng hiên hoặc dãy cột dùng ñể buôn bán. Xuất hiện các khu phố hoạt ñộng theo nghề như: hàng thịt, hàng làm xanh chảo… gây ra huyên náo và ô nhiễm.
Quảng trường chính, nhất là ở các thành thị mới, không còn là khoảng sân trước (parvis) nhà thờ mà trở thành nơi họp chợ. Ở nhiều nơi, quảng trường chợ nằm bên cạnh hoặc ñối diện tòa thị chính. Các con ñường ñi vào quảng trường không nằm ở chính giữa mà tiếp tuyến ở các góc.
Vùng nông thôn lân cận không ñược kiểm soát an ninh, nên các hoạt ñộng nông nghiệp và chăn nuôi (gà vịt, vườn nho, ruộng lúa, ñàn gia súc) phải ñưa vào vòng thành. Các tường thành khép kín ñược duy trì và người ta chú ý bảo vệ an ninh nguồn nước.
* TRƯỜNG ðẠI HỌC ðại học là một phát minh tiêu biểu của thời Trung ñại. Các trường ñại học Trung ñại hợp lưu các dòng tư tưởng tôn giáo, chính trị và khoa học về nhận thức, chưa từng có trong bất kỳ nền văn minh nào khác. Trước ñó, trong các ñền thờ Ai Cập và thành Babylone cũng ñã có các mầm móng của trường ñại học tương lai như: viện hàn lâm Platon, trung tâm giáo dục thư viện Alexandrie hoặc các trung tâm ở thành thị La Mã. Các thử nghiệm canh tân giáo dục xảy ra ñầu tiên từ thời Charlemagne, với Alcuin ñến từ Anh năm 790 ñể tổ chức lại trường học ở Aix-la-Chapelle, kế ñó là các trường thuộc nhà thờ lớn như ở Chartres.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 92 -
Trường ñại học bắt ñầu thành lập ở thế kỷ XII và lan rộng từ thế kỷ XIII. ðó là trung tâm giáo dục của các phường hội, nhằm mục ñích chuẩn bị thế hệ trẻ thực hành nghề và quy ñịnh các ñiều kiện lao ñộng.
Trường ñại học có ba trong số các chức năng quan trọng nhất của thành thị trong lĩnh vực văn hóa là: tích lũy lịch sử; trao ñổi và truyền bá kiến thức và sau cùng là các công trình sáng tạo.
Trường ñại học ñầu tiên là ñại học Bologne, thành lập năm 1088, nhưng chỉ có ngành luật. Trường ñại học Paris lớn nhất thời Trung ñại, nơi giảng dạy triết học và thần học, ban hành quy chế năm 1215 do Robert de Couçon48, và ñược giáo hoàng Grégoire IX thừa nhận năm 1231. Các ñại học ñặt dưới sự bảo hộ trực tiếp của giáo hoàng. Giáo hội muốn ñưa vào ñại học các tu sĩ dòng François và Dominique, dẫn ñến cuộc ñình công năm 1253 ñể bảo vệ quyền miễn trừ của ñại học.
Các ngành học gồm có khoa nghệ thuật và khoa thần học. Khoa nghệ thuật gồm các môn học trivium (văn phạm, biện chứng, tu từ học) và quadrivium (ñại số, âm nhạc, hình học, thiên văn), kéo dài khoảng 6 năm; khoa thần học giảng dạy triết học theo tư tưởng Augustin. ðến năm 1255, Aristote ñược ñưa vào chương trình học của khoa nghệ thuật ñại học Paris, ñánh dấu bước ngoặt quan trọng, giải quyết các vấn ñề liên quan ñến con người theo quan ñiểm thuần duy lý.
ðại học Trung ñại là mô hình ñại học tiên tiến cho ñến thế kỷ XIX mới bị truất ngôi, do sự xuất hiện của ñại học ðức theo công thức “ñào tạo khoa học” của nhà triết học Humboldt. THÀNH THỊ CẬN ðẠI
Hiệp ước Tordesillas (1494) chia ñôi thế giới giữa Tây Ban Nha và Bồ ðào Nha. Kể từ nửa ñầu thế kỷ XVI, Tây Ban Nha là nước ñế quốc ñầu tiên ñược mệnh danh là nơi mặt trời không bao giờ lặn. Thế kỷ XVII, dưới thời trị vì của Louis XIV, Pháp chiếm ưu thế sau khi trải qua nhiều cuộc chiến tranh (hiệp ước Westphalie chấm dứt chiến tranh 30 năm với ðức). ðến thế kỷ XVIII, Anh nổi lên tranh giành ảnh hưởng thuộc ñịa với Pháp.
Thành thị Cận ñại kéo dài ba thế kỷ, kể từ khi Christophe Colomb phát hiện ra châu Mỹ năm 1492 ñến cuộc cách mạng Pháp năm 1789. Cho ñến khi phát hiện ra châu Mỹ, thế giới châu Âu chủ yếu ñược hình thành quanh vùng vịnh ðịa trung hải [J- F.Braunstein, B. Phan, 2006:132]. Sau ñó, trung tâm kinh tế thế giới dịch chuyển từ Florence, Gênes, Venise của ðịa trung hải về “khu biển hẹp” (theo cách gọi của người Anglo-Saxons) ở vùng biển Manche, Pas-de-Calais và vùng biển Bắc của Anvers, Amsterdam, London hoặc Hamburg.
Thành thị Cận ñại có ñặc ñiểm tương ứng với các phong trào thành thị phục hưng, cổ ñiển hoặc thành thị lý tưởng.
THÀNH THỊ PHỤC HƯNG Phục hưng49 là một phong trào triết học, văn học và nghệ thuật, xuất hiện từ thế kỷ XV ở Ý, rồi lan ra khắp châu Âu thế kỷ XVI. Thế kỷ XVI ñược gọi là Phục hưng vì con người có ý thức rõ hơn về nguồn cội của mình. Phục hưng là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn, khẳng ñịnh một quan niệm mới về con người, ñặt con người ở vị trí trung tâm vũ trụ (anthropocentrisme). ðó là con người tự do, làm chủ số phận của mình.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 93 -
48 Năm 1257, Robert de Sorbon mở trường dành cho sinh viên nghèo, về sau trở thành ñại học Sorbonne. 49 Thuật ngữ “Phục hưng” bắt nguồn từ “Rinascita” ở Ý, sau thời kỳ Trung ñại bị người thời ñó coi là ñen tối(!?). Khái niệm “Phục hưng” ñược ñịnh nghĩa là “sự khám phá thế giới và con người” trong công trình Văn minh Phục hưng ở Ý (1860) của J. Burckhardt. Ở Pháp, từ “Phục hưng” từng xuất hiện trong công trình của Balzac, nhưng trở nên phổ thông hơn qua công trình Phục hưng [1855] của Michelet.
Khác với thời Trung ñại chỉ quan tâm ñến tiếng Ả Rập và phương Tây, các công trình khoa học và y tế thời cổ ñại hoặc triết học kinh viện của Aristote, văn minh châu Âu thời Cận ñại muốn về nguồn ñể khám phá lại các giá trị văn học và nghệ thuật thời Hy Lạp và La Mã cổ ñại, các tác phẩm văn học bằng tiếng Hy Lạp của Homère, Plutarque và tiếng Latinh của Virgile, Tacite hoặc Cicéron, ñọc lại các tác phẩm về thuật kiến trúc của Vitruve, về triết học của Platon. Việc tái khám phá này càng thuận lợi hơn khi xảy ra sự kiện người Thổ chiếm thành Constantinople (1543), khiến các nhà thông thái người Hy Lạp ñổ dồn vào nước Ý.
Ngoài ra còn có phong trào “cổ ñiển” (classique) xuất phát từ tiếng Latinh “classici”, chỉ các công dân ñược xếp hàng ñầu về tài sản. Theo Từ ñiển Richelet [1680], cổ ñiển là “ñiều xứng ñáng ñược giảng dạy trong các lớp học”. Phong trào này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, từ cuối thế kỷ XVII, chủ yếu ở Pháp, gắn với triều ñình vua Louis XIV.
Thế kỷ XVIII ở châu Âu ñược coi là thế kỷ Ánh sáng50, vì có ñặc ñiểm chống lại các luận thuyết tôn giáo, thoát khỏi rào cản mang tính cá nhân ñối với sự tiến bộ của tập thể. Tiến bộ của thế kỷ Ánh sáng là tiến bộ về nhận thức, ñặc biệt trong lĩnh vực khoa học. Thế kỷ XVIII còn ñược coi là thế kỷ của các công trình từ ñiển, ñặc biệt là xuất hiện bộ Bách khoa toàn thư51 hoặc Từ ñiển lý luận về khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp của Diderot, d’Alembert và Jaucourt, xuất hiện từ 1751 ñến 1771.
THÀNH THỊ LÝ TƯỞNG Từ thế kỷ XV, xuất hiện ngày càng nhiều các lý thuyết gia về quy hoạch ñô thị, chủ yếu ñến từ nước Ý. Người ta chú ý hơn các yếu tố hợp lý, thẩm mỹ của thành thị, nên gọi ñó là thành thị lý tưởng. Theo Alberti, “Thành thị không chỉ tiện lợi mà phải ñẹp”. Các con ñường “sẽ sang trọng hơn nếu các cửa mở ra ñồng nhất, các tòa nhà có cùng ñộ cao như nhau, xếp thành hai hàng song song tuyệt ñối”. Tuy nhiên, mãi ñến thế kỷ XVIII, các thành thị mới thực sự ñược xây dựng như hiện nay. Có thể nêu ra một số các nhà quy hoạch tên tuổi thời bấy giờ.
• Leone Battista Alberti (1404-1472), người Florence, ñặt lại vấn ñề của Platon về kiến trúc và quy hoạch thành thị lý tưởng. Ông ca tụng vẻ ñẹp quyến rũ của ñường phố ngoằn ngoèo, song khẳng ñịnh những con ñường huyết mạch phải ñược kẽ thẳng; nhà phố không nhô ra thụt vào mà phải theo một bản vẽ quy hoạch thống nhất. Công trình của Alberti về “Nghệ thuật xây dựng” (De re aedificatoria) gồm 10 cuốn.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 94 -
50 Năm 1784, trả lời câu hỏi “Ánh sáng là gì?”, nhà triết học Emmanuel Kant (1724-1804) cho rằng: Ánh sáng là một hành vi dũng cảm, “ñể con người ra khỏi thiểu số chỉ quy về cho chính mình”. Ẩn dụ của Ánh sáng là sự thắng thế trước sự tối tăm ở các thế kỷ trước ñó, mở ñầu kỷ nguyên mới. 51 Bách khoa toàn thư (encyclopédie), theo tiếng Hy Lạp là vòng tròn kiến thức (instruction circulaire), tức là ôm lấy nhận thức trọn vẹn theo hình tròn. ðầu tiên, nhà sách Le Breton dự tính dịch bộ Cyclopedia bằng tiếng Anh của Chambers. Nhưng với sự cộng tác của Alembert, Diderot ñã mở rộng ra, vừa trình bày toàn bộ tri thức, vừa chỉ ra các tiến bộ về lý lẽ, ñấu tranh chống lại các thành kiến. Trong bài báo “Encyclopédie”, Diderot giải thích: “Mục ñích của Bách khoa toàn thư là tập hợp lại các kiến thức tản mác trên mặt ñất, trình bày lại theo một hệ thống chung”. Hệ thống ấy là “năng lực chủ yếu của con người”, ñược D’Alembert phân loại trong “Lời nói ñầu” (Discours préliminaire) gồm ký ức, lý lẽ và trí tưởng tượng, từ ñó hình thành ba ngành khoa học chính là lịch sử, triết học và thi ca.
• Filarete (1400-1469), cũng người Florence, là người ñầu tiên ñưa ra ñồ án thành thị lý tưởng có hình ngôi sao 8 cạnh, cấu thành ña giác 16 cạnh, với 16 con ñường hội tụ về quảng trường trung tâm, nơi ñặt tòa lâu ñài của nhà vua. Giống như Vitruve52, ông quan niệm thành thị tương ứng với các bộ phận cơ thể con người. Filarete là người ñầu tiên sử dụng bản vẽ ñể minh họa lý thuyết của mình về kiến trúc. Công trình của ông “Luận về kiến trúc” (Trattato di architettura) gồm 25 cuốn.
• Francesco di Giorgio Martini (1439-1502), ñưa ra ñồ án thành thị lý tưởng có 8 cạnh cân ñối, ở trung tâm là một quảng trường gồm 8 nhánh của 8 con ñường ñồng tâm. Về kiến trúc nhà ở, ông không bao giờ vẽ hai ngôi nhà giống nhau. Ông là người ñầu tiên quan niệm thành thị là một cơ thể sống, cho nên thành thị có khả năng tiến hóa.
Nguyên tắc quy hoạch thành thị lý tưởng là các con ñường phải ñược làm thẳng, hội tụ về một tòa nhà hoặc quảng trường trung tâm (lúc này có hình tròn thay thế hình vuông); tạo nên sự liên kết hữu cơ giữa các bộ phận khác nhau của thành thị…
• Léonard de Vinci (1452-1519) cũng quan niệm thành thị là một thực thể sống, hữu cơ. Ông là người tiên phong phân biệt các phương diện kỹ thuật và nghệ thuật khỏi các vấn ñề của ñời sống.
Tuy nhiên, kể từ giữa thế kỷ XVI ñến thế kỷ XVIII là thời kỳ suy thoái và suy tàn của các thành thị lớn. ðến ñầu thế kỷ XIX, xuất hiện các nhà lý thuyết xã hội về ñô thị như Saint-Simon, Fourier, Robert Owen và William Thomson… thường ñược coi là các nhà ñô thị không tưởng.
Chính tại nước Anh, cái nôi của nền ñại công nghiệp, sự nghèo khổ của công nhân ở các khu ghettos biệt lập ñã dấy lên các phản ứng chống lại thành thị “quái vật”. Trong khi về mức sống, thu nhập nông dân hầu như bao giờ cũng dưới ½ so với người làm nghề ở thành thị (trừ Anh và số nước Bắc Âu ngang nhau nhờ trợ cấp của nhà nước).
CÁC LOẠI HÌNH ðÔ THỊ Vào thế kỷ XVI, người ta xây dựng một số thành thị mới ñáp ứng các yêu cầu về quân sự, kinh tế và tôn giáo, song hầu hết ñều giữ lại kiểu ô vuông (quadrillage) của thời Trung ñại.
+ Thành thị pháo ñài (kiểu Vauban): ðến thế kỷ XVI, do sự phát triển hỏa lực súng pháo, nhiều thành thị kiểu pháo ñài ñược tăng cường xây dựng. Các kỹ sư quân sự ñòi hỏi kiến trúc ñô thị phải bảo ñảm súng pháo có thể bắn ñi từ vị trí trung tâm của thành thị ñến khắp các ñường phố chính, nhằm chống lại hiểm họa người Thổ. ðó
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 95 -
52 Vitruve, nhà kiến trúc thành thị La Mã, xuất hiện khoảng thế kỷ I trước CN. Công trình của Vitruve thường ñược nhắc ñến là Re Architectura, theo ñó một công trình kiến trúc cần bảo ñảm chất lượng bền vững, có ích và ñẹp (firmitas, utilitas và venustas). Theo ông, kiến trúc là sự bắt chước giới tự nhiên, cần hiểu biết ý nghĩa về các tỷ lệ của cơ thể con người, sau này ñược Léonard de Vinci diễn tả qua bức họa nổi tiếng “Con người theo Vitruve”, trong ñó cơ thể con người ñược ñặt trong ñồ hình tròn và vuông thể hiện về hình học các ñặc ñiểm cơ bản về trật tự vũ trụ.
là kiểu thành thị ô vuông, dựa trên hai trục chính thẳng góc giao nhau ở quảng trường trung tâm hình vuông. Thành phố hình vuông với quảng trường vuông ở trung tâm có 8 con ñường; thành phố năm cạnh có 10 con ñường khởi ñi từ quảng trường trung tâm… Vauban (1633-1707) xây dựng nhiều thành lũy có hình ngũ giác hoặc lục giác, ở giữa là quảng trường rộng với các công trình nhà thị sảnh, nhà thờ…
+ Thành thị bến cảng: Một số thành thị bến cảng ñược xây dựng trong thời kỳ này như Le Havre (1541), ñược thành lập sau khi mở cửa khẩu sông Seine, vì cư dân thành Rouen muốn có một cảng biển kín gió, do kỹ sư Bellarmato tiến hành; Livourne (1575) ñược xây dựng mới, nên ñể tập trung dân cư, vua Ferdinand ðệ Nhất ñã mời các thương nhân và những kẻ tha phương không phân biệt xứ sở và tôn giáo ñến cư trú, trong ñó ñông nhất là người Do Thái ñến từ Tây Ban Nha. + Thành thị có nguồn gốc tôn giáo: Một số hoàng thân người ðức theo Tin Lành ñã lập ra các thành thị ñể ñón tiếp các ñồng ñạo bị săn ñuổi lúc bấy giờ.
TÁI THIẾT ðÔ THỊ CŨ + Thành Rome: ñến thế kỷ XV không còn hình dạng của thành thị. Một phần thành thị, nhất là ở các vùng ñồi, quay trở lại với sinh hoạt nông thôn. Tuy nhiên, các giáo hoàng thời Phục hưng muốn thành Rome trở lại vai trò thủ ñô tinh thần của châu Âu.
+ Thành Madrid: trở thành thủ ñô của Tây Ban Nha dưới thời vua Philippe ñệ Nhị, nên ñược mở rộng năm 1561. Do thành thị chật hẹp, triều thần không có chỗ ở, vua ra luật buộc người dân dành phần phía trên của nhà họ cho các viên chức triều ñình. ðáp lại, dân Madrid chỉ xây nhà ở có 1 tầng. Vụ này ñược gọi là casas de malicia.
+ Thành Paris: ñược xây dựng lại, chủ yếu giữ cấu trúc thời Trung ñại, song ñường sá rất khó mở rộng. Vua François ðệ Nhất ra lệnh nhà xây dựng lại phải phá bỏ các phần nhô ra lấn chiếm ñường công. Song lệnh này không mấy tác dụng, vì người ta làm lại nhà trên các dãy cũ mà không hề lùi lại chút nào. Năm 1554, vua Henri II ra lệnh phá hủy tất cả nhà nào không chấp hành lệnh hoàng gia, trong ñó có hàng loạt nhà ở, cửa hiệu và lều quán, song cũng không tiến hành ñược.
Ngoài ra, các vương triều thời kỳ này cũng ñã bắt ñầu nghĩ tới việc hạn chế tăng dân số ở thành thị như vua Henri II (Paris, 1548) hoặc nữ hoàng Elisabeth (London, 1580)...
BIẾN CHUYỂN THÀNH THỊ (THẾ KỶ ÁNH SÁNG) Thế kỷ XVII, nhất là từ thế kỷ XVIII là thời kỳ thành thị chấm dứt sự cô lập của mình ñối với môi trường tự nhiên, làm cho thành thị Cận ñại khác hẳn với thành thị Trung ñại. Thành thị ñược mở ra phía bờ sông. Các tường thành ngăn cách thành thị với dòng sông bị triệt hạ, thay thế bằng các bến sông, hai bên có nhà cửa. Tại Paris, các bến sông và các cây cầu mới bắt ñầu ñược xây dựng… Thế kỷ Ánh sáng ñược coi là thời kỳ hoàng kim của thành thị Cận ñại, biểu hiện một số các ñặc trưng sau:
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 96 -
+ Khống chế thành phố lớn, vì cho rằng có nguy cơ: cung cấp thực phẩm khó khăn; khó ñảm bảo trật tự công cộng và vận hành tốt nền hành chánh; bỏ bê các tòa nhà trung tâm ñể ra xây nhà mới ở vùng ngoại vi; cần thiết duy trì vành ñai xanh (trồng rau) ñể cung ứng thực phẩm cho thành thị…
Triều ñình liên tiếp ñưa ra nhiều ñạo luật nhằm ngăn chận thành thị mở rộng mới diện tích, quy ñịnh vùng ngoại ô chỉ ñược xây nhà thấp tầng... song ñều tỏ ra bất lực.
+ Quan tâm quy hoạch ñô thị: Thành thị phải có ñiều kiện vệ sinh, trong lành, nhằm bảo ñảm không khí lưu thông, bằng cách mở rộng ñường sá, hạn chế chiều cao nhà cửa, lập thêm công viên và nơi ñi dạo (ở thế kỷ XVIII, mốt ñi dạo rất phổ biến)…
+ Tách xa người chết với người sống: Năm 1776, nhà vua cấm chôn cất trong nhà thờ, chuyển các nghĩa ñịa kém vệ sinh ra ngoại ô. Nhiều nghĩa ñịa ñã ñược dịch chuyển ra khỏi thành thị, dù bị dân chúng phản ñối do tập quán truyền thống.
+ Làm thẳng các con ñường. + Thân thiện hơn với môi trường tự nhiên. + Hành chính gắn với quy hoạch ñô thị. Lĩnh vực hành chính trước ñó ít can dự quy hoạch ñô thị, nay ñưa ra chủ trương ñổi ñất lấy cơ sở hạ tầng. Quy hoạch ñô thị giao quyền cho một viên chức phụ trách; ñổi lại nhà vua giao phần ñất còn lại cho họ bán như ñất xây dựng. THÀNH THỊ HIỆN ðẠI Thế kỷ XIX có hai sự kiện làm biến ñổi kinh tế sâu sắc, dựa trên các khám phá khoa học và ứng dụng kỹ thuật, ñược gọi là cuộc “Cách mạng công nghiệp”.
Cuộc cách mạng công nghiệp ñầu tiên dựa trên than ñá và sử dụng năng lượng phổ biến do máy hơi nước cung cấp. Hệ quả dẫn ñến cơ giới hóa khối lượng hoạt ñộng và làm tăng năng suất ñáng kể, trong ñó công nghiệp luyện thép làm phát triển vận chuyển, xây dựng ñường sắt, ñóng tàu thủy... Anh là nước ñi tiên phong trong cuộc cách mạng này nhờ nguồn than ñá. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai dựa trên dầu lửa, gắn với ñộng cơ nổ và ñiện, xuất phát từ ñợt suy thoái kéo dài từ những năm 1873-1896.
Lao ñộng tập trung trong các nhà máy lớn làm dân số thành thị ngày càng tăng trưởng và tước ñi một phần nhân lực nông thôn. Năm 1913, ¾ dân số tập trung sinh sống ở thành thị Anh và ðức. Cùng với ưu thế cuộc cách mạng công nghiệp, châu Âu nắm quyền kiểm soát thế giới thông qua bành trướng chế ñộ thuộc ñịa, bắt ñầu từ năm 1873. Các thành phố công nghiệp phát triển mở rộng ra các vùng ngoại ô.
ðÔ THỊ CÔNG NGHIỆP (THẾ KỶ XIX - XX) Từ thế kỷ XVI, thành thị phát triển cùng với quá trình công nghiệp hóa. Các xưởng thủ công biến thành nhà máy hoạt ñộng có năng suất cao, hình thành các ñô thị công nghiệp. Công nghiệp hiện ñại ñòi hỏi các khu nhà rộng lớn hơn ñể sản xuất và làm kho chứa hàng. Thương mại phát triển cả về số lượng và chất lượng nhờ phát triển các phương tiện vận chuyển.
Cuộc cách mạng công nghiệp ñã làm bùng nổ các vấn ñề ñô thị hóa. Các thành thị trải qua giấc ngủ hàng mấy thế kỷ, bị ñảo lộn do các biến ñổi về cơ cấu sản xuất. Một thành phố ñược coi là ñô thị công nghiệp khi tỷ lệ người ăn lương công nghiệp vượt quá 60% tổng dân số; trong khi chức năng thương mại có tầm quan trọng ñặc biệt khi sử dụng trên 20% dân số hoạt ñộng cho các lĩnh vực trao ñổi53.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 97 -
Người ta cũng chưa hình dung hết các ñặc ñiểm ñiều kiện vệ sinh và tiện nghi cơ bản nhất. Các nhà máy nằm cạnh khu dân cư, chiếm giữ các nguồn mạch lưu thông. Trong suốt thế kỷ XIX, các ñiều kiện cư trú bị xuống cấp do việc tìm kiếm mù quáng các ñiều kiện sinh lợi về nhà cửa cho thuê. 53 M.C.D. Harris, A functional classification of cities in the United States, Geogr. Review, New York, 1943. Dẫn theo Pierre George, sñd., tr. 229.
Ba ñặc ñiểm chung của ñô thị công nghiệp là: hầm mỏ, nhà máy và ñường sắt, tạo nên kiểu thành thị mới mà Charles Dickens (1812-1870) trong tác phẩm Thời buổi khó khăn [1854] gọi là “thành phố than” (coketown)54. Hiện tượng khói ñen bao trùm thành thị 12-14 giờ/ngày hoặc có nơi 24/24 giờ.
Theo Pierre George [1952:67], kinh tế công nghiệp phát triển dẫn ñến hai hệ quả: phát triển các thành phố lớn và các chùm ñô thị ở các vùng mỏ và công nghiệp; các thành phố khác nhau tùy theo các chức năng kinh tế.
BÙNG NỔ DÂN SỐ THÀNH THỊ Suốt thời kỳ dài, thành thị có quy mô khiêm tốn, ñơn giản chỉ là các thành phố-chợ, thành phố-chặng hoặc thành phố-pháo ñài thời kỳ tiền công nghiệp. Một vài thành thị ñóng vai trò trung tâm trên phạm vi rộng như thành Rome cổ ñại thời hoàng kim vượt 1 triệu dân; Edo, tiền thân của Tokyo, ñến thế kỷ XVIII cũng ñạt dân số tương tự.
ðến ñầu thế kỷ XIX, 80% dân số thế giới vẫn hoạt ñộng trong khu vực kinh tế 1 (nông nghiệp), 8% khu vực 2 (công nghiệp) và 12% khu vực 3 (dịch vụ, thương mại). Các tiến bộ khoa học và kỹ thuật cho phép 5 – 10% dân số hoạt ñộng ñủ nuôi sống toàn thể cư dân. Do vậy, số nông dân còn lại tất yếu phải di dân về thành thị, làm việc ở các ngành công nghiệp. Trong khi dân số trái ñất tăng gấp 4 lần kể từ 1850, thì cư dân thành thị tăng gấp 10 lần do hệ quả tiến bộ khoa học kỹ thuật từ giữa thế kỷ XVIII.
Năm Quá trình tập trung dân cư ở thành thị Dân số thế giới (triệu dân) Dân số thành thị (triệu dân)
1800 1900 1950 1975 1995 2025 954 1.634 2.516 4.050 5.740 Dự kiến 8.000 Tỷ lệ (%) 8 10 30 38 45 62 75 160 745 1.538 2.584 5.000
Ngày nay, khu vực kinh tế thứ 3 phát triển những công việc văn phòng, trở thành ñộng lực tăng trưởng chủ yếu của thành thị như ở New York, London hoặc Paris. Ở các nước ñang phát triển, quá trình tăng dân số thành thị là tất yếu. Dân cư tập trung ở các ñô thị lớn, dẫn ñến hiện tượng thành thị to ñầu, song khu vực 1 vẫn còn rất quan trọng.
Tăng trưởng năng suất lao ñộng dẫn ñến gia tăng sản xuất toàn cầu, tăng dân số và ñòi hỏi nâng cao mức sống. Sau năm 1950, bắt ñầu có sự “ly dị” giữa thành thị cũ và công nghiệp ñang bành trướng, vì không thể có một thành phố ñẹp và thích hợp như người ta ñã thử làm trước ñó. Các ñô thị nhộn nhịp trở lại nhờ có ñịa ñiểm biệt lập với công nghiệp hóa.
PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH THỊ MỚI Ở thế kỷ XVIII, James Steuart [1767] ñã quan sát các tác ñộng tăng trưởng của ñô thị ñối với nông thôn, việc triển khai các ñô thị kết nối, thiết lập các nhà máy gần với các vùng nguyên liệu và năng lượng, chuẩn bị phát triển các thành thị mới, chủ yếu là các ñô thị công nghiệp.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 98 -
Thế kỷ XVIII còn chứng kiến sự kiện thành lập thành phố Petrograd (1703) bởi một ñội quân 800.000 công nhân và tiến hành cuộc canh tân từ năm 1763. Người ta tổ chức một cuộc thi quốc tế ở châu Âu trong thời hạn 3 tháng với hai ñề án: một là cải tạo thành phố, hai là xây dựng thành phố hoàn toàn mới. Các sơ ñồ không ñuợc ký tên mà chỉ mang một ký hiệu, rồi ñưa ra công chúng xem trong vòng 15 ngày... 54 Dẫn theo Lewis Mumford, La cité à travers l’histoire, Éd. du Seuil, p. 560.
Khoảng từ giữa thế kỷ XIX ñến giữa thế kỷ XX, thành thị phát triển theo chiều rộng, trên thế giới xuất hiện rất nhiều thành phố mới. Một số thành thị ra ñời do giá trị nông nghiệp gia tăng, song nhiều nhất là do phát triển các ngành công nghiệp, khai khoáng mỏ sắt hoặc luyện kim, dầu hỏa, khí ñốt…
ðặc biệt, vàng ñã tạo nên cơn sốt khai sinh nhiều thành thị trong thế kỷ XIX gồm San Francisco, Denver ở Mỹ, Johannesburg ở Nam Phi hoặc kim cương ở Kimberley; xuất hiện các thành phố nối liền các trục ñường giao thông thủy bộ như cảng Singapore, Melbourne thế kỷ XIX hoặc các thành phố dọc kênh ñào Suez.
ðường sắt ñóng vai trò chủ yếu, nhất là ở Bắc Mỹ (Chicago là nút giao thông của 33 tuyến ñường sắt), hình thành các thành thị ở các nhà ga nằm trên lộ trình và ở ga cuối. Ngoài ra còn có các thành phố du lịch, các hải cảng quân sự.
Tuy nhiên, một số các nhà không tưởng và cải cách thế kỷ XIX vẫn kiên trì với mô hình thành thị lý tưởng. Họ ñã kết hợp với các nhà công nghiệp xúc tiến thành lập các khu vực riêng dành cho công nhân, kể cả xây dựng các ñô thị “ngủ”... Năm 1816, nhà công nghiệp Robert Owen từng lưu ý: “Người ta quan tâm ñến cỗ máy chết mà thiếu tôn trọng cỗ máy sống”. Ông cho rằng thành thị phát triển lớn và kinh tế là ñiều xấu, không chỉ ñối với giai cấp công nhân mà toàn thể xã hội...
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 99 -
ðến cuối thế kỷ XIX, xuất hiện phong trào xây dựng các ñô thị vệ tinh, nhằm kìm hãm sự phát triển thái quá của các thành phố cực lớn. ðô thị vệ tinh ñầu tiên là của nhà công nghiệp Pullmann ở gần Chicago, làm nơi ñặt nhà máy và nơi ở cho công nhân.
CHƯƠNG 9 Thành thị và chất lượng sống
ðIỀU KIỆN SỐNG Ở THÀNH THỊ
Trong lịch sử, nạn dịch hạch dẫn ñến “cái chết ñen” kéo dài từ năm 1346-1353 ñã lấy ñi sinh mạng của 60 triệu người, bằng 1/3 dân số châu Âu hồi ñó và ñã làm giảm một nửa dân số châu Âu ở thành thị... ðến năm 1667, sau trận ðại hỏa hoạn ở thành London, người ta ñặt ra yêu cầu phân biệt kích cỡ các loại ñường sá lưu thông. Patrick GEDDES: “Nhà ổ chuột, bán ổ chuột và siêu ổ chuột, ñó chính là viễn cảnh tiến bộ của thành thị!”55.
ðến thế kỷ XIX, các thành thị công nghiệp ở châu Âu ñã trả giá cho sự tăng trưởng của mình bằng các ñiều kiện sống ñáng kinh hãi. Về y tế, thành thị tập trung ñông dân cư, trên phạm vi không gian chật chội, ñặt ra vấn ñề vệ sinh, làm trẻ em bị tử vong sớm và nhiều người mắc bệnh lao trong ñiều kiện thiếu thoáng khí. Ở Manchester hoặc ở Lille, có từ 60 – 80% trẻ em sinh ra chết trước 5 tuổi [Beaujeu-Garnier, 1995:192]. Năm 1810, tại thành phố New York, cứ 1000 trẻ em sinh ra chỉ có 120-145 trẻ còn sống; tăng lên 180 năm 1850; 220 năm 1860 và 240 năm 1870. Trong “Báo cáo về tình cảnh giai cấp công nhân năm 1848”, Blanqui ñã dẫn báo cáo của bác sĩ Gosselet ở Lille nhận xét rằng trong số 21.000 trẻ em ñã có ñến 20.700 trẻ chết trước 5 tuổi [G. Chambon, 1975:44-45].
Vào năm 1840 ở nông thôn Avesnes, mức sinh thường vượt qua mức tử. Và cho ñến khoảng năm 1860, mức tử ở các trung tâm ñô thị hầm mỏ và công nghiệp cao hơn ña số các vùng ở nông thôn.
Bệnh nghề nghiệp bắt ñầu xuất hiện ở tầng lớp công nhân và người nghèo khổ. Ở York, năm 1839-1841, tuổi thọ trung bình của công nhân chỉ 23,8 tuổi, tức là chưa ñến một nửa so với tuổi thọ trung bình hồi ñó ñạt 48, và riêng ñối với người khá giả là 56.
Do ñó, sẽ không ai ngạc nhiên khi phát hiện các ñiều kiện sống tương tự trong các hạt nhân ñô thị ở các nước ñang phát triển. Theo Soret [1954], ñô thị hóa phát triển ở Ấn ðộ ñổng hành với bệnh lao tăng lên, chồng chất lên người nghèo khổ và ñói kém. Tỷ lệ này ở nông thôn từ 20 – 35%, tăng lên 80 – 90% ñối với người nghèo thành thị. Ở Bengale, 7% người cư trú ở thành thị mắc bệnh lao so với 0,6% ở nông thôn.
Ở châu Phi, tình hình không khá hơn. ðó là các chứng bệnh lao, thấp khớp, bệnh ñường hô hấp, bệnh ký sinh ñường ruột, bệnh ngoài da. Năm 1948, dân số bản ñịa ở Brazzaville dao ñộng trong khoảng 50.000 người, trong khi các trạm y tế và bệnh viện khám và ñiều trị cho 53.000 lượt bệnh nhân trong năm.
Ngoài các mầm bệnh ñô thị lây nhiễm do cư trú tập trung, môi trường ñô thị còn làm thay ñổi các thói quen theo truyền thống, chẳng hạn bệnh ăn uống thiếu chất. Các bác sĩ ñã lưu ý từ lâu là người da ñen về sinh sống ở thành thị có khuynh hướng theo chế ñộ ăn uống của người da trắng như bánh mì, ñồ hộp. Nhưng vì không có nhiều tiền, họ chỉ có thể tiêu dùng thực phẩm giá rẻ, thay thế thường xuyên các món ăn tự nhiên theo truyền thống, làm cho bộ răng của họ chóng bị hư hại. Beaujeu-Garnier [1961] tiến hành ñiều tra ở Salvador ghi nhận những người mới ñến ở thành thị uống ít sữa hơn 30%, dùng
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 100 -
55 Lewis Mumford, sñd., p.545. Patrick Geddes cũng là người ñầu tiên ghi nhận sự biến chuyển hình thái kinh tế kỹ thuật cũ với sự thống trị của than – sắt – máy hơi nước sang hình thái kinh tế kỹ thuật mới với ñiện, hợp kim nhẹ, ñộng cơ và biến áp ñiện.
trái cây ít hơn 50% và ăn rau ít hơn 64% so với khi họ còn ở quê [Beaujeu-Garnier, 1995:193].
Về vệ sinh, John SNOW (1813-1858), bác sĩ người Anh, người khai sáng ngành dịch tể học hiện ñại, với công trình On the mode of communication of Cholera [1855] lần ñầu tiên chứng minh liên hệ giữa bệnh dịch tả ở London và tiêu thụ nước nhiễm bẩn56.
Tập trung ñông người ở các trung tâm hành hương còn là nguồn gốc lây lan nhiều mầm bệnh tai hại. Năm 1902, khi có trận ñại dịch hạch ở Ấn ðộ, hơn một nửa trường hợp là do những người ñi hành hương ở Puri về lây nhiễm tràn lan.
Những người lao ñộng nhập cư cũng chịu trách nhiệm lây lan một số bệnh nhiễm. Ở Pháp có thời kỳ lây lan các bệnh ký sinh ñường ruột ñược cho là do những người nhập cư ñến từ châu Phi.
Ngoài ra, thời gian bị mất do nhu cầu ñi lại ở ñô thị, chủ yếu là di chuyển hàng ngày từ nơi ở ñến nơi làm việc, từ ngoại thành vào nội thành hoặc ngược lại, từ ngoại thành ñến ngoại thành, thông qua các phương tiện trên bộ và dưới ñất; ñi lại trong giờ cao ñiểm hoặc các ñịa bàn phân phối hàng hóa. Chẳng hạn, Paris là ñiểm hội tụ 17 quốc lộ có mật ñộ giao thông lớn; trung bình người Paris mất 1g24p/ngày ñể di chuyển.
Mùa xuân 1992 (trước ñó là năm 1965), ở Los Angeles xảy ra sự kiện biến ñộng xuất phát từ các khu nhà ổ chuột (ghettos), nơi tập trung người châu Mỹ latinh và người da ñen nằm gần trung tâm thành phố lan ñến các khu phố nhà giàu của người da trắng. Cuộc ñụng ñộ sắc tộc này ñã làm cho 58 người chết, 2.300 người bị thương, gây ra 5.000 vụ hỏa hoạn và làm tổn thất 1 tỷ ñôla [Beaujeu-Garnier, 1995:319].
Người ta tính ñược rằng người dân sống ở thành phố Los Angeles chịu ô nhiễm bằng hút 2 gói thuốc/ngày. Với tỷ suất tử 15o/oo của một thành phố khoảng một triệu dân, trung bình có khoảng 300 người chết/tuần. CÁC MÔ HÌNH ðÔ THỊ
ðÔ THỊ KHÔNG TƯỞNG Bắt ñầu từ công trình của Thomas Moore mà từ không tưởng ñược dùng ñể chỉ ñịnh mọi ñồ án về các mô hình thành thị ñược coi là lý tưởng ngay từ thời Cận ñại. Thuật ngữ “không tưởng” (utopie), theo từ nguyên tiếng Hy Lạp “ou-topos”, có nghĩa là “không có ở nơi nào cả”.
Các nhà không tưởng ra sức tìm kiếm một giải pháp “nhân văn” trong quy hoạch ñô thị. Robert Owen ñưa ra mô hình thành phố tập thể; hoặc các mô hình ñô thị khác như: ñô thị mặt trời (civitas solis) của Tommaso Campanella; ñô thị không gian (spatial city) của Paul Maymont… Có thể ñiểm ra một số tác giả và các mô hình “không tưởng” trải qua các thời kỳ như sau:
+ Thomas MOORE (1478-1535)57 ñược coi là một trong số các nhà ñô thị không tưởng ñầu tiên, với công trình Utopia, chuyến ñi ñến xứ sở bất ñịnh58 [1516]. Ông phác
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 101 -
56 E. Dorier Apprill, “La géographie, les villes et l’environnement: débats épistémologiques et enjeux contemporains”, trong Ville et Environnement, Sedes, Paris, 2006, tr. 12. 57 Thomas Moore nhận làm cố vấn cho vua Henry VIII. Tuy nhiên, do không ủng hộ việc cắt ñứt liên hệ với Giáo hội Công giáo, ông bị bắt vì tội phản quốc và bị chém ñầu 58 Trong công trình này, Raphaël Hytlodée kể lại một chuyến ñi ñến hòn ñảo tưởng tượng, ở ñó ñời sống có ñặc ñiểm chính là cộng ñồng về tài sản, vì sở hữu tư nhân ñược coi là nguồn gốc của hầu hết ñiều xấu. Giống như các công trình không tưởng khác, kể cả Lề luật (Lois) của Platon, mọi chi tiết trong ñời sống hàng ngày ñược quy ñịnh cụ thể như: số giờ ngủ trong ngày (6 giờ ngủ, 8 giờ làm, còn lại dành cho hoạt ñộng văn hóa); tuổi kết hôn của nữ là 22 và nam là 26; áo quần ăn mặc phải hết sức giản dị; quy ñịnh số người chính xác của mỗi nhà và thành thị. Nếu gia ñình nào có con cái ñông thì giao cho gia ñình khác hoặc ñưa ñi thành thị khác....
thảo ñồ án về các thành thị Utopie (không tưởng), ñặc biệt là mô hình thành thị Amaurote bình ñẳng – chỉ cần biết một thành thị là biết hết tất cả.
“ðô thị bình ñẳng tuyệt ñối”: Moore dự kiến xây 50 ñô thị như nhau, có hình vuông, nằm ở sườn ñồi dốc thoai thoải dẫn ñến con sông; có vòng thành cao và rộng bao quanh. ðô thị gồm 4 ô phố, chợ nằm ở giữa, gồm 30 hộ, ăn uống theo chế ñộ tập thể. Ở phía sau và giữa các căn nhà bố trí các khu vườn rộng, ñể người dân lấy chăm sóc vườn tược làm thú tiêu khiển, thi ñua trồng vườn giữa các ô phố. ðường sá rộng 20 bộ, có các quảng trường ñể thuận tiện ñi lại vận chuyển và núp tránh gió. Nước ñược dẫn qua các ñường ống bằng gạch, chảy từ ñiểm cao nhất của thành thị. Mỗi ñô thị gồm 6 nghìn hộ (tức có khoảng 100 nghìn dân), cách nhau ít nhất 40 km, tức là vừa ñủ ñể ñi bộ trong một ngày ñường từ thành thị này ñến thành thị khác.
+ Francesco PATRIZI (1529-1597) ñưa ra mô hình “ðô thị hạnh phúc” [1553]. Ông ñề xuất xây dựng thành thị một phần ở trên ñỉnh ñồi ñể hưởng gió mát, và một phần nằm ở dưới ñồng bằng ñể không bị quá lạnh.
+ Tommaso CAMPANELLA (1568-1639) với mô hình “ðô thị Mặt trời” [Civitas Solis, 1602]. Thành thị lý tưởng nằm trên một ngọn ñồi, gồm có bảy vòng lớn mang tên bảy hành tinh. Chính giữa ñỉnh ñồi là một ngôi ñền hình tròn, không có tường mà dựng các cột lớn, ở trung tâm có nóc lớn và nóc nhỏ, nóc nhỏ ñược ñục cửa ñể ñi lên bàn thờ chính nằm ngay giữa ngôi ñền... Cư dân ðô thị Mặt trời không thể ích kỷ ñược vì họ không có sở hữu bất kỳ, ñược ăn mặc ñồng phục, ăn uống như nhau. Bữa ăn ñược bác sĩ trông nom, thường có hai món, chọn món nào tùy theo ngày, dành cho mỗi ñối tượng khác nhau là thanh niên, người già hay người bệnh. Quan niệm “không tưởng” của Campanella chịu ảnh hưởng của Platon và More.
+ Alexandre LE MAÎTRE (1649-?) ñược coi là nhà quy hoạch về không gian ñô thị thế kỷ XVI và XVII. Công trình của Le Maître, “Tính cách thủ phủ” (La Métropolitée, 1682) xuất bản ở Amsterdam, trong ñó ông nêu ra ý tưởng về giá trị của thành phố thủ ñô hoặc thủ phủ ñối với một nước: thành phố thủ ñô phải là cực sung túc, thịnh vượng và thể hiện vinh quang của một nước. ðó là “ngọn ñèn pha”, “bộ não”, giống như “cái ñầu với cơ thể, nhà vua với thần dân, trời với ñất...”. Ông còn ñưa ra ý tưởng về mạng ñô thị, chính sách không gian xanh, ý thức về lợi ích kinh tế của ñô thị hóa.
+ Robert OWEN (1771-1858): người xứ Wales, nhà cải cách xã hội, thúc ñẩy phong trào hợp tác xã và là một trong số những người sáng lập chủ nghĩa xã hội không tưởng. Ở ñộ tuổi 28, Owen còn là nhà công nghiệp không vụ lợi khi biến xí nghiệp dệt do ông sở hữu tại New Lanark (Scotland) thành một nhà máy kiểu mẫu, cải thiện ñiều kiện làm việc cho công nhân, giảm giờ làm, lập vườn trẻ, mở lớp học buổi tối và quy chế hóa lao ñộng trẻ em nổi tiếng khắp châu Âu. Owen ñưa ra mô hình “ðô thị hợp tác xã” cho người nghèo. Theo ông, việc lập ra các cộng ñồng người lao ñộng tự trị, tập hợp từ 500 – 2.000 người, sẽ giải quyết vấn ñề xã hội và khởi ñầu một trật tự thế giới mới.
Do không ñược ủng hộ ở Pháp, ông qua Mỹ năm 1824, dành toàn bộ sản nghiệp ñể lập ra cộng ñồng New Harmony. Không thành công, năm 1829 Owen chuyển sang Anh, ñứng ñầu một mạng lưới hợp tác xã, rồi một hệ thống giao dịch lao ñộng, nghiệp ñoàn (1834), song chung cuộc tất cả ñều thất bại. Owen chuyển qua viết sách ñể tuyên truyền học thuyết xã hội chủ nghĩa của mình qua công trình Book of the New Moral World [1834-1835].
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 102 -
+ Charles FOURIER (1772-1837): Thành thị lý tưởng theo quan niệm của Fourrier là “vạn vật hòa hợp”. ðó là mô hình “ðô thị tập ñoàn” (phalanstères), gồm có một cộng ñồng tập hợp 1.620 người, khoảng 400 hộ, ăn ở tập thể và sử dụng bếp chung.
Mỗi tập ñoàn ñược quy ñịnh số lượng gồm 1.620 thành viên, có thể thay thế 400 căn nhà tồi tàn thành một ñơn vị ñô thị hoàn chỉnh giữa nông thôn. ðó là một ñơn vị sinh hoạt tập thể về nhà ở, sản xuất, tiêu dùng và giải trí. Mọi lĩnh vực kinh tế và xã hội ñều ñược tổ chức, ñể mọi người ñều có cuộc sống thú vị và tự do, có thể theo sở thích của mình: muốn chung thì chung, muốn riêng thì riêng, nhưng phải dựa trên cơ sở hội ñoàn (association).
Cá nhân tập hợp thành từng nhóm gồm 7 hoặc 9 người, cứ một “loạt” từ 24 ñến 32 nhóm hình thành một “tập ñoàn”. Khu nhà ở của tập ñoàn ñược xây cất trên một dặm vuông (khoảng 2.000 ha), cấu thành một hệ thống thứ bậc:
1 tập ñoàn 2 tập ñoàn 12 tập ñoàn 48 tập ñoàn 144 tập ñoàn 1.728 tập ñoàn
Bậc 1: “Thái ấp nam tước” (baronnie) = Bậc 2: “Tử tước” (vicomte) = Bậc 3: “Bá tước” (comté) = Bậc 4: “Hầu tước” (marquisat) = Bậc 5: “Công tước” (duché) = Bậc 6: “Vương quốc” = (royaume) Về số lượng 1.620 “hội viên”, Fourier giải thích rằng loài người hình thành 810 tính chất hoặc kiểu cách khác nhau tùy theo các ñam mê59 kết hợp lại với nhau. Do vậy, một tập ñoàn ñầy ñủ phải có số lượng chính xác là 810 thành viên, mỗi hội viên ñược cộng thêm một người thay thế ñề phòng nguy cơ thiếu hụt.
Về cấu trúc, chính giữa khu nhà chính, ñối diện với sân lớn bên trong thông thoáng rộng 400m (công trường Parade) sẽ xây một tòa tháp lệnh, khu ñồng hồ, ñiện tín. Nơi ñây sẽ truyền ñi các chỉ dẫn cho người lao ñộng ñang ở rải rác ngoài ñồng. Riêng nhà hát và chỗ giao dịch nằm ở trong cùng của vòng thành.
Tầng ñầu của khu nhà và chạy bao xung quanh là một con ñường-hành lang, mùa ñông ñược sưởi ấm, mùa hè có gió thổi, cho phép mọi người dễ dàng giao tiếp với nhau trong mọi ñiều kiện thời tiết. Con ñường-hành lang này có thể sử dụng làm phòng triển lãm các ñồ vật nghệ thuật và các sản phẩm công nghiệp.
Charles Fourier cho rằng lao ñộng xã hội bị chèn ép vì năm tai ương chính: lương không ñủ sống, nhà xưởng ñộc hại, lao ñộng cô lập, giờ giấc vô hạn ñộ và thiếu thi ñua. Do ñó, ông muốn xây dựng một hệ thống mà ở ñó công nhân sẽ lao ñộng nhiệt tình nhờ ba kích thích: tài sản chung, tính tranh ñua và lương cao hơn. Tư tưởng của Fourier lần ñầu tiên ñặt người tiêu dùng lên vị thế hàng ñầu.
Tuy nhiên, Fourier thiên về thuyết trọng nông; tỏ ra hoài nghi và thiếu thiện cảm ñối với “thuyết công nghiệp”. Ông là người tiên phong bảo vệ không gian xanh. Giống như Saint-Simon, ông tìm thấy sự hấp dẫn trong học thuyết của Newton “về cân bằng vật chất của vũ trụ”. Ông mơ ước một xã hội mà mỗi người hợp tác với nhau giống như sự hài hòa của trời ñất. Ông ñặt lòng tin vào tính hữu hiệu của Tập ñoàn lao ñộng Phalanstère, nhờ lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích xã hội, bằng cách thỏa mãn lợi ích cá nhân.
Theo Fourier, thành thị gồm ba vòng thành, có kích cỡ khác nhau: vòng ñầu tiên chứa “thành phố” hoặc trung tâm thành phố; vòng thứ hai là các ngoại ô và nhà máy lớn; vòng thứ ba là ñường sá và ngoại thành. Các bãi cỏ và cây cối xen giữa các vòng, nhưng không ñược che khuất tầm nhìn.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 103 -
59 Khác với các nhà ñạo ñức và triết gia ñương thời, Charles Fourier quan niệm con người bị ñiều khiển bởi 13 ñam mê, trong ñó có 5 ñam mê “cá nhân” (nhìn, sờ, nghe, nếm, ngửi), 4 ñam mê “xã hội” (tình yêu, tình bạn, huyết thống và tham vọng), 3 ñam mê “cá biệt” (huyền bí, kén chọn, trộn lẫn) và ñam mê thứ 13 là sự hài hòa, tổng hợp tất cả các ñam mê trên.
Nông thôn và thành thị không hề ñứt ñoạn mà thâm nhập lẫn nhau: ở vòng thành ñầu tiên, nhà phải có ñất vườn, ít nhất bằng với diện tích ñất xây dựng; nhà ở ngoại ô có diện tích ñất trống gấp ñôi và ở ngoại thành gấp ba.
Nhà ở cũng phải tách rời nhau, không ñể vật gì che chắn tầm nhìn, ít nhất phải bằng sáu tầm người (toises60), bằng một nửa chiều cao của công trình xây dựng. Chiều cao công trình xây dựng không ñược vượt quá chiều rộng con ñường. Các quảng trường phải chiếm ít nhất 1/8 diện tích thành thị. Nhà ở trong “Phalanstère” ñều phải xây lớn, vì “nếu nhà tập hợp một trăm người, mỗi nhà có 5 người thì không phải dùng 20 máy bơm cho 20 nhà, mà chỉ cần một máy bơm cỡ lớn”.
Năm 1833, M. Baudet-Dulary mua lại 500 ha ở Seine-et-Oise (Pháp) ñể thành lập công ty khai thác theo kiểu Phalanstère; ñến năm 1888 M. Raymond Duval cũng muốn vận dụng hệ thống này của Fourier, nhưng ñều không thành công. Fourier bị chỉ trích, trong ñó có Roger Mucchielli, Marx và Proudhon, vì theo G.Chambon [1975:42]: “ñã không thực sự hiểu biết các cơ sở xã hội về hợp tác; con người về cơ bản gắn bó với nhau trong phạm vi ñịa lý và lịch sử; và bám rễ trong các thực thể văn hóa, folklore, kinh tế...”.
Trước thực trạng ñiều kiện nhà ở ngày càng tồi tệ của công nhân và gia ñình họ, những người trực tiếp kế tục Ch. Fourier như: Jules Simon, F. Le Play... ñã cho thành lập các khu phố công nhân. ðiển hình là “Công ty Mulhouse các Thành phố công nhân” [1851]; “Familistère” của Godin [1859] ở Guise (Aisne)61; hoặc “Khu phố Napoléon” [1849], ở ñường Rochechouart (Paris), bảo ñảm nhà ở cho 500 người; cùng với các khu phố khác xây dựng sau này ở Batignoles và Reuilly. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình này ñều không thành công.
CÁC NHÀ ðÔ THỊ KHÔNG TƯỞNG HIỆN ðẠI * Etienne CABET (1788-1856) là một triết gia người Pháp và là nhà xã hội không tưởng ở Mỹ. Trong công trình “Chuyến phiêu lưu của ngài William Carishdall ở Icarie” (1840), ông mô tả hư cấu một nhà nước và xã hội lý tưởng Icara qua mô hình “ðô thị công xã nửa nông thôn”, với quy mô từ 200 – 2.000 dân. Mô hình này gồm những khu nhà hình vuông, ba phía là nhà ở gia ñình, phía thứ tư là phòng ngủ cho trẻ dưới 3 tuổi; ô vuông ở giữa là quảng trường, gồm các công trình công cộng như: nhà ăn, nhà bếp, trường học, thư viện, bệnh xá, nhà khách. Icara chia thành 100 tỉnh, gồm 1.000 hương trấn, có diện tích và dân số gần bằng nhau. Thế giới tự nhiên ñược tái hội nhập vào ñô thị nhờ các khu vườn nằm sau dãy nhà xây dựng theo một “mô hình” duy nhất, kể cả ñồ ñạc trong nhà cũng giống nhau.
Cabet chịu ảnh hưởng tư tưởng của Robert Owen, quan niệm một chính quyền ñược bầu lên sẽ kiểm soát mọi hoạt ñộng kinh tế và giám sát các công việc xã hội. Ông là người ñầu tiên ñặt ra từ “chủ nghĩa cộng sản”, ñề xuất xây dựng một xã hội cộng sản hoàn toàn, ñược tổ chức ñến từng chi tiết. Quan niệm một xã hội ñại ñồng của Cabel về sau ảnh hưởng ñến Karl Marx, Friedrich Engels. Ông cũng dẫn ñầu một nhóm người ñi tìm một xã hội mới ở Mỹ, ñưa mô hình Icara thử nghiệm ở Texas, Nauvoo nhưng không có kết quả.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 104 -
60 ðơn vị và công cụ ño chiều dài cổ, tương ứng 6 bộ, khoảng 1,8 m. “Toise” có từ nguyên gốc Latinh là tendere, tiếng Hy Lạp cổ là orguia, tiếng Pháp là tendre, có nghĩa là một sãi tay. 61 Familistère của Godin có một tòa nhà trung tâm, gọi là “khu nhà xã hội” (Palais Social) gồm nhiều ngôi nhà to lớn nằm cách nhau theo ñồ án Phalanstère của Fourier, có thể ở ñược 1.200 gia ñình, khoảng 4.000 người. Họ ñều là công nhân ở các nhà máy. Familistère chỉ có một số dịch vụ tập thể gồm: xưởng giặt, nhà giữ trẻ, trường học, nhà hát riêng, các phòng họp. ðiều quan trọng là công nhân có thể ñược quyền sở hữu sau nhiều giai ñoạn.
* Benjamin Ward RICHARDSON (1828-1896) giới thiệu công trình “Hygeia” [1876] trong một cuộc họp báo ở Hội nghị “Hiệp hội Khoa học Xã hội”. Vốn là bác sĩ, nên thành phố lý tưởng của Ngài Richardson quan tâm ñến vấn ñề vệ sinh: Dân số giới hạn tối ña là 100.000 người, chia thành 20.000 căn nhà, trung bình 25 người/ha. “Vệ sinh của dân chúng bảo ñảm chống lại mọi nguy cơ mật ñộ dân số ñông, nhờ kiểu nhà bảo ñảm phân bố dân số ñồng nhất...”. Các ngôi nhà này hạn chế chiều cao, nên không làm tối các con ñường. Hai con ñường chính hoặc ñại lộ ñi từ ðông sang Tây tạo nên trục giao thông chính, bên dưới là ñường sắt dành cho vận tải nặng. Ngài Richardson còn là một trong số người ñầu tiên ñề xuất sử dụng các phương tiện kỹ thuật chống lại khói sinh hoạt và công nghiệp gây ô nhiễm không khí.
* Jules VERNE (1828-1905) ñưa ra mô hình thành thị lý tưởng Franceville nhằm phản ứng chống lại thành phố thép Stahlstad ở thời kỳ cách mạng công nghiệp. Theo mô hình này, nhà không ñược cao quá hai tầng, cách nhau bởi một lô ñất trồng cây, bãi cỏ và hoa; mỗi phòng ñều có lò sưởi ấm; khói ñược ñưa vào lòng ñất.
* Ernest TARBOURIECH (1865-1911), nhà khoa học không tưởng, giáo sư ñại học Libre về Khoa học Xã hội tại Paris. Tháng 10/1901, ông giới thiệu một loạt bài ở ðại học Mới Bruxelles, sau ñó triển khai thành công trình: “ðô thị tương lai, ñề cương về không tưởng khoa học” [1910]. “Người ta thấy có sự liên hệ gần gũi nào ñó trong tinh thần của tôi kết hợp giữa một bên là kinh tế mác-xít và các cải cách thực tế, với một bên là quan niệm lý tuởng của tôi về một xã hội tương lai, với chính sách hiện nay của ñảng...”. Ý tưởng của Tarbouriech về ñô thị hóa gồm hai cấp ñộ: ñô thị hóa tổng quát (générale) và ñô thị hóa thích ñáng (ponctuelle).
– ðô thị hóa tổng quát: Vấn ñề ñầu tiên ñặt ra là các thành viên của “cộng ñồng lớn” sinh sống ở ñâu, nông thôn hay thành thị? vì sinh hoạt nông thôn trong lành hơn ñời sống ñô thị. Ông nhắc lại quan ñiểm của Marx và Engels: giai cấp vô sản sẽ kết hợp lao ñộng nông nghiệp và công nghiệp, nhằm phá bỏ phân biệt giữa thành thị và nông thôn. Phương thức ñô thị hóa môi trường nông thôn là lập ra các ñô thị nông nghiệp. Ông chống lại các làng xã ít hơn 1.000 dân, vì với số dân này không thể tổ chức các dịch vụ công cần thiết. Tarbouriech ý thức rằng cần có một “sơ ñồ quy hoạch ñô thị” dự kiến các phân khu chức năng và không gian xanh, tách các khu công nghiệp ra khỏi khu cư trú.
– ðô thị hóa thích ñáng: Về nhà ở, phân biệt ñối tượng sử dụng theo giá thành và phương tiện sản xuất, coi ñó là phần bổ sung các nhà xưởng, phân chia giữa các lao ñộng theo công việc và các yêu cầu về thời gian, ñịa ñiểm. Các nhà mới không cao 6-7 tầng, mà chỉ có tầng trệt và 2-3 tầng. Về nơi cư trú, ñô thị hóa sẽ tạo nên thị trấn và các thành thị nhỏ mà Tarbouriech gọi là “coron” (khu nhà công nhân), khác với các làng xã hiện tại, không chỉ có kiến trúc ñẹp, nơi ở tiện lợi, mà còn hoàn thiện về vệ sinh như các khu phố. Mọi khu phố ñều là trung tâm sinh hoạt kinh tế, nên mỗi nơi cư trú phải ñược trang bị ñầy ñủ. Theo Tarbouriech, chính sách ñô thị ở ñịa phương gồm hai hoạt ñộng: canh tân ñô thị và ñô thị hóa, mặt khác cần sử dụng công cụ là quy chế hóa.
* ðầu những năm 1930, Frank Lloyd WRIGHT (1869-1959) ñưa ra ñề án ñô thị không tưởng về ñất ñai Broadacre City trình cho Trung tâm Rockefeller. Theo Wright [1923]: “ðô thị lớn không còn hiện ñại nữa... Trong thời ñại ñiện tử, xe hơi và ñiện thoại, tập trung ở ñô thị gây tắc nghẽn vô lối: ñó là ñiều ñáng nguyền rủa”62. Broadacre City cho phép mỗi cư dân thành thị ñược sử dụng ít nhất 1 acre (khoảng nửa ha). Theo
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 105 -
62 Wright F.L., Experimenting with Human Lives, Hollywood, Cal., Fine Arts Society, 1923, dẫn theo Gabriel Dupuy, sñd., tr. 101.
tính toán của Wright, nước Mỹ năm 1939 có không gian ñịa lý ñủ rộng ñể áp dụng nguyên tắc này, vì chỉ cần một bang Texas là ñủ cho toàn bộ dân số Mỹ [Dupuy, 1991:97-102].
Nhiều ý tưởng ñưa ra các mô hình ñô thị khác nhau nhưng ñều không ñược xúc tiến hoặc tiến hành không hiệu quả. Tuy nhiên, cũng có mô hình ñạt thành quả ñáng chú ý, như Port-Sunlight [1888], một ngôi làng ñô thị công nghiệp kiểu mẫu về văn hóa, gồm 800 căn nhà vườn nhỏ cho 3.500 cư dân, mỗi khối nhà do một kiến trúc sư thiết kế, có ñầy ñủ trường học, bệnh viện, phòng hòa nhạc, triển lãm, bể bơi ngoài trời và cả nhà thờ cho công nhân nhà máy xà phòng Lever Brothers, nay thuộc Unilever ở vùng Merseyside (Anh). Khu ñô thị này ñược coi là khu bảo tồn (1978) và ñề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới.
CÁC MÔ HÌNH ðÔ THỊ HIỆN ðẠI ðô thị không chỉ bao gồm các công trình, mà trên thực tế ñã luôn vận ñộng theo quy luật phát triển của xã hội loài người. ðô thị ngày càng hiện ñại. Các nhà tư tưởng lớn từ thời cổ trung ñại ñến cận ñại hiện ñại ñã không ngừng ñưa ra các nguyên tắc ứng xử, quy tắc xây dựng, nhất là không ngớt ñưa ra các mô hình bị coi là không tưởng, không ngoài mục ñích nhằm thiết lập trật tự và tổ chức xã hội ñô thị, xuất phát từ yêu cầu xây dựng và phát triển ñô thị cả trên lý thuyết và thực tiễn. ðặc biệt, khi ñô thị hóa ñi vào chiều sâu, ñể bảo ñảm các yêu cầu trật tự, mỹ quan và vệ sinh ñô thị, cũng như ñể ñối phó với các nguy cơ tiềm ẩn của môi trường ñô thị, và ñể nâng cao chất lượng sống ñô thị, ñã xuất hiện một loạt các nhà kiến trúc, các kỹ sư xây dựng, các nhà quy hoạch ñô thị với các ñồ án, công trình ñể cải tạo, biến ñổi ñô thị trở thành môi trường sống nhân văn.
* Năm 1880, kiến trúc sư người Berlin là J. STUBBEN xuất bản công trình “Xây dựng ñô thị” (Stadtbau). Công trình không phải là bản luận cương về quy hoạch ñô thị mà tập hợp các lời khuyên về cách tôn trọng quá khứ của một thành phố, bằng cách ñặt thành phố mới bên cạnh thành phố cổ.
* Năm 1889, kiến trúc sư người Vienne là Camillo SITTE (1843-1903) trong “Nghệ thuật xây dựng ñô thị” ñã nhấn mạnh quy hoạch các không gian ñô thị là công trình của các nhà kiến trúc, không phải của các nhà quản lý. Quan niệm của ông ñi trước tuyên bố của Le Corbusier 50 năm: “Kiến trúc và quy hoạch ñô thị không phải là một”. * Ebenezer HOWARD (1850-1928) với ý tưởng Thành phố Vườn trong công trình “To Morrow, A Peaceful Path to Real Reform”63 [1898]. Thành phố-vườn ñặt ra vấn ñề kích cỡ tối ña của các ñô thị chỉ với quy mô khoảng 30 nghìn dân, có vành ñai nông nghiệp bao quanh, ở giữa là trung tâm hành chính và thương nghiệp. E. HOWARD ñưa ra mô hình “thành phố-vườn” ñể cứu vãn hiện tượng mất dân số ở nông thôn và thừa dân cư ở thành thị, thể hiện mối quan tâm chính của ñô thị hóa từ cuối thế kỷ XIX cho ñến ngày nay. Thành phố-vườn ñược coi là giải pháp tối ưu của ñô thị hóa “phi mã”.
Theo ñánh giá của L. Mumford: ñầu thế kỷ XX hình thành hai phát minh mới là máy bay và ñô thị-vườn... Phát minh ñầu tiên cho con người thêm ñôi cánh; phát minh sau hứa hẹn có nơi ở tốt nhất khi con người ñáp xuống mặt ñất.
ðô thị-vườn (garden-city) là gì? Năm 1919, Hội quy hoạch ñô thị và ñô thị-vườn chính thức ñịnh nghĩa: “ðô thị-vườn là một thành phố bảo ñảm cho dân cư các ñiều kiện sống và làm việc thoải mái, có kích cỡ vừa ñủ ñể phát triển toàn diện ñời sống xã hội; có vành ñai nông thôn bao quanh; ñất ñai nói chung thuộc sở hữu công hoặc ñược quản lý trên cơ sở cộng ñồng...” [Chambon, 1975:69].
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 106 -
63 ðến năm 1902, Howard sửa lại tựa ñề là: “Garden-cities of tomorrow”.
Mỗi thành phố-vườn có tối ña 32.000 dân, trong ñó phải có ñầy ñủ 30.000, còn lại 2.000 dân phụ trợ ở khu vực nông thôn xung quanh. Khi nào vượt qua con số này, sẽ xây thêm một thành phố khác ở gần ñó, và thành phố mới này phải có vùng nông thôn của mình. Thành phố-vườn ñược xây dựng trong phạm vi diện tích 2.400 ha, triển khai theo dạng tròn có bán kính 1.150 m. Về mặt lý thuyết, thành phố có diện tích khoảng 400 ha (bằng 1/6 ñất chiếm dụng), gồm 5.500 lô ñất xây dựng, diện tích trung bình 6,10 m x 40 m (tối thiểu là 6,10 m x 30,5 m), chia thành các khu phố nhờ 6 ñại lộ rộng 36m, bắt ñầu từ trung tâm, chia diện tích ñô thị thành 6 phần bằng nhau.
Ở trung tâm là không gian hình tròn khoảng 2,2 ha, gồm một khu vườn tuyệt ñẹp, bao quanh là các công thự lớn (tòa thị chính, phòng hòa nhạc, nhà hát, thư viện, bảo tàng, phòng triển lãm hội họa, bệnh viện)., Ngoại trừ ñiểm giao nhau của các ñại lộ, xung quanh công viên trung tâm là một hành lang rộng có lắp kiếng (gợi nhớ ý tưởng của Ch. Fourier) gọi là “Crystal Palace”, mở ra hướng công viên ñể ñi dạo, tránh thời tiết bất thường; nơi ở xa nhất không quá 550 m.
ðô thị vườn của Howard thiết kế ñồ án ñều ñặn quanh một công viên. Ý tưởng này ñược vận dụng ñể xây dựng các thành phố Letchworth [1903] và Welwyn Garden City [1920].
Theo Howard, “Thành thị giống như một bông hoa, cây cối hoặc loài vật. Ở mỗi thời kỳ tăng trưởng ñều phải có sự ñồng nhất, ñối xứng và hoàn hảo...”. Cuộc “hôn nhân” giữa thành thị và nông thôn là trung tâm ý tưởng của E. Howard cũng như ña số các nhà không tưởng thế kỷ XIX, cùng với các nhà quy hoạch ñô thị, các nhà kinh tế hiện ñại bận tâm tìm cái bổ sung hoặc loại bỏ phân biệt giữa thành thị và nông thôn.
E. Howard ñưa ra hình ảnh về “ba người tình”: “người tình ñô thị có mối lợi lương cao, việc nhiều, viễn cảnh phát triển hấp dẫn, nhưng mọi thứ ñều bù trừ do tiền thuê nhà cao và sinh hoạt ñắt ñỏ; người tình nông thôn ñược coi là nguồn cội của mọi vẻ ñẹp và sự giàu có, nhưng ở ñó thời gian dài vì thiếu giải trí, mặt trời ñẹp và không khí trong lành không ñủ ñể con người hài lòng; hai người tình ấy không phải là một, giống như ñàn ông và phụ nữ sẽ bổ sung trọn vẹn bằng khả năng và thiên tư khác nhau... Thành thị và nông thôn phải kết hôn với nhau và sự hợp nhất vui vẻ này làm nảy sinh ra hy vọng mới, cuộc sống mới, văn minh mới”. Mục tiêu cải thiện các ñiều kiện sống và làm cho người lao ñộng sung túc sẽ ñạt ñược trong sự “kết hợp lành mạnh, tự nhiên và cân bằng ñời sống ñô thị và ñời sống nông thôn này”.
Về chiếm hữu ñất ñai trong ñô thị-vườn, sở hữu ñất ñai ñô thị từng mảnh sẽ ñược thay thế bằng sở hữu cộng ñồng ñô thị về ñất ñai. Howard cho rằng chính sách về quyền sở hữu hoàn toàn khác và cần tách ra khỏi quyền sử dụng ñất ñai. * LE CORBUSIER (1887-1965), người Pháp gốc Thụy Sĩ, coi quy hoạch ñô thị là
“chìa khóa” ñể giải quyết các vấn ñề về kiến trúc xây dựng. Ông quan niệm kiến trúc là nghệ thuật + kỹ thuật hiện ñại. Theo Le Corbusier: “Tự nhiên là toán học. Các tuyệt tác nghệ thuật phải hài hòa với tự nhiên, thể hiện những quy luật của tự nhiên và phục vụ những quy luật ñó”.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 107 -
Mô hình “ðô thị hiện ñại” [1922] của Le Corbusier có quy mô 3 triệu dân, ñược xây dựng thử nghiệm ở Paris, thể hiện mối quan hệ giữa công trình và môi trường; tính hợp lý giữa giao thông, khu sản xuất và nhà ở. Theo mô hình thiết kế, trung tâm ñô thị rộng 350 ha là khu vực làm việc, dịch vụ với 24 tòa nhà chọc trời cao 66 tầng, cách nhau 150m, mỗi tòa nhà cho 3.000 người, mật ñộ cư trú 300 người/ha; xung quanh khu nhà này là khu nhà ở cao tầng dành cho 400-600 nghìn người, có kết hợp với cây xanh; ngoài cùng là khu nhà ở sân vườn
với 2 triệu dân. Các khu công nghiệp và thị trấn ñặt ở ngoại vi; giao thông gồm có 7 loại ñường nằm trên và dưới mặt ñất ñể giảm tối thiểu khoảng cách ñi lại.
* Walter GROPIUS (1883-1969) là người sáng lập ra trường phái Bauhaus nổi tiếng về nghệ thuật và kiến trúc năm 1919 tại Weimar (ðức). Gropius quan niệm kiến trúc là nghệ thuật + công nghiệp hiện ñại. Trường phái Bauhaus phát triển mạnh ở Mỹ, nơi Gropius từng ñến nói chuyện về ñồ án của mình ở Harvard.
* Constantinos A. DOXIADIS (1913-1975), kiến trúc sư, nhà quy hoạch ñô thị người Hy Lạp, với công trình: Dynapolis, thành phố tương lai. Ông là người từng ñưa ra ñồ án quy hoạch phát triển thành phố Sài Gòn năm 2000, với quy mô 9-10 triệu dân. CHẤT LƯỢNG SỐNG ðÔ THỊ
Quan niệm chất lượng sống mới xuất hiện vào những năm 1960 trong thế giới phương Tây, do tăng trưởng kinh tế của công nghiệp hóa và ñô thị hóa gây ra tác ñộng xấu. Theo Christine Tobelem-Zanin [1995]: “Từ mâu thuẫn giữa trình ñộ sống tăng lên và các hiện tượng ñặt ra của ñời sống ñô thị (giao thông, nhà ở, chỗ ñậu xe, tiếng ồn và ô nhiễm không khí) làm nảy sinh mối bận tâm mới là chất lượng sống”64.
Kể từ những năm 1990, chất lượng sống trở thành mục tiêu phải ñạt tới của tăng trưởng và bảo vệ môi trường, trở thành công thức bộ ba trong các kế hoạch phát triển ở các nước công nghiệp. Khác với phát triển bền vững, chất lượng sống ñược người dân sử dụng rộng rãi hơn, với danh nghĩa cá nhân nhiều hơn tập thể, với tư cách công dân nhiều hơn trách nhiệm chính trị, trong lĩnh vực môi trường nhiều hơn y tế65.
ðể thúc ñẩy chất lượng sống, người ta quan tâm ñến các ñiều kiện phát triển con người trong môi trường của mình. Các vấn ñề môi trường không chỉ giới hạn trong các tiếp cận kỹ thuật, mà chú ý ñến tập hợp các yếu tố hình thành môi trường.
Theo WHO [1993]: Chất lượng sống là sự nhận thức về vị trí tồn tại của một cá nhân, trong bối cảnh văn hóa và hệ thống các giá trị mà cá nhân ấy sinh sống và trong quan hệ với các mục tiêu của mình, theo sự mong ñợi, các chuẩn mực và sự quan tâm của mình.
Trong hiến chương Athènes năm 1998 (ñược sửa ñổi năm 2003) của Hội ñồng các nhà quy hoạch ñô thị châu Âu, ñiều 1-21 chỉ ra rằng: “Hai ñối tượng chính của quy hoạch ñô thị hiện ñại là làm tăng giá trị hoạt ñộng kinh tế và cải thiện chất lượng sống”. Năm 2003, chất lượng sống của 200 thành phố ñược phân loại từ 39 tham số: môi trường tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế, y tế, giáo dục, dịch vụ, giải trí, tài sản tiêu dùng, v.v. Cách tiếp cận này không chú ý ñến nhận thức của dân chúng mà tập trung vào chất lượng cấu trúc. Do ñó, thành phố của các nước công nghiệp ñứng ñầu bảng xếp loại (Genève và Zurich...), trong khi các thành phố phía Nam nằm ở dưới cùng (Bangui, Brazzaville, Pointe-Noire) [Bley, 2006:111].
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 108 -
64 Dẫn theo I. Berry, “Restructurations urbaines: l’éviction des pauvres au nom de la qualité de vie?”, trong Villes et Environnement do E. Dorier-Apprill chủ biên, sñd., tr. 291-294. 65 Daniel Bley, “Villes et qualité de la vie”, trong Villes et Environnement do E. Dorier-Apprill chủ biên, sñd., tr. 109.
Tháng 4-2005, một nghiên cứu khác với gần 1.000 ñại diện cho 204 thành phố của Liên minh Thị trưởng các thành thị trung bình ở Pháp cho thấy: 89% người Pháp cho rằng thành thị là nơi “thích hợp ñể sống” vì: có khung cảnh sống tốt, năng ñộng, lịch thiệp và bản sắc. Chất lượng sống ở thành thị rất cao, vì thành thị ñem lại an ninh, các ñiều kiện sống tốt (chất lượng nhà ở và môi trường) và thỏa mãn nhu cầu di chuyển từ nơi ở ñến nơi làm việc. Một vài ý kiến tỏ ra dè dặt về giao thông ñô thị và nơi ở tách biệt trong các khu phố; khó kiếm việc làm ñối với cư dân ở thành thị trung bình; và một vài lo lắng về thành thị ít hấp dẫn thanh niên [Bley, 2006:113].
Như vậy, ñể ñảm bảo chất lượng sống ñô thị, nhiều mô hình, cách thức, biện pháp ñã ñược thử nghiệm, tiến hành và vận dụng trong quá trình ñô thị hóa, tạo nên các hiện tượng chủ yếu sau:
1. Quy hoạch mở rộng các khu phố trung tâm. Tại Chicago, thành thị lúc ñầu phát triển trên cơ sở hình ô vuông (quadrillage). Người ta mở rộng ñô thị bằng cách kéo dài bất tận các con ñường, có khi ñến 50km. Kể từ cuối thế kỷ XIX, phần trung tâm các thành thị lớn ở Mỹ phát triển theo dạng tăng chiều cao xây dựng; trong khi ở châu Âu vẫn trung thành với kiểu nhà có trần cho ñến giữa thế kỷ XX.
2. Giảm dân số ở trung tâm các thành thị lớn. ðây là hiện tượng phổ biến vào nửa cuối thế kỷ XX, do giá căn hộ tăng cao ở các khu văn phòng. Ngoài ra, ở Mỹ còn có hiện tượng khu trung tâm dần dần bị xuống cấp và vô sản hóa.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 109 -
3. Hiện tượng ngoại vi. Trước nửa ñầu thế kỷ XIX, ngoại ô ñô thị là nơi còn ñậm chất ñồng quê, nhất là ở các cổng thành, nơi các tầng lớp quý tộc và khá giả xây cất các tòa lâu ñài. Do công nghiệp hóa, bùng nổ dân số và phát triển các phương tiện vận chuyển, ngoại ô ngày càng ñược mở rộng. ðến năm 1920 ở Mỹ và năm 1945 ở châu Âu, vùng ngoại thành phát triển phụ thuộc vào các phương tiện vận chuyển tàu lửa, métro hoặc xe ñiện nối kết với thành thị. Hệ quả tạo nên các vùng ngoại thành không liên tục, dân cư tập trung xung quanh các nhà ga, phân cách nhau bởi vùng nông thôn và các khu rừng. ðặc biệt, quá trình ñô thị hóa ñã ñẩy nông thôn ngày càng cách xa trung tâm thành thị; nhờ xe hơi trở thành phương tiện phổ biến, các khu vực ngoại thành phát triển nhanh chóng; kể cả hiện tượng ñô thị hóa nông thôn, làm cho tỷ lệ cư dân ñô thị tăng nhanh chóng.
CHƯƠNG 10 ðặc trưng ñô thị hóa các ñô thị lớn trên thế giới
Ở Tây Âu, thành thị ở các nước Pháp và Anh có môi trường lịch sử tương ñối ñồng nhất, song mô hình phát triển ñô thị ở mỗi nước lại mang các sắc thái khác nhau. Do vậy, có thể phân tích vài ñặc trưng về cấu trúc và biến ñổi hình thái ñô thị ñể tìm hiểu về diện mạo và sự tiến hóa chung của ñô thị ở các nước phát triển trên thế giới.
Ngoài ra, cũng có thể tìm thấy một số ñặc trưng ở các ñô thị cổ khác ở châu Âu như các thủ ñô của Hà Lan và Bỉ, từ năm 1830, tức là trong nửa sau thế kỷ XIX, ñã trở thành kinh ñô ñế quốc và tài chính. Bruxelles có kiểu ñô thị ñôi giống như nhiều ñô thị khác ở Tây Âu: khu phố chính trị là nơi ở của các quý tộc Louvain, nằm trên ngọn ñồi ở hữu ngạn sông Seine; khu ñô thị thương mại chạy dọc sườn núi ñến không gian bằng phẳng ở thung lũng dành cho các hoạt ñộng của chức năng kinh tế chợ.
Nước ðức có ñô thị phát triển ña dạng hơn Pháp và Anh, song không nằm ngoài các hình thái phát triển ñô thị như của Pháp và Anh. Giống như Pháp, Bỉ và Hà Lan hoặc Thụy Sĩ và bắc Ý, Tây ðức có nhiều hoạt ñộng buôn bán dọc theo các con ñường thông thương lục ñịa kể từ thời Trung ñại; nhiều thành thị có vai trò quan trọng vì là các tiểu kinh ñô trong cấu trúc chính trị phân mảnh.
ðáng chú ý so với Anh và Pháp, nông thôn ðức ñã có một số phản ứng chống lại ñô thị hóa và công nghiệp hóa ở các thị trấn, nhờ ñó ñã ổn ñịnh dân số vùng, giữ ñược dân cư ở nông thôn và làm cho hoạt ñộng kinh tế ở các tỉnh lẻ ổn ñịnh và thịnh vượng; hình thành 12 ñô thị trên 250 nghìn dân ñóng vai trò ñô thị thủ phủ tỉnh. Tất nhiên, việc buôn bán ở thành thị không còn như xưa, mà thành thị trở thành trung tâm thu mua các sản phẩm từ ñất ñai, tiểu trung tâm công nghiệp, trung tâm phân phối sản phẩm chế tạo...
Kinh tế ở Tây Âu phát triển làm phát sinh nhiều hiện tượng ñô thị khác, như việc thiết lập nền kinh tế với cư dân gốc châu Âu ở các nước chưa có ñô thị. ðó là các ñô thị mới như Montréal, Chicago, Buenos-Aires, Melbourne; hoặc hiện tượng ñô thị mới chồng lên các nền văn minh ñô thị trước ñó, với các thành phố ñôi ở Nam Mỹ, Ấn ðộ, Trung Quốc, Nhật Bản.
Theo P. Georges, tập hợp ñô thị không phải là dạng phân bố ñịa lý lần thứ hai về dân số, lồng vào hệ thống các chợ có sẵn. Ở Tây Âu, cuộc cách mạng công nghiệp và thời kỳ tích tụ tư bản ñô thị từ thương mại dựa trên hệ thống ñô thị ñã có sẵn từ trước. Còn ở Bắc Mỹ, thành thị xuất hiện chủ yếu là một sự kiện ñịa lý, thuộc dạng sơ khai và ñơn giản hơn so với châu Âu. Hai ñặc trưng của các ñô thị Bắc Mỹ khác với ñô thị lớn ở châu Âu là các nhân tố khác biệt về chức năng kinh tế hiện ñại: chức năng cư trú và tổ chức giao thông. Các khu phố ổ chuột slums của người da vàng, da ñen nằm cạnh các tòa nhà cao tầng của người khá giả. Các thành phố-nấm với chức năng trung tâm là khu văn phòng hành chính và các cửa hàng, cùng với các khu sản xuất và các khu phố cư trú khá ñồng nhất. Trong các ñô thị lớn ở Mỹ và Úc, tỷ lệ giữa số lượng xe hơi lưu thông và tổng dân số ñã vượt quá 1/4 hoặc 1/3, nhất là ở Los Angeles. ðẠI ðÔ THỊ LONDON (Greater London)
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 110 -
Anh là nước ñô thị hóa từ rất sớm và ñến cuối thế kỷ XIX ñã ñạt ñến trình ñộ cao, không chỉ ở châu Âu mà còn trên thế giới, với 85% dân số sống ở các vùng ñô thị kết nối. Nước Anh là nơi xuất phát từ ñô thị liên hợp (conurbation, theo ñề xuất của P. Geddes), chấm dứt vai trò “trung tâm” của các ñô thị cũ. ðặc ñiểm cấu trúc ñô thị Anh là một số ít các trung tâm ñô thị lớn tương ứng với các vùng công nghiệp cơ bản và
vùng chủ yếu. Theo nhận ñịnh của Pierre George [1952:158]: “Cuộc cách mạng công nghiệp ở ñây biểu hiện sự biến ñổi (transformation) hơn là cuộc cách mạng sáng tạo ra cái mới (création)”.
ðại London cùng với 6 ñô thị liên hợp khác tập hợp 20% tổng dân số và gần 60% cư dân ñô thị nước Anh66, từng ñược coi là ñô thị kết nối lớn nhất châu Âu, với dân số trên 10 triệu. Theo bảng danh mục các ñô thị liên hợp của Fawcett, dân số ñại ñô thị London ñược phân thành ba nhóm ñô thị kết nối lớn: + Nhóm London có 8,2 triệu dân (năm 1931) hoặc 9 triệu kể cả vùng ñô thị kết nối. + Sáu ñô thị liên hợp, mỗi ñô thị có từ 1 ñến 2,5 triệu dân, gồm: 1. Manchester, 2,5 triệu dân, gồm vùng phụ cận Salford và 12 thành phố nằm trong bán kính 10-15km, với 50% là lao ñộng dệt.
2. Birmingham, 2 triệu dân, trong ñó hơn một nửa tập trung ở ñô thị trung tâm, còn lại là các ñô thị kết nối khác như Wolwerhampton, Sutton Coalfields và Stourbridge. 3. West-Yorkshire, 1,5 triệu dân, là ñô thị hình ôvan theo hướng ñông-bắc và tây-nam, với các ñô thị kết nối là Bradford, Dewsbury, Leeds.
4. Glasgow, 1,3 triệu dân. 5. Mersey, 1,3 triệu dân, trong ñó Liverpool chiếm ñến 2/3 dân số. 6. Tyne, 1 triệu dân, Newcastle là trung tâm chính, song chỉ chiếm ¼ dân số. + Và khoảng 30 vùng ñô thị kết nối trên 100 nghìn dân, với tổng dân số trên 6 triệu.
Thành London (1888) và ðại London (1965)
Chính sách phát triển ñô thị của Anh nhằm kìm hãm phát triển ñô thị của London, bằng cách hình thành các ñô thị như: Oxford, ñô thị công nghiệp cổ (xe hơi Morris), nơi có trường ñại học Oxford thành lập từ thế kỷ XII; Cardiff, ñô thị-nấm của thế kỷ XIX nhờ khai thác than; Birmingham, ñô thị liên hợp công nghiệp, với 40% lao ñộng luyện kim.
Việc tăng lên nhanh chóng các mầm móng ñô thị hóa ở các khu vực chung quanh London là nguồn gốc phát triển ñô thị; khác với ðại ñô thị Paris tập trung phát triển nhiều hơn ở ñô thị trung tâm so với các ñô thị kết nối. Bán kính quần thể ðại London cách xa gần 40 km, trong khi với khoảng cách này thì ðại Paris ñã ra khỏi vùng ñô thị kết nối từ lâu, lực hút ñô thị không còn, ngoại trừ các xa lộ giao thông.
ðến cuối thế kỷ XVII, dân số London gồm 670.000 dân, so với hơn 500.000 của Paris thời vua Louis XIV. Tuy nhiên, trước thời kỳ phát triển ñại công nghiệp, dân số London ñã vượt hơn 1 triệu, nhờ thương mại hàng hải và kinh tế ñế quốc Anh làm cho
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 111 -
66 Cuối thế kỷ XIX, trước khi bắt ñầu cách mạng công nghiệp, London có 959.000 dân, trong khi Liverpool ñứng thứ hai với 82.000 dân, Manchester 77.000 dân và Birmingham 71.000 dân. Cuộc cách mạng công nghiệp dẫn ñến hệ quả bùng nổ dân số ñô thị. Chỉ tính riêng dân số ở thành phố Birmingham qua các năm: 71.000 (1800); 242.000 (1850) – tăng 340%; 437.000 (1880) – kinh tế nước Anh xảy ra cuộc khủng hoảng ñầu tiên (1876), các ngành công nghiệp nặng và luyện kim mất chỗ ñứng vì thiếu nguyên liệu; 842.000 (1910); 922.000 (1920); 1.020.000 (1930); 1.090.000 (1946) – thời khủng hoảng kinh tế (1931-1932), gần 4/10 lao ñộng mất việc. Dẫn theo Pierre George, sñd., tr. 157-158.
ñô thị và các phức hợp ñô thị phát triển ñều khắp nước, nhất là ở các cảng biển phát triển nhanh hơn London. Khu vực kinh tế dịch vụ ở London chiếm 68% (1921) nhiều hơn so với Paris chỉ chiếm 49% (1936). Cấu trúc hành chính ở ðại London cũng phức tạp hơn.
Về mật ñộ dân số, ðại London có diện tích 1.800 km2, so với 500 km2 của ðại Paris; nhưng mật ñộ dân số toàn vùng ðại London là 4.700 người/km2 và ở trung tâm London là 15.000 người/km2; trong khi ðại Paris cao hơn với 11.000 người/km2 và ở trung tâm Paris là 32.000 người/km2.
ðại London có diện tích rộng hơn (gấp gần bốn lần diện tích) và ở khu trung tâm không tập trung nhiều như ở Paris, ñặt ra vấn ñề quy hoạch hệ thống vận chuyển cho khoảng hơn 1 triệu người ñi lại làm việc hàng ngày (1930)67. Tuy nhiên, tăng trưởng tĩnh về dân số ñô thị của hai ñại ñô thị này lại khá tương ñồng, trong ñó ðại London có dân số gấp 1,8 lần (1800)hoặc 1,6 lần (1936) so với ðại Paris68.
Greater London
Bảng so sánh tăng trưởng dân số giữa ðại ñô thị London và ðại ñô thị Paris % % 315 326 120 80 Grand Paris 600.000 2.500.000 5.500.000 1.114.644 4.766.661 8.575.000 Năm 1800 1881 1936
(Nguồn: P. George, 1952:164) Như vậy, theo nhận xét của P. George, sau hơn một thế kỷ ñô thị hóa ở các nước Anh và Pháp, trải qua nhiều biến ñộng do cuộc cách mạng công nghiệp, có thể thấy: 1. Không gian ñô thị không ngừng ñược mở rộng theo những cách thức khác nhau, tùy theo các ñặc ñiểm yêu cầu phát triển của ñô thị;
2. Tăng trưởng dân số luôn cân bằng, tương ứng với mức ñộ phát triển của ñô thị; 3. Mọi sự can thiệp bằng cách hạn chế mở rộng không gian ñô thị hoặc hạn chế tăng trưởng dân số ñô thị cần ñược tiến hành thông qua các chính sách văn hóa về kinh tế ñô thị, hơn là sử dụng các biện pháp hành chính ñể mở rộng không gian ñô thị hoặc hạn chế nhân khẩu nhập cư bằng quản lý hộ khẩu hoặc chính sách dân số.
Về ñời sống văn hóa ñô thị, ðại London có ba chức năng cơ bản: thủ ñô chính trị và văn hóa, trung tâm tài chính và thương mại, và là ñô thị công nghiệp. Tuy nhiên, “ñời sống văn hóa vẫn biệt lập so với sự tập trung về chính trị và công việc kinh doanh nhộn nhịp” [George, 1952:165].
Thành London (county of London) vốn là khu phố mua bán cũ thời Trung ñại, rộng khoảng 3 km2, có quyền tự trị về hành chính, là trung tâm kinh tế nước Anh thế kỷ XIX. Thành phố có khoảng 11.000 dân, nhưng ở ñây không còn mang tính chất khu vực cư
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 112 -
67 Trong ñó, khoảng 600.000 sử dụng các phương tiện xe buýt, mêtrô, tàu lửa và tàu ñiện. So sánh di chuyển ñô thị với các ñại ñô thị khác thì mêtrô ở London chỉ ñóng vai trò thứ yếu. Năm 1931, London vận chuyển 642 triệu khách trong năm so với 3.425 triệu người ñi lại; trong khi ở New York, mêtrô chở 2.105 triệu hành khách, còn các phương tiện mặt ñất khác chỉ chở 1.450 triệu; ở Paris, số liệu tương ứng là 929 triệu và 1.029 triệu. Theo Pierre George, sñd., tr. 174. 68 ðến năm 1946, London có 10 triệu dân, Paris gần 6 triệu, bằng 1,7 lần, tức là gần bằng tỷ lệ năm 1800.
trú ñơn thuần, vì ñây là nơi tập trung mọi thiết chế tài chính và thương mại của nước Anh. Thành phố náo nhiệt vào ban ngày, vì có ñến nửa triệu người ñến làm việc, nhưng vắng vẻ về ñêm và các ngày cuối tuần.
Sau trận ñại hỏa hoạn năm 1665, khu vực trung tâm London ñược xây dựng lại. Bên cạnh khu vực trung tâm còn có hai khu vực hạt nhân khác là thành phố Westminster và thành phố London cùng với 27 vùng phụ cận, rộng khoảng 307 km2, với dân số gần 5 triệu người. Thành phố London hiện ñại ñược tổ chức lại năm 1888, có bán kính 15 dặm (25 km).
Thành phố London chia thành 2 khu vực chính là: Cuối Tây (West-End), với Westminster là thủ ñô chính trị, nơi ở của giới giàu có và giới trí thức (Hampstead phía bắc, Chelsea phía nam) và Cuối ðông (East-End), nơi tập trung các khu nhà ổ chuột (slums) của giới lao ñộng, bên cạnh các khu chợ dơ bẩn nhóm họp vào buổi tối ở các con ñường huyết mạch Whitechapel và Commercial road.
• West-End: xung quanh các dinh thự như Kensington Palace (1689), Buckingham Palace (thế kỷ XIX), nơi trước ñây có nhiều khu biệt thự và khách sạn, nhất là tòa Nghị viện và trụ sở các bộ quanh khu vực tu viện Westminster, bên bờ sông Tamise. West- End khá thoáng và xanh, với nhiều công viên như Hyde Park và Kensington Gardens rộng 253 ha, Regent’s Park rộng 190 ha có sở thú, Green Park, Saint-James Park.
• East-End: gồm có nhiều thành phần dân cư phức tạp: các thủy thủ và phu khuân vác ở cảng, trong ñó dân nhập cư người châu Âu chiếm khoảng 10% trên tổng số 750.000 dân, gồm nhiều khu phố công nhân nghèo khổ xây dựng giữa hai cuộc chiến tranh, mật ñộ dân số trên 37.000 người/km2. Một nửa dân số lao ñộng ở ñây làm việc trong các nhà máy và cảng biển, luôn bị ñe dọa bởi nạn thất nghiệp, bệnh nghề nghiệp và các tệ nạn xã hội.
Công viên Hyde Park (London)
ðô thị phát triển ñã ñẩy lùi chức năng công nghiệp ra ngoài trung tâm London, nằm ở phía ñông và phía nam, thu hút giới công nhân vùng ngoại vi, gần khu ñô thị cổ. Các xí nghiệp lan ra vùng ngoại vi, cùng với số lượng công nhân ngày càng tăng lên, làm cho ðại London mang tính chất ñô thị kết nối. Các vùng nông thôn cũ dần dần biến thành các “ñô thị-phòng ngủ” như: Dorking, Redhill, Watford, Saint-Albans, Hertford, Reading... Mô hình nhà ở theo kiểu Tudor rất ñặc trưng, chiếm nhiều diện tích, gồm các nhà nằm riêng lẻ hoặc song lập, có thảm cỏ và vườn tược xung quanh.
Quy hoạch ñô thị Anh theo luật Urbanism năm 1947 và luật Housing Manual năm 1949, trong khuôn khổ vận dụng ñồ án tổng thể ñược gọi là kế hoạch Abercrombit (1944), dựa trên phân khu chức năng (zoning) giữa khu vực công nghiệp và khu vực cư trú, giải tỏa áp lực cho ñô thị kết nối London.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 113 -
Chính sách New Towns Act (1946) ñưa ra nguyên tắc: “Các cộng ñồng ñô thị ñược tự trị về nhà ở, các hoạt ñộng, nghỉ ngơi giải trí, ñáp ứng sự quan tâm về trật tự xã hội”. Chính sách này tiếp tục ñược bổ sung vào các năm 1965 và 1968. Chính sách New
Towns Act liên quan ñến 32 thành phố mới, tiến hành qua ba giai ñoạn, với nhiều giải pháp thử nghiệm cho các vấn ñề ñặt ra của hiện tượng ñô thị.
- Giai ñoạn ñầu tiên (1946 – 1955), giải quyết tình trạng tập trung dân cư quá ñông ở các thành thị và tổ chức vùng ñô thị kết nối chưa tốt (8 ở London, 2 ở Glasgow); cải thiện tình hình ở các khu vực khủng hoảng (các mỏ than); quy ñịnh kích cỡ ñô thị khiêm tốn, trung bình 60.000 dân, nằm trong bán kính 30 – 65 km từ ñô thị kết nối trung tâm; xây dựng cơ sở trang bị cho các cộng ñồng ñể ñáp ứng nhu cầu của cư dân ñô thị và phụ cận; bố trí số lượng việc làm tương ứng với xây dựng nhà ở. Các khu nhà ở chủ yếu là nhà cá nhân, bố trí thành các khu cạnh nhau, dành cho người lao ñộng ñịa phương, có từ 4 – 12.000 dân.
Một bản tổng kết giai ñoạn này ñã chỉ ra các thiếu sót sau: một số lĩnh vực quá nghiêm ngặt về phân khu chức năng (quá tập trung vào các khu công nghiệp), mật ñộ dân số quá ít, do bố trí nhà ở thưa thớt và có nhiều tiểu trung tâm, dẫn ñến thiếu liên kết ñô thị, không ñủ khả năng thu hút việc làm thuộc khu vực kinh tế thứ ba do kích cỡ ñô thị hạn chế; trong khi thu nhập của một bộ phận dân cư ở các ñô thị gần London luôn phụ thuộc vào việc ñi lại làm việc hàng ngày.
- Giai ñoạn hai (1956-1964) ñặt ra nhiều tham vọng khác, thay ñổi các mục tiêu và phương tiện. Người ta muốn thành lập các ñô thị trung tâm (villes urbaines), bằng cách tập hợp quanh một trung tâm duy nhất, với mật ñộ dân số tương ñối cao nhờ ở trong các chung cư hoặc trong các cực phát triển kinh tế hiệu quả từ một trung tâm ñã có dân cư trước ñó.
- ðặc biệt, ñến giai ñoạn ba mới khẳng ñịnh ñược một số kết quả theo quan niệm mới về phát triển ñô thị: kích cỡ ñô thị tăng lên (150.000 – 200.000 dân) cho phép tạo công ăn việc làm và trang bị cơ sở ña dạng hơn; các tiểu trung tâm biến mất nhờ giảm bớt các khu ñô thị và có mật ñộ dân số thấp hơn (4.000 thay vì 12.000); vận chuyển công cộng rất phát triển, bảo ñảm một nửa nhu cầu vận chuyển; vùng trung tâm thực sự là trung tâm thu hút, ñược trang bị ñầy ñủ và dành cho người ñi bộ; các xí nghiệp công nghiệp nhiều hơn, song ít tập trung dày ñặc và ñặt ở ngoại vi. Mỗi ñô thị mới có vai trò như một cực, bảo ñảm cự ly nhất ñịnh với các thủ phủ khác, như Milton Keynes cách London 80 km về phía tây bắc; Birmingham nằm ở nửa chừng, tạo ra mô hình gắn kết.
Hai công tác ñược dự kiến là tiến hành cải tạo các khu phố tồi tàn hoặc bị thiệt hại vì bị bỏ bom ở vùng ñô thị kết nối và thành lập mới các ñô thị vệ tinh. Ở phần trung tâm ñô thị, tận dụng diện tích ñể xây dựng theo chiều cao, có thêm không gian cho vườn cây và ánh nắng. Công trình xây dựng lại khu nhà Ocean Street ở Stepney ñược coi là ñiển hình, trên diện tích 16 ha, trong ñó ¾ xây dựng các khu nhà mới gồm 1.165 căn cho khoảng 4.000 dân.
Ở khu vực ngoại thành với các ñô thị nhỏ và trung bình, chính sách “phát triển hỗn hợp” khuyến khích liên kết thành các khu căn hộ lớn nhiều tầng, 200 người/acre (500 người/ha) và nhà ở cá nhân (30-60 người/acre, 75-150 người/ha).
Bên cạnh liên kết theo kiểu nhà, còn có hình thức liên kết khác là tập hợp các ñại diện thuộc các thành phần xã hội khác nhau ñể xây dựng nhà ở có các cấp ñộ cho thuê khác nhau. Các khu nhà ở nằm xung quanh một trung tâm dân sự và thương mại gồm có trường học, trung tâm hành chính và các cửa hàng. Tính trung bình cần có một cửa hiệu cho 100-150 dân, so với ña số các ñô thị và các khu phố cổ phổ biến là một cửa hiệu cho 40-50 dân.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 114 -
Các ñô thị-vệ tinh (self-countained) xây dựng xung quanh London là các cấu trúc ñô thị vi mô, vừa là khu cư trú, vừa là trung tâm sản xuất ñể sử dụng nhân công ñịa phương, bớt các quan hệ của người dân với trung tâm London.
Kinh nghiệm ñầu tiên là xây dựng thành phố Harlow-New Town, cách trung tâm London 34 km về phía ñông bắc cho 50-60 nghìn người trên diện tích 2.500 ha. Thành phố này gồm có một trung tâm hành chính và thương mại, hai khu công nghiệp, một khu công nghiệp nặng nhờ có vận chuyển ñường sắt, một khu công nghiệp nhẹ nằm cạnh con ñường có lưu lượng giao thông lớn và 13 khu ñô thị cư trú khác nhau, nhỏ nhất cho 2 nghìn dân, lớn nhất là 6.500 dân. Các ñơn vị cư trú hoặc ñơn vị thiết yếu tập hợp thành 3-4 khu phố chính. Một trong các khu ñô thị ñược xây dựng là Mark Hall 2A gồm 240 căn hộ trong các tòa nhà tập thể nhiều tầng và 407 nhà ở cá nhân gồm: 18 căn nhà biệt lập (dành cho người giàu thuê), 54 nhà song lập và 335 dãy nhà liên kế.
Kế hoạch tổng thể quy hoạch ðại London dự kiến xây dựng 200 nghìn căn nhà, trong ñó ñã xây dựng ñược 40 nghìn căn trong khoảng từ 1945-1950. Chính quyền cố gắng hạn chế tập trung dân số ở vùng kết nối của thủ ñô, bằng cách khuyến khích thành lập các cơ sở công nghiệp mới trong các khu công nghiệp khác nhau, nhất là các vùng bị khủng hoảng và thất nghiệp kinh niên hoành hành. Báo cáo Barlow về phân vùng do công khố tài trợ ñể quy hoạch các cơ sở hạ tầng công nghiệp, gọi là “khu xây dựng kinh doanh” (Trading Estates), gồm trang bị ñường sá vận chuyển, hệ thống phân phối năng lượng, công trình công nghiệp và nhà ở cho cán bộ và chuyên viên tối ña bằng 10%. ðẠI ðÔ THỊ PARIS (Grand Paris)
ðại ñô thị Paris tập trung nhiều chức năng kinh tế, chính trị, hành chính, văn hóa trên bình diện quốc gia hoặc ñế quốc, nên thường ñược coi là ñô thị thủ ñô hoặc thủ phủ.
ðại ñô thị Paris (vùng Île-de-France)
ðại Paris và ñô thị kết nối (từ 1976 gọi là vùng Île-de-France) có diện tích lớn gấp 7-8 lần so với các vùng ñô thị khác; tập trung 1/8 dân số (12 triệu người, mật ñộ gần 1.000 người/km2) và ¼ cư dân ñô thị ở Pháp.
Cần biết thêm là trước ñó, Paris và vùng ngoại ô năm 1848 chỉ có 1,5 triệu dân trên tổng số 36 triệu, chiếm 4,5% dân số; ñến năm 1931, vùng trung tâm ñạt 2,8 triệu trên 37.673.000 dân, nhưng cộng thêm vùng ñô thị kết nối69 ñã ñạt mức 14% dân số toàn nước Pháp. Dân số tập trung nhiều ở ñô thị kết nối nhờ tập trung nhiều hoạt ñộng tài chính, thương mại, công nghiệp, trí thức và hành chính gắn với kinh tế [George, 1952:117-118].
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 115 -
ðặc biệt, ñó còn là nhờ chức năng quốc tế về kinh tế và thương mại qua việc tăng cường tổ chức các hoạt ñộng trao ñổi quốc tế, nhất là từ cuối thế kỷ XIX. Tập trung kinh tế tầm quốc gia ñã tăng cường vị thế ðại Paris, trở thành trung tâm văn hóa nghệ thuật (các di sản văn hóa lịch sử kiến trúc, bảo tàng) và trí thức (khoa học, văn học, trường ñại học), trung tâm hành chính và chính trị70; ñó còn là nơi ký kết các hợp ñồng 69 Gồm một tập hợp khoảng hơn 100 hương trấn (communes), ñược hưởng một số quyền tự chủ về hành chính và tài chính, theo sắc lệnh hoàng gia năm 1860. Thành phố Paris cấu thành một ñơn vị hành chính chỉ có 78 km2, gồm 2.725.000 dân, kết hợp với vùng kết nối hình thành quầng ñô thị qua các “thế hệ” với các ñặc ñiểm khác nhau về kinh tế, xã hội, trong ñó một số là ñô thị vệ tinh... 70 Ở nội thành Paris hình thành các khu vực ñặc trưng. Ngoài khu tam giác trung tâm giới hạn bởi ba hướng nam (ñiện Louvres, Tuileries và Champs-Élysées), ñông (ñại lộ Sébastopol, Strasbourg và Magenta) và bắc (ñường La Fayette, Châteaudun và ñại lộ Haussmann), còn hình thành các khu ngoại giao ñoàn (quận 7, 8), khu ñại học (quận 5, 6), khu thương mại truyền thống (quận 4, 3), khu quần áo, hàng da, kim loại (quận 9), khu công nghiệp (quận 13, 15), khu cư trú (quận 14, 12, 11, 19, 20). Ngoài ra
và ñặt văn phòng kinh doanh, phát triển thị trường mới ở ñô thị như công nghiệp thời trang, sản xuất dầu thơm, thuộc da, công nghiệp xe hơi... cùng với việc di dời chức năng công nghiệp (vốn ñược coi là “sản phẩm kinh tế ñô thị” gắn với chức năng thương mại, tài chính) ra không gian ngoại vi, ñược bảo ñảm kết nối bằng các phương tiện vận chuyển hiện ñại, ñặc biệt là ñường sắt71.
Thông qua luật giải trung ương hóa về hành chính năm 1964 và giải trung ương hóa về chính trị năm 1982, vùng Île-de-France ngày nay gồm 8 tỉnh thành: Essone, Hauts- de-Seine, Paris, Seine-Saint-Denis, Seine et và Marne, Val-de-Marne, Val-d’Oise Yvelines.
Ngoại ô là hình thức phát triển ñô thị hiện ñại, với các ñặc trưng sau: khu vực bành trướng công nghiệp; khu cư trú của công nhân; khu cư trú của tầng lớp trung lưu; và khu vực cư trú theo mùa hoặc thường xuyên của nhà giàu hoặc nơi vui chơi trước ñây. Ở vùng Île-de-France, ngoại ô ñược hình
thành qua nhiều “thế hệ”: thế hệ ñầu tiên là việc lập ra các nhà máy hiện ñại xung quanh khu ñô thị cổ, ở hai bờ sông Seine và dọc tuyến ñường sắt; thế hệ ngoại ô thứ hai từ sau chiến tranh thế giới lần I, nhờ chính sách phân bố dân cư thủ ñô ra không gian ñô thị ngoại vi bằng cách mở rộng các phương tiện vận chuyển nhanh ở ngoại thành, bằng chính sách tín dụng bất ñộng sản dài hạn và lãi suất thấp, chính sách xây “nhà giá rẻ” theo sáng kiến của tòa thị chính công nhân Ivry, ñặc biệt là luật Loucheur và Ribault bảo ñảm ñiều kiện cho các hộ tiểu công chức, nhân viên và công nhân có thể xây ñược căn nhà nhỏ thuộc diện nhà ở cá nhân. Các loại nhà phân lô thời kỳ 1920-1939 khác hẳn với các khu phố villa nghỉ mát ñầu tiên ngoài Paris trước chiến tranh của tầng lớp khá giả, khác với thời kỳ sau chiến tranh thuộc chức năng cư trú ở ngoại thành... ðẠI ðÔ THỊ NEW YORK (Greater New York City)
ðại ñô thị New York hay còn gọi là vùng thủ phủ New York, vùng ba bang (New Jersey, New York và Connecticut), dải ngân hà ñô thị vùng ðông Bắc, là vùng ñô thị kết nối lớn nhất thế giới, với 12 triệu dân72, trong ñó 7,5 triệu ở khu ñô thị trung tâm. Từ sau cuộc Thế chiến thứ hai, hai dải ñất ven biển, một ở tây nam (California), một ở ñông bắc hình thành hai cực của ñời sống kinh tế và văn hóa nước Mỹ. Trước chiến tranh, các thủ phủ Washington, Baltimore, Philadelphie, New York và Boston ở vùng duyên hải ðại Tây Dương dài 600 km, có 18 triệu thị dân, trong ñó hơn một nửa thuộc ñô thị liên hợp New York.
New York vốn là thành phố của người Hà Lan, thành lập năm 1626, với tên gọi Nouvelle Amsterdam; bốn mươi năm sau, năm 1666, là thành phố của người Anh, với tên gọi New York. Việc mở kênh ñào Erié năm 1825 nối New York với ðại Hồ thông ra
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 116 -
còn tạo nên sự phân biệt xã hội của các khu phố giàu (phía tây) và các khu phố nghèo (phía bắc và ñông) – theo Pierre George, sñd., tr. 128-132. 71 Công nghiệp ñược chia thành hai khối rõ rệt: công nghiệp ngoại vi ñô thị gồm công nghiệp ñộng cơ, sản xuất xe hơi, máy kéo, máy bay, cơ khí, hóa học, khí ñốt, thực phẩm; và công nghiệp ñô thị cổ với công nghiệp may mặc, vải vóc, hàng thời trang cao cấp, sách báo, công nghiệp nhẹ cho thị trường ñô thị. 72 ðến năm 2010, ðại ñô thị New York có 18.897.109 người, chiếm khoảng 1/16 dân số nước Mỹ.
biển ðại Tây Dương, làm cho New York sớm trở thành thủ ñô kinh tế và tài chính của nước Mỹ.
Từ năm 1825 ñến 1930, trong vòng một thế kỷ, ñô thị kết nối New York từ 200 nghìn dân tăng lên 11 triệu dân (gấp 55 lần), trong khi các cảng biển khác ở vùng ñông bắc Mỹ như Philadelphie tăng gấp 30 lần, Boston gần 40 lần và Baltimore ít nhất chỉ 10 lần.
New York trở thành biểu trưng của nước Mỹ, mặc dù ñây không phải là thủ ñô chính trị, song là nơi ñặt trụ sở Liên Hiệp Quốc. New York xây dựng các ñại công trình về tài chính, thương mại, công nghiệp, là nơi tập trung tư bản lớn, song cũng là nơi bắt nguồn nhiều cuộc ñại khủng hoảng. Các chính sách kinh tế Mỹ và chính sách Mỹ chủ yếu ñược triển khai ở New York.
Chức năng cơ bản của New York là tài chính. Trên phạm vi thế giới, nền tài chính New York nằm trong tay của một nhóm nhỏ không ñến mười tổ chức, ñiều hành các thương vụ kinh doanh lớn và công nghiệp quốc tế, cùng với các ngân hàng kinh doanh, các trusts công nghiệp và các văn phòng tài chính quốc tế, làm cho New York giống như thủ ñô thế giới hơn là của nước Mỹ.
Tuy vậy, New York vốn khai sinh từ chức năng cảng biển. Hoạt ñộng cảng biển góp phần nảy sinh chức năng công nghiệp. Quan hệ giữa chức năng cảng biển và phát triển công nghiệp phức tạp hơn ở châu Âu. New York còn là cảng chính của người châu Âu nhập cư vào Mỹ, biến New York thành trung tâm tuyển dụng lao ñộng thường trực trong suốt thế kỷ XIX.
Liên hợp ñô thị New York chiếm ít nhất 1 triệu công nhân công nghiệp, bằng trên 20% dân số hoạt ñộng của thủ phủ. Trước khi ban hành lệnh hạn chế nhập cư, New York gồm 4/5 cư dân sinh ra ở bên ngoài nước Mỹ hoặc có cha mẹ là người nhập cư. Những người Mỹ có gốc gác hai thế hệ, kể cả người da ñen, chỉ chiếm 1/5 tổng dân số ở New York.
New York cũng là thành phố có ñông người Do Thái nhất thế giới, với hơn 1 triệu. ðó cũng là thành phố có ñông người Ireland nhất thế giới, gần gấp ñôi so với Dublin hoặc Belfast; ñồng thời cũng là thành phố có ñông người Ý, ñứng thứ 3 sau Roma và Milan.
ðô thị trung tâm New York ñược hình thành năm 1897-1898, gồm có năm khu vực chính là: Manhattan, Brooklyn, Queens, Richmond và Bronx, trong phạm vi bán kính trên 50 km quanh Manhattan. Trước khi ñược coi là biểu hiện về kỹ thuật kiến trúc hoặc là biểu trưng ñức tin Mỹ về số phận của mình, các nhà chọc trời là giải pháp cho vấn ñề không gian chật hẹp của khu vực ñô thị trung tâm.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 117 -
Về vận chuyển ñô thị, hơn một nửa dân số ñô thị kết nối nằm trong vành ñô thị cách trung tâm hơn 30 km và có 20% dân số trong vành ñô thị từ 15-30 km. Vận chuyển công cộng hàng ngày từ ngoại vi vào trung tâm và trong nội ñô bằng các phương tiện
ñường sắt, mêtrô và xe buýt, trong ñó mêtrô chiếm ưu thế ở khu trung tâm. Mô thức vận chuyển ñô thị ñầu tiên sau tramway là ñường sắt trên cao, rất kềnh càng và ồn ào, dần dần biến mất, ñược thay thế bằng các ñường hầm chỉ nhô lên mặt ñất khi ra ngoài trung tâm ñô thị. CÁC ðÔ THỊ CHÂU Á
ðặc trưng chung của các ñô thị châu Á và châu Á gió mùa là nền văn minh nông nghiệp. Thành thị có truyền thống từ nhiều thiên niên kỷ, xuất hiện lúc ñầu là các thủ ñô chính trị và tôn giáo hơn là các trung tâm thương mại. Các ñô thị suy tàn khi các triều ñại bị sụp ñổ73. Do ñó, ñô thị không ổn ñịnh cũng là ñặc trưng chung của các ñô thị cổ châu Á cho ñến thời hiện ñại.
Ở châu Á có ba loại hình ñô thị chủ yếu: 1. Các ñô thị tản mác do xuất phát từ các nền văn minh nông nghiệp và kinh tế nông thôn74;
2. Các ñô thị thuộc ñịa, trong ñó bộ máy hành chánh của chế ñộ thực dân rất hạn chế, mà chủ yếu là mạng lưới kinh tế thuộc ñịa, với các ngân hàng, chi nhánh thương mại, cơ sở lãnh sự, truyền giáo, công xưởng tàu thủy và quân sự;
3. Các ñô thị hiện ñại khai sinh từ công nghiệp hóa và thành lập các Nhà nước hiện ñại. Riêng trường hợp Nhật Bản ñã xuất hiện các vùng ñô thị ở vùng ñồng bằng Hondo, gồm 3 nhóm: Tokyo – Yokohama, Kawasaki, Kanagawa... với khoảng 10 triệu dân.
Phủ tổng thống Ấn ðộ tại New Delhi
ðÔ THỊ ẤN ðỘ Cho ñến năm 1881, các ñô thị có trên 5.000 dân chiếm chưa ñến 10% tổng dân số, gồm 23,4 triệu người. ðến năm 1941 là 62,3 triệu người, chiếm 16% tổng dân số. Số thành thị trên 100.000 dân là 38 năm 1931 và 57 năm 1941. Một số ñô thị lớn vốn là nơi diễn ra các hoạt ñộng chính trị và kinh tế của thực dân Anh như: Calcutta (612.000 dân), Bombay (773.000 dân), Madras (406.000 dân). Nguyên nhân tăng trưởng dân số ñô thị ở
Ấn ðộ là do sự phình lên của các thị trường lớn ở thuộc ñịa, trong ñó Calcutta và Bombay vượt trên 1 triệu dân từ 1931 (ñến 1946, số dân tương ứng là 2.109.000 và 1.490.000)75; và ñặc biệt do sự phát triển nền công nghiệp quốc gia trong khuôn khổ chính sách chống thực dân Anh. Trước việc tăng trưởng dân số nhanh của Ấn ðộ, thực dân Anh ñã chủ trương làm chậm sự phát triển công nghiệp hóa và kìm hãm quá trình ñô thị hóa ở Ấn ðộ. ðÔ THỊ TRUNG QUỐC
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 118 -
73 Các ñô thị ở Trung Âu và ðông Âu cũng phát triển như vậy thời Trung ñại, trước thời kỳ phát triển thương mại nhờ sư hình thành các chính quyền vững mạnh. Theo Pierre George, sñd., tr. 295. 74 Thực ra, nhiều ñô thị ở châu Á có lịch sử phát triển từ rất lâu ñời. Chẳng hạn, Delhi của Ấn ðộ hoặc Bắc Kinh của Trung Quốc ñều có lịch sử trên 3 nghìn năm. Tuy nhiên, trong ñiều kiện ñô thị-Nhà nước gắn với chức năng chính trị hoặc mang tính phòng thủ, các ñô thị thăng trầm với các triều ñại, do chưa gắn kết thành hệ thống nhờ các hoạt ñộng thương mại. 75 Calcutta (tên tiếng Anh là Kolkata) vốn là thủ ñô Ấn ðộ cho ñến năm 1911, dưới thời thực dân Anh. Ngày nay, dân số ñô thị trung tâm Calcutta là 4,5 triệu, nếu tính cả ñô thị kết nối (suburbs) là 15,7 triệu người. ðó là ñô thị thủ phủ ñông dân thứ ba ở Ấn ðộ, là ñô thị kết nối ñông dân ñứng hàng thứ 13 trên thế giới. Còn Bombay (tên gọi từ thế kỷ 17 thời thực dân Anh, ñến 1995 trở lại tên gọi truyền thống là Mumbai), với dân số xấp xỉ 20,5 triệu người, nay là thành phố ñông dân ñứng hàng thứ ba trên thế giới.
Các ñô thị lớn ở Trung Quốc vốn là các kinh ñô về chính trị, một số nằm ở các hải cảng lớn và có khoảng một chục chi nhánh của người châu Âu.
ðến năm 1931, dân số ñô thị trên 100.000 dân chiếm 3,4% tổng dân số, trong ñó có chưa ñến 50 thành thị hơn 100.000 dân trên tổng dân số khoảng nửa tỷ.
Quá trình ñô thị hóa trong lịch sử Trung Quốc diễn ra chậm chạp, dân số tập trung trong các ñô thị ít hơn so với các nước phát triển khác trên thế giới. Các ñô thị trên 100.000 dân ở Trung Quốc có tổng dân số gần 20 triệu, trong khi so với nước Anh cùng thời kỳ dân số ít hơn 10 lần, ñã tập trung ñến 26 triệu người trong các ñô thị kết
nối và ñô thị liên hợp trên 100.000 dân.
Tuy nhiên, nhờ phát triển buôn bán với nước ngoài, các ñô thị của Trung Quốc có bước phát triển vượt bậc, nhất là ở các ñô thị hải cảng như thành phố Thượng Hải. Năm 1900, dân số Thượng Hải chỉ có 650.000 dân, ñến 1936 ñạt 3.500.000 dân, và có thể trên 4 triệu dân nếu tính cả vùng ngoại thành, trở thành ñô thị ñông dân nhất ở Trung Quốc76 nhờ phát triển buôn bán với nước ngoài từ giữa thế kỷ XIX, và ñến nay trở thành trung tâm thương mại và tài chính toàn cầu. Ba ñô thị lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, thủ ñô chính trị và văn hóa từ năm 1153, có diện tích 16.808 km2; trong khi Thượng Hải và Hồng Kông là trung tâm kinh tế toàn cầu.
ðÔ THỊ NHẬT BẢN Nhật Bản là nước châu Á có cấu trúc và hình thái phát triển ñô thị khá tương ñồng so với các ñô thị ở các nước phát triển trên thế giới. Ở các tỉnh và ñịa phương của xứ sở mặt trời mọc hình thành hệ thống các ñô thị nhỏ có cùng hình thức như ở các nước Tây Âu thời kỳ tiền công nghiệp. Các ñô thị này khá giống nhau với hai công trình chính là lâu ñài công sự và ñền thờ, thường xây bằng ñá lớn, cùng với phần còn lại của ñô thị là các căn nhà nhỏ ở nông thôn làm bằng gỗ và giấy.
ðô thị Nhật Bản có ba loại hình: ñô thị tôn giáo, nơi có các hoạt ñộng thương mại nhờ vào các ñợt hành hương; ñô thị ở các ngã tư thông thương, có các quán trọ và ñô thị ở các cảng, chợ thuộc cấp ñộ vùng và ñịa phương. Cho ñến ñầu thế kỷ XIX, Nhật Bản có khoảng 200 ñô thị, phần lớn từ 5 – 25.000 dân.
ðô thị hóa ở Nhật Bản dựa trên nền tảng công nghiệp hóa một cách hệ thống và phổ biến. Gần ¼ dân số Nhật Bản sinh sống trong các ñô thị trên 100.000 dân. Có 5 ñô thị kết nối hoặc liên hợp ñô thị trên 1 triệu dân, cùng với khoảng 20 thành phố hoặc ñô thị kết nối khác có trên 100.000 dân.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 119 -
76 Theo thống kê năm 2010, dân số Thượng Hải ngày nay ñạt 23.019.148 người, trong ñó gồm 8.977.000 dân di trú dài hạn; trong khi thủ ñô Bắc Kinh chiếm hàng thứ hai với dân số 19,6 triệu dân, trong ñó vùng ñô thị gồm 18 triệu dân.
Mục tiêu ñổi mới của Nhật Bản là xây dựng nền công nghiệp hóa quốc gia nhằm chống lại chính sách thực dân hóa của nước ngoài. Nhờ ñó, hình thành các trung tâm công nghiệp lớn ở Nhật Bản, làm biến ñổi sâu sắc hệ thống ñô thị truyền thống.
Có thể phân biệt hai loại ñô thị ở Nhật Bản: một, các thành thị truyền thống theo kiểu bán nông thôn, ñược công nghiệp hóa rộng rãi trong thời kỳ Thế chiến II; hai, các thủ phủ công nghiệp cấu thành các ñô thị kết nối và ñô thị liên hợp ñông dân. ðến năm 1940, có 14 hạt ñô thị trên 200.000 dân, trong ñó: Tokyo (5.875.000), Osaka (2.990.000), Nagoya (1.083.000) và Kyoto (1.081.000) [P. George, 1952:302-310].
Các vùng ñô thị ở Nhật Bản gồm 3 nhóm, nằm trong vùng ñồng bằng Hondo: nhóm Tokyo – Yokohama, Kawasaki, Kanagawa... gồm khoảng 10 triệu dân; nhóm Kyoto- Kobé-Osaka, Sakaï, Wakayama... với khoảng 6 triệu dân và nhóm Nagoya – Gifu 1,5 triệu dân.
ðô thị kết nối Tokyo từng là thủ ñô của các tướng quân (shogouns), xưa kia chỉ là một thị trấn nhỏ ở vùng ñầm lầy châu thổ Soumida. ðại ñô thị Tokyo (1923-1940) mới gồm ba phân khu ñô thị: hạt nhân thương mại ở trung tâm; hai vùng công nghiệp chính ở phía bắc và phía nam; và một quẩn thể các khu phố cư trú nằm ở phía tây, tổng diện tích 200 km2. Tokyo vừa là thủ ñô chính trị, và trong chừng mực nào ñó còn là thủ ñô của các tập ñoàn (trusts) lớn của Nhật Bản như: Mitsui, Mitsubishi... Ngày nay, ðại ñô thị Tokyo-Yokohama là vùng ñô thị thủ phủ ñông dân nhất thế giới, với trên 35,676 triệu dân (2007), trên diện tích 7.835 km2, mật ñộ 4.553 người/km2, chiếm hơn ¼ tổng dân số Nhật Bản (27,9 %).
Hoặc thành phố Yokohama cho ñến giữa thế kỷ XIX chỉ là một làng chài nhỏ. Tập ñoàn xi măng Asano tiến hành công trình quy mô ñắp ñất lấn biển 600 ha giữa Tokyo và Kawasaki, biến nơi ñó thành các khu ñất công nghiệp mới ở phía nam ñô thị cổ. Tuy nhiên, cuộc ñộng ñất, sóng thần và hỏa hoạn tháng 9/1923 tàn phá khu ñô thị Tokyo- Yokohama trong 3 ngày: 400 ngôi nhà bị phá hủy, 70.000 người chết, 230.000 người ở Tokyo mất tích. Yokohama bị hủy hoại hoàn toàn. ðến năm 1923, mô hình ñô thị San Francisco chịu ñược trận ñộng ñất năm 1910. trở thành hình mẫu ñô thị hóa hiện ñại của Tokyo và Yokohama. Ngày nay, Yokohama ñô thị có dân số ñông nhất Nhật Bản, với 3.654.429 dân (2009), trên diện tích 437,38 km2, mật ñộ 8.355,2 người/km2.
Trong các ñô thị mới của Nhật Bản, hệ thống ñường sá chiếm ít hơn 20% ñất ñai sử dụng; trong khi ở nhiều thành thị mới ở châu Âu lên ñến 40% [Beaujeu-Garnier, 1995:267]; tỷ lệ này còn cao hơn trong các nước ñất rộng và có mật ñộ dân số thấp như Mỹ hoặc Liên Xô cũ. ðÔ THỊ XHCN Trong thời kỳ từ 1920-1950, dân số ñô thị ở Liên Xô tăng gấp ba lần. Tuy nhiên, trong số các chức năng ñô thị, các chức năng thương mại, tập trung bị mờ nhạt bên cạnh việc mở rộng các chức năng quản lý và sản xuất theo kế hoạch tổng thể của Nhà nước Liên bang. Do ñó, các ñiều kiện phát triển ñô thị ở Liên Xô khác với các ñô thị Tây Âu hoặc Bắc Mỹ.
Giống như các nước châu Âu, thương mại phát triển sinh ra các thành-thị (villes- marchés). Các thành thị Liên Xô nằm dọc sông Volga và trên các con ñường nối lưu vực này với các vùng lân cận, ñặc biệt là Novgorod ở phía bắc.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 120 -
Nước Nga thế kỷ XVIII ñã có hệ thống các ñô thị tập trung xung quanh hai thủ ñô: thủ ñô truyền thống là Matxcơva, thủ ñô chính trị và chiến lược là Saint-Pétersbourg. ðến thế kỷ XIX, trong khi công nghiệp hóa ñẩy nhanh quá trình ñô thị hóa ở các nước Tây Âu thì ñế quốc Nga vẫn là nước nông nghiệp. Việc tích tụ tài sản quốc gia chủ yếu
nằm trong tay hoàng gia, giáo hội Chính thống, một số quý tộc, các ñại ñiền chủ, quan lại, công chức và nhà buôn lớn cho vay lãi. ðặc ñiểm quan trọng thứ hai trong lịch sử nước Nga thế kỷ XIX về ñịa ñô thị là cuộc xâm chiếm lãnh thổ châu Á, sáp nhập vào lãnh thổ ñế quốc Nga kinh ñô cũ của các quốc gia và các ñô thị tỉnh nhỏ, ñặc biệt là các ñô thị Hồi giáo vùng Caucasie và vùng Trung Á. Tuy nhiên, mạng lưới ñô thị nhìn chung yếu kém về dân số và kích cỡ - dân số ñô thị chỉ ñạt 10%.
ðến năm 1926, dân số ñô thị chiếm 16% tổng dân số, gồm khoảng hơn 25 triệu người, trong ñó có 2 ñô thị trên 1 triệu dân là Moscow (2.029.425 người) và Leningrad (nay là Sankt Petersburg, gồm 1.690.065 người) và 12 thành phố trên 200.000 dân cùng với 21 thành phố khác có từ 100 – 200.000 dân. Dân số ñô thị tăng gấp ñôi từ 1926-1939, từ 26.314.000 lên 55.910.000 dân; ñến 1949 ñã là 66 triệu dân và có 61 ñô thị trên 200.000 dân. Như vậy, Liên Xô trở thành nước có số lượng ñô thị mới nhiều nhất thế giới và dân số ñô thị tăng lên ñáng kể chỉ trong vòng ¼ thế kỷ. ðô thị hóa ở Liên Xô tương ứng với thời kỳ phát triển công nghiệp.
Tuy nhiên, chức năng ñô thị ñược xác ñịnh theo kế hoạch kinh tế, dựa vào khả năng sản xuất của mỗi vùng, theo những tiêu chuẩn lý thuyết về quy hoạch ñô thị XHCN (từ 1931-1932). Xây dựng nhà ở và “quy hoạch” ñời sống vật chất và văn hóa của cá nhân ñược coi là dịch vụ công; các phương tiện ñầu tư tập trung vào tay các ñơn vị hành chính vùng và các xô viết cho phép xây dựng các quần thể ñô thị lớn.
Nhà nước Xô viết có khuynh hướng hạn chế tăng trưởng ñô thị vượt trên 500.000 dân, nhằm hạn chế thời gian di chuyển tối ña từ nơi ở ñến nơi làm việc không quá 40 phút.
ðại ñô thị Moscow ñứng hàng thứ ba, sau ðại New York và ðại London. ðó là vùng công nghiệp trung tâm, có bán kính 50 km từ Quảng trường ðỏ, gồm 8 triệu dân, trong ñó 5 triệu ở ñô thị trung tâm. Bên ngoài là một quần thể ñô thị khác, với bán kính 250-300 km xung quanh Moscow, gồm 26 thành phố trên 100.000 dân, tổng cộng 12 triệu thị dân. ðến năm 2010, dân số ñô thị Moscow là 11.514.300 người.
Một số ñặc ñiểm phát triển ñô thị XHCN ở Liên Xô (cũ): • Xã hội không giai cấp; quy hoạch ñô thị mang tính dân chủ. • Chức năng sản xuất chiếm ưu thế hơn so với chức năng thương mại; chức năng xã hội và văn hóa luôn rất ñược coi trọng ở ñô thị.
• Chức năng nông nghiệp ở Liên Xô cũng ñược coi là một chức năng ñô thị, nhờ cơ khí hóa và tự ñộng hóa nông nghiệp, sử dụng hợp lý các phương pháp và hệ thống trồng trọt cho phép hình thành các ñơn vị khai thác ở các nông trang tập thể (kolkhozes) rộng lớn, cho phép chuyển nhà ở nông thôn trong phạm vi làng thành ñô thị nhỏ, ñược cung ứng các hình thức quy hoạch và các dịch vụ của ñời sống ñô thị. Thành thị nông nghiệp trên thực tế ở Liên Xô giống như thành thị công nghiệp, là một trung tâm cư trú, sinh hoạt xã hội và sản xuất.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 121 -
• Thành phố, khu phố không chỉ là các sự kiện cư trú ñơn thuần, mà ñó còn là các dữ liệu về tổ chức ñời sống xã hội, ñược chăm sóc ñặc biệt với các trang bị cơ sở về sức
khỏe, y tế xã hội, học ñường, văn hóa [George, 1952:338-340]. Không gian cư trú có vùng cây xanh tách biệt với các cơ sở công nghiệp. Các vùng xanh không chỉ ñể trang trí, mà là ñiều kiện vệ sinh ñô thị. Không gian xanh ñược ñưa vào vào ñơn vị cư trú và cả các cơ sở công nghiệp.
Văn hóa ñô thị giản yếu
Trần Ngọc Khánh
- 122 -
• ðô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, với sử dụng cảnh quan tự nhiên hài hòa với khung cảnh ñịa lý, ở nông thôn và ñô thị. ðiều 10 Hiến pháp cho phép cá nhân ñược mua và xây dựng nhà ở cá nhân, ñược hưởng tín dụng dài hạn của Nhà nước hoặc của thành phố bằng 1/20 tiền lương hàng tháng trong 10 năm (cấp 4,5 tỷ rúp trong những năm 1947-1949)...

