Xây dựng nhóm nghiên cứu: yếu tố quyết định đến sự

thành công của mô hình đại học nghiên cứu

NCKH là hoạt động chuyên môn có tính kế thừa, liên tục và đòi hỏi

người nghiên cứu có lòng say mê, có phương pháp luận, có khát vọng và

niềm tin khoa học. Đồng thời, cần khẳng định rằng, NCKH cũng cần

phải có kinh phí, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ, có thời gian và cộng sự,..

Tuy nhiên, thực tế ở trường ĐHSP, kinh phí sự nghiệp dành cho NCKH

ở các đề tài NC cấp trường, cấp bộ còn quá ít, dàn trãi; trang thiết bị và

con người NC còn phân tán ở các khoa, phòng; thiếu tính liên kết, thiếu

cơ chế dùng chung và đặc biệt là thiếu “văn hóa nhóm”. Một số ngành

khoa học cơ bản thiếu tiếp cận thực tiễn, trong khi các lĩnh vực nghiên

cứu ứng dụng lại thiếu các công cụ hỗ trợ của các ngành khoa học cơ

bản. Nhiều ngành, lĩnh vực thiếu cán bộ đầu đàn, dẫn đến thiếu định

hướng chiến lược,… Mặt khác, công tác giảng dạy (trong và ngoài

trường) ở một số khoa chiếm 1 tỷ lệ quá lớn về thời gian. Chính vì vậy

mà công tác NCKH chưa được đa số CBVC chú trọng, hoặc đã nhen

nhóm rồi vụt tắt do thiếu các điều kiện căn bản.

Ngược lại, trong xu thế hiện nay, yêu cầu của xã hội đối với người

giảng viên ngày càng cao, nhất là phải cập nhật kiến thức thực tế; tiếp

thu kiến thức hiện đại; đòi hỏi phải có tư duy sáng tạo; phát triển kỹ

năng làm việc nhóm,… Với những yêu cầu như vậy, nếu không tham gia

NCKH thì chắc chắn không thể đáp ứng được yêu cầu đ/v giảng viên

của 1 trường đại học trong thời đại mới. Trong khi, nếu phát động phong

trào NCKH trong điều kiện riêng lẽ như hiện nay, thì các đề tài lớn khó

tiếp cận được, các đề tài nhỏ với kinh phí thấp thì không thể giải quyết

được vấn đề lớn mà xã hội đang đặt ra.

Xuất phát từ thực trạng trên, theo tôi vịêc xây dựng các nhóm NC

là giải pháp tốt nhất có thể tháo gỡ được những khó khăn hiện tại và có

điều kiện hướng đến xây dựng thành công 1 đại học NC, bởi vì:

1. Làm việc theo nhóm sẽ giúp cho các ý tưởng khoa học lớn có điều

kiện được triển khai; các trang thiết bị, các công cụ hỗ trợ sẽ được phát

huy tối đa hiệu quả; hiệu ứng số đông của nhóm sẽ giúp cho thế mạnh

của từng người được phát huy theo sự cộng hưởng lẫn nhau, còn điểm

yếu sẽ được bù đắp; cán bộ có kinh nghiệm có thể giúp đỡ, hỗ trợ cán bộ

trẻ,… Môi trường hoạt động chuyên môn được sôi nổi hơn, nên ngọn lữa

đam mê khoa học dễ được duy trì.

2. Tính chất liên ngành, liên lĩnh vực được khai thác để giải quyết

được những vấn đề phức tạp đang tồn tại hoặc xã hội đang đặt ra.

3. Khả năng tiếp cận với các chương trình, đề tài, dự án lớn dễ dàng

hơn; kết quả NCKH cũng có chất lượng tốt hơn; sản phẩm NCKH cũng

nhờ đó mà có thể đăng tải được trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín

hơn. NCS, học viên cao học và sinh viên là những người được hưởng lợi

gián tiếp từ các hoạt động NC và từ đó, chất lượng đào tạo cũng được

cải thiện, thương hiệu của khoa, trường cũng ngày được nâng cao trong

xã hội.

Qua tham khảo nhiều tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng, các giải

thưởng khoa học danh giá ngày nay đều xuất phát từ tập thể NC chứ

không phải từ 1 phát minh mang tính cá nhân. Thật vậy, ở nước ta, các

giải thưởng “Hành Tinh Xanh” năm 2003 của GS. Võ Quý và Giải

thưởng Cosmos, năm 2008 của GS. Phan Nguyên Hồng cũng đã xuất

phát từ các nhóm NC và đã được triển khai liên tục trong 1 thời gian dài.

Kinh nghiệm từ các trường Đại học lớn trên thế giới như Lômônôxốp

(LB Nga); Ruhr (CHLB Đức); Texac (Hoa Kỳ) cũng có mô hình:

Trường à Khoa à Bộ môn à nhóm NC.

Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của nhóm NC trong lộ

trình xây dựng khoa trở thành 1 đơn vị đào tạo và NCKH trực thuộc

trường ĐHSP – ĐHĐN, tại ĐH Chi bộ Nhiệm kỳ 2010 – 2012, chi bộ

Khoa Sinh – Môi trường đã thảo luận và ra NQ xây dựng các nhóm NC,

cụ thể như sau:

1. Chi bộ đã thảo luận, thông nhất các nhóm NC, mục tiêu, phương

thức tổ chức và kế hoạch thực hiện. Chi bộ đã triển khai và phân công

nhiệm vụ đến từng đảng viên, từng bộ môn; BCH Công đoàn Khoa;

BCH Chi Đoàn CB; BCH Liên Chi về việc thành lập 5 nhóm NCKH của

cán bộ tương ứng với 5 hướng phát triển chủ đạo của khoa. Song song

với 5 nhóm NC của CB có 5 CLB SV NCKH. Mỗi nhóm NC có 1 nhóm

trưởng là người có kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực chuyên môn và cử 1

cán bộ trẻ chịu trách nhiệm hỗ trợ CLB SV NCKH.

2. Các nhóm thảo luận xây dựng kế hoạch hành động; xây dựng các

hướng nghiên cứu cụ thể; xây dựng các đề tài; dự án; dự kiến các cơ

quan và cá nhân có thể hợp tác, đồng thời thảo luận cách thức triển khai

thực hiện. Kế hoạch hành động của nhóm sẽ được Hội đồng Khoa học &

ĐT Khoa tư vấn và BCN Khoa duyệt.

3. Các nhóm triển khai thực hiện; kết quả hoạt động của nhóm sẽ

được cập nhật trên website của khoa; sản phẩm KH sẽ được đăng tải trên

các tạp chí khoa học như 1 tiêu chí để đánh giá thi đua khen thưởng.

4. Chi bộ, BCNK, BCH CĐ, BCH Chi đoàn CB, BCH LC tổ chức

theo dõi, đánh giá; tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm; đánh giá thi đua khen

thưởng.

Đến nay, chúng tôi đã triển khai đến giai đoạn 2, tất cả còn đang ở

phía trước, nhưng điều đáng mừng là tập thể đảng viên; CBVC và SV

trong toàn khoa đồng tình ủng hộ và thống nhất rất cao; tất cả CBVC

đều nhận thức rằng hoạt động nhóm NC là giải pháp tốt nhất góp phần

nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao năng lực nghiên cứu, góp phần

vào việc xây dựng và phát triển khoa, nhưng trước mắt đây chính là môi

trường thuận lợi để mỗi cá nhân có cơ hội phát triển chuyên môn; quyền

lơi và trách nhiệm của tập thể sẽ gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm

của mỗi cá nhân. Với tinh thần đó, tập thể khoa Sinh – Môi trường tin

tưởng rằng sau 5 năm hoạt động của các nhóm NC, khoa Sinh – MT có

thể trở thành một đơn vị đào tạo và NCKH mạnh, có khả năng tiếp cận

được với các đề tài NCKH cấp bộ, các đề tài cấp NN, các chương trình

hợp tác với các tổ chức nước ngoài,.. Kết quả đó cũng sẽ góp phần vào

lộ trình xây dựng trường ĐHSP thành đại học nghiên cứu, đồng thời

công tác đào tạo của Khoa & Nhà trường sẽ từng bước đáp ứng được

nhu cầu của xã hội.

Để các nhóm NC được hoạt động hiệu quả, bên cạnh sự nỗ lực, cố

gắng của lãnh đạo và tập thể CBVC trong toàn khoa, chúng tôi cũng rất

cần sự quan tâm, hỗ trợ, động viên và chỉ đạo của lãnh đạo ĐHĐN, lãnh

đạo trường ĐHSP và các phòng, ban chức năng. Tại Đại hội lần này,

chúng tôi cũng xin nêu ra 1 số kiến nghị như sau:

1. ĐHĐN và trường ĐHSP cần có chủ trương nhất quán trong cơ chế

quản lý KH; cần xây dựng các quy chế khai thác trang thiết bị phục vụ

NCKH giữa các đơn vị trong ĐHĐN cũng như trong trường ĐHSP một

cách hiệu quả và hợp lý.

2. ĐHĐN cần có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao; nếu có

thể mời các nhà KH có uy tín ở các trường ĐH, Viện NC đã nghỉ hưu về

làm cố vấn hoặc trưởng các nhóm, trả lương theo chế độ chuyên gia và

đánh giá qua hiệu quả hoạt động khoa học, để giúp cho các nhóm NC

phát triển đột phá (khai thác được kinh nghiệm; trình độ và kể cả quan

hệ hợp tác).

3. Cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các

nhóm hoạt động, nhất là tiếp cận được với các Hội nghị, Hội thảo trong

và ngoài nước; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm được đăng cai tổ

chức Hội thảo, Hội nghị; kêu gọi tài trợ; hỗ trợ đăng tải sản phẩm KH

trên các tại chí khoa học chuyên ngành uy tín.

4. Đầu tư trang thiết bị phục vụ NCKH kịp thời và hiệu quả

5. Tránh hành chính hóa các nhóm NC và tránh chạy đua theo thành

tích. Cần để cho các nhóm NC phát triển theo phong cách đặc thù và có

thể phát triển xa hơn về mặt không gian, thời gian, quy mô và lĩnh vực

chuyên môn, thậm chí là trường phái khoa học.

Có như vậy, chất lượng và niềm tin khoa học mới được củng cố và phát

triển bền vững.

Võ Văn Minh