
LUẬN VĂN:
Xây dựng website quản lý thư viện
trường đại học Kinh tế Quốc dân

mở đầu
Trong những năm gần đây công nghệ thông tin đã trở thành ngành công nghiệp mũi
nhọn mang lại nhiều lợi ích và có những tính năng to lớn trong việc trợ giúp con người thực
hiện các công việc tưởng chừng như rất khó khăn. Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá
một đất nước là phát triển hay không là dựa vào tiêu chuẩn công nghệ. Do vậy, trong lĩnh vực
này luôn có sự cạnh tranh gay gắt. Điều này đã mang lại nhiều phát minh sáng chế và những
cải tiến vượt bậc.
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, ngành Công nghệ thông tin đó và
đang là một ngành mũi nhọn. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua các ngành nghề trong
xó hội. Ở cỏc cơ quan, cửa hàng, siêu thị người ta đó thay thế dần cỏc phương thức quản lý
và thanh toỏn cũ kỹ, lạc hậu, thay vào đó họ trang bị những hệ thống máy tính hiện đại, được
nối mạng và sử dụng chương trỡnh quản lý trờn mạng để làm việc.
Cựng với tốc phỏt triển và sử dụng rộng rói của mạng Internet, cỏc Trường Đại học ở
Việt Nam đang đẩy cao việc sử dụng hệ thống máy tính được nối mạng để quản lý trong
nhiều bộ phận, trong đó việc quản lý thư viện của Trường là việc cần thiết, nhằm phục vụ
được bạn đọc một cách nhanh chóng, chính xác và giúp cho người quản lý theo dừi được
tỡnh hỡnh cụng việc thường xuyên.
Theo như tình hình thực tế hiện nay, tại thư viện trường đại học Kinh tế Quốc dân việc
lưu trữ sách còn bằng sổ sách giấy tờ, tra cứu mượn và trả sách còn rất thủ công. Làm cho
việc lưu trữ khó khăn không kịp thời, xử lý số liệu trong quá trình cho mượn sách, ngoài ra
việc thống kê số liệu còn không kịp thời và chưa chính xác. Chính vì lẽ đó nên em đã quyết
định chọn đề tài:
“Xây dựng website quản lý thư viện trường đại học Kinh tế Quốc dân” nhằm mục
đích chính là giúp cho cán bộ công nhân viên cũng như các sinh viên thuận lợi hơn trong quá
trình thực hiện mượn và trả sách.
Chuyên đề gồm:
Phần 1: Tổng quan về trường đại học kinh tế quốc dân.
Phần 2: Cơ sở phương pháp luận.
Phần 3: Phân tích và thiết kế hệ thống của website.

Phần I
Tổng quan về trường Đại học Kinh tế quốc dân
A. Tổng quan về trường Đại học Kinh tế quốc dân
I. Giới thiệu chung
Trường Đại học Kinh tế quốc dân được thành lập vào ngày 25 tháng 1 năm 1956. Trụ
sở của trường: 207 - đường Giải phóng – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Tổng số cán bộ công nhân viên: 714 người, trong đó có 13 giáo sư, 32 phó giáo sư,
149 tiến sĩ, 120 thạc sĩ, 145 giảng viên chính, 260 giảng viên, 2 nhà giáo nhân dân, 29 nhà
giáo ưu tú, 314 đảng viên.
Trường đã được tặng thưởng huân chương độc lập hạng nhất (1996), huân chương
Độc lập hạng nhì (1991), huân chương Độc lập hạng Ba (1986), Huân chương Lao động
hạng Nhất (1983), Huân chương Lao động Hạng Hai (1978), Huân chương Lao động Hạng
Ba (1961, 1972). Huy chương Hữu nghị của Chính phủ Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(1987). Hai năm liền (1979-1980 và 1980-1981) được nhận cờ luân lưu của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng. Năm học 1990-1991 được Bộ khen thưởng giải Nhì về việc thực hiện ba
chương trình của của Ngành (không có giải nhất). Năm học 1991-1992 được nhận bằng
khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Năm học 1992-1993 được nhận cờ tiên tiến
xuất sắc của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Năm học 1993-1994 được khen thưởng về
thực hiện bốn chỉ số; Năm học 1994-1995 được nhận cờ tiên tiến xuất sắc của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Từ năm 1990 đến nay, có 19 đơn vị và cá nhân được tặng thưởng Huân chương lao
động, hai bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 277 Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, 40
Huy chương Vì sự nghiệp khoa học công nghệ, 16 cá nhân và tập thể được tặng thưởng
bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo mười năm đổi mới, 66 Huy chương Vì sự
nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn, 10 Huy chương Vì thế hệ trẻ. Đảng bộ liên tục được
công nhận Đảng bộ vững mạnh xuất sắc, Đoàn thanh niên trường liên tục được công nhận
Đoàn thanh niên tiên tiến xuất sắc.
Trong hơn 45 năm xây dựng và phát triển, đặc biệt trong hơn 10 năm đổi mới tập thể
giáo viên, cán bộ, công nhân viên Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã vượt mọi khó khăn,

sáng tạo, đi đầu trong đổi mới đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và nâng cao
đời sống; được Đảng, Nhà nước cũng như xã hội tín nhiệm và đánh giá cao trên mọi mặt:
1. Từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang nền kinh tế thị trường, đứng trước
nguy cơ tưởng chừng phải đóng của, do toàn bộ hệ thống chương trình, giáo trình cơ cấu
ngành nghề đào tạo cũ đã lạc hậu và đội ngũ cán bộ giáo viên không còn thích ứng với yêu
cầu đào tạo trong cơ chế mới; tập thể giáo viên, cán bộ, công nhân viên nhà trường khắc
phục khó khăn vươn lên chủ động, sáng tạo, đi đầu trong khối các trường đại học kinh tế cả
nước và đổi mới thành công, toàn diện, vững chắc cả về nội dung, chương trình, giáo trình,
phương pháp giảng dạy và cơ cấu ngành nghề đào tạo. Kết quả là, toàn bộ hệ thống chương
trình, giáo trình được biên soạn lại, biên soạn mới 192 giáo trình, nhiều giáo trình đã được
Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá cao và sử dụng làm giáo trình chuẩn cho các trường Đại
học thuộc khối kinh tế của cả nước nghiên cứu và học tập. Đổi mới và xây dựng được 90
chương trình đào tạo cho 5 nhóm ngành kinh tế và quản trị kinh doanh. Cơ cấu ngành nghề
từ 13 chuyên ngành năm 1990 đến nay đã phát triển thành 28 chuyên ngành đào tạo. Quy
mô đào tạo từ 3500 sinh viên trước thời kỳ đổi mới đến nay quy mô đào tạo của trường là
27.000 (tăng gần 8 lần). Đến nay, đã có hơn 50.000 sinh viên tốt nghiệp trong đó hơn 100
cử nhân là sinh viên Lào và Campuchia, mở 12 khóa đào tạo cử nhân tại Campuchia. Bồi
dưỡng kiến thức kinh tế thị trường cho hơn 55.000 cán bộ kinh tế, kinh doanh cho các địa
phương và doanh nghiệp.
2. Các chuyên gia kinh tế và các nhà quản lý được đào tạo trong nhà trường có chất
lượng cao, tinh thông nghiệp vụ, có tác phong công nghiệp, phẩm chất chính trị vững vàng,
có đạo đức trong kinh doanh, có tinh thần đấu tranh vì tiến bộ và công bằng xã hội, có khả
năng thích ứng trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được xã hội tín nhiệm.
Trong số đó, hiện có hàng trăm người đang giữ trọng trách lớn tại các cơ quan Đảng, Quốc
hội, Chính phủ, các Bộ ngành, các đoàn thể cũng như tại các địa phương, doanh nghiệp.
Nhờ vậy uy tín, vị thế của trường được giữ vững và ngày càng được nâng cao.
3. Hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong những mặt hoạt động đi đầu có tính
sáng tạo cao trong nhà trường. Trường luôn được Bộ Chính trị tín nhiệm giao tham gia biên
soạn các văn kiện cho Đại hội VII, VIII và nhiều Hội nghị TW, chủ trì nhiều đề tài khoa học
cấp Nhà nước. Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã là cơ sở khoa học quan trọng giúp

Đảng, Chính phủ xây dựng và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta như: Đề tài KX03 - Đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản
lý kinh tế (1991-1995), Chương trình KHXH03 – Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
theo định hướng XHCN, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (giai đoạn 1996-2000). Hoạt
động nghiên cứu khoa học hướng vào 4 mục tiêu cơ bản: Nghiên cứu tư vấn hoạch định chủ
trương đổi mới nền kinh tế của Đảng, Nhà nước; nghiên cứu phục vụ đào tạo; nghiên cứu
khoa học ứng dụng giúp các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp; tổ chức triển khai
có hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên. Từ năm 1990 đến 2000, trường
đã thực hiện 2 chương trình và 26 đề tài, dự án cấp Nhà nước, 157 đề tài cấp Bộ, 332 đề tài
cơ sở và hàng trăm đề tài hợp đồng với các ngành, các địa phương và doanh nghiệp, 43 sinh
viên đã đoạt giải thưởng về thành tích NCKH.
4. Trong việc thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ hợp tác quốc tế,
trường đang có quan hệ với 80 trường Đại học, Viện thuộc 30 nước và tổ chức quốc tế.
Thông qua hoạt động HTQT mà đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng viên được đào tạo và đào
tạo lại, hệ thống chương trình, giáo trình được đổi mới đáp ứng kịp thời chuyển đổi nền kinh
tế thị trường ở nước ta, giá trị vật chất mang lại cho trường là 20.000.000 USD. Vì thế mà
uy tín và vị thế của trường được nâng cao trở thành nhân tố quan trọng trong chiến lược hội
nhập với các quốc gia trong khu vực, quốc tế.
5. Trường Đại học Kinh tế quốc dân là cái nôi phát triển các trường ĐH Ngoại giao,
ĐH Thương mại, ĐH Ngoại thương, ĐH Tài chính, ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh, và là nơi
đào tạo cung cấp nhiều cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu và cho các trường Đại học và
Cao đẳng thuộc khối kinh tế trong cả nước. Trường luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý có chất lượng cao, đội ngũ những người phục vụ nhiệt tình, có
trách nhiệm trên cả ba mặt: đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, phương pháp giảng
dạy và công tác. Bên cạnh việc đào tạo lại đội ngũ cán bộ cũ, trường luôn tích cực quan tâm
bồi dưỡng đội ngũ kế cận, nhờ vậy trình độ năng lực chuyên môn đã khắc phục về cơ bản về
những khiếm khuyết đáp ứng nhanh yêu cầu về năng lực của đội ngũ trong cơ chế mới.
6. Tập thể nhà trường luôn đoàn kết, phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, chủ động
sáng tạo, khắc phục khó khăn, gương mẫu thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Trường thực sự là tấm gương tiêu biểu, có uy tín đối với các ngành, các

