TRIẾT HỌC YOGA Niềm tin mang tính khoa học
Hương Anh Fitness & Yoga 149A Phố Huế - Hai Bà Trưng – Hà Nội http://huonganhyoga.vn 0936 657 555
•
LỜI GIỚI THIỆU “Yoga không phải là câu chuyện thần thoại nào đó bị lãng quên. Yoga chính là di sản đáng quý nhất còn hiện hữu. Yoga là nhu cầu bức thiết của ngày hôm nay, và là cả một nền văn hóa trong tương lai.” -Swami Satyananda Saraswati (người tiên phong trong Yoga và triết học Vệ Đà)
Yoga là môn khoa học về lối sống đúng đắn, với mục đích đưa vào cuộc sống. Yoga tác động tới mọi khía cạnh của một con người: Thể chất, tinh thần, cảm xúc, tâm linh, tinh thần.
“Yoga” bắt nguồn từ tiếng Sanskrit (từ Yui), nghĩa là thống nhất, hay hợp nhất, hòa làm một. “Sự hợp nhất” hiểu trên góc độ tinh thần chính là sự hợp nhất giữa nhận thức của cá nhân và nhận thức của vũ trụ. Trên phương diện thực tiễn, Yoga là công cụ tạo nên sự cân bằng và hài hòa giữa cơ thể, tâm trý và cảm xúc. Điều này được tạo nên thông qua việc thực hành các bài tập Asana, Pranayama, Mudra, Bandha, Shatkarma và Thiền định, và cần phải đạt được trước khi hợp nhất diễn ra ở thực tế cao hơn.
Môn khoa học Yoga trước tiên tác động lên mặt ngoài cơ thể_ mặt thể chất. Đối với đại đa số người tập mặt thể chất chính là cấp độ bắt đầu có ý nghĩa thực thiễn nhất với họ. Tại cấp độ này nếu xảy ra sự mất cân bằng, thì các cơ quan, hệ cơ và hệ thần kinh sẽ không còn hoạt động hòa hợp nữa, mà tác động tiêu cực lẫn nhau. Ví dụ, hệ nội tiết hoạt động thất thường, hay suy giảm hệ thần kinh đến mức có thể sinh bệnh. Mục đích của Yoga là nhằm gắn kết các bộ phận có chức năng riêng biệt trong cơ thể, giúp chúng hoạt động hài hòa, tạo nên hiệu quả hoạt động trong toàn bộ cơ thể.
Bắt đầu từ cấp độ thể chất, “Yoga” “tiến tới” tinh thần và xúc cảm. Rất nhiều người trải qua cảm giác sợ hãi, hay chứng rối loạn thần kinh như một hệ quả của stress và những tác động từ cuộc sống hàng ngày. Yoga không thể chữa trị các loại bệnh, mà thực chất nó cung cấp cho ta những phương thức đã được kiểm chứng nhằm đối phó với bệnh tật.
Swami Sivananda đã định nghĩa Yoga chính là “…sự hòa nhập và hài hòa giữa tư tưởng, ngôn ngữ và hành động_ cũng là sự hài hòa giữa khối óc, con tim và đôi tay”. Thông qua việc tập luyện Yoga, nhận thức phát triển như một kết quả của mối quan hệ tương tác giữa cảm xúc, tinh thần và thể chất. Dần dà, nhận thức này giúp ta có thêm kiến thức về những không gian tồn tại bí ẩn xung quanh.
Yoga bao gồm rất nhiều nhánh như: Raja, Hatha, Jnana, Karma, Bhakti, Mantra, Kundalini và Laya. Mỗi nhánh lại có những ghi chép vô cùng chi tiết về chúng. Mỗi cá nhân có nhiệm vụ tìm ra nhánh phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của bản thân. Trong nửa thế kỷ trở lại đây Hatha Yoga trở thành loại hình Yoga phổ biến nhất trong hệ thống Yoga. Những khái niệm cấu thành nên Yoga vô cùng lớn và đang được truyền liệu cổ, Hatha Yoga chỉ bao gồm bá rộng rãi. Trong những tài Shatkarmas (bài tập thanh lọc cơ thể) . Thế nhưng ngày nay, nó còn bao hàm cả những loại hình luyện tập khác như: Asana, Pranayama, Mudra và Bandha.
Giới thiệu về Yoga
Yoga mà chúng ta biết tới ngày nay được phát triển như một phần của nền văn minh Tantra tồn tại ở Ấn Độ 10 ngàn năm trước. Tại thung lũng Indus (Pakistan ngày nay), các nhà khảo cổ học đã tìm được rất nhiều bức tượng có tạo hình tương đồng với thần Shiva và Parvati đang thực hiện các tư thế Asana và thiền định. Đây là những tàn tích còn lại chứng minh sự phồn thịnh của nền văn minh tiền-Vệ Đà (trước cả nền văn minh cổ Aryan) tại tiểu lục địa Ấn Độ. Theo những quan niệm truyền thống mang hơi hướng thần thoại, thần Shiva chính là vị thần khai sinh ra Yoga và cũng là người thầy của Parvati (cũng là một vị thần trong thần thoại Ấn Độ).
Lịch sử Yoga
Thần Shiva từ ngàn xưa đã được coi như biểu tượng hay sự hiện thân của nhận thức vĩ đại. Trong khi đó, Parvati là biểu tượng của kiến thức, ý chí, hành động và sự sáng tạo. Những nguồn năng lượng này được gọi là Kundalini Shakti_ nguồn năng lượng từ vũ trụ ẩn sâu bên trong mỗi sinh thể sống. Parvati được xem như người mẹ của toàn vũ trụ. Mỗi linh hồn đơn lẻ đều găn với một cái tên và hình hài nhất định, được giải phóng khỏi những ngăn trở, tiến tới hợp nhất với nhận thức vĩ đại dưới lòng nhân từ của bà. Bằng sự thương yêu và lòng trắc ẩn của mình, người mẹ vĩ đại ấy truyền lại cho những đứa con kiến thức về tự do_chính là Tantra. Những kỹ năng trong Yoga ngày nay bắt nguồn từ chính Tantra, và 2 ý niệm này không bao giờ được tách rời, giống như việc thần Shiva không thể tách rời Shakti_nguồn năng lượng của mình.
•
Lịch sử Yoga
Tantra được câu tạo từ 2 từ: “Tanoti” và “Trayati”, nghĩa là “Mở rộng” và “Giải phóng”. Tantra có thể được hiểu là bộ môn khoa học mở rộng hiểu biết và giải phóng năng lượng. Tantra là con đường nhằm đạt được sự tự do khỏi những giới hạn của thế giới khi mà ta vẫn còn sống trong đó. Ở cấp độ đầu tiên trong Tantra ta học được giới hạn và khả năng của tâm trý và cơ thể. Ở cấp độ tiếp theo Tantra mang lại cho ta kỹ năng mở rộng nhận thức và giải phóng năng lượng. Nhờ đó ta phá vỡ được những giới hạn và mang lại trải nghiệm thức tế cao hơn.
Yoga khởi thủy từ thời kỳ sơ khai của nền văn minh loài người, khi mà con người bắt đầu nhận thức được năng lực tinh thần và phát triển năng lực ấy. Dần dần bộ môn khoa học Yoga được phát triển bởi những nhà hiền triết trên khắp thế giới ở nhiều nên văn minh khác nhau. Cũng chính vì vậy mà bản chất về Yoga thường bị giấu đi hoặc được giải thích bằng nhiều hình tượng, ngôn ngữ đa dạng. Theo một số đức tin, Yoga là món quà thiêng liêng được ban cho những nhà hiền triết cổ đại, giúp con người có cơ hội được tiếp cận và nhận thức bản chất linh thiêng của mình.
Lịch sử Yoga
Từ thời cổ đại, các kỹ năng Yoga không được ghi chép lại hay truyền bá dưới hình thức công khai. Các kiến thức này thường được những nhà hiền triết truyền miệng cho những môn đệ của mình. Chính dưới hình thức này, ý nghĩa và mục đích của Yoga được hiểu rõ và sâu hơn. Thông qua những trải nghiệm từ chính bản thân, những Yogis và các nhà hiền triết biết cách hướng những môn đệ của mình đi theo con đường đúng đắn, giải quyết được những vấn đề khó nắm bắt, khó hiểu.
Cuốn sách đầu tiên có liên quan tới Yoga chính là cuốn Tantras, và sau này là cuốn kinh Vệ Đà được ghi chép trong thời kỳ hưng thịnh của nền văn hóa thung lũng Ấn Độ. Mặc dù không đưa ra bài tập chi tiết, những cuốn sách này vẫn ám chỉ Yoga. Trên thực tế, những đoạn thơ trong kinh Vệ Đà được những nhà hiền triết, những Rishi (các vị thánh) “thấm thía” trong trạng thái thiền định sâu và tĩnh, và được coi như những bài kinh. Tới Upnishads( một cuốn kinh Yoga khác), Yoga được định nghĩa hoàn chỉnh hơn. Chính những bài thơ đã tạo nên cuốn kinh Vệ Đà, bao hàm cái “cốt” của thần học Vệ Đà.
Lịch sử Yoga
Trong cuốn Yoga Sutra của mình (Raja Yoga), nhà hiền triết Patanjali đã hệ thống Yoga theo cách bài bản, thống nhất và dễ hình dung nhất. Với nội dung chính là 8 con đường trong Yoga, bao gồm Yama_quy tắc ứng xử với xã hội; Niyama_quy tắc ứng xử với bản thân, Asana, Pranayama, Pratyahara_làm chủ cảm xúc trước tác động bên ngoài; Dharana_sự tập trung; Dhyana_thiền định và Samadhi_trạng thái phúc lạc.
Thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, sự ảnh hưởng của Đức Phật đã đặt những tư tưởng thiền định, đạo đức và nhân cách con người lên hàng đầu, dẫn đến bỏ qua các bài tập tiền đề trong Yoga. Dù vậy, các nhà tư tưởng Yoga sớm nhận ra điểm hạn chế trong tư tưởng này. Thánh Matsyendranath cho rằng trước khi bước vào thiền định, cơ thể cần phải được thanh lọc. Trong Yoga cũng có một tư thế mang tên ông: Matsyendrasana. Môn đồ chính của ông, Gorakhnath, đã viết một cuốn sách về Hatha Yoga bằng tiếng địa phương và tiếng Hindi.
Lịch sử Yoga
Theo truyền thống Ấn Độ, các ghi chép nguyên bản phải được viết theo tiếng Sanskrit (tiếng phạn). Trong một số trường hợp họ biến đổi chữ viết của họ thành ký hiệu để đảm bảo rằng chỉ những người đã chuẩn bị và sẵn sàng giảng dạy có thể hiểu được. Một trong những tác giả nổi bật trong trường phái Hatha yoga, Swami Swatmarama, đã viết cuốn sách “Hatha Yoga Pradipika” hay “Ánh sáng Yoga”, bằng tiếng Sanskrit (tiếng Phạn), đối chiếu tất cả những tài liệu còn tồn tại về chuyện này. Để làm vậy, ông đã giảm bớt sự nhấn mạnh về yếu tố Yama và Niyama trong Hatha Yoga, qua đó loại bỏ được những khó khăn mà những người mới tập gặp phải. Trong cuốn “Hatha Yoga Pradipika”, Swatmarama bắt đầu với cơ thể, chỉ khi tâm trý ổn định và cân bằng, người tập mới có khả năng tự chủ và tự kỷ luật.
Lịch sử Yoga
Ngày nay, khi chúng ta đã bước vào thế kỷ 21, thì Yoga giờ đã được chứng minh như một di sản của nhân loại.Thế nhưng trong khi mục đích chính của Yoga là mang lại lợi ích về mặt tinh thần và tâm linh, thì ngày nay nhiều hướng dẫn viên Yoga vẫn hướng mọi người tới những lợi ích về mặt vật chất và hữu hình trong khi bỏ qua yếu tố tinh thần và tâm linh cốt lõi.
Trị liệu về cả tinh thần và thể chất là một trong những mục tiêu lớn nhất trong Yoga. Điều khiến Yoga “quyền năng” đến vậy là nhờ vào cơ chế hoạt động dựa trên những nguyên tắc mang tính hài hòa và thống nhất. Yoga thành công đến vậy là dựa trên phương thức trị liệu nhiều loại bệnh như: hen suyễn, tiểu đường, huyết áp, viêm khớp, rối loạn tiêu hóa và các chứng bệnh kinh niên khác khi mà y học phương tây “bó tay”. Những nghiên cứu về tác dụng của Yoga đối với các chứng bệnh tình dục cũng đang được hoàn thiện với kết quả hứa hẹn. Theo các nhà y khoa, trị liệu Yoga mang lại kết quả tuyệt vời vì tao ra sự cân bằng trong hệ thống thần kinh và hệ nội tiết (đây là 2 hệ tác động trực tiếp lên các hệ và các cơ quan khác trong cơ thể)
Sự cấp thiết trong việc học Yoga ngày nay
Sự chính đáng của việc luyện tập Yoga ngày nay
Đối với hầu hết mọi người, Yoga giờ đây như 1 công cụ duy trỳ sức khỏe và hạnh phúc trong cuộc sống đầy căng thẳng hiện nay. Các tư thế Asanas giúp loại bỏ những hạn chế về mặt thể chất khi mà con người phải dành ra nhiều giờ mỗi ngày vào các công việc bàn giấy. Kỹ thuật thư giãn trong Yoga thì tối ưu hóa tác dụng của khoảng thời gian nghỉ ngời đang ngày càng bị cắt giảm. Trong thời đại của công nghệ, tin nhắn hay shopping 24/24 giờ, các bài tập Yoga không chỉ giúp ích cho con người trong lối hành xử, mà còn trong công việc.
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu cá nhân, mục tiêu của Yoga còn nằm ở việcgiải quyết những mâu thuẫn trong xã hội. Ở vào thời điểm mà thế giới trở nên hỗn loạn với guồng quay cuộc sống nhanh tới chóng mặt, những giá trị xưa cũ bị đánh mất trong khi những giá trị mới chưa kịp tạo nên, Yoga trở thành công cụ giúp con người tìm ra cách thức kết nối với bản ngã của chính mình. Thông qua kết nối ấy, con người sẽ có khả năng thể hiện sự hòa hợp trong nhịp sống hiện đại.
Sự chính đáng của việc luyện tập Yoga ngày nay
Ý nghĩa của Yoga không chỉ giới hạn ở tập thông thường. Yoga là những bài công cụ hình thành cách sống mới, nơi tồn tại cả hiện thực trong lẫn ngoại vi. Cách sống ấy không thể được lĩnh hội chỉ qua vài ba lý thuyết suông, mà phải thông qua trải nghiệm và luyện tập thực tế.
Luyện tập Chìa khóa của bộ môn khoa học Yoga
Trong thời kỳ văn hóa Vệ Đà Ấn Độ, có một học thuyết phát triển con người, giải phóng chúng ta khỏi những giới hạn về nhận thức và tên gọi. Học thuyết ấy như một món quà ban cho con người nhận thức mang tầm vũ trụ, được coi như thứ nhận thức tối cao. Đó là Para Vidva (thuật ngữ)..
Việc lĩnh hội Para Vidva không chỉ nằm ở việc hiểu, mà còn phải tập luyện, thực hành. Para vidva không đơn giản là nắm bắt được kiến thức, mà hơn hết là đưa những kiến thức ấy vào hành động và trải nghiệm thực tế. Bởi lẽ, Para Vidva (hay khoa học Yoga) chính là bộ môn khoa học thực tiễn áp dụng vào cuộc sống. Đây chính là thực tế, là điểm mấu chốt trong mối quan hệ với Yoga. Mỗi người cần mang trong mình khát vọng và lòng kiên định, tuân thủ những hướng dẫn, đưa Yoga vào cuộc sống của mình, vào những hoạt động mang tính tinh thần, lời nói, thể chất. Đây chính là cốt lõi của kiến thức. Ta chỉ có thể lĩnh hội tri thức ấy thông qua mục đích mang tính khoa học và chuyển đổi chúng sang hành động thực tiễn. đưa vào cuộc sống thực tế của bản thân.
Tất cả những khía cạnh trong Yoga, từ điểm khởi đầu, đều là những kiến thức được truyền tải với mục đích chuyển đổi sang Abhyasa (Luyện tập mang tính tâm linh), bởi Abhyasa chính là “trái ngọt kiến thức”, là những trải nghiệm hiếm có khó tìm. Chính vì điều này, ta cần khắc cốt ghi tâm thuật ngữ Abhyasa, bởi lẽ Yoga chính là bộ môn khoa học “Tự nhận thức bản thân mình”, và Abhyasa chính là cốt lõi của môn khoa học ấy. Ta học, chính là để sống, và để đưa những kiến thức ta học được vào cuộc sống.
Trạng thái của con người
Triết lý Yoga nói rằng: “Không. Bạn đã thực sự thoát ly khỏi những điều đó. Bạn không còn chịu sự khổ hạnh. Bạn không thấy đói, thấy khát, buồn ngủ, hay mệt mỏi. Bạn không còn cảm thấy đau đớn, hay khoái lạc. Bạn không còn buồn rầu, kích động, lo âu, bồn chồn. Bạn sẽ trở thành con người hoàn hảo, hoàn thiện. Bạn không còn điều gì thiếu sót, tràn đầy niềm vui, bình an, hạnh phúc.” Vậy, nếu đây là thực tế, thì điều gì xảy ra nếu như những trải nghiệm của bạn hoàn toàn mâu thuẫn với thực tế được đưa ra? Câu trả lời là gì? Lý do ra sao? Tại sao lại nảy sinh sự mâu thuẫn phức tạp này? Vấn đề nảy sinh từ đâu? Theo triết lý Yoga, nhân cách con người như những tinh thể pha lê
trong suốt,nguyên chất. Những tinh thể này hoàn toàn có thể biến đổi màu sắc nếu như chúng bị đặt cạnh những vật thể có màu. Những vật thể đó có thể là một trái bóng màu xanh lá cây, hay một bông hoa màu đỏ,.. Những vật thể ấy đều có thể khiến cho các tinh thể trong suốt biến đổi màu sắc thành màu sắc của vật thể. Vì vậy, triết lý Yoga nói rằng nếu như trạng thái của bạn tương đồng, hoặc có liên quan tới điều gì đó, thì trạng thái của điều đó có thể ảnh hưởng, thậm chí chiếm hữu bạn.
Trạng thái thực sự của con người
Như trường hợp của tinh thể pha lê, khi ta đã nhuốm màu sắc của vật thể khác, ta phải làm gì để một lần nữa trở nên trong suốt và thuần khiết, như chính trạng thái ban đầu của mình? Câu trả lời là TÁCH BIỆT. Điều ta cần làm là loại bỏ sự tương đồng giữa 2 cá thể: tinh thể và vật thể. Nếu như vật thể có màu đang đứng quá sát tinh thể, thì điều ta cần làm là đẩy vật thể có màu đó ra xa tinh thể. Khi đó, tinh thể sẽ lại một lần nữa được cách ly khỏi vật thể đa màu sắc_thứ đã ảnh hưởng tới tính chất của tinh thể, và lại một lần nữa tinh thể quay về trạng thái trong suốt của mình. Tinh thể không còn chịu sự ảnh hưởng bởi thứ không có mối liên hệ với bản chất của nó. Điều này cũng tương đồng với bản chất của con người.
Triết lý Yoga và tâm lý học Yoga là 2 khái niệm song
Tâm lý học Yoga
hành. Mỗi khi cân nhắc một khía cạnh, người ta đều phải xem xét khía cạnh còn lại bởi việc luyện tập Yoga về cơ bản dựa trên cơ sở tâm lý-triết lý học. Triết lý Yoga và tâm lý học Yoga không chỉ là tấm phông nền của Yoga, mà chính là cơ sở nền tảng của nó. Dựa trên cơ sở này những bài tập khác nhau được hình thành tuyệt đối trong tâm trý, không chỉ trong lúc chúng ta học, mà còn trong khi luyện tập Asanas. Chỉ khi ấy các bài tập mới trở nên ý nghĩa và được hoàn thiện. Khi việc luyện tập đạt kết quả tích cực, ta cần nhớ tới lý do vì sao ta luyện tập? ta mong muốn đạt được điều gì trong quá trình tập luyện? hiệu quả của bài tập đối với bản chất và trạng thái tinh thần của mình ra sao?
Một khi chưa trả lời được nhữ câu hỏi trên, ta sẽ
Tâm lý học Yoga
chưa thể xác định được liệu con đường ta đang đi có đúng đắn va tích cực hay không. Dựa trên việc trả lời câu hỏi ấy, ta sẽ xác định được việc tập luyện của mình liệu có đang tiến triển hay đang dậm chân tại chỗ? liệu có hiệu quả hay chỉ là việc làm vô ích? Làm thế nào để ta tiến bộ? Chỉ khi có được câu trả lời, ta mới kiểm soát được quá trình tập luyện, từ đó tiến hành luyện tập có ý nghĩa và mang lại hiệu quả. Đó cũng chính là lý do vì sao bạn nên ghi nhớ cơ sở tâm lý-triết lý học trong quá trình luyện tập Yoga.
Maharishi đã chỉ ra rằng Astanga (ashta + anga) theo tiếng
8 nhánh Yoga
Phạn, phải là 8 nhánh trong Yoga, chứ không phải 8 cấp bậc. Do đó, Astanga không thể là một chuỗi các cấp bậc để đạt tới đỉnh cao trong Yoga. Ông đã chỉ ra nhánh_nghĩa là sự mở rộng mang tính tự nhiên. Các nhánh phát triển theo sự phát triển tự nhiên của cơ thể người. 8 nhánh chính là những khía cạnh trong Yoga, là sự mở rộng của Yoga. Theo đó Maharishi lý giải:
“Các nhánh trong cơ thể sinh ra và phát triển cùng nhau. Nếu một nhánh phát triển, thì các nhánh còn lại cũng phát triển song song. Cả 8 nhánh cùng phát triển. Chúng phát triển liên tục cho tới khi tất cả các nhánh đát tới giá trị cao nhất, còn cơ thể phát triển toàn diện.
Do vậy, 8 nhánh chính là những phẩm chất và đặc tính của Yoga. Chúng phát triển trong cuộc sống của con người, trở nên trưởng thành và hoàn thiện hơn.
Maharishi nói rằng 8 nhánh này cấu thành nên
8 nhánh Yoga
phần trọng tâm của Yoga. Và để hiểu Yoga 1 cách thấu đáo, ta buộc phải quan tâm tới các nhánh này.
8 nhánh này cấu thành nên phần trọng tâm trong Yoga. Việc chú ý tới các nhánh này giúp ta lĩnh hội cấu trúc của Yoga. Yoga Sutras_cuốn kinh Yoga, là cuốn sách mang tới kiến thức toàn diện về Yoga. Nhà hiên triết Patanjali chính là người đã nghiên cứu tất cả những khía cạnh của cuộc sống và truyền tải phần thân Yoga, trạng thái cuộc sống trong sự hợp nhất, tóm gọn lại trong 8 nhánh Yoga.
8 nhánh Yoga
Với những tư tưởng như vậy, hãy cùng nhìn vào những chú giải mà Maharishi đề cập trong mỗi nhánh nhằm hiểu được chúng bao hàm những điều gì. 8 nhánh đó bao gồm:
1. Yama- Nhà cầm quyền- quản lý 8 khía cạnh trong Yoga, kết dính
các khía cạnh này với nhau.
2. Niyama- Luật lệ, mà dựa vào đó nhà cầm quyền sử dụng như công
cụ để quản lý.
3. Asana- Sự vững vàng, ổn định của một khối thống nhất. 4. Pranayama- sự vận động, động cơ của hành động. 5. Pratyahara- Những trải nghiệm đáp ứng nhu cầu về mặt xúc cảm. 6. Dharana- Công cụ duy trì sự thống nhất. 7. Dhyana- Thiền luyện. 8. Samadhi- Ý thức mang tính trừu tượng. Sự hợp nhất của những
nhận thức mang tính cá nhân với tri thức vũ trụ.
Yama là nhánh đầu tiên trong Yoga. Yama bắt nguồn từ tiếng Sanskit (tiếng Phạn). Trong đó Yam nghĩa là giúp đỡ, hỗ trợ. Yama thường được hiểu là tự kiểm soát, tự kiềm chế bản thân. Trong mối quan hệ với Yoga, Yama thường được hiểu như những quy tắc ứng xử. Hầu hết những nhà nghiên cứu đều cho rằng thông qua việc rèn luyện 5 Yamas, mỗi cá nhân sẽ cải thiện khả năng tương tác với những cá nhân khác và với môi trường , qua đó tạo nên trải nghiệm và nâng cao khả năng luyện tập.
Maharishi thì khác, ông miêu tả Yama như chất lượng của trí
tuệ, là thứ quản lý 8 khía cạnh trong Yoga, kết nối chúng trong một khối thống nhất. Đây cũng chính là động lực giúp duy trì trạng thái hợp nhất của một khối thống nhất. Trong đó sự sống đơn lẻ và sự sống vũ trụ hòa làm một. Điều này mang tới sự sáng tỏ, trong đó cái tôi vĩnh cửu được duy trì với sự sống cá nhân.
1. Yama (Đạo lý)
Maharishi đã miêu tả Yama là những luật lệ trong khuôn khổ vũ
Yama
trụ và mang tính vĩnh cửu.
Yama, như một nhà cầm quyền, hiện hữu mọi nơi. Yama thu hút mọi thứ. Bạn sẽ tìm được cấu trúc của Yama ở những nơi đẹp đẽ và có tính hệ thống. Yama góp phần đưa những hệ thống và quá trình tiến hóa hiện tại thành những cấu trúc khả thi trong tương lai.Trong cuốn Yoga Sutra có miêu tả Yama-nhà quản lý của toàn bộ cơ thể Yoga.
Yama vận hành dựa trên 5 phương diện, với chức năng kết nối các nhánh lại với nhau. 5 phương diện ấy được biết đến là 5 Yamas.
I. Satya- Sự thật không bao giờ thay đổi. II. Ahimsa- Không gây tổn hại tới người khác. III. Asteya- Không trộm cắp. IV. Brahmacharya- Kiểm soát cảm xúc. V. Aparigrana- Không vụ lợi, tích cóp.
1. Ahimsa-Lòng trắc ẩn đối với mọi sinh thể sống trên Trái Đất.
Yama
Ahimsa theo nghĩa đen là không được gây tổn hại hay hành xử tàn nhẫn đối với bất kỳ sinh thể sống nào bằng bất kỳ phương thức nào. Thế nhưng, Ahimsa không chỉ là phi bạo lực, như được áp dụng trong Yoga. Ahimsa nghĩa là tử tế, thân thiết, suy xét kỹ lưỡng đối với người khác và với vạn vật xung quanh. Ahimsa phải được thể hiện như nghĩa vụ và trách nhiệm. Ahimsa ngụ ý dù ở vào hoàn cảnh nào, ta cũng cần đưa ra cách hành xử phù hợp và
không gây tổn hại tới người khác. 2. Satya- Tuyệt đối thành thật.
“Satya” nghĩa là “nói lên sự thật”, dù vậy không phải lúc nào ta cũng muốn nói lên sự thật bởi có những hoàn cảnh sự thật có thể gây tổn hại tới người khác. Ta cần luôn luôn cân nhắc những điều mình nói ra, nói ra như thế nào, và điều mình nói có gây tổn hại tới ai không. Nếu việc nói ra sự thật gây hậu quả tiêu cực đối với người khác, vậy tốt hơn hết là không nói gì. Satya không nên mâu thuẫn với Ahimsa. Ahimsa phải dựa trên việc hiểu rõ về thật thà trong giao tiếp, và cách ứng xử hình thành cơ sở của những mối quan hệ, cộng đồng, nhà nước tốt đẹp. Loại bỏ những điều dối trá, phóng đại gây tổn hại tới người khác.
3. Asteya- Không trộm cắp.
Steya theo tiếng Phạn nghĩa là “trộm cắp”. Khi có tiền tố “a”, nghĩa của từ biến đổi ngược lại: Không lấy những thứ không phải của mình. Điều này hiểu rộng hơn nữa có nghĩa nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh được ai đó giao phó trọng trách hoặc được người đó tin tưởng, ta không được lợi dụng lòng tin của họ. Không trộm cắp không chỉ bao hàm ý nghĩa không được nhận những gì không thuộc về mình khi chưa được cho phép, mà còn không được sử dụng những thứ không thuộc về mình nhằm mục đích khác. Ngoài ra, việc rèn luyện Asteya còn ngụ ý không được nhận bất cứ thứ gì được cho một cách miễn cưỡng. Nghĩa là không nên nuôi dưỡng ý định “xin xỏ”, hoặc “hỏi” ai đó về thứ mà họ không muốn cho, bắt họ phải cho, điều ấy trong một chừng mực nào đó, cũng là trộm cắp.
• •
•
•
Yama
4. Brahmacharya- Kiểm soát cảm xúc. Brahmacharya thường được hiểu dưới nghĩa tiết chế bản thân, đặc biệt trong mối quan hệ tình dục. Brahmacharya chỉ ra rằng ta cần hình thành những mối quan hệ có khả năng phát triển sự hiểu biết. Brahmacharya không bắt ép con người phải sống độc thân. Mà ý nghĩa đích thực của nó là hành xử có trách nhiệm với sự tôn trọng và có mục đích tốt đẹp (tiến tới sự thật). Rèn luyện Brahmacharya nghĩa là ta phải dùng năng lượng sinh dục của mình để tái tạo kết nối tới tinh thần. Cũng có nghĩa là không được dùng năng lượng sinh dục của mình gây tổn thương người khác. 5. Aparigraha- Trung hòa những ham muốn vụ lợi hoặc tích lũy làm giàu cho bản thân mình. Aparigraha nghĩa là chỉ nhận những thứ mình cần, không lợi dụng hoàn cảnh đê hành xử tham lam. Ta chỉ nên nhận những thứ mà ta đáng được nhận; nếu như ta nhận nhiều hơn, nghĩa là ta đang lợi dụng người khác. Yogi cảm nhận việc thu thập và tích lũy của cải nghĩa là thiếu niềm tin vào Chúa cũng như thiếu niềm tin vào bản thân. Aparigraha cũng ngụ ý bỏ qua những điều nhỏ nhặt để hiểu rằng sự nhất thời và những thay đổi mới là bất biến. Cuốn Yoga Sutra đã miêu tả những điều diễn ra khi 5 cách hành xử này cùng tồn tại và trở thành 1 phần của cuộc sống con người. Khi ấy, Yamas là những chuẩn mực đạo đức chính làm thuần khiết bản năng của con người, đồng thời đóng góp vào sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng.
2. Niyama (Sự tuân thủ cá nhân)
Niyama nghĩa là luật lệ, thường được quy vào những loại hình luật lệ hay sự tuân thủ khác nhau. Trong cuốn Yoga Sutra, Niyama là những luật lệ mà dựa vào đó Yama thực thi, cùng duy trì và quản lý cấu trúc của một khối thống nhất. Maharishi nói rằng theo tiếng Phạn, “Ni” nghĩa là dẫn dắt_nghĩa là những luật lệ này dẫn dắt Yama_nhà cầm quyền quản lý toàn bộ các luật lệ. Danh sách 5 Yamas:
I. Sauca – Thanh lọc. II. Santosa – Sự bằng lòng. III. Tapas – gia tăng ánh sáng của cuộc sống. IV. Tvadhyaya – Mở ra một chương mới của bản thân. V. Isvara-pranidhana – Mở ra nhận thức duy trì vũ trụ.
1. Sauca- Thanh lọc.
Niyama đầu tiên chính là Sauca, nghĩa là thanh lọc, hay gột rửa. Sauca có 2 tác động: bên trong và bên ngoài. Tác động bên ngoài đơn giản là làm sạch cơ thể, trong khi tác động bên trong là thanh lọc, giúp cơ thể khỏe mạnh, các cơ quan hoạt động trơn tru linh hoạt, khai sáng tâm trý. Pranayamas và Asanas chính là những công cụ thiết yếu nhằm đạt được điều này. Asanas đẩy mạnh khả năng hoạt động của cơ thể, thải loại chất độc trong khi Pranayamas làm sạch phổi, cung cấp đầy đủ Oxi cho máu và thanh lọc hệ thần kinh. “Nhưng so với thanh lọc về mặt thể chất, thanh lọc về mặt tâm trý khỏi những cảm xúc căm thù, ham mê, giận dữ, ham muốn, tham lam, lừa dối, kiểu căng có ý nghĩa quan trọng hơn. “
2. Santosa – Sự bằng lòng
Niyama tiếp theo là Santosa_ sự nhún nhường, bằng lòng với những gì mình đang có. Điểm quan trọng là phải giữ được tâm trý thanh thản, hài lòng với cuộc sống của mình dù đối mặt với hoàn cảnh khó khăn, tạo nên quá trình phát triển bất chấp nghịch cảnh. Ta cần chấp nhận 1 điều: mọi thứ diễn ra đều có mục đích – người ta gọi đó là Karma (nghiệp). Và mục đích của việc rèn luyện đức tính bằng lòng là “chấp nhận những gì xảy ra”. Nghĩa là bằng lòng với những gì ta có, hơn là không bằng lòng vì những điều mình không có.
Niyama
3. Tapas – vận dụng năng lượng một cách kỷ luật.
Tapas là những hoạt động nhằm giữ cơ thể cân đối hoặc nhằm đối mặt và giải quyết những vấn đề bên trong. Về nghĩa đen, Tapas nghĩa là làm nóng cơ thể, và để làm được điều ấy, ta cần thanh lọc. Đằng sau ý niệm về tapas là ý tưởng về cách định hướng năng lượng cho một cuộc sống đầy nhiệt huyết cũng như đạt được những mục tiêu trong việc tạo ra cộng đồng thiêng liêng. Tapas giúp ta đốt cháy lòng nhiệt huyết, khát vọng trong việc đạt mục đích. Một hình thái khác của Tapas là cần chú ý vào những gì mình ăn. Chú ý tới những tư thế, thói quen ăn uống, cung cách hít thở- tất cả đều là Tapas.
4. Svadhyaya – Tự trau dồi.
Niyama thứ 4 là Svadhyaya. Sya nghĩa là “tự” trong khi adhyaya nghĩa là “vấn” hay “xem xét”. Bất cứ hoạt động nào trau dồi ý thức tự suy nghĩ đều là Svadhyaya. Nghĩa là ta phải tìm ra nhận thức “tự vấn” trong mọi hoạt động hàng ngày, thậm chí chấp nhận giới hạn của bản thân. Svadhyaya dạy chúng ta trở nên hài hòa và không phản ứng lại tính đối ngẫu, nhằm đốt cháu những khuynh hướng không cần thiết có thể phá hủy bản thân.
Niyama
5. Isvarapranidhana – Ca tụng tinh thần.
•
Isvara nghĩa là kẻ thống trị hay kẻ gìn giữ – người điều hành cuộc sống, duy trì sự sáng tạo. Pranidhana nghĩa là đưa mức sống vào nhận thức của mỗi người. Do đó Isvara- pranidhana chính là chất lượng của việc mở ra nhận thức đối với người gìn giữ. Maharishi miêu tả 2 loại người gìn giữ: Loại thứ nhất là sinh thể thuần khiết, người gìn giữ tuyệt đối, không thay đổi mức sống. Loại thứ 2 là cấp bậc cao nhất của sự sáng tạo, nơi mà từ đó toàn bộ những điều luật tự nhiên tổ chức và quản lý. Loại thứ 2 cũng chính là người gìn giữ vũ trụ. Maharishi định nghĩa cấp bậc này như “thiên đường”, và lý giải rằng nhận thức của Chúa đã mang tới trạng thái hợp nhất cùng với cấp bậc “thiên đường của cuộc sống. Pranidhana nghĩa là lĩnh hội, hấp thụ vào chính bản thân mình, hoàn toàn mở lòng mình đối với những giá trị của những mối quan hệ tốt đẹp nhất và tuyệt đối. Isvara- pranidhana cũng là tự đầu hàng chính mình. Khi chúng ta nói về “đầu hàng”, giá trị lớn nhất và đầu tiên của đầu hàng là tính thống nhất trong ý thức của mình với những mối quan hệ tốt đẹp nhất, những giá trị thiên đường của cuộc sống. Theo đó, Isvara-pranidhana miêu tả những giá trị phẩm chất của Yoga trong một thứ nhận thức không thể biến đổi, cũng như sự trưởng thành của Yoga trong nhận thức mang tầm vũ trụ, nhận thức của Chúa, và cuối cùng là nhận thức thống nhất.
Niyama
Asana là nhánh thứ 3. Trong tiếng Phạn Asana nghĩa là “chỗ ngồi”. Asana
3. Asana
thường được hiểu là những tư thế trong Yoga. Trong cuốn Yoga Sutra, ta có thể tìm ra nhiều định nghĩa về Asana như: Asana là chỗ ngồi, là sự ổn định, là tính thống nhất:
Cuốn Yoga Sutra đã diễn giải mặt ổn dịnh trong Yoga. Mặt ổn định trong
Yoga tồn tại ở đâu? Về mặt tự nhiên nó tồn tại trong cơ thể, trong tâm trý, xúc cảm, trí tuệ, cách sống, môi trường và trong toàn vũ trụ. Sự ổn định tồn tại ở trung tâm của những khác biệt, bởi thống nhất, nghĩa là không có khác biệt, và chúng ta có thể tìm thấy trạng thái “không khác biệt” ở bất cứ đâu.
Maharishi giải thích sự ổn định như chất lượng của ý thức, đồng thời là đặc tính của tâm trý và cơ thể trong Yoga. Ở trạng thái tiêm nghiệm, không còn xáo động từ những bên ngoài, bởi thực tế không có điều gì bên ngoài cả. Bất di bất dịch, không thấm và vô cùng ổn định.
Cũng như vậy, trạng thái “chín” nhất của Yoga trong ý thức thống nhất không còn chịu những điều tác động bên ngoài, không chịu sự tổn hại, không xấu đi hay giảm đi. Để trải nghiệm sự thống nhất, hệ thần kinh cần phải hoàn toàn ổn định, chắc chắn, linh hoạt và có khả năng duy trì sự tĩnh lặng giữa các hoạt động sôi nổi. Sự chắc chắn cùng sự ổn định này cần được duy trì trong tất cả các cấp độ của tâm trý và cơ thể bởi, thống nhất là điểm giữa của những khác biệt.
Asana nghĩa là trạng thái của sự sống mà tại đó, con người có thể duy trỳ sự vững vàng, bình tĩnh, thoải mái về mặt thể chất và tinh thần. Trong cuốn Yoga Sutra nhà hiền triết Patanjali đã định nghĩa Asana một cách ngắn gọn: “ Sithiram sukham aasanam”, nghĩa là tư thế thoải mái và vững vàng.Như vậy ta có thể thấy các tư thế Yoga Asanas được luyện tập để phát triển khả năng của người tập, giúp họ ngồi thoải mái ở một tư thế trong một khoảng thời gian dài, bổ trợ hữu dụng trong quá trình thiền luyện.
Asanas là những tư thế rõ ràng giúp mở các kênh năng lượng. Asanas là công cụ nhằm đạt được nhận thức cao hơn cũng như cung cấp cơ sở vững chắc cho việc khám phá cơ thể, quá trình thở, tâm trý và hơn thế nữa. Những Yogi Hatha cũng đã hiểu ra rằng bằng việc phát triển kỹ năng kiểm soát cơ thể thông qua asanas, thì tâm trý cũng được kiểm soát. Do đó, việc tập luyện asana được coi là ưu tiên trong Hatha Yoga.
Asana
Trong các cuốn kinh Yoga có đề cập đến sự tồn tại chính thức của
khoảng 8.400.000 tư thế Asanas, cũng là hiện thân của 8.400.000 tư thế mà mỗi cá nhân cần trải qua trước khi đạt được sự tự do trong vòng quay số mệnh. Những tư thế Asnas này cũng đại diện cho sự tiến hóa, từ hình thái đơn giản nhất tới hình thái phức tạp nhất của sự sống_ nghĩa là con người hoàn thiện.
Các tư thế mang hình thái động vật.
Rất nhiều tư thế Asanas trong Yoga miêu tả và phản ánh lại sự vận động của các loài vật. Thông qua quan sát, Những người Rishis đã hiểu cách thức các loài động vật sống hài hòa với tự nhiên và với chính cơ thể mình. Họ hiểu thông qua sự trải nghiệm , tác động của các tư thế và quá trình kích thích, kiểm soát hormone. Ví dụ, việc mô phỏng con thỏ trong tư thế Shashankasana có thể ảnh hưởng tới hormone adrenaline (hormone có liên quan tới việc hình thành sự căng thẳng) Thông qua việc mô phỏng các tư thế động vật, người Rishis hiểu rằng họ có thể duy trì sức khỏe và vượt qua những thách thức của tự nhiên.
Asana
Yogasanas & Prana
Prana, nguồn năng lượng quan trọng, tương ứng với ki hay chi trong y học trung quốc, lan tỏa khắp cơ thể, đi theo các dòng chảy, gọi là các nadi, chịu trách nhiệm duy trì tất cả các hoạt động tế bào riêng. Độ cứng của cơ thể là do prana bị chặn và tích lũy sau các độc tố. Khi prana bắt đầu chảy, các độc tố được loại bỏ khỏi hệ thống để đảm bảo sức khỏe của toàn bộ cơ thể. Khi cơ thể trở nên dẻo dai, tư thế dường như không thể thực hiện lại trở thành dễ dàng, và vững chãi và ân sủng của di chuyển phát triển. Khi luong prana được tăng lên đến một mức độ lớn, cơ thể di chuyển vào tư thế nhất định của chính nó và asanas, mudras và pranayamas xảy ra một cách tự nhiên.
•
Yogasanas Sự kết nối giữa tâm trý và cơ thể Tâm trí và cơ thể không phải là thực thể riêng biệt mặc dù có xu hướng suy nghĩ và hành động như thể khác biệt. Hình dạng thô của tâm trí là cơ thể và hình dạng tinh tế của cơ thể là tâm trí. Việc thực hành asana tích hợp và hài hòa ca hai. Cả hai cơ thể và tâm trí có trạng thái căng thẳng hoặc nút thắt. Mỗi nút thắt tinh thần có một thể chất tương ứng, nút thắt cơ bắp tương ứng và ngược lại. Mục đích của asana là thả lỏng, giải tỏa các nút thắt đó. Asanas giải tỏa căng thẳng trí não bằng cách giải quyết chúng trên khía cạnh thể chất, acting somato-psychically, từ cơ thể đến tâm trí. Ví dụ, căng thẳng về cảm xúc và ức chế có thể thắt chặt và ngăn chặn các hoạt động trơn tru của phổi, cơ hoành và quá trình hít thở, góp phần tạo nên một căn bệnh gây suy nhược dưới hình thức của bệnh hen suyễn.
Yogasanas Sự kết nối giữa tâm trý và cơ thể
Nút thắt cơ bắp có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào cơ thể: độ cứng ở cổ như viêm đốt sống cổ, khuôn mặt như đau thần kinh,v.v.. Một sự lựa chọn asanas, kết hợp với Pranayama, shatkarmas, thiền và yoga Nidra, là hiệu quả nhất trong việc loại bỏ những nút thắt, giải quyết chúng từ cả cấp độ tinh thần và thể chất. Kết quả là giải phóng năng lượng tiềm ẩn; cơ thể trở nên đầy sức sống và sức mạnh, tâm trí trở nên nhẹ nhàng, sáng tạo, vui tươi và cân bằng. Luyện tập Asana thường xuyên duy trì cơ thể vật lý trong một điều kiện tối ưu và tăng cường sức khỏe, ngay cả khi cơ thể không khỏe mạnh. Thông qua thực hành asana, năng lượng tiềm tàng được giải phóng và sự từng trải như sự tự tin tăng lên trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.
Yoga asana và bài tập thể dục Yoga asana thường được nghĩ như các dạng bài tập thể dục. Asana không phải là các bài tập thể dục mà là kỹ thuật nơi mà cơ thể vật lý ở trong một tư thế để trau luyện sự ý thức, thư giãn, sự tập trung và thiền định. Một phần của quá trình này là để phát triển tốt sức khỏe thể chất bằng cách kéo căng, xoa bóp và kích thích các kênh và các cơ quan nội tạng bên trong cơ thể. Mặc dù Asana không phải bài tập thể dục nhưng nó được bổ sung vào các bài tập. Trước đây sự khác nhau giữa hai thứ có thể hiểu được, nó thực sự cần thiết để biết một chút về sau này. Bài tập thể dục áp đặt những căng thẳng có lợi vào cơ thể. Không có bài tập này các cơ bắp bị lãng phí, xương trở nên yếu, giảm khả năng hấp thụ ô-xy, rối loạn insulin có thể xảy ra, và khả năng đáp ứng các nhu cầu thể chất của hành động đột ngột biến mất. Có vài điểm khác biệt giữa Asana và các bài tập tác động đến cơ chế của thể. Khi đang luyện tập Asana, sự hô hấp và tỷ lệ trao đổi chất diễn ra chậm, mức tiêu thụ ô-xy và nhiệt độ cơ thể giảm xuống. Tuy nhiên trong các bài tập thể dục, hơi thở và sự trao đổi chất diễn ra với tốc độ nhanh, mức tiêu thụ ô-xy tang cao, và cơ thể trở nên nóng hơn. Các tư thế Yoga có xu hướng ngăn chặn sự dị hóa trong khi các bài tập khác thì thúc đẩy điều này. Thêm vào đó, asana được thiết kế để có những tác động cụ thể vào các tuyến và các cơ quan nội tạng, và làm thay đổi sự hoạt động điện hóa trong hệ thần kinh.
4. Pranayama (kiểm soát các giác quan) Nhánh thứ 4 là pranayama. Với sự tôn trọng việc luyện tập yoga pranayama đề cập đến các bài tập thở để thanh lọc sinh lý và dàn xếp tâm trí. Maharishi ủng hộ các kỹ thuật pranayama cụ thể như chuẩn bị cho thiền định. Tuy nhiên trong văn bản của ashtanga yoga, Maharishi đưa ra một hiểu biết sâu sắc hơn. Maharishi giải thích prana như là nguồn lực cơ bản của cuộc sống chịu trách nhiệm cho tất cả các hoạt động khắp vũ trụ. Trong cuốn sách Yoga Sutra, đây là nguồn lực kích thích mỗi nhánh cụ thể của 8 nhánh trong khi giữ chúng trong giới hạn cùng với nhau. Để giải thích ý này ông ghi rằng pranakích thích hoạt động ở mỗi tế bào trong sinh lý cơ thể trong khi duy trì sự kết nối và hội nhập của toàn bộ các tế bào, nó tương tự như sự kích thích của từng nhánh riêng biệt trong tám nhánh của yoga trong khi giữ chúng trong giới hạn của sự hòa hợp. Praṇa là nguồn sống, nguyên nhân cơ bản của tất cả các hoạt động. Nó kích thích 8 giá trị khác nhau trong cuộc sống và rồi đưa chúng lại gần nhau, như kết hợp hài hòa chúng với nhau. Và trong hình thức tập thể, prana tạo nên một hơi thở hài hòa của các hơi thởi và đó là sự hài hòa của cuộc sống.
Maharishi giải thích thêm rằng sự kết nối giữa cá nhân và tổng thể - giữa trí thông minh của các nhân và vũ trụ - là sự hình thành bởi hành động và hơn nữa nếu không có prana, nguyên nhân cơ bản của tất cả hành động, sự kết nối này không thể tồn tại. Nếu sự tồn tại này không tồn tại thì sẽ không có trải nghiệm của yoga:
Không có nguồn lực cơ bản của hoạt động, không có prana, không có một sự kết nối nào giữa các nhân và vũ trụ . Không có nguồn lực cơ bản đó, sự thúc đẩy của hành động, các nhánh khác nhau sẽ không lại gần và hòa nhập vào với nhau. Đây chính là nguồn lực của prana, đây là nguồn lực của cuộc sống truyền vào hơi thở - điều đó kích thích 8 nhánh và cùng lúc kéo chung slaij gần và hòa nhập lại cùng nhau.
Pranayama
Ayama có nghĩa là đến và đi, và như vậy trong định nghĩa Pranayama là sự di chuyển, sự thúc đẩy của hành động.
Pranayama thở. Pranayama là sự ước lượng, kiểm soát, và định hướng của hơi Pranayama kiểm soát năng lượng (prana) bên trong các sinh vật sống, để khôi phục và duy trì sức khỏe và thúc đẩy quá trình tiến hóa. Khi dòng chay bên trong hơi thở được hòa hop hay được hòa nhập với dòng chảy bên ngoài hơi thở thì sự thư giãn hoàn hảo và sự cân bằng của các hoạt động cơ thể được thực hiện. Trong yoga, chúng ta quan tâm đến sự cân bằng dòng chảy của các nguồn lực quan trọng, rồi định hướng chúng đi vào bên trong đến hệ thống các luân xa và đi lên trên hướng đến luân xa đỉnh đầu. Pranayama, hay kỹ thuật hít thở, rất quan trọng trong yoga. Nó song hành cùng với asana hay tư thế. Trong cuốn Yoga Sutra, việc luyện tập pranayama và asana được xem xét ở hình thức cao nhất của sự thanh lọc và tự kỷ luật cho tâm trí và cơ thể một cách tương đối. Quá trình luyện tập sản sinh ra cảm xúc vật lý thực tế của nhiệt, được gọi là tapas, hay ngọn lửa bên trong của sự thanh lọc. Ngon lua này là một phần của sự thanh lọc nadis, hoặc làm sạch các kênh thần kinh trong cơ thể. Điều này cho phép trải nghiệm một trạng thái sức khỏe tốt hơn và cho phép tâm trí trở nên điềm tĩnh hơn. Là một yogi làm theo các mẫu nhịp điệu đúng của hơi thở sâu chậm “các mô hình tăng cường hệ thống hô hấp, làm dịu hệ thống thần kinh và làm giảm ham muốn. Khi mong muốn và cảm giác ham muốn giảm, tâm trí sẽ được tự do và trở thành một phương tiện phù hợp cho sự tập trung.”
5. Pratyahara
Ahara nghĩa là đồ ăn, và prati mang ý nghĩa của định hướng đảo ngược. Như vậy pratyahara (prati + ahara) có nghĩa là một cái gì đó như đồ ăn đến từ hướng nghịch đảo, hoặc đồ ăn đến từ hướng ngược lại. Maharishi giải thích rằng trong định nghĩa này đồ ăn ở đây đề cập đến bất kỳ thứ gì làm thỏa mãn hoặc nuôi dưỡng các giác quan, vì vậy trong ashtanga yoga Pratyahara liên quan đến điều khiển mà các giác quan được làm thỏa mãn. Điều tự nhiên của cuộc sống là luôn tiếp diễn các định hướng của sự hưởng thụ tuyệt lớn và nếu được trao cho cơ hội tâm trí và giác quan sẽ hướng đến nhiều kinh nghiệm, trải nghiệm thú vị hơn. Giáo viên hiện nay của dòng Ashtanga yoga thường dạy rằng Pratyahara có nghĩa là nên hướng các giác quan của mình vào bên trong, rời ca khỏi thế giới nông cạn và hời hợt. Trong sự giải thích này, một khi phải nắm vững ép sự chú ý vào trong để trang bị được tốt hơn cho trải nghiệm yoga. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của Maharishi, “đồ ăn” được tìm thấy ở bất kỳ nơi nào các giác quan đạt được sự thỏa mãn. Ông giải thích: Ở bất kỳ chỉ thị thỏa mãn nào được tìm thấy, đấy là chỉ thị tự nhiên của các giác quan. Ở trong chỉ thị đó chúng được đi du lịch - vào trong, ra ngoài, bên trái, bên phải, lên trên, xuống dưới. Không quan trọng đó là phương hướng nào, nhưng phương hướng của các giác quan hướng về phía mà chúng nhận được thức ăn – nhận thức và kinh nghiệm – và đồ ăn đó là những thứ thỏa mãn được.
Pratyahara
Quan điểm của Maharishi là Pratyahara đề cập đến các trải nghiệm thỏa mãn các giác quan, bất kể nó ở bên trong hay bên ngoài. Nhưng ông nói thêm rằng giai đoạn cuối cùng của sự tồn tại khách quan trở nên hấp dẫn hơn và do đó khi có cơ hội các giác quan sẽ tự động di chuyển về phía đó. Đây là kinh nghiệm của những người luyện tập thiền định siêu việt, người đã tìm ra được tiến trình các giác quan tiến vào bên trong thông qua quá trình thiền định mà không có sự gượng ép hay kiểm soát nào. Lý do là khi định hướng hướng vào bên trong sẽ làm thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, ý chính trong nghiên cứu của Maharishi là sự nhận thức không thể ép buộc – sự thỏa mãn đến rất tự nhiên thông qua nguyên tắc tăng sự hấp dẫn. Thêm vào đó, pratyahara được giải thích như sự luyện tập để ép buộc các giác quan thay đổi hướng của chúng sẽ đi ngược lại với nguồn cảm hứng của Patanjali thiết lập lĩnh vực của các giác quan như một trong tám khu vực được xem xét.
Pratyahara có nghĩa là rút về hoặc tránh xa. Từ “ahara” có nghĩa là “sự nuôi dưỡng"; pratyahara được dich ra như “rút ra khỏi chính bản thân mình để từ đó nuôi dưỡng các giác quan." Trong yoga, điều kiện Pratyahara ngụ ý đến sự rút lui của các giác quan từ sự gắn bó với các đối tượng bên ngoài. Nó được xem như là sự luyện tập không kèm theo cảm giác phiền nhiễu như chúng tôi không ngừng quay trở lại con đường giác ngộ và thành tựu của sự bình yên bên trong. Nó có nghĩa là các giác quan của chúng ta dừng việc sống nhờ các kích thích, các giác quan không còn phụ thuộc vào việc kích thích và không còn được nuôi dưỡng từ chúng nữa. Trong pratyahara chúng ta căt đứt sự liên hệ giữa tâm trí và giác quan và rút ra khỏi các giác quan. Khi các giác quan không còn bị ràng buộc bởi các nguồn và yếu tố bên ngoài, kết quả là sự kiềm chế hay pratyahara. Giờ nguồn lực quan trọng được chuyển về các nguồn bên trong, người ta có thể tập trung mà không bị phân tâm bởi yếu tố bên ngoài hay sự cám dỗ bên ngoài nhận thức. Pratyahara diễn ra gần như tự động khi chúng ta ngồi thiền vì chúng ta đang quá say mê đối tượng thiền định. Chính vì tâm trí được tập trung như vậy, các giác quan đã đi theo nó; nó không diễn ra theo cách khác.
Pratyahara
Pratyahara
Không còn hoạt động theo cách thông thường của chúng nữa, các giác quan trở nên cực kỳ sắc nét. Trong những trường hợp bình thường các giác quan dần trở thành chủ nhân chứ không còn là tôi tớ của chúng ta nữa. Các giác quan dụ dỗ chúng ta nhằm tăng cường cảm giác ham muốn cho tất cả mọi thứ. Trong pratyahara xảy ra điều ngược lại: khi chúng ta cần ăn thì chúng ta ăn, nhưng không phải do chúng ta thèm muốn đồ ăn. Trong pratyaharachúng ta phải cố gắng đặt các giác quan vào đúng vị trí của chúng, nhưng không cắt chúng ra khỏi hành động của mình một cách trọn vẹn. Phần lớn sự mất cân bằng cảm xúc của chúng ta là do chính chúng ta tạo nên. Một người bị ảnh hưởng bởi các sự kiện bên ngoài và các cảm giác không bao giờ có thể đạt được sự yên bình và bình an bên trong. Đây là vì anh ấy hoặc cô ấy sẽ lãng phí rất nhiều năng lượng của trí não và thể chất vào việc cố gắng laoij bỏ những cảm giác không mong muốn và để tăng thêm các cảm giác khác. Đây sẽ là kết quả sau cùng trong sự mất cân bằng về thể chất hay trí não, và sẽ là kết quả của sự yếu bệnh trong hầu hết các trường hợp. Patanjali nói rằng trên quá trình, không hạnh phúc và lo âu nằm ở nguồn gốc của nhân loại. Khi con người tìm ra yoga, hi vọng có thể tìm ra được sự yên bình bên trong, thứ luôn trốn tránh, họ đã tìm ra rằng nó luôn ở bên họ suốt thời gian qua. Theo một ý nghĩa, yoga không là gì hơn một quá trình cho phép chúng ta dừng lại và nhìn vào quá trình vận hành của chính chúng ta; chỉ theo cách này chúng ta có thể hiểu được bản chất của hạnh phúc và không hạnh phúc, do đó có thể vượt trên cả 2 điều này
6. Dharana (sự tập trung và luyện tập đánh thức giác quan bên trong)
Dharaṇa có nghĩa giữ chặt hay nắm chặt. Một đặc điểm cơ bản của trạng thái cao hơn của ý thức là khả năng của tâm trí để "giữ chặt" một cách tuyệt đối trong khi tiếp tục tham gia vào các hoạt động năng động - không thông qua vũ lực mà vì ở mức độ đó tâm trí hoàn toàn được thành lập trong Hữu thể. Trong cách nói của Maharishi: “Ở cảnh giới này của yoga tâm trí giữ chặt, duy trì hữu thể. Tâm trí được giữ bởi hữu thể, tâm trí được giữ trong hữu thể — cho dù chúng ta nói gì, liệu “trong hữu thể” hay “bởi hữu thể,” điều đó không phải là vấn đề. Tâm trí được giữ trong hữu thể tức là đang nắm giữ nó. Phẩm chất của việc nắm giữ không chỉ áp dụng với tâm trí mà còn với từng nhánh từng cấp bậc trong yoga, từng khía cạnh của yoga cho đến toàn bộ lĩnh vực yog, bởi vì “nhờ có sự giữ chặt này mới có thể duy trì được trạng thái của yoga.”
•
• Dharana có nghĩa là “sự tập trung vững vàng của tâm trí”. Ý tưởng quan trọng là giữ sự tập trung hoặc chuyên tâm chú ý vào 1 hướng nhất định. “Khi cơ thể được làm dịu bớt nhờ Asana, khi tâm trí được làm ổn định nhờ vào ngọn lửa của Pranayama và khi các giác quan được dẫn dắt dưới sự kiểm soát của Pratyahara, sadhaka (người tìm kiếm) đạt được bậc 6, dharana. Ở đây ông đã tập trung toàn bộ vào một điểm duy nhât hoặc vào công việc mà ông đã mải mê hoàn thiện. Tâm trí bắt buộc phải ổn định để đạt được cấp bậc của sự tiếp thu hoàn toàn.” Trong Dharana chúng ta tạo ra những điều kiện cho tâm trí có thể tập trung sự chú ý vào một hướng thay vì phải chia ra nhiều hướng khác biệt. Sự trầm tư sâu lắng và sự suy ngẫm có thể tạo ra những điều kiện đúng đắn, dồn chú ý vào một điểm mà chúng ta đã chọn sẽ trở nên mãnh liệt hơn. Chúng ta khích lệ một hoạt động cụ thể của tâm trí, càng mãnh liệt thì càng nhiều hoạt động của tâm trí xuất hiện.
Dharana
Dharana
• Mục tiêu trong dharana là để làm vững chắc tâm trí bằng cách dồn sự chú ý vào tập trung khi một số thực thể ổn định. Đối tượng cụ thể được lựa chọn không có liên quan gì với mục đích chung, cái mà ngăn cản tâm trí từ việc lang thang qua những ký ức, ước mơ, hoặc phản xạ suy nghĩ bằng cách cố ý giữ nó nhất tâm dựa trên một số đối tượng dường như tĩnh. B.K.S. Iyengar nói rằng mục tiêu là đạt được trạng thái tinh thần nơi tâm trí, trí tuệ, và cái tôi là "tất cả các hạn chế và tất cả sự tiện nghi này được dành cho Chúa, sử dụng cho Ngài và phục vụ Ngài. Ở đây không còn có cảm giác của" tôi "và "của tôi". “
• Khi tâm trí trở nên thanh khiết nhờ luyện tập yoga, nó sẽ có khả năng tập trung vào sự hiệu quả của một chủ đề hoặc một điểm của trải nghiệm. Giờ chúng ta có thể mở ra tiềm năng to lớn để chữa trị bên trong.
7. Dhyana (sự tin tưởng, thiền định về Chúa)
Từ tiếng anh có nghĩa tương đương với dhyana là meditation – thiền, mà Maharishi mô tả như “giá trị sâu sắc của nắm giữ”. Ông giải thích rằng Dharana là duy trì trong khi Dhyana là tiến trình cơ bản của Dharana. Điểm khác biệt quan trọng giữa 2 điều này là Dharana tương ứng lên tâm chí – các khía cạnh hoạt động tâm trí của chúng ta nghĩ rằng – trong khi thiền tương ứng với trí tuệ, phân biệt các khía cạnh của chức năng tâm thần. Maharishi đưa ra ví dụ cho việc chúng ta có thể hiểu được phân biệt trí não và trí thông minh là như thế nào – và trước đó là giữa dharaṇa và dhyana. Hãy tưởng tượng chúng ta ra cửa hàng và mua một bó hoa. Sự thúc đẩy để suy nghĩ và đi lại xung quanh, tìm từ hoa này sang hoa khác, điều này được cho là do tâm trí; Sự thúc đẩy để quyết định mua loài hoa nào là do trí thông minh. the impulse to decide which flower to purchase is the intellect. Trí thông minh phân biệt và lựa chọn, trí não là suy nghĩ. Maharishi giải thích:
Cái gì là sự thúc đẩy để bắt đầu thay đổi từ cái này sang cái khác, nói không với cái này,nói có với cái này? Đây là giai đoạn im lặng, yên tĩnh của cuộc sống nội tâm cái mà chúng ta gọi là trí thông minh. Đây là trí thông minh lặng lẽ quyết định, phân biệt. Và lặng lẽ phân biệt giá trị của trí thông minh là do sự rưc rỡ về mức độ của tâm trí. Tâm trí suy nghĩ. Nó nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, nhưng động lực thúc đẩy để thay đổi từ cái này sang cái khác là trí thông minh, quyết định giá trị. Đó chính là chức năng của trí não.
Vậy nên tâm trí thuộc về Dharaṇa bởi vì nó lưu giữ các trải nghiệm của chúng ta và trước đó lưu giữ cảnh giới hoàn toàn siêu việt của Yoga. Tuy nhiên, sự siêu việt thuộc về trí thông minh, bởi vì trí thông minh quyết định đi từ mức độ thấp đến tuyệt vời của sự hấp dẫn. Tuy vậy đây là sự tự động và tự phát, vì tiến trình diễn ra hoàn toàn tự nhiên.
Dhyana
Dhyana Dhyana nghĩa là thờ cúng, hoặc thiền định sâu và trừu tượng. Đây là sự trầm tư hoàn hảo. Nó liên quan đến việc tập trung vào một điểm chú ý với mục đích để biết được sự thật về nó. Khái niệm này cho rằng khi một người dồn sự tập trung tâm trí của họ vào một đối tượng tâm thức thì sẽ được chuyển đổi thành hình dạng của đối tượng đó. Do đó, khi một người tập trung vào thần thánh (Chúa), họ trở nên có phản xạ về vấn đề này nhiều hơn và họ biết bản chất thật sự của họ. “Cơ thể, hơi thở, các giác quan, tâm trí, nguyên nhân, bản ngã của anh ấy là sự tích hợp đầy đủ trong đối tượng thiền định của anh ấy – Tâm linh vũ trụ.“ Trong thiền, ý thức là sự tiếp tục thống nhất bằng cách kết hợp những hiểu biết rõ ràng về sự phân biệt giữa các đối tượng và giữa các lớp tinh tế của nhận thức. “Chúng ta học để khác biệt giữa tâm trí của sự nhận biết, ý nghĩa của sự nhận biết, đối tượng nhận biết, giữa từ ngữ, ý nghĩa của chúng, và ý tưởng, ý nghĩa của tất cả các cấp độ tiến hóa của tự nhiên." Như việc chúng ta tinh chỉnh sự tập trung của bản thân mình và trở nên có ý thức hơn về tự nhiên, về thực tế, chúng ta nhận biết được rằng thế giới là hư không. “Thứ có thật duy nhất và cá nhân vũ trụ, hoặc Chúa, được che kín bởi Maya ( sức mạnh huyền ảo). Khi tấm mạng được gỡ bỏ, tâm trí trở nên rõ ràng hơn. Không hạnh phúc và nỗi sợ hãi – kể cả nỗi sợ cái chết – đều biến mất. Đây là ranh giới của sự tự do, hay Moksha, là mục tiêu của Yoga. Mục tiêu này có thể đạt được bằng cách tìm hiểu liên tục về bản chất của sự vật. “Thiền trở thành công cụ của chúng ta để nhìn mọi thứ rõ rang hơn và nhận biết thực tế vượt ngoài những ảo tưởng che mờ tâm trí của mình”.
8. Samadhi (Hợp nhất với Chúa) Sama nghĩa là ngang hang hoặc ổn định. Dhi là trí tuệ. Maharishi dựa vào đó xác định samadhi như sự ổn định trí tuệ, lĩnh vực vô biên của ý thức siêu việt, giá trị cơ bản nhất của tình báo. Samadhi không phải nguồn tham khảo cho trí tuệ, ông giải thích, bởi vì trí tuệ là giá trị bên trong của sự thông minh, trong khi sự thông minh xác định cụ thể cấu trúc vũ trụ. Samadhi là một lĩnh vực của yoga nhưng theo trải nghiệm nó cũng nuôi dưỡng yoga ở một cấp bậc cao hơn của ý thức. Bậc cuối cùng trong 8 cấp bậc của yoga là đạt được Samadhi. Samadhi có nghĩa là “mang ại gần nhau, để hợp nhất.” Trong cấp độ Samadhi cơ thể và các giác quan được nghỉ ngơi như khi chúng ta đi ngủ, nhưng các khoang của tâm trí và lý trí cần tỉnh táo như khi chúng ta thức; một người tiến xa hơn ý thức. Trong samadhi, chúng ta nhận ra cần gì để có bản sắc mà không có sự khác biệt, và làm như thế nào để tâm hồn tự do có thể tận hưởng ý thức thuần khiết của bản sắc thuần khiết này. Mặc dù ý thức rơi vào mà lãng quên trong vô thức mà từ đó nó xuất hiện lần đầu tiên.
Samadhi
Do đó, samadhi đề cập đến sự hợp nhất hoặc Yoga thực sự. Có một kết thúc có sự tách biệt được tạo ra bởi "tôi" và "của tôi" của nhận thức ảo tưởng của chúng ta về thực tại. Tâm trí không co sự phân biệt giữa bản ngã và vô ngã, hoặc giữa các đối tượng dự tính và quá trình suy ngẫm. Tâm trí và trí tuệ đã dừng lại, chỉ có những kinh nghiệm của ý thức, sự thật và niềm vui không thể tả được. Để đạt được cấp bậc Samadhi là một bài tập khó. Về lý do này cuốn sách Yoga Sutra gợi ý luyện tập Asana và Pranayama như một sự chuẩn bị cho Dharana, bởi vì những ảnh hưởng hoạt động trí não và tạo ra khoảng trống trong lịch trình dày đặc của tâm trí. Một khi Dharana diễn ra, Dhyana và Samadhi sẽ tiếp bước diễn ra theo. Tám bước này của Yoga chỉ ra một con đường hợp lý dẫn đến việc đạt được sức khỏe về thể chất, đạo đức, tình cảm và tâm lý tinh thần. Yoga không tìm sự thay đổi của từng cá nhân; đúng hơn, nó cho phép các trạng thái tự nhiên của tổng thể sức khỏe và hòa nhập vào trong mỗi người chúng ta trở thành hiện thực.
Nghiên cứu khoa học ủng hộ góc nhìn của Maharishi. Trong khi không có chứng cứ nào gợi ý rằng nói lên sự thật, luyện tập không bạo lực, không ăn cắp, cố gắng lánh xa, hoặc từ bỏ của cải để dẫn đến kinh nghiệm bên trong trong cảnh giới của yoga, rất nhiều nghiên cứu tìm ra rằng những phẩm chất phát triển một cách tự nhiên thông qua thực hành Thiền Siêu Việt. Nghiên cứu bao gồm dấu hiệu phát triển tự phát của ahiṃsa (giảm sự hung hăng và sự thù địch), asteya (giảm thiểu sự lặp lại), Brahmacharya (tăng trải nghiệm của cấp bậc cao hơn trong ý thức), sauca (giảm hút thuốc, uống rượu và sử dụng chất gây nghiện), santoṣa (tang niềm hạnh phúc, thỏa mãn, với đời sống cá nhân và đời sống xã hội), tapas (vượt qua giới hạn), svadhyaya (vượt qua giới hạn and trải nhiệm của cấp bậc cao hơn trong ý thức), and Isvara- pranidhana (sự thỏa mãn tuyệt vời với một mối quan hệ với Chúa và tôn giáo; sự phát triển trải nghiệm của ý thức Thiên Chúa)
Nghiên cứu
Trong Maharishi’s account, 8 nhánh này cùng nhau kết hợp lại tạo thành thân của Yoga. Ông cảm thấy chúng không phải là mô tả của con đường yoga, nhưng khi chúng kết hợp lại với nhau chúng cung cấp một mô tả đầy đủ về cấu trúc của Yoga. Đây là mô tả của Patanjali về cuộc sống trong hội nhập, thống nhất, cho thấy mối quan hệ giữa cá nhân và vũ trụ, giữa cuộc sống cá nhân và cuộc sống vũ trụ. Phân tích của Maharishi cung cấp những quan điểm độc đáo, rất khác biệt từ việc luyện tập Astanga Yoga tân thời. Trong khi trình bày phân tích của ông, Maharishi không bài trừ việc luyện tập Yoga, đây là những điểm quan trọng để hỗ trợ cho Yoga và cho trạng thái cao hơn của ý thức, nhưng ông cho rằng đó không phải là chủ đề trong trình bày về 8 nhánh yoga của Patanjali. Ủng hộ cho phân tích của Maharishi đến từ nghiên cứu khoa học, đã tìm thấy trải nghiệm kết quả của Yoga trong việc phát triển chất lượng được bao hàm trong các cuộc thảo luận về Astanga Yoga của Patanjali. Theo đó, chuyện không phải phát sinh bởi kinh nghiệm hoặc bằng chứng thực nghiệm - thực hành nói sự thật và thực hành không bạo lực, ví dụ, không cho phép cho những kinh nghiệm của các trạng thái yoga bên trong, cũng không duy trì một thái độ lãnh đạm hoặc thờ ơ. Cảnh giới Yoga bao gồm đỉnh cao trong trạng thái cao hơn của ý thức, đòi hỏi các kinh nghiệm nội tâm của Atma.
Tóm tắt và Kết luận
Have patience and enjoy the learning!! Thank you!!