ADSENSE
5 Bước để nói một ngôn ngữ
181
lượt xem 57
download
lượt xem 57
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nói một ngôn ngữ mới là thứ mà nhiều người trong chúng ta luôn luôn mơ ước.Họ muốn nó cho nhiều lý do. Đối với những người sống ở Việt Nam, để nói được tiếng Anh tốt có thể thay đổi đột ngột triển vọng nghề nghiệp của họ.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: 5 Bước để nói một ngôn ngữ
- Chương 1 Những điều bạn nên biết trước khi bắt đầu “Nếu bạn muốn toả sáng ngày mai, bạn cần phải lấp lánh ngày hôm nay.” Phạm Quang Hưng Nói một ngôn ngữ mới là thứ mà nhiều người trong chúng ta luôn luôn m ơ ước. Họ muốn nó cho nhiều lý do. Đối với những người sống ở Việt Nam, để nói được tiếng Anh tốt có thể thay đổi đột ngột triển vọng ngh ề nghiệp của h ọ. Đối với những đứa trẻ được sinh ra ở Mỹ nhưng có bố m ẹ là nh ững ng ười không nói tốt tiếng Anh, học tiếng mẹ đẻ có thể giúp các thành viên trong gia đình gần lại nhau hơn. Một vài người học một ngôn ngữ mới cho những đi ều họ yêu quý, như bạn của tôi, Brian, người đã yêu một cô gái Việt nam. Ồ, tôi không ở đây để nói về lý do tại sao chúng ta cần phải học một ngôn ngữ mới, nhưng là về làm thế nào để thực hiện điều đó. Vì thế tại sao chúng ta không chuyển sang đề tài đó ngay bây giờ. Mỗi vận động viên có một phiên khởi động trước khi ti ến hành m ỗi cu ộc ch ơi. Chúng ta sẽ làm điều tương tự. Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ nói về một vài điều hoang đường về việc học một ngôn ngữ mới. Bạn sẽ thấy rằng dù cho việc học một ngoại ngữ không là một nhiệm vụ đơn giản, bạn hoàn toàn có th ể thành thạo nó nếu bạn biết cách phải làm như thế nào. Điều hoang đường Tôi không được sinh ra để học ngoại ngữ Hầu hết mọi người tin rằng học một ngôn ngữ mới yêu cầu những năng l ực dưới vài hình thức nào đó. Những gì chúng ta đã th ường nghe t ừ bố m ẹ c ủa chúng ta là: “con của tôi có tài năng lớn trong việc h ọc ngoại ngữ” hay ng ược
- lại là “con của tôi không tốt trong học ngoại ngữ”. Tôi hi vọng rằng bạn đủ may mắn để nghe lời bình phẩm đầu tiên khi nó có th ể gây cho bạn m ột s ự t ự tin to lớn và nâng cao sự nỗ lực học tập của bạn. Nếu như bạn ở cái sau, bạn có lẽ tin tưởng vào nó và sẽ từ bỏ sau cố gắng đầu tiên. Một ngoại ngữ cũng được gọi là ngôn ngữ thứ hai. Hãy để tôi h ỏi b ạn m ột câu: bạn có thành công với ngôn ngữ thứ nhất của bạn không? Và nếu như bạn có thể học ngôn ngữ thứ nhất, tại sao lại không thể học ngôn ngữ thứ hai? Khi lần đầu tiên bạn học ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, bạn thi ếu nhi ều công c ụ. Khi bạn được 2 hay 3 tuổi, bạn không có từ điển, không có kỹ năng đ ọc hay viết, hay thậm chí là kinh nghiệm. Chỉ là bạn có th ể thành th ạo nó. Bây gi ờ b ạn có một số lượng lớn những công cụ xung quanh để hỗ trợ mình, t ại sao b ạn không thể chỉ là lặp lại thành công đó? Điểm mấu chốt là vấn đề về lòng tin của bạn. Tôi quá già để học một ngôn ngữ mới Đây là một trong những phàn nàn phổ biến nhất mà tôi đã từng nghe từ nh ững học viên và bạn bè của mình. Nhiều người, bao gồm nh ững nhà khoa h ọc, tin rằng trẻ con học ngoại ngữ giỏi hơn những người trưởng thành. Họ cũng tin rằng những người trưởng thành không thể hấp thụ thêm một ngôn ngữ nữa. Thực tế là những đứa trẻ dường như thích nghi nhanh hơn với một môi trường ngôn ngữ mới. Nhiều báo cáo ủng hộ ý tưởng đó. Tuy bạn cũng có th ể th ấy những đứa trẻ đó nhanh chóng làm quen với một ngôn ng ữ mới nh ưng, sau m ột thời gian ngắn, chúng dường như có khuynh hướng chậm lại đến mức độ học bình thường. Tôi lần đầu tiên học tiếng Pháp khi tôi ch ỉ mới 11 tuổi và ti ếng Anh khi tôi đang học trung học. Tiếng Anh là một trong nh ững th ứ chính c ủa tôi trong nhiều năm sau đó cho đến khi tôi rời đại h ọc. Nó v ẫn quan tr ọng khi tôi bắt đầu làm việc. Một vài năm sau đó, tôi vẫn không th ể nói được ti ếng Anh
- tốt. Tuy nhiên, khi tôi lớn tuổi hơn, (dĩ nhiên mọi người nhiều tuổi h ơn khi anh ta hay cô ta ở trường), tôi đạt được nhiều thành công trong m ột vài tháng h ơn là những gì mà tôi đạt được trong tất cả những năm trước đó. Steve Kaufmann là một nhà ngôn ngữ học người Mỹ, ông ta có th ể nói 9 th ứ tiếng (bây giờ, ông ta có lẽ học nhiều hơn thế). Và ông ta bắt đầu học ngôn ngữ thứ 9 khi ông ta 59 tuổi. Đó không phải là về số tuổi của bạn là bao nhiêu, nó là v ề b ạn nghĩ b ạn là người già như thế nào. Tôi phải đi đến đất nước mà người ta nói ngôn ngữ mà tôi muốn học Tôi đồng ý rằng ở đất nước mà người ta nói tiếng bản xứ ngôn ngữ mà b ạn muốn học sẽ giúp bạn rất nhiều. Nhưng nó không phải là một điều bắt buộc. Tôi đã ở Mỹ trong vòng 6 tháng để học tiếng Anh. Tôi nhận thấy rằng có một số lượng lớn những yếu tố thuộc về môi trường mà tôi có được đã tồn tại s ẵn ở Việt Nam, ở nước tôi. Tôi vẫn nhớ rằng vào những ngày mới đến Mỹ một người bạn Mỹ gốc Việt của tôi nói với tôi rằng: “tốt nh ất là b ạn xem ti vi m ỗi ngày để tăng cường khả năng nghe tiếng Anh của bạn”. Đó là lời g ợi ý chân thành, nhưng nó làm tôi sốc bởi vì tôi đến Mỹ với kỳ vọng rằng đất nước này sẽ giúp tôi tăng vọt khả năng tiếng Anh của mình, chứ không phải là xem Tivi” Nếu như bạn ở nhà và muốn tăng cường khả năng nghe của mình, t ại sao ch ỉ là xem TV? Trong chương 10, tôi sẽ nói với bạn nhiều chiến lược khác để có được một môi trường nói tiếng Anh tự nhiên ở ngay trong đất nước của bạn. Học một ngôn ngữ như một chuyến đi dài. Nó có th ể dành cả cuộc đ ời b ạn đ ể học một ngôn ngữ
- Nếu phải dành cả cuộc đời mình để học một ngôn ngữ mới, vậy thì bạn nghĩ rằng Steve Kaufman có bao nhiêu cuộc đời hay những người khác mà có thể nói được 4 hay 5 ngoại ngữ có bao nhiêu cuộc đời? Th ực t ế, nhi ều ng ười, bao g ồm cả bản thân tôi, đã học một ngôn ngữ một thời gian dài nhưng không bao giờ tập trung vào nó. Đó là như thể nếu như bạn muốn phát tri ển c ơ b ắp c ủa b ạn b ằng cách nâng một vật nặng 5kg chỉ 3 lần một ngày. Kết quả ch ẳng bao giờ đ ến bằng cách đó. Khi học một ngoại ngữ, tập trung là điều then ch ốt. N ếu nh ư t ập trung trong một thái độ đúng đắn, bạn có thể đạt được một sự thành th ạo ch ỉ trong một thời gian ngắn. Tôi phải có một người giáo viên giỏi Một vài người có khuynh hướng trì hoãn lại vài thứ; tôi gọi đó là nh ững người trì hoãn. Họ vẫn tìm kiếm những giáo viên trông chắc chắn là gi ỏi. ?Tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên có những thế mạnh riêng và điểm yếu riêng c ủa mình. Đi ều quan trọng là những gì mà bạn học từ họ, chứ không phải là những gì mà b ạn không thể học từ họ. Thậm chí một người nói tiếng bản xứ sẽ có những điểm yếu riêng của mình trong việc dạy chính ngôn ngữ của họ. Ví dụ như, thỉnh thoảng, một người nói tiếng bản xứ có thể không hiểu rõ ràng tại sao một từ là dễ đối với cô ấy nhưng lại không dễ cho những học viên của mình. Bạn không cần một người giáo viên rất giỏi, nhưng bạn c ần m ột ti ến trình t ốt. Chỉ những người thông minh mới có thể học ngôn ngữ mới Điều thực tế là khi bạn gặp một người nào đó có thể nói được một hay nhiều hơn một ngoại ngữ, bạn cảm thấy rằng người đó là thông minh. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng học một ngôn ngữ mới sẽ làm nâng lên chỉ số IQ của bạn, điều này có nghĩa là học một ngoại ngữ sẽ làm cho bạn thông minh
- hơn, chứ không phải là bạn phải thông minh mới có th ể h ọc ngoại ng ữ. Đi ều khám phá này là thú vị phải không? Nếu bạn vẫn còn lo lắng về bạn thông minh bao nhiêu, những điều tìm thấy sau đây sẽ làm bạn thích thú. Nghiên cứu chỉ ra rằng bộ não của chúng ta chứa khoảng 30 t ỷ t ế bào. M ỗi l ần chúng ta hấp thụ hay phân tích thông tin, một kết nối mới được thiết l ập giữa những tế bào não. Những kết nối này có thể biến mất nhanh chóng hay có th ể giữ lại trong một thời gian dài dựa trên mức độ quan trọng của thông tin này đ ối với bạn. Không phải ở số lượng các tế bào quyết định mức độ thông minh của bạn, mà đó là số lượng các kết nối làm điều đó. Số lượng các kết nối gia tăng khi bộ não của bạn làm việc và giảm xuống khi nó ngừng suy nghĩ và ghi nh ớ mọi thứ. Nếu như bạn làm toán để đếm số lượng kết nối có th ể có, đó là đi ều không thể tưởng tượng nổi, nó dường như là vô hạn. Tony Buzan, một chuyên gia nghiên cứu bộ não nổi tiếng, ước tính rằng một người bình thường chỉ dùng khoảng tầm 3% đến 8% của năng lực của bộ não của mình. Trong khi những người thông minh có thể sử dụng chỉ 10% tiềm lực bộ não của họ. Điều này có nghĩa là không có vấn đề gì về việc chỉ số IQ của bạn là bao nhiêu vào lúc này, bạn có thể ở mức đâu đó khoảng 2% đ ến 10%. Nếu bạn trong một cuộc chạy marathon, đứng trước vạch một vài mét hay đứng sau vạch xuất phát không làm nên điều khác biệt gì l ớn, nh ưng s ự n ỗ l ực không ngừng của bạn mới là quan trọng. Có nhiều ch ỗ cho sự cải thi ện. N ếu đi ều này là đúng, câu hỏi tiếp theo của bạn sẽ là làm thế nào để bạn thông minh hơn? Tôi thường nghĩ rằng bộ não của chúng ta giống như một đĩa cứng của máy tính, đó là nếu như chúng ta nén chặt quá nhiều thông tin vào bên trong nó, một vài thông tin cũ sẽ bị thay thế bởi những thông tin mới đến và biến mất. Tôi th ấy rằng tôi đã sai. Sự thật là nếu như bạn thu thập nhiều thông tin hơn, kh ả năng nhớ của bạn sẽ tăng theo đó. Bạn có thể nhớ nhiều hơn và ở m ức đ ộ nhanh hơn. Ngược lại, nếu bạn suy nghĩ ít, khả năng suy nghĩ của bạn sẽ suy yếu dần.
- Bộ não của chúng ta có một cơ chế tương tự như cơ bắp của chúng ta. Nếu như tập luyện thường xuyên, cơ bắp của bạn sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, và ngược lại, nếu như bạn không luyện tập, những cơ bắp của bạn sẽ phát triển yếu đi. Những nghiên cứu khám phá những điều thú vị rằng khi chúng ta đối diện với một vấn đề và cố gắng để giải quyết nó, những kết nối mới lại xuất hiện trong bộ não giúp cho chúng ta thông minh lên tí chút. Nếu nh ư chúng ta ch ọn d ừng suy nghĩ, chúng ta trở thành kém thông minh đi một chút. Tôi có một người hàng xóm là một người tài xế lái xe taxi. Một l ần anh ta nói là anh ta không thích công việc của mình. Khi tôi h ỏi anh ta t ại sao không thay đ ổi sang một công việc khác, anh ta khăng khăng rằng anh ta là một người người bỏ đi và rằng anh ta không thể làm thế nào để học bất kỳ điều gì mới. Một ngày nọ, khi chúng tôi cùng thưởng thức một buổi nhậu cùng nhau ở nhà anh ta, ch ờ đợi trước màn hình ti vi theo dõi trận đá banh bắt đầu, anh ta thách tôi ch ơi m ột ván cờ. Như bạn biết đó, tôi không tệ trong việc chơi cờ. Tôi thường đánh bại bố tôi và bạn của ông ấy khi tôi chỉ mới 11 tuổi. Vâng, hôm đó tôi thua 3 ván liên tục chỉ trong 15 phút! Khi tôi đang viết điều này, thì hình ảnh của ng ười hàng xóm của tôi bất thình lình nảy ra trong đầu mình và tôi t ự h ỏi: làm th ế nào m ột người chơi cờ giỏi lại có thể là một người bỏ đi! Nếu thỉnh thoảng bạn nghĩ rằng mình không thông minh, bạn nên nghĩ lại. Vâng, bạn có thể học một ngôn ngữ mới Tôi nghe một câu chuyện thú vị khi tôi tham dự một khoá h ọc với Brian Tracy, một người bạn nên đến nếu bạn muốn tìm kiếm thành công. Đó là v ề châu Phi nơi mà có nhiều voi và những người quản tượng. Một ngày nọ, một nhóm du khách đến để xem những người quản tượng huấn luyện những con voi c ủa họ. Họ ngạc nhiên khi thấy những người quản tượng chỉ dùng một dây thừng nhỏ để cột chân những con voi vào mọi lúc. Khi một người du khách đem nh ững câu
- hỏi của họ đến một người quản tượng làm việc gần đó, anh ta gi ải thích: “m ột con voi được cột bằng một sợi dây thừng nhỏ khi nó chỉ vừa mới sinh. Trong thời gian đầu, nó cố gắng chống cự để thoát khỏi. Nhưng tất cả những nỗ lực của nó chỉ mang lại một kết quả là những vết thương đau đớn ở trên chân nó; nó vẫn còn quá nhỏ để bứt được sợi dây đó. Sau một vài ngày cố gắng đ ể gi ải thoát, rốt cuộc nó từ bỏ. Thậm chí khi nó lớn lên thành một con vật trưởng thành và to lớn hơn, nó không bao giờ thực hiện cố gắng khác một lần nữa. Bất kỳ ai trong chúng ta đã từng phải chịu một thất bại dưới bất kỳ hình th ức nào khi chúng ta còn trẻ. Một thứ hạng tồi ở trường là một ví dụ. Những thất bại này có một tác động lên niềm tin về năng lực của chúng ta. Chúng lèo lái chúng ta làm ta suy nghĩ rằng ta không thể làm được một vài việc nhất định. Những nhà tâm lý học gọi đó là “niềm tin tự giới hạn bản thân”. Nh ư là tên nó đã gợi ý cho ta, bất kỳ điều gì bạn nghĩ là bạn không làm được, b ạn không th ể làm được. Tuy nhiên, đó không phải là sự thật; nó chỉ niềm tin. Điều duy nhất mà bạn cần là làm thế nào để thay đổi nó. Vâng, tôi mu ốn nói là thay đ ổi ni ềm tin của bạn! Vậy thì có khó để học một ngôn ngữ mới hay không? Tôi không thể trả lời nó nhưng tôi chắc chắn rằng học một ngôn ngữ mới là một kỹ năng, chứ không phải là một nghệ thuật. Một nghệ thuật, chẳng h ạn nh ư là h ội ho ạ, có th ể yêu cầu tài năng ở một vài mức độ, một kỹ năng thì không cần. Mọi người có th ể học một kỹ năng. Ví dụ như, nếu bạn không bao giờ thực hi ện ch ống đ ẩy, b ạn không thể làm được điều đó dù cho chỉ đến 10 lần. Nhưng nếu như bạn th ực hành nó đều đặn, trong vòng một tháng, bạn có thể làm điều đó t ừ 50-70 l ần, thậm chí là 100! Tuy nhiên, hình dung nếu tôi không nói với bạn điều này và nếu như bất thình lình bạn thấy ai đó làm nó 100 lần, bạn sẽ nghĩ rằng anh ta phải là đặc biệt, phải không? Nhiều người đã từng nghe tôi nói ti ếng Anh v ới giọng Mỹ đã giả định rằng tôi đã ở Mỹ nhiều năm. Khi tôi nói với h ọ rằng tôi ch ỉ h ọc
- ở Mỹ trong 6 tháng, họ nghĩ rằng tôi thật đặc biệt. Họ không biết rằng không lâu trước đây tôi vẫn chỉ là một người bình thường. Hầu hết những người không thành công trong việc học một ngôn ngữ mới bởi một lý do: họ không biết vòng tròn bí ẩn của bất kỳ một dự án nào. Vòng tròn bí ẩn này được diễn tả như hình bên dưới đây: Như bạn có thể nhận ra, hầu hết mọi người cho rằng sẽ không có thử thách hay không có thất bại trên cuộc hành trình của họ. Khi họ gặp phải nó, trong bước 2, họ nản chí, sự nhiệt tình và năng lượng cao của họ nhanh chóng đi xu ống. Một vài người qua đến bước 3 nơi mà họ thực hiện một vài điều chỉnh và thử lại lần nữa, nhưng họ từ bỏ sau khi gặp phải một thử thách khác. Một vài
- người khác đi đến bước 4 nơi mà họ đạt được thành công dưới vài hình thức. Nhưng sau đó, họ chỉ đơn giản là thoả mãn với những thứ mà họ đạt được và dừng thêm vào đó những nỗ lực. Chỉ những người mà đi đến bước cuối cùng sẽ đạt được mục tiêu của họ. Vòng tròn này không chỉ áp dụng cho việc học ngoại ngữ mà còn áp d ụng trong hầu hết các lĩnh vực. Nếu bạn đi qua tất cả các bước trên, b ạn có th ể ch ắc chắn học được bất kỳ ngôn ngữ nào. Và bạn có thể học nó nhanh với nh ững công cụ và những kỹ thuật mà tôi sẽ chia sẻ với bạn trong cuốn sách này. Bạn cần một số lượng đủ lớn những lý do để học Thỉnh thoảng, người ta không rõ ràng về việc tại sao họ cần ph ải h ọc ngôn ng ữ mà họ đang nhắm tới. Có lẽ, bạn học nó bởi vì những người bạn của bạn hay bố mẹ bạn kêu bạn phải làm thế. Có lẽ, bạn ch ỉ mu ốn thêm m ột ngôn ng ữ vào trong CV với niềm tin rằng nó sẽ làm nên vài sự khác biệt. Nhi ều chuyên gia làm việc trong những đất nước khác và nghĩ rằng họ nên học ngôn ngữ địa phương nơi họ sống. Dù bất kỳ lý do nào bạn có, một ngoại ngữ là những gì mà bạn không thể học nếu như bạn chưa có đủ mong muốn học nó. Những gì tôi khuyên bạn làm ngay lúc này là hãy rời quy ển sách c ủa b ạn, u ống một tách cà phê ở đâu đó và tự hỏi bản thân mình: tại sao tôi c ần ph ải h ọc ngôn ngữ này? Suy nghĩ thêm một chút về những gì mà b ạn mu ốn đạt đ ược trong tương lai. Nghĩ về những ước mơ của mình, mong ước và kế hoạch của bạn. Ngôn ngữ đứng ở vị trí nào trong kế hoạch của bạn? Bạn có thật sự cần thiết ngôn ngữ đó, và những lợi ích nào mà bạn sẽ có nếu như bạn thông thạo nó? Bộ não của bạn thật kỳ diệu, nhưng nó cần ph ải có đủ lý do t ốt đ ể th ực thi nh ững nhiệm vụ khó khăn. Nếu như bạn muốn nhanh chóng thành thạo ngôn ngữ mà bạn muốn học, hãy bắt đầu với một giấc mơ. Giây phút mà b ạn quy ết đ ịnh m ột
- ngôn ngữ không là một thứ có thể ngăn cản bạn làm cho ước mơ của mình trở thành sự thật, bạn dường như đã đi được một nửa cuộc hành trình. Chương 2 Nguyên lý Pareto và từ vựng cốt lõi “Học mà không nghĩ thì phí công, nghĩ mà không học thì gian nan vất vả.” Khổng tử Nếu như bạn đã quyết định (tôi hi vọng là bạn làm như th ế), xin chúc m ừng bạn! Tôi chưa từng thấy bất kỳ ai quyết định học một ngôn ngữ mà thất b ại. Trong chương này chúng ta gần như khám phá một trong những nhân tố quan trọng nhất mà quyết định có thể hay không bạn học một ngôn ng ữ mới trong mộ t thời gian ngắn. Khi đề cập đến ngôn ngữ, hầu hết mọi người đều đồng ý v ới tôi r ằng t ừ v ựng nằm ở vị trí đầu trong danh sách ưu tiên. Nếu không có từ vựng, b ạn ch ắc ch ắn rằng không thể nghe, nói hay viết. Bạn vẫn có thể giao tiếp mà không có ngữ pháp đúng hay với cách phát âm nghèo nàn. Nhưng bạn không th ể làm đi ều gì nếu không có từ vựng. Ngôn ngữ được tạo thành từ nh ững từ và cách mà nh ững từ đó đặt chung với nhau. Tuy nhiên, bạn có bao giờ tự hỏi: “bạn cần phải biết bao nhiêu từ để nói tốt?” không phải mọi người đều hỏi điều đó. Hầu hết mọi người chỉ mới bắt đầu mà không nhận ra mình phải đi bao xa và mất bao nhiêu thời gian đ ể đ ến đ ược cu ối con đường. Đó là không tốt khi bạn có một cuộc hành trình dài. B ạn s ẽ ch ắc chắn đến đích nếu như bạn có một bản đồ trong tay, hay là biết được đường mà bạn phải đi.
- Có xấp xỉ 600000 từ khác nhau trong tiếng Anh. Điều hình dung này thay đ ổi giữa các ngôn ngữ khoảng từ 400000 đến 1000000 hay thậm chí là h ơn. Hãy nhìn một chút vào một cuốn từ điển, bạn sẽ thấy rằng có trung bình kho ảng 300000 đến 400000 từ khác nhau. Bạn có thể đã học ngoại ngữ một vài lần cho đến nay. Tôi không biết bạn đã thu thập được bao nhiêu từ, nhưng tôi rất chắc ch ắn rằng s ố t ừ mà bạn đã h ọc lớn hơn nhiều số từ mà bạn có thể giữ lại được. Đó dường như là có một cái lỗ trong tâm trí bạn mà những từ mới cứ rò rỉ mất. Dù cho bạn có cố để thu nh ặt từ mới mỗi ngày, những gì giữ lại được dường như không làm nh ững nỗ l ực là xứng đáng. Với khoảng 600000-800000 từ khác nhau, thậm chí giả sử là b ạn học từ mới hằng ngày và bạn giữ lại khoảng 20 từ một ngày (đây không ph ải là một kết quả tệ chút nào!), kết quả là 7300 từ một năm (365x20). Bạn làm tính xem! Không may thay, cuộc sống không phải luôn là khó khăn! Những điều trên th ế giới chúng ta được sắp xếp bởi một nguyên lý thú vị được gọi là nguyên lý 80/20. Điều này được tìm ra bởi một nhà kinh tế học người Ý tên là Vilfredo Pareto. Đó là tại sao nó cũng được gọi là nguyên lý Pareto. Pareto nh ận ra rằng 80% vùng đất được sở hữu bởi 20% dân số. Ông ta cũng thấy rằng con số này là đúng trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ như: 20% dữ liệu đầu vào tạo ra 80% kết quả 20% những người lao động tạo ra 80% sản phẩm 20% khách hàng tạo ra 80% lợi nhuận 20% lỗi tạo ra 80% hư hỏng 20% tính năng tạo ra 80% hiệu quả Và vân vân Trong thực tế, tỉ lệ 80/20 là biểu tượng nhiều hơn là một con số chính xác. Trong nhiều trường hợp, nó có thể là 90/10 hay 95/5.
- Nguyên lý này trở nên nổi tiếng bởi vì cảm ơn đến những người có th ể quyết định những gì mà họ đặt những nỗ lực của mình vào (th ời gian, ti ền b ạc, tài nguyên…) nhằm để đạt nhiều kết quả hơn. Chỉ đơn giản là làm ít hơn và đ ạt được nhiều hơn. Có phải bạn không muốn mất ít thời gian đ ể đạt nhi ều k ết quả hơn trong việc học một ngôn ngữ mới? Điều tuyệt vời là nguyên lý Pareto cũng đúng trong việc học m ột ngôn ngữ m ới. Dù cho tổng số từ khác nhau trong tiếng Anh lên tới 600000, chỉ một phần nhỏ của con số đó được sử dụng trong đời sống hàng ngày ở Mỹ. Shakespear được biết đến là một tác giả người mà sử dụng một số lượng nhiều và rộng những từ và cụm từ trong những tác phẩm của mình. Nếu như bạn đã từng đọc ông ta, bạn sẽ thấy nhiều từ mà bạn có thể chưa bao giờ s ử dụng th ậm chí là nghĩ trong cuộc sống của bạn. Vâng, thống kê chỉ rằng ông ta sử dụng tổng cộng xấp xỉ khoảng 20000 từ khác nhau trong tất cả các tác phẩm của mình. Số từ mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hàng ngày thì nh ư th ế nào? T ừ đ ầu những năm 1930, George Zipf (1935) đã đưa một đề ngh ị có tính thuy ết ph ục v ề đặc tính phân phối thống kê của từ vựng, được biết đến rộng rãi nh ư là định luật Zipf. Ông ta nghiên cứu nhiều ngôn ngữ khác nhau, bao gồm tiếng Anh. Ông ta nhận thấy rằng mỗi từ có môt tần suất xuất hiện khác nhau. Trong tiếng Anh,
- từ “THE” ở đỉnh của tần suất với tỉ lệ là 7.5%, “OF” theo sau với 3.5%,và vân vân. Thật ngạc nhiên, chỉ 130 từ làm nên 50% của ngữ cảnh. Những nghiên cứu khác chỉ ra rằng người Mỹ sử dụng khoảng 2500 – 3000 từ phổ biến nhất trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tin tốt là 3000 từ ph ổ biến này dựng nên 95% của nội dung bất kỳ cuộc hội thoại nào, cu ộc g ọi đi ện tho ại, email hay thậm chí là sách hay báo. Nói theo cách khác, thay vì học tất cả 600000 từ khác nhau, b ạn ch ỉ c ần t ập trung vào 3000 từ phổ biến nhất nhưng vẫn hiểu được 95% của tất cả các cu ộc nói chuyện, email, báo và sách. Nếu như bạn lấy 3000 và chia cho 600000 kết quả là được 0.5%. Những từ này thuộc vào cái mà chúng ta g ọi là nhóm t ừ v ựng cốt lõi. Một vài nhà ngôn ngữ học tin rằng nhóm từ vựng cốt lõi nên ch ứa khoảng 4000 thay vì 3000 từ. Những người khác nghĩ rằng nó nên là 2000. Nhưng tôi tin là con số chính xác không quá quan trọng, b ởi vì đi ểm m ấu ch ốt ở đây là bạn sẽ có thể thành thạo trong giao tiếp bằng ngôn ngữ mới bằng cách tập trung vào nhóm từ vựng cốt lõi này. Một vài học viên của tôi cảm thấy một chút không thoải mái với nh ững g ợi ý này, khi họ muốn hiểu hoàn toàn 100% nội dung mà họ được tiếp cận. Họ
- không muốn mất 5% nội dung còn lại bằng cách hiểu chỉ 95%. Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý với họ. Tôi không nói là bạn nên hiểu chỉ 95% của ngôn ng ữ mà bạn học. Tôi nói về việc bạn nên tập trung vào đâu trước. Sau khi thành th ạo nhóm từ vựng cốt lõi và hiểu hầu hết ngôn ngữ, không ai có thể ngăn cản bạn khám phá sâu hơn để làm giàu thêm từ vựng của bạn. Tuy nhiên, nếu như tìm kiếm sự hoàn hảo từ khi sớm bắt đầu, bạn sẽ bị phân bố th ời gian và ngu ồn l ực của bạn trong một phạm vi rộng. không tập trung nỗ lực sẽ dẫn đến không có kết quả trong thời gian dài và làm bạn mệt mỏi. Từ xa xưa ở Trung Quốc, Tôn Tử, một nhà chiến lược nổi tiếng, nói về một kỹ thuật cho vi ệc lấy ít đánh b ại nhiều. Kỹ thuật này là tập trung tất cả những nỗ lực của mình vào một đi ểm yếu nhất của đối phương. Bạn nên sử dụng chiến thuật tương t ự cho vi ệc h ọc một ngôn ngữ mới. Một lý do khác nữa để cho bạn tập trung vào nhóm từ vựng cốt lõi là nhằm mục đích ghi nhớ và có thể sử dụng những từ vựng nhất định mà bạn sẽ phải tiếp cận với từ đó một vài lần. Nhiều nhà ngôn ngữ học tin rằng một ng ười sẽ c ần phải tiếp cận với một từ 5 đến 10 lần để thành th ạo nó. Đó là lý do t ại sao không phải là một ý tưởng tốt chút nào nếu như bạn làm loãng nh ững nỗ l ực của mình nhạt đi. Về cơ bản, hầu hết mỗi ngôn ngữ trên thế giới đi theo một khuôn mẫu chung theo cách là một phần trăm nhỏ của tổng cộng tất cả các từ làm nên nhóm từ vựng cốt lõi của bất kỳ ngôn ngữ cụ thể nào. Tuy nhiên, những ngôn ngữ khác nhau có thể có những số lượng tổng cộng những từ vựng dẫn tới kích cỡ của số lượng từ trong nhóm từ vựng cốt lõi khác nhau. Bên dưới là một sự minh hoạ của tần suất phân bổ của từ và nhóm từ vựng cốt lõi trong tiếng Nga (nguồn: www.how-to-learn-anylanguage.com).
- Kết quả là: 75 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 40% ngữ cảnh 200 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 50% ngữ cảnh 524 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 60% ngữ cảnh 1257 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 70% ngữ cảnh 2925 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 80% ngữ cảnh 7444 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 90% ngữ cảnh 13374 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 95% ngữ cảnh 25508 từ phổ biến nhất làm xuất hiện ở 99% ngữ cảnh Vâng, vậy là bạn đã có được bí mật đầu tiên về ti ến trình h ọc ngôn ng ữ th ứ hai của tôi. Tuy nhiên, tôi chỉ đề cập đến kích th ước của nhóm t ừ v ựng cốt lõi. Chúng ta không biết những từ đó ở ngoài kia là gì. Tốt, nếu nh ư bạn thực hi ện một sự tìm kiếm trên Internet hay tìm kiếm ở những sách dạy học ngôn ng ữ, bạn sẽ hiển nhiên tìm thấy những từ vựng thuộc nhóm từ vựng cốt lõi c ủa ngôn ngữ mà bạn muốn học. Trong trang www.wiktionary.org người ta thậm chí còn có danh sách tần suất xuất hiện của từ trong các ngôn ngữ khác nhau. Một người bạn của tôi thu thập được một danh sách 1500 từ vựng ph ổ bi ến nh ất
- trong tiếng Anh khi anh ta cố gắng tăng cường kỹ năng ti ếng Anh c ủa mình. Nếu như đây là lần đầu tiên bạn đang tìm kiếm m ột danh sách nh ư v ậy, có kh ả năng là bạn bị lôi cuốn học nó bằng cách đơn thuần là học thuộc lòng nó. Ồ, bạn có thể làm như thế nếu như bạn muốn. Nhưng tôi chắc chắn rằng nó s ẽ không có hiệu quả! Học thuộc lòng một danh sách những t ừ tách rời nó kh ỏi ngữ cảnh là một trong những phương pháp tệ nhất trong việc học một ngôn ngữ mới. Học thuộc được một từ không có nghĩa là bạn có th ể sử dụng được nó. Và khi một người bản xứ nói với bạn, bạn có thể không hiểu dù cho họ sử dụng chính những từ đó! Một số lượng những học viên học ngoại ngữ biết về s ự t ồn tại của nhóm từ vựng cốt lõi, nhưng họ không biết cách làm th ế nào đ ể khai thác nó một cách có hiệu quả. Họ không biết làm thế nào để tiếp cận nó một cách đúng đắn. Lý do chính là bạn cần thu nhận được một ngôn ng ữ, ch ứ không phải đơn thuần là học nó, và bạn tuy ệt đối không th ể h ọc thu ộc lòng m ột ngôn ngữ. Xin vui lòng đừng lo lắng một chút nào về ý niệm “thu đ ược” và “h ọc”, tôi sẽ giải thích chúng sau trong chương tiếp theo. Bây giờ xin vui lòng kiên nhẫn một ít, dường như tôi đang bị lan man trong chủ đề này. Ý tưởng này là r ất quan trọng nên tôi sẽ xin bạn chú tâm hoàn toàn vào quan điểm của tôi trước khi tôi giới thiệu với các bạn đến bước tiếp theo. Trong chương tiếp theo, tôi s ẽ ch ỉ dẫn cho bạn làm thế nào để thu được nhóm từ vựng cốt lõi của ngôn ngữ mà bạn đang học và làm thế nào để làm chủ nó một cách tự tin. Trước khi chuyển đến chương tiếp theo, tôi sẽ giới thiệu với các bạn một ý niệm về những gì tương tự như nhóm từ vựng cốt lõi – những cụm từ cốt lõi. Như tên của nó gợi ý cho ta, những cụm từ cốt lõi là nh ững cách ph ổ bi ến nh ất để đặt những từ lại chung với nhau. Nói cách khác, chúng là những câu và những cụm từ phổ biết nhất. Đây là lý do thứ hai tại sao không th ể h ọc m ột ngôn ngữ bằng cách chỉ học thuộc lòng danh sách những từ vựng cốt lõi c ủa nó. Lý do là đơn giản: bạn không thể nói một ngôn ngữ nếu b ạn ch ỉ bi ết nh ững t ừ
- nhưng không biết làm thế nào để đặt chúng cùng với nhau. Những cụm từ cốt lõi cũng là quan trọng như là những từ vựng cốt lõi. Chúng s ẽ giúp b ạn làm ch ủ được những kỹ năng nghe, nói và viết trong một ngôn ngữ mới nhanh h ơn b ằng cách nhận ra và làm chủ được cả cụm từ thay vì chỉ là những từ ngữ riêng lẻ. Hãy để tôi cho bạn một ví dụ: Trong tiếng Anh thường ngày, bạn có thể nói bình thường: “I’ll be right back”. Nó có nghĩa là bạn dường như đi đâu đó và s ẽ trở l ại trong th ời gian ng ắn. B ạn hiếm khi sử dụng những cách khác để diễn đạt ý kiến này khi bạn nói. Nếu một người học tiếng Anh cố học thuộc lòng những từ riêng lẻ và sau đó c ố g ắng nhớ làm thế nào để đặt chúng cùng với nhau, nó sẽ là không có hiệu quả nh ư khi học thuộc cả đoạn. Trong thực tế, điều dễ dàng để học thuộc lòng và gợi nhớ lại một đoạn dài hay một câu hơn là một từ đơn. Đi ều th ực t ế này đ ặc bi ệt đúng khi bạn phát triển kỹ năng nghe của mình bởi vì bạn sẽ chắc ch ắn nh ận ra và hiểu một đoạn dài tốt hơn là một từ đơn. Nó chỉ là giống như khi nghe một bài hát. Nếu như bạn chỉ chơi một vài nốt nhạc, bạn có th ể không nh ận ra đ ược đó là bài hát nào. Nhưng nhiệm vụ sẽ đơn giản hơn nhiều nếu như tôi ch ơi cả đoạn dài của giai điệu. Điều tương tự cũng xảy ra khi bạn nói. Nếu như bạn sử dụng nh ững cụm từ phổ biến khi bạn nói, những người bản xứ sẽ chắc chắn hiểu những gì b ạn muốn nói dù cho phát âm của bạn có thể thật sự không được tốt. Ví d ụ nh ư, nếu như tôi hỏi một người Mỹ rằng: “is your health good?” như là một lời nhận xét mở đầu, anh ta có thể không hiểu. Đó đơn giản b ởi vì người Mỹ không nói theo cách như vậy, dù cho câu đó đúng về khía cạnh ngữ pháp. Nói theo cách khác, những âm trong tình huống này không quen thuộc với họ trong ngữ cảnh nhất định. Tuy nhiên, nếu như tôi nói: “how are you?” hay là “how are you doing?” người ta sẽ hiểu ngay lập tức dù cho phát âm của tôi có tệ đi chăng nữa.
- Ngắn gọn, học theo cách mà người bản xứ nói; học những c ụm t ừ ph ổ bi ến và những câu mà họ dùng. Đó là cách nhanh nhất để giao ti ếp hi ệu qu ả b ằng ngôn ngữ mới. Tôi gọi đó là kỹ thuật “lấy chung cả gói”. Bây giờ, hãy chuy ển đ ến chương tiếp theo và khám phá ra làm cách nào bạn có th ể nhanh chóng h ấp th ụ nhóm từ vựng cốt lõi!
- Chương 3 Xây dựng một cơ chế hấp thu ngôn ngữ một cách tự nhiên “Hành trình ngàn dặm cũng chỉ khởi đầu với một bước chân” Lão Tử Trong chương trước, chúng ta nói về nguyên tắc 80/20. Bây giờ, bạn đã có một vài ý niệm về lượng công việc, nó không to lớn như bạn có thể đã nghĩ. Trong các trang sau, tôi sẽ trả lời những câu hỏi của bạn: làm thế nào để bạn học từ vựng? Bạn kiếm nhóm từ vựng cốt lõi đó ở đâu? Làm cách nào bạn tiếp cận chúng? Đây là câu trả lời của tôi: chúng ta sẽ xây dựng một cơ chế để bạn có thể thu nhận những từ vựng phổ biến trong nhóm từ vựng cốt lõi của ngôn ngữ bạn muốn học theo một cách tự nhiên. Nói cách khác, chúng ta sẽ xây dựng một hệ thống mà bạn có thể thu hút những từ vựng cốt lõi mà bạn được tiếp cận với chúng. Điều này nghe có vẻ cường điệu, phải không? Trước khi đi vào chi tiết của hệ thống đó, tôi xin giải thích một ít về cách mà bộ não của chúng ta học một ngôn ngữ, sự khác nhau giữa học và thu nhận, và ý tưởng của dữ liệu đầu vào và dữ liệu đầu ra. Bộ não chúng ta học một ngôn ngữ như thế nào? Trong cuốn sách Second Nature Brain Science and Human Knowledge, Gerald Elderman tác giả đoạt giải Nobel tiết lộ nhiều điều thú vị được tìm thấy về bộ não của con người. Một sự tiết lộ đặc biệt thú vị là cơ chế mà bộ não vận hành. Khi so sánh bộ não con người với máy tính, ông ta thấy rằng hai cái này làm việc theo cơ chế rất khác nhau. Không giống như máy tính, các t ế bào não c ủa chúng
- ta (neuron) vận hành bởi một cơ chế được ông ta gọi là “nhận biết kiểu mẫu” và “liên hệ” và không phải bằng logic. Mới bắt đầu, những ý tưởng này có lẽ làm bạn bối rối, chúng tất nhiên đã làm tôi bối rối. Bạn có thể suy nghĩ về “ nhận biết kiểu mẫu” và “liên hệ” như là cách mà bộ não bắt đầu vẽ nên một bản đồ mới khi bạn học một ngoại ng ữ mới. Những tín hiệu đầu vào bạn nhận được thông qua mắt bạn (đọc) và tai (nghe) kích thích những tế bào trong khu vực xử lý ngôn ngữ của b ộ não c ủa bạn. Khi bạn nhận tín hiệu vào một cách liên tục, các tín hi ệu l ặp đi l ặp l ại t ạo ra những “lằn” hay “dấu” trong vỏ não. Những tập hợp các lằn và các dấu này tạo nên thứ giống như một “bản đồ ngôn ngữ” trong bộ não bạn. Khi một người nói một ngôn ngữ mới một cách trôi chảy, điều này có nghĩa là “bản đồ ngôn ngữ” mới của anh ta được định hình rõ ràng. Ngay khi anh ta nghe hay đọc những gì thuộc về ngôn ngữ đó, bộ não của anh ta nhận biết những tín hiệu đi vào bằng cách “liên hệ” chúng với bản đồ trong não của anh ta. Cơ chế này giải thích một tình huống rất phổ biến trong trường h ợp một h ọc viên thất bại trong việc nghe được một từ hay một cụm từ nhât định trong khi nghe một bài nói tự nhiên. Khi anh ta nhìn lại bản ghi, anh ta ngạc nhiên thấy rằng anh ta hoàn toàn đã biết những từ hay cụm từ này trước đó. Nó làm nản lòng người học, là bởi vì anh ta khônghiểu rằng tại sao anh ta không thể nhận ra các từ hay cụm từ đó, cho dù anh ta đã h ọc nó. N ếu b ạn cũng ở trong trường hợp tương tự, bạn có thể hiển nhiên nghĩ: “nghe một ngoại ngữ là rất khó!” Trong hầu hết các trường hợp, vấn đề nằm bên cạnh dữ liệu đầu vào của bạn. Có hai lỗi phổ biến nhất đó là:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD