
549
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
ẢNH HƢỞNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
Bùi Văn Bằng,
Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt kinh tế , chính
trị, xã hội và có sức lan tỏa nhanh chóng đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam là “xương sống” của nền kinh tế c ng sẽ bị ảnh hưởng rất
lớn của cuộc cách mạng này: Công nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực yếu k m, chưa có
sự quan tâm đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Với số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt
Nam ngày càng tăng mạnh thì các doanh nghiệp này cần phải làm gì để để sớm khắc phục
những hạn chế còn tồn tại cố hữu nhằm tận dụng được các cơ hội mà cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đem lại.
Từ khóa: Công nghiệp 4.0; Doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nguồn nhân lực chất lượng cao.
INFLUENCE OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 ON SMALL AND MEDIUM
ENTERPRISES IN VIETNAM
Abstract:
The industrial revolution 4.0 is having a strong impact on all economic, political and
social aspects and to spreading rapidly to many countries around the world, including Vietnam.
Vietnamese small and medium enterprises are the "backbone" of the economy wich will also be
greatly affected by this revolution: Backward technology, poor quality of human resources, no
attention to the industrial revelution 4.0. With a growing number of small and medium
enterprises in Vietnam, what should these businesses do to overcome the inherent shortcomings
in order to take advantage of the opportunities that the Industrial Revolution 4.0 bring.
Key words: Industry 4.0; Small and medium enterprises; High quality human resources
1. Đặt vấn đề
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố trong cuộc họp báo về kết quả sơ bộ Tổng
điều tra kinh tế năm 2017 cho thấy:
―Tính đến 1/1/2017 cả nước có 518.000 doanh nghiệp thực tế đang tồn tại, tăng 176.000
doanh nghiệp và gấp 1,5 lần so với năm 2012; trong đó có 505.000 doanh nghiệp thực tế hoạt

550
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
động. Khối doanh nghiệp cũng thu hút 14 triệu lao động, tăng 28,5% so với năm 2012; trong đó
14 triệu lao động thuộc các doanh nghiệp thực tế hoạt động. Thời kỳ 2012-2017, bình quân hàng
năm số lượng doanh nghiệp tăng 8,7%, lao động tăng hơn 5%. Xét theo quy mô lao động, tính
đến thời điểm 1/1/2017 cả nước có hơn 10 nghìn doanh nghiệp lớn (tăng 29% so với năm 2012),
nhưng quy mô chỉ chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp, giảm so với 2,3% của năm 2012. Doanh
nghiệp vừa tăng 23,6%, doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và doanh nghiệp siêu nhỏ tăng tới 65,5%
và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp‖[9]. Điều này cũng cho thấy quy mô doanh nghiệp nhỏ và
vừa (DNNVV) đã tăng đáng kể so với năm 2012 và quy mô đang ngày càng nhỏ dần. Cùng với
đó, CIEM cho rằng điều kiện môi trường hạn chế đã dẫn đến việc DNNVV sử dụng nguồn lực
không hiệu quả [5].
2. Những vấn đề về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
2.1. Bối cảnh ra đời của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Lịch sử thế giới loài người đã diễn ra bốn cuộc cách mạng công nghiệp gắn liền với sự
phát triển của xã hội loài người (Hình 2.1).
Hình 2.1: Bốn cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử loài người
Nguồn:[8]
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được bắt đầu ở nước Anh vào cuối thế kỷ 18
đầu thế kỷ 19 đánh dấu sự chuyển đổi từ phát triển nông nghiệp sang phát triển công nghiệp,
trong đó sự ra đời và phát triển của động cơ hơi nước giữ vai trò trung tâm, là động lực của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
- Cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai lại được khởi xướng từ cuối thế kỷ 19, kéo dài
đến đầu thế kỷ 20, gắn liền với việc tăng trưởng mạnh những ngành công nghiệp sẵn có từ trước,
đồng thời mở rộng thêm những ngành mới như ngành điện, ngành thép, ngành dầu khí…. Việc

551
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
phát minh và đưa điện năng vào trong sản xuất là đòn bẩy cho sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ hai.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 diễn ra vào những năm 1970 với sự ra đời của sản
xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và Internet, tạo nên một thế giới kết nối. Đến cuối
thế kỷ 20, các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và số hóa cơ bản hoàn thành nhờ những thành
tựu khoa học công nghệ cao. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet… là những công
nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này.
- Kế thừa những thành tựu của ba cuộc cách mạng trên, cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư được ra đời từ những năm 2000 gọi là cuộc cách mạng số,. Bắt đầu năm 2013, một từ
khóa mới là ―Công nghiệp 4.0‖ bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo của chính phủ Đức đề
cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà
không cần sự tham gia của con người. Đây được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công
nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo
(AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa
toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh
mẽ trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng dụng
trong xã hội. Nhờ công nghệ AI, người máy làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học
hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở con người càng già càng yếu đi.
2.2. Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
- Có các kết hợp xảy ra giữa hệ thống ảo với thực thể
Công nghệ cảm biến mới, điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, kết hợp với Internet
of things đang thúc đẩy phát triển máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh. Trong
các Smart factory, máy móc, thiết bị sẽ được kết nối internet, đồng thời sẽ liên kết với nhau qua
một hệ thống chung trong toàn bộ quy trình sản xuất sản phẩm để từ đó đưa ra quyết định.
- Có tốc độ phát triển theo cấp số nhân
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ , không phát triển theo tốc độ
thông thường mà nó phát triển theo cấp số nhân. Những đột phá công nghệ diễn ra với tốc độ
nhanh đã tạo nên sự thay đổi lớn trong toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và đang tạo ra một thế
giới được số hóa, tự động hóa.
- Có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực và mọi nền kinh tế trên toàn thế giới
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thức đẩy các nước phát triển trên thế giới phát triển các
chương trình, các dự án khoa học mới nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh vốn có của mình. Hiện
nay, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của các nước phát triển
và có sực lan tỏa rộng rãi đến nhiều nước trên thế giới và nó đã và đang có những tác động lớn
về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường ở cấp toàn cầu trong khu vực và riêng từng
quốc gia.
- Đánh dấu sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo và đã tạo ra kỷ nguyên mới trong
công nghệ robot
Robot đã xuất hiện ở các lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã hội, và cả trong sản xuất, nó
đã thay thế con người tham gia vào quá trình sản xuất trong các nhà máy để nâng cao năng suất.

552
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Trí tuệ nhân tạo đang hiện diện xung quanh chúng ta trong các lĩnh vực như: giao thông, giáo
dục, kinh tế - tài chính. Trong những năm qua, con người nhờ vào sự việc gia tăng năng lực điện
toán đám mây và khối lượng dữ liệu lưu trữ đã đạt được những bước tiến quan trọng trong lĩnh
vực trí tuệ nhân tạo.
3. Những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
Việt Nam.
3.1. Những tồn tại, yếu kém của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong cuộc đua 4.0
- Chưa có sự quan tâm đến cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Theo Kết quả khảo sát (được thực hiện với 2.000 doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Doanh
nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội) cho thấy: ―có 85% doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm đến cuộc cách
mạng 4.0, trong đó, có 55% doanh nghiệp đánh giá cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác
động rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam; 23% đánh giá tác động bình thường; 11% đánh giá
không tác động lắm và 10% đánh giá không tác động; 6% không biết‖[6].
Tuy nhiên, trong số doanh nghiệp được khảo sát: ―có đến 79% cho biết họ chưa làm gì để
đón sóng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; 55% doanh nghiệp đang tìm hiểu, nghiên cứu, 19%
doanh nghiệp đã xây dựng kế hoạch, và chỉ có 12% doanh nghiệp đang triển khai‖ [6].
Điều này nói lên rằng, còn một bộ phận không nhỏ các DNNVV chưa ý thức được, hoặc
chưa quan tâm đến sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ,. Vì thế loại hình doanh nghiệp nay
chưa có bước chuẩn bị hữu ích để ứng phó với xu hướng biến đổi trên toàn cầu như hiện nay.
- Thiếu vốn để đổi mới
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế bởi nguồn vốn, tài nguyên, đất đai
và công nghệ. Sự hữu hạn về nguồn lực này đã cản trở các DNNVV trong việc đầu tư ứng dụng
khoa học, công nghệ, nhân lực, hệ thống quản trị… . Trong khi đó, hiện nay ở nước ta có khoảng
97% DNNVV với quy mô vốn chỉ từ 5-10 tỷ đồng, cùng với việc tiếp cận vốn vay từ ngân hàng
rất khó khăn (chỉ khoảng 70% DNNVV tiếp cận được vốn vay) nên nhiều doanh nghiệp muốn
đầu tư để đổi mới doanh nghiệp cũng khó hoặc chỉ ở mức thấp. Bên cạch đó, đa số doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam đang sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế kỷ XX,
trong đó 52% doanh đang sử dụng thiết bị lạc hậu, 38% doanh nghiệp sử dụng thiết bị trung
bình, chỉ 10% doanh nghiệp là sử dụng thiết bị hiện đại; Chi phí đầu tư đổi mới khoa học - công
nghệ của doanh nghiệp bình quân chiếm khoảng 0,3% doanh thu (ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là
10%, Nhật Bản là 50%) [4]. Điều này đã tạo ra khoảng cách phát triển giữa các doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Thậm trí khoảng cách này sẽ càng ngày càng xa hơn nếu doanh nghiệp Việt
Nam không có vốn để đỏi mới, theo kịp với tốc độ phát triển của khoa học công nghệ. Chính vì
thế, cần có cơ chế cho vay tài chính thông thoáng hơn để các DNNVV đổi mới công nghệ nhằm
giảm nhẹ nguy cơ bị tụt hậu trọng cuộc đua 4.0
- Hạ tầng và ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu k m
Công nghệ thông tin và điện tử viễn thông đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
việc hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng, chuyển đổi nhanh chóng để bắt
kịp cuộc các mạng công nghiệp 4.0. Bởi, trong xu thế hiện nay như trí tuệ nhân tạo, điện toán
đám mây, dữ liệu lớn, bảo mật thực tại ảo, internet vạn vật … chỉ chạy được trên những thiết bị

553
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
có kết nói Internet. Tuy nhiên ở Việt nam hiện nay mới có lĩnh vực hoạt động ngân hàng đi tiên
phong trong đầu tư kết cấu hạ tầng và có ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, còn phần lớn
các DNNVV thực sự chưa quan tâm. Theo năm 2016 của Cục Thương mại điện tử và Công nghệ
thông tin, có tới 32% doang nghiệp đã thiết lập quan hệ kinh tế với đối tác nước ngoài qua kênh
trực tuyến, 11% tham gia vào sàn thương mại điện tử và 49% doanh nghiệp có website [2].
Tuy nhiên, việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin cũng đang đặt ra cho các
DNNVV Việt Nam những hiểm họa khôn lường về an ninh mạng, an ninh thông tin, đặc biệt
trong bối cảnh mà các cuộc tấn công mạng ngày càng gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp.
Trong khi đó ở nước ta vấn đề bảo mật còn chưa được các DNNVV quan tâm. Điều này khiến
các thông tin về khách hàng, tài chính nội bộ, dự án sắp triển khai của các DNNVV dễ bị lộ và bị
đánh cắp, nếu dữ liệu này rơi vào tay các đối thủ cạch tranh thì các DNNVV sẽ bị thiệt hại rất
lớn so với số tiền bỏ ra để xây dựng hệ thống bảo mật.
- Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
Để áp dụng được các ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
đòi hỏi các DNNVV phải có nguồn nhân lực với kỹ năng và trình độ, kiến thức về công nghệ ở
mức cao. Thứ trưởng Cao Quốc Hưng - Bộ Công Thương khẳng định “với quy mô của một nền
kinh tế có trên 700.000 doanh nghiệp, cùng với đó là hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, để đào
tạo nhân lực có kỹ năng số cho khối này đòi hỏi một nỗ lực vô cùng to lớn của nhiều chủ thể
cùng tham gia. Chúng ta cần huy động tổng lực nhiều nguồn lực xã hội hóa để đạt được mục
tiêu tổng thể, vừa đảm bảo đào tạo được cho số lượng lớn người học, vừa đảm bảo được chất
lượng đầu ra cho nhóm này”. Chương trình Bệ Phóng Việt Nam Digital 4.0 được khởi động tại
Việt Nam vào tháng 6/2018 và đã tổ chức các khóa đào tạo cho gần 85.000 người hoạt động
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến tháng 8/2019, Bộ Công Thương và Google đã chính
thức thiết lập quan hệ chiến lược để mở rộng chương trình Bệ Phóng Việt Nam Digital 4.0
(Accelerate Vietnam Digital 4.0), một sáng kiến của Google nhằm cung cấp các khóa đào tạo kỹ
năng số cho 500.000 người lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. [3].
Thực tế cho thấy, chất lượng Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay thiếu và yếu. Trong
CMCN 4.0, lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) được coi là nền tảng để phát triển. Thế nhưng,
Việt Nam luôn nằm ở nguy cơ thiếu hụt lớn về nhân lực CNTT. Báo cáo của Vietnamworks cho
biết, nhu cầu nhân sự ngành CNTT đang ở mức cao nhất trong lịch sử với gần 15.000 việc làm
được tuyển dụng trong năm 2016. Dự báo, so với nhu cầu tính đến cuối năm 2018, Việt Nam sẽ
thiếu khoảng 70.000 nhân lực về CNTT và đến năm 2020 dự báo thiếu khoảng 500.000 nhân lực
CNTT.[7].
3.2. Những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam được ví như ―xương sống‖ của nền kinh tế, đóng
góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh trên
các lĩnh vực kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, góp phần tích cực vào việc thúc
đẩy kinh tế - xã hội của đất nước. Sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động
và làm thay đổi rất nhiều yếu tố, phương pháp, quy trình tác nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Những ảnh hưởng của nó đã tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp nói