
308
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
ẢNH HƯỞNG CỦA ESG VÀ QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN LÊN HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP KHỐI ASEAN
Đỗ Vân Anh, Đào Thị Thanh Bình,
Đào Mai Hương, Hoàng Xuân Quỳnh,
Phan Thu Hương
Trường Đại học Hà Nội
Email: anhdv@hanu.edu.vn, binhdtt@hanu.edu.vn,
maihuong@hanu.edu.vn, quynhhx@hanu.edu.vn,
huongpt@hanu.edu.vn
Tóm tt: Nghiên cứu này tập trung vào xem xét tác động của chỉ số rủi ro ESG
(Môi trường, Xã hội và Quản trị) và quản trị lợi nhuận lên hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp trên dữ liệu của 337 công ty niêm yết trong khối ASEAN, đại diện là Thái Lan,
Philippines, Indonesia và Malaysia trong năm 2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối
tương quan cùng chiều giữa chỉ số rủi ro ESG và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Mối quan hệ cùng chiều này được khẳng định ở cả hai mô hình sử dụng hai thước đo hiệu
quả là ROA và ROE. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc quản trị lợi nhuận thực không tạo
ra kết quả hoạt động tốt hơn mà còn đi chệch khỏi các quyết định kinh doanh tối ưu của
doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động có thể sẽ đến trong dài hạn từ các hoạt động liên quan
ESG và cần được nghiên cứu qua các giai đoạn khác nhau để xác định ảnh hưởng của độ
trễ khi thực hiện ESG lên kết quả kinh doanh.
Từ khóa: ESG, quản trị lợi nhuận, hiệu quả hoạt động, ASEAN
1. Giới thiệu
Các vấn đề liên quan đến Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG) đã phát triển nhanh chóng
trong hai thập kỷ qua. Theo Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư Toàn cầu của Goldman Sachs (2022),
các chính sách ESG ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APAC) đã tăng gấp đôi trong 5 năm
qua, chiếm 20% chính sách ESG toàn cầu, tiếp theo là việc cải thiện công bố thông tin của công
ty về các vấn đề phát triển bền vững. Những phát triển chính sách quan trọng đang theo xu
hướng của Châu Âu về giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và sự gia tăng phát thải carbon cũng
như công bố ESG. Các doanh nghiệp trong khu vực cần phải đáp ứng các thách thức về thay
đổi chính sách này. Bên cạnh đó, áp lực từ các bên liên quan như chính phủ, người tiêu dùng,
khách hàng doanh nghiệp và nhà đầu tư yêu cầu các công ty phải có trách nhiệm với môi trường
và xã hội cũng như công bố hiệu quả hoạt động ESG của mình. Các mục tiêu, chiến lược và
quyết định của doanh nghiệp phải cân nhắc thực hiện các tiêu chí ESG đồng thời vẫn đảm bảo
hiệu quả về mặt tài chính doanh nghiệp.
Xu hướng này dẫn đến nhu cầu tất yếu về các công bố ESG. Tuy nhiên, việc thực hiện
các báo cáo về vấn đề phát triển bền vững không phải là bắt buộc ở hầu hết các quốc gia và
điều này dẫn đến câu hỏi về động cơ của các công ty khi thực hiện các báo cáo ESG. Việc công
bố ESG cũng có thể tuân theo các khuôn khổ khác nhau như Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI),

309
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
Lực lượng Đặc nhiệm về Công bố Tài chính liên quan đến Khí hậu (TCFD), Mục tiêu Phát triển
Bền vững (SDG) của WHO.
Sự không nhất quán trong các tiêu chuẩn báo cáo tạo cơ hội cho những công bố có khả
năng gây hiểu lầm và giúp doanh nghiệp thực hiện hành vi greenwashing - bao gồm một loạt
các hành động phóng đại và gi an dối về các “hoạt động xanh” của doanh nghiệp (Lokuwaduge
& cộng sự, 2022). Nhà quản trị, do đó, có thể sử dụng thông tin ESG như một công cụ để bảo
vệ mình khỏi sự cảnh giác của các bên liên quan và tạo ra hình ảnh tốt hơn về công ty trong mắt
công chúng. Công bố thông tin ESG được Morningstar sử dụng để tính toán chỉ số rủi ro ESG
nên chỉ số rủi ro ESG là kết quả của công bố ESG của doanh nghiệp.
Nếu việc tiết lộ ESG có thể được sử dụng bởi doanh nghiệp để đánh lừa các bên liên quan
về hiệu quả hoạt động phi tài chính thì các nhà quản lý doanh nghiệp cũng thực hiện các hành
động nhằm thao túng số liệu trong báo cáo tài chính để khiến chúng trông đẹp hơn. Điều này
được gọi là hành vi quản trị lợi nhuận (Earnings Management – EM). Cụ thể hơn, quản trị lợi
nhuận có thể được hiểu là việc các nhà quản trị sử dụng các phán đoán của mình để thay đổi
báo cáo tài chính nhằm đánh lừa về hiệu quả kinh tế của công ty cũng như ảnh hưởng đến những
kết quả có sự phụ thuộc vào số liệu kế toán được báo cáo (Healy & Wahlen, 1999). Mặc dù,
báo cáo tài chính phải tuân theo các tiêu chuẩn kế toán như US. GAAP và IFRS, các nhà quản
trị vẫn có thể sử dụng những xét đoán của mình trong quá trình lập báo cáo tài chính và thiết
kế các giao dịch kinh tế để bóp méo số liệu báo cáo. Do đó, sẽ có một mức độ thao túng thông
tin trong cả báo cáo tài chính và báo cáo ESG của doanh nghiệp nhằm cải thiện hiệu quả hoạt
động của công ty.
Theo một số nghiên cứu tổng quan được thực hiện bởi Khan (2022) và Jain & Tripathi
(2023), các quốc gia hàng đầu tiến hành nghiên cứu ESG chủ yếu là các quốc gia phát triển. Ở
châu Á đã có một số nghiên cứu về ESG ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia. Trong số
các nước châu Á, Ấn Độ là nước đóng góp nhiều nhất, với 27 bài báo (chiếm tổng cộng 3,11%)
trong Scopus tính đến năm 2023. Tương tự, nghiên cứu về Quản trị lợi nhuận cũng tập trung
vào các nước phát triển như Mỹ và các nước châu Âu. Một số nghiên cứu đã được thực hiện ở
các nước châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc hay Thái Lan (Habib & cộng sự, 2022).
Theo như tìm hiểu của nhóm tác giả, có ít các nghiên cứu về ESG, quản trị lợi nhuận và hiệu
quả doanh nghiệp được thực hiện dựa trên mẫu xuyên quốc gia.
Vì những lý do nêu trên, mục đích của nghiên cứu này là tìm ra mối quan hệ giữa chỉ số
rủi ro ESG, quản trị lợi nhuận và hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp khối ASEAN, đại
diện là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia. Nghiên cứu bao gồm các phần chính như
sau: Phần tổng quan tài liệu làm nền tảng cho việc xây dựng giả thuyết; phần phương pháp
nghiên cứu trình bày chi tiết về mẫu, thu thập dữ liệu, các biến và mô hình được sử dụng để
phân tích và phần cuối cùng là thảo luận kết quả.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Theo Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder Theory) do Freeman (1984) phát triển,
doanh nghiệp có thể được hiểu là tập hợp các mối quan hệ giữa tất cả các nhóm, bao gồm khách
hàng, nhà cung cấp, nhân viên, cổ đông, người nắm giữ trái phiếu,… có quyền lợi trong hoạt
động kinh doanh và vai trò của các nhà quản lý là thúc đẩy các mối quan hệ này nhằm tối đa

310
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
hóa giá trị của các bên liên quan. Như vậy, một tổ chức phải đáp ứng được mong đợi của các
bên liên quan khác nhau để tạo nên hiệu quả hoạt động bền vững và giá trị lâu dài cho công ty.
Điều này cũng thúc đẩy quan hệ công chúng tốt đẹp và mang lại danh tiếng của công ty. Do đó,
sự phát triển của công ty phụ thuộc vào sự hài lòng của tất cả các bên liên quan. Lý thuyết các
bên liên quan là nền tảng của nhiều nghiên cứu trong vấn đề Phát triển bền vững, Quản trị doanh
nghiệp, Trách nhiệm xã hội và Quản trị lợi nhuận. Các báo cáo tài chính và công bố ESG là
một trong những cách tổ chức truyền đạt hiệu quả hoạt động của mình tới các bên liên quan
khác nhau vì lợi ích của họ.
2.2. Nghiên cứu về công bố thông tin ESG và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
Nhiều nghiên cứu khác nhau trên khắp thế giới đã cố gắng xác định mối quan hệ giữa các
yếu tố ESG, riêng lẻ hoặc kết hợp, và hiệu quả tài chính doanh nghiệp. Trong một đánh giá
được thực hiện bởi Friede và đồng nghiệp (2015), đã có 60 nghiên cứu tổng quan với tổng số
3718 nghiên cứu cơ bản về mối quan hệ thực nghiệm giữa các tiêu chí ESG và hiệu quả hoạt
động của công ty. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào một hoặc hai khía cạnh của ESG
nhưng chưa tập trung nhiều vào việc tích hợp cả ba chiều E, S, G của khung. Mặc dù có một số
lượng lớn các nghiên cứu liên quan tới vấn đề này nhưng vẫn có những tranh luận về kết quả
không đồng nhất. Theo nghiên cứu của Friede, gần 50% tổng số nghiên cứu được phân tích tìm
thấy mối quan hệ tích cực giữa hiệu quả tài chính doanh nghiệp và các yếu tố ESG, 10% có mối
quan hệ ngược chiều và phần còn lại có kết quả trái chiều, không đồng nhất giữa các yếu tố về
Môi trường, Xã hội và Quản trị công ty.
Hầu hết các bài nghiên cứu gần đây và các nghiên cứu phân tích tổng hợp về lĩnh vực này
đều chứng minh mối quan hệ tích cực giữa hiệu quả tài chính của công ty và tiêu chí ESG. Theo
nghiên cứu của Chen & cộng sự (2023) trên mẫu gồm 3332 doanh nghiệp niêm yết trên toàn
thế giới (2011-2020), xếp hạng ESG có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp ở mức ý nghĩa 1%. Đáng chú ý là mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê đối với các công
ty có quy mô lớn và không có ý nghĩa thống kê đối với các công ty có quy mô nhỏ. Nghiên cứu
của Buallay và các cộng sự (2020) nghiên cứu mẫu 882 ngân hàng từ cả các nước phát triển và
đang phát triển trong giai đoạn 2008-2019, cho thấy mối quan hệ tích cực giữa điểm ESG và
thước đo hiệu quả hoạt động là ROA, ROE và Tobin's Q. Deng & cộng sự (2013), Eccles &
cộng sự (2013), Noronha & cộng sự (2018), Chong & cộng sự (2018), Arayssi và Jizi (2019) là
một trong những nghiên cứu cho thấy tác động tích cực của xếp hạng ESG đến hiệu quả tài
chính của công ty.
Trong một nghiên cứu phân tích tổng hợp do Khan (2022) thực hiện, xem xét khoảng 199
bài báo trên tạp chí Scopus về ESG từ năm 2012 đến năm 2020, cho thấy mối quan hệ thuận
chiều giữa ESG và hiệu quả tài chính, có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Việc xem xét 238 nghiên
cứu từ năm 2015 đến năm 2020 trong nghiên cứu tổng hợp của Ulrich Atz & cộng sự (2022)
bao gồm 29% nghiên cứu trên mẫu toàn cầu, 33% ở Hoa Kỳ và 25% ở Châu Âu, cũng tìm thấy
bằng chứng có ý nghĩa thống kê rằng tính bền vững dẫn đến hiệu quả tài chính tốt hơn.
Mặt khác, bài báo của Duque & Caracuel (2021), điều tra 104 công ty đa quốc gia ở
Brazil, Chile, Colombia, Mexico và Peru từ năm 2011 đến năm 2015, cho thấy mối quan hệ có
ý nghĩa thống kê giữa điểm ESG và hiệu quả hoạt động của công ty là tiêu cực. Kết quả tương
tự cũng được thấy trong Edi (2020) với cuộc điều tra 69 công ty niêm yết trên Bursa Malaysia
từ năm 2009 đến 2018.

311
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
Trong một nghiên cứu khác, Saygili & cộng sự (2021), phân tích tác động của việc công
bố thông tin ESG đến hiệu quả tài chính của công ty của các công ty niêm yết trên Chỉ số Quản
trị Doanh nghiệp Borsa Istanbul trong giai đoạn 2007 đến 2017, cho thấy nhiều kết quả khác
nhau. Phát hiện của họ chỉ ra rằng việc công bố thông tin về môi trường có tác động tiêu cực,
trong khi các khía cạnh liên quan đến xã hội và quản trị lại có tác động tích cực đáng kể đến
hiệu quả tài chính của doanh nghiệp nói chung. Atan & cộng sự (2016) cho thấy không có mối
quan hệ giữa mức độ công bố ESG và hiệu quả tài chính doanh nghiệp bằng cách sử dụng phân
tích nội dung của 100 công ty hàng đầu ở Malaysia và Đan Mạch năm 2013.
2.3. Nghiên cứu về quản trị lợi nhuận và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
Quản trị lợi nhuận có thể được định nghĩa là hành vi mà nhà quản trị “sử dụng những xét
đoán của mình trong quá trình lập báo cáo tài chính và thiết kế các giao dịch kinh tế để bóp méo
số liệu báo cáo nhằm làm cho các bên có liên quan hiểu sai về kết quả hoạt động kinh doanh
thực của công ty hoặc nhằm tác động đến kết quả của các hợp đồng dựa trên các số liệu báo
cáo” (Healy & Wahlen, 1999, p. 368). Động cơ để nhà quản trị thực hiện hành vi quản trị lợi
nhuận bao gồm tăng lợi nhuận để đạt mức chỉ tiêu đề ra trong hợp đồng thù lao của nhà quản
lý (Dechow & cộng sự, 1996), để đáp ứng yêu cầu cho vay vốn từ ngân hàng (Dechow & cộng
sự, 1995; Healy & Wahlen, 1999), để đạt được sự ổn định về lợi nhuận giữa các kỳ kế toán
nhằm thu hút đầu tư hoặc trước khi thực hiện các hoạt động phát hành cổ phiếu, giao dịch mua
bán, sáp nhập (Cohen & Zarowin, 2010).
Nhà quản lý có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau để điều chỉnh mức lợi nhuận báo cáo
của doanh nghiệp. Theo Roychowdhury (2006) các biện pháp này có thể được chia thành hai
nhóm: điều chỉnh lợi nhuận thông qua kế toán các khoản dồn tích (AEM) và điều chỉnh lợi
nhuận thông qua các giao dịch thực tế (REM). Trong khi AEM liên quan tới việc vận dụng các
phương pháp kế toán và ước tính kế toán để tăng, giảm các khoản dồn tích, REM là các hành
động quản lý cố ý đi lệch khỏi thực tiễn hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp,
được thực hiện với mục tiêu chính là đáp ứng mức lợi nhuận nhất định. Các biện pháp phổ biến
bao gồm thao túng doanh thu thông qua các khoản giảm giá hoặc điều khoản tín dụng ưu đãi,
điều chỉnh chi phí thông qua tăng sản lượng vượt mức thông thường để giảm giá vốn hàng bán
hoặc cắt giảm các khoản chi phí tùy ý như chi phí bán hàng, chi phí quản lý chung hoặc nghiên
cứu và phát triển sản phẩm.
Theo các nghiên cứu gần đây, các nhà quản lý có xu hướng sử dụng quản trị lợi nhuận
thông qua giao dịch thực tế nhiều hơn so với điều chỉnh các khoản dồn tích (Cohen & Zarowin,
2010; Dakhlallh & cộng sự, 2020; Graham & cộng sự, 2005; Zang, 2012). Kết quả từ một khảo
sát thực hiện bởi Graham & cộng sự (2005) chỉ ra rằng có đến 80% nhà quản lý tăng lợi nhuận
kế toán của doanh nghiệp thông qua tiến hành các giao dịch thực tế. Có hai lý do chính dẫn tới
thực tế này: một là các nhà quản lý cho rằng REM dễ chấp nhận hơn về mặt đạo đức so với
AEM (Bruns & Merchant, 1990), hai là REM khó bị phát hiện hơn khi kiểm toán so với kế toán
các khoản dồn tích thông thường (Jiang & cộng sự, 2018).
Về tác động của hành vi quản trị lợi nhuận thông qua giao dịch thực tế, hay quản trị lợi
nhuận thực (REM) lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp, theo quan điểm của Roychowdhury
(2006) cho rằng các hành vi này của nhà quản lý đi lệch khỏi các quyết định kinh doanh tối ưu
nhằm đạt được mức lợi nhuận ngắn hạn sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả hoạt động lâu dài của
doanh nghiệp. Quan điểm này đã được kiểm chứng trong nhiều nghiên cứu về mối tương quan

312
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
giữa REM và kết quả hoạt động như các nghiên cứu của Dakhlallh & cộng sự (2020); Gill &
cộng sự (2013); Gunny (2010); Kumar & cộng sự (2021); Leggett & cộng sự (2009); Rahman
& Xiong (2021); Tabassum & cộng sự (2015).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Chỉ số rủi ro ESG
Chỉ số rủi ro ESG (ESG risk scores) của Sustainalytics (Morningstar) cung cấp những
hiểu biết rõ ràng về rủi ro ESG ở cấp doanh nghiệp bằng cách đo lường những rủi ro ESG không
được quản lý của tổ chức. Chỉ số rủi ro ESG đo lường các rủi ro không được quản lý của một
công ty đối với một loạt các vấn đề ESG được coi là quan trọng về mặt tài chính. Những rủi ro
không được quản lý này bao gồm cả những rủi ro không thể quản lý được, nằm ngoài khả năng
kiểm soát của các nhà quản lý công ty; và “khoảng trống quản lý” (management gap) - đề cập
đến mức độ rủi ro có thể quản lý được mà công ty có thể giải quyết nhưng vẫn chưa được quản
lý (Karoui & cộng sự, 2023).
Sustainalytics xếp hạng các công ty thành năm nhóm: nhóm rủi ro không đáng kể (điểm
tổng thể 0-9,99 điểm), nhóm rủi ro thấp (điểm tổng thể 10-19,99 điểm), nhóm rủi ro trung bình
(điểm tổng thể 20-29,99 điểm), nhóm rủi ro cao (điểm tổng thể 30-39,99 điểm), nhóm rủi ro rất
cao (tổng điểm từ 40 điểm trở lên). Ví dụ: một công ty có chỉ số rủi ro ESG từ 0 đến 9,99 được
nhận định là các yếu tố ESG gây ra rủi ro không đáng kể lên các hoạt động tài chính trọng yếu.
Do đó, chỉ số rủi ro ESG của một công ty càng cao (ví dụ tầm 30 điểm) thì rủi ro ESG không
được quản lý của công ty đó càng cao.
3.2. Đo lường mức độ quản trị lợi nhuận thực
Để đo lường mức độ quản trị lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua giao dịch thực tế
(REM), nghiên cứu sử dụng mô hình của Roychowdhury (2006); trong đó, doanh nghiệp thay
đổi mức lợi nhuận bằng cách tăng sản lượng để giảm giá vốn hàng bán và cắt giảm các khoản
chi tiêu tùy ý. Mô hình này được ứng dụng trong nhiều nghiên cứu về quản trị lợi nhuận thực
để nhận diện và đánh giá mức độ của hành vi này tại doanh nghiệp (Leggett & cộng sự, 2009;
Nguyễn Thu Hằng & Nguyễn Mạnh Hiệp, 2016; Nguyễn Vĩnh Khương & cộng sự, 2019;
Almasarwah & cộng sự, 2021; Kumar & cộng sự, 2021; Lim & Mali, 2023).
Mức độ quản trị lợi nhuận thông qua hình thức tăng sản lượng được đo bằng mức chi phí
sản xuất bất thường, là phần dư của mô hình sau:
𝑃𝑅𝑂𝐷𝑖𝑡
𝐴𝑖𝑡−1
= 𝛽0+ 𝛽1
1
𝐴𝑖𝑡−1
+ 𝛽2
𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡
𝐴𝑖𝑡−1
+ 𝛽3
∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡
𝐴𝑖𝑡−1
+ 𝛽4
∆𝑆𝑎𝑙𝑒𝑠𝑖𝑡−1
𝐴𝑖𝑡−1
+ 𝛾𝑖𝑡 (1)
Trong đó:
PRODit: Tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp i tại năm t tính bằng tổng giá vốn hàng
bán cộng với sự thay đổi của hàng tồn kho thuần cuối kỳ so với đầu kỳ
Ait-1: Tổng tài sản của doanh nghiệp i tại năm t-1
Salesit : Doanh thu thuần của doanh nghiệp i tại năm t
∆Salesit: Thay đổi doanh thu của năm t so với năm t-1
∆Salesit-1: Thay đổi doanh thu của năm t-1 so với năm t-2
γit = RMPRODit: Chi phí sản xuất bất thường của doanh nghiệp i tại năm t