3 lần khủng hoảng và 3 lần chuyển vị thế của Việt Nam
35 năm sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam đã gặp và
vượt qua 3 cuộc khủng hoảng, và cũng đã 3 lần chuyển vị
thế.
Cuc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ nhất
Cuc khủng hoảng thứ nhất tiềm ẩn từ cuối thập kỷ 70,
bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài đến đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt -
cả 4 đỉnh của “tứ giác mục tiêu” - đều bị “lùn” xuống:
- Tăng trưởng kinh tế thp, có những năm còn bị “tăng
trưởng âm”. Bình quân thời kỳ 1977-1980, GDP chỉ tăng
0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm
1,4%) - thấp xa so với tốc độ tăng 2,31%/năm- làm cho
GDP bình quân đầu người bị sụt giảm (giảm 1,87%/năm).
- Lạm phát phi mãkéo dài. Lạm phát ngầm đã diễn ra t
cuối những năm 70, đầu những năm 80 khi chênh lệch giữa
giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị trường càng
rõ khi phân phối thì bao cấp hiện vật, ngân hàng thì không
theo nguyên tắc lấy vay để cho vay, ngân sách thì không
theo nguyên tắc lấy thu để chi, nên để bù đắp bội chi tiền
mặt, bội chi ngân sách đã phải in tiền; lại gặp sai lầm khi
cải cách “giá-lương-tiền” năm 1985, đã làm cho siêu lạm
phát xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với
mức 3, rồi 2 chữ số cho đến đầu thập kỷ 90.
- Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, khi sản
xuất trong nước chỉ đáp ứng 80-90% sử dụng trong nước,
chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không
đủ tiêu dùng - tức là toàn bộ quá trình tích lũy và một phần
qu tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước ngoài.
- Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7% tổng số lao động. Do
quy mô sản xuất thấp và giảm, dân số tăng nhanh, nên GDP
bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ
có 86 USD, nằm trong vài ba chục nước có GDP bình quân
đầu người thấp nhất thế giới.
Nhđổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ,
dầu thô khai thác và xuất khẩu,... Việt Nam đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hi, bước vào giai đoạn ổn định và
phát triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã
cao gấp hơn hai lần của thời kỳ 1977-1991 (8,77%/năm so
với 4,07%/năm).
Lạm phát của thời kỳ này cũng đã gim mạnh so với thời
k 1986-1991 (bình quân năm là 9,5% so với 180,2%). Tỷ
lệ thất nghiệp đã giảm từ 2 chữ số xuống còn một chữ số;
đến năm 1996 còn 5,88%. Mất cân đối cán cân thương mại
giảm dần và đến 1992, lần đầu tiên đã xuất siêu nhẹ. GDP
bình quân đầu người tính bằng USD năm 1997 đạt 361
USD, cao gấp gần 4,2 ln năm 1988.
Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang
nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị bao vây, cấm vận
sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993
đến 1997, lượng vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải
ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991-1996 thu hút 27,8 t
USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao
gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực
hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về nước từ
1993 đến 1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,...
Cuc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ hai
Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Cuộc
khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quc,
Indonesia,...
Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam đang ở mức cao trong thời kỳ 1995-1997, thì đến
năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt trên
6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì năm 1997
còn gần 5,6 tỷ USD, năm 1998 còn gần 5,1 t USD, năm
1999 còn gần 2,6 tỷ USD.
Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức
3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%. Giá USD nếu năm 1995
giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm
1998 tăng 9,6%,... Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm
1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến năm 1998
chỉ còn 1,9%.
Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997
chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ
tăng 2,1%.
Do độ mở của kinh tế Việt Namc này chưa cao (xuất
khẩu so với GDP mới đạt 30%, đồng tiền chưa chuyển đổi),
do đã có dầu thô, gạo, xuất khẩu với khối lượng lớn, do có
sự chủ động ứng phó từ trong nước, nên Việt Nam đã
không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng
này và dần dần đã vượt qua. Tăng trưởng kinh tế cao dần
lên, bình quân thời kỳ 2000 - 2007 đã đạt 7,63%/năm.
GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt
843 USD, cao gấp gần 2,3 lần năm 1999. Bình quân năm
FDI nếu thời kỳ 1998 - 1999 vốn đăng ký chỉ có trên 3,8 t
USD thì thời kỳ 2000 - 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ USD và