ĐẠI H QU GI H N I
ƢỜ
DOÃN HẢ Ƣ
Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH
NH T BẢ (MA A) ỐI VỚI GIỚI TRẺ
VI T NAM – ƢỜNG HỢP ƢỜNG
THPT KHOA H C GIÁO DỤC
KHU VỰC H C – VI T NAM H C
i
ĐẠI H QU GI H N I
ƢỜ
DOÃN HẢ Ƣ
Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH
NH T BẢ (MA A) ỐI VỚI GIỚI TRẺ
VI T NAM – ƢỜNG HỢP ƢỜNG
THPT KHOA H C GIÁO DỤC
T NAM H C
M Ố Í ỂM
ƢỜ ƢỚ A
. Ũ M A
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ẦU
ƢƠ : TỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT ............................................. 1
1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa .............................................................. 1
1.2. Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản ........................................................ 3
1.3. Khái niệm truyện tranh Nhật Bản - Manga ....................................... 6
1.4. Những nghiên cứu trƣớc đó về truyện tranh Nhật Bản .................. 11
1.4.1. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản trên thế giới ............ 11
1.4.2. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản ở Việt Nam ............. 14
ƢƠ : TÌNH HÌNH TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA Ở
VI T NAM ..................................................................................................... 19
. . Manga đƣợc phổ biến trên thế giới ................................................... 19
. . Manga đƣợc phổ biến ở Việt Nam .................................................... 21
.3. iao lƣu văn hóa hật Bản ở Việt Nam thông qua truyện tranh .. 27
ƢƠ 3: NHỮNG Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH NH T
BẢ MA A ẾN GIỚI TRẺ VI T NAM HI N NAY ........................ 32
3. . ặc điểm của địa b n v đối tƣợng nghiên cứu ............................... 32
3.2. Kết quả điều tra................................................................................... 32
3.2.1. Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội ........ 33
3.2.2. Cảm nhận về truyện tranh manga ................................................... 36
3.2.3. Hình thức và phương thức đọc manga ............................................ 38
3.2.4. Thời gian dành cho việc đọc manga ............................................... 39
3.2.5. Địa điểm đọc truyện tranh manga ................................................... 41
3.2.6. Yếu tố ảnh hưởng đến việc mua manga ......................................... 42
3.2.7. Thói quen mua truyện tranh manga ................................................ 44
3.2.8. Xu hướng đọc truyện ...................................................................... 47
3.2.9. Thái độ gia đình đối với việc đọc manga........................................ 52
3.2.10. Những điều học được từ manga .................................................... 53
3.2.11. Những khía cạnh manga ảnh hưởng đến người đọc ..................... 56
3.2.11.1. Giao tiếp ................................................................................. 56
3.2.11.2. Hành vi .................................................................................... 58
3.2.11.3. Ngôn ngữ ................................................................................ 59
3.2.11.4. Học tập .................................................................................... 61
3.2.12. Sự quan tâm đến những loại hình văn hóa Nhật Bản khác ngoài
manga ........................................................................................................ 62
3.2.13. Sự liên hệ giữa manga và Nhật Bản ............................................. 63
ƢƠ 4 : KẾT LU N ........................................................................... 68
4.1. Kết luận ................................................................................................ 68
4.2. Khuyến nghị ......................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO ..................................................... 72
PHỤ LỤC 1 .................................................................................................... 75
PHỤ LỤC 2 .................................................................................................... 78
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội ....... 33
Bảng 3.2: để ý độ tuổi quy định được ghi trên mặt sau của quyển truyện tranh
......................................................................................................................... 44
Bảng 3.3: hú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc ...................................... 47
Bảng 3.4: bạn có đọc thể loại truyện tranh khác không? ................................ 50
Bảng 3.5: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không? ............... 53
Bảng 3.6: Bài học rút ra từ việc đọc truyện tranh ........................................... 54
Bảng 3.7: bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu khác
của Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?” ...................................... 62
Bảng 3.8: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản
không? ............................................................................................................. 65
Bảng 3.9: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện tranh
không? ........................................................................................................................... 65
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1: Độ tuổi khảo sát của luận văn ......................................................... 33 Hình 3.2: Độ tuổi lần đầu tiên đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội . 34 Hình 3.3: Lí do không đọc truyện tranh manga nữa ....................................... 35 Hình 3.4: Số lượng người đã từng mua truyện ............................................... 36 Hình 3.5: Cảm nhận về truyện tranh manga ................................................... 37 Hình 3.6: Hình thức đọc truyện tranh manga .................................................. 38 Hình 3.7: Phương thức đọc truyện tranh manga ............................................. 39 Hình 3.8: Khoảng thời dành để đọc truyện tranh manga ................................ 40 Hình 3.9: Thời gian để đọc truyện tranh manga ............................................. 41 Hình 3.10: Địa điểm đọc truyện tranh manga ................................................. 42 Hình 3.11: Lí do chọn mua một quyển truyện tranh manga ........................... 43 Hình 3.12: Người mua truyện tranh ................................................................ 44 Hình 3.13: Số lượng truyện tranh manga sở hữu ............................................ 45 Hình 3.14: Số tiền dành để mua truyện tranh manga ...................................... 46 Hình 3.15: thể loại truyện tranh manga thường đọc ....................................... 48 Hình 3.16: Chủ đề truyện tranh manga yêu thích ........................................... 49 Hình 3.17: Thể loại truyện tranh khác được yêu thích ................................... 50 Hình 3.18: Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ ...................................... 51 Hình 3.19: Thái độ gia đình đối với việc đọc manga ...................................... 52 Hình 3.20: cảm hứng từ việc đọc truyện tranh ............................................... 55 Hình 3.21: Giao tiếp tích cực .......................................................................... 56 Hình 3.22: Giao tiếp tiêu cực .......................................................................... 57 Hình 3.23: Hành vi tích cực ............................................................................ 58 Hình 3.24: Hành vi tiêu cực ............................................................................ 58 Hình 3.25: Ngôn ngữ tốt ................................................................................. 59 Hình 3.26: Ngôn ngữ xấu ................................................................................ 60 Hình 3.27: Học tập tốt ..................................................................................... 61 Hình 3.28: Học tập xấu ................................................................................... 61 Hình 3.29: Những loại hình văn hóa Nhật khác được quan tâm .................... 63 Hình 3.30: Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không? ............................... 64 Hình 3.31: Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh ............................ 66
LỜ AM A
Tôi xin cam đoan nội dung được trình bày trong luận văn là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của . . ũ
Minh Giang.
Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với
bất kì công trình nào đã được công bố.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn
Doãn Hải Thư
LỜI CẢM Ơ
Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến những người đã giúp đỡ tôi trong quá
trình viết luận văn. Nếu thiếu sự giúp đỡ và động viên của họ, tôi sẽ không thể
hoàn thiện luận văn này.
Đầu tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến các thầy cô của trường Đại học
Việt – Nhật đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện luận văn. Tôi muốn gửi
lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng
dẫn của tôi, GS. TSKH Vũ Minh Giang, đã giúp đỡ tôi trong quá trình làm
luận văn. Tôi không thể nào hoàn thành luận văn nếu thiếu sự giúp đỡ và
những lời gợi ý của thầy.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến biên tập viên của nhà xuất bản
Kim Đồng đã cho phép tôi được phỏng vấn, thu nhận những thông tin hữu
ích. Tôi xin cảm ơn các em học sinh và thầy cô giáo của trường THPT Khoa
học Giáo dục đã tạo điều kiện gặp gỡ, khảo sát và cung cấp những thông tin, ý
kiến cần thiết để hoàn thành nghiên cứu này.Ngoài ra, tôi muốn gửi lời cảm
ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Những gợi ý và lời động viên chân thành của họ là những yếu tố đã thúc đẩy
tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn
Doãn Hải Thư
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BTV : Biên tập viên
NXB : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó giáo sư tiến sĩ
THPT : Trung học phổ thông
PHẦN MỞ ẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi những biên giới về mọi mặt giữa các
quốc gia ngày càng phai mờ, sức mạnh mềm càng khẳng định vai trò của
mình trong việc quảng bá hình ảnh của quốc gia với thế giới. Chiếm được
cảm tình và sự ủng hộ của quần chúng, và trong thế giới thông tin như hiện
nay, việc đó càng trở nên thiết yếu hơn. Những giá trị văn hóa trở thành sức
mạnh, bên cạnh những sức mạnh như kinh tế hay quân sự. Thông tin là sức
mạnh, và với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, việc truyền tải thông
tin đến đại chúng càng rộng rãi hơn. Bên cạnh việc quảng bá những giá trị văn
hóa, sức mạnh mềm được kì vọng sẽ mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu
các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài, từ đó tạo sức hút đối với những nước
khác. Mỗi quốc gia sẽ có cách thực hiện sức mạnh mềm khác nhau. Một trong
những phương tiện của sức mạnh mềm là ngoại giao văn hóa. Ngoại giao văn
hóa được hiểu cơ bản là hoạt động ngoại giao gắn liền với văn hóa. Nhìn từ
góc độ quan hệ quốc tế, ngoại giao văn hóa là “một hình thức ngoại giao
thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại
nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninh
và ảnh hưởng”. Ngoại giao văn hóa có thể bao gồm việc giới thiệu các thành
tựu khoa học kỹ thuật, nghệ thuật và khoa học xã hội của quốc gia và của các
nhóm quốc gia hoặc tổ chức quốc tế. Với sự nổi trội của xu hướng “đối thoại
thay cho đối đầu”, ngoại giao văn hóa được công nhận là một trong ba trụ cột
chính của hoạt động ngoại giao, với hai trụ cột còn lại là ngoại giao chính trị
và ngoại giao kinh tế. Mỗi nước sẽ có hình thức sử dụng kênh ngoại giao văn
hóa khác nhau. Ví dụ, đối với Mỹ, đó là hàng tiêu dùng được sản xuất hàng
loạt, phim ảnh, truyền hình, tạp chí âm nhạc và kể cả thương hiệu đồ ăn
nhanh, như McDonald, nhạc Pop, phim Hollywood... Đối với Hàn Quốc, đó là
công nghiệp điện ảnh và công nghiệp giải trí, với những chương trình truyền
hình, các phim truyền hình, quảng bá thần tượng cùng nhiều lĩnh vực khác.
Đối với Nhật Bản, ngoại giao văn hóa của quốc gia này được thể hiện trong
chính sách truyền bá và xuất khẩu truyện tranh (manga), hoạt hình (anime),
cùng những nhân vật truyện tranh, hoạt hình được yêu thích ra các quốc gia
trên thế giới.
Truyện tranh Nhật Bản, hay còn gọi là manga, là một sản phẩm văn hóa
tinh thần rất được ưa chuộng ở Nhật. Loại hình nghệ thuật này mang nhiều
đặc trưng trong cách thể hiện. Những nhân vật trong manga thường có tỉ lệ cơ
thể khác với người thật. Tùy từng họa sĩ mà một số truyện, nhân vật sẽ có
cách vẽ hoạt hình, vui nhộn hơn, và một số sẽ có cách vẽ giống với người thật
hơn. Đặc biệt, đôi mắt của nhân vật trong truyện tranh thường được vẽ to và
lấp lánh. Cách manga thể hiện nội dung truyện cũng rất đặc biệt. Chủ đề trong
các tác phẩm manga cũng có rất nhiều thể loại, như phiêu lưu, hành động, giả
tưởng, đời thường, cuộc sống học đường, thể thao, hài hước và nhiều thể loại
khác. Tại quê nhà, truyện tranh Nhật Bản được mọi tầng lớp trong xã hội yêu
thích. Từ những trẻ em bé đến người già, cả nam cả nữ, độc giả manga rất đa
dạng. Manga được bày bán ở mọi nơi, từ những hiệu sách đến sạp báo, ở ga
tàu hay cả trong cửa hàng tiện lợi. Manga là một phương tiện giải trí tốt, giúp
người đọc giải tỏa áp lực và cũng mang đến một số bài học có ý nghĩa. Đây
cũng là một hình thức giải trí được nhiều người dân Nhật Bản lựa chọn vì nó
cho phép người đọc giải tỏa căng thẳng nhưng không làm phiền đến xung
quanh, một phương pháp giải trí im lặng. Ngành công nghiệp truyện tranh
cũng là một trong những ngành công nghiệp lớn của Nhật Bản. Vào những
năm đầu thập niên 1990, khi nền kinh tế Nhật Bản bị khủng hoàng, manga và
anime (truyện tranh và phim hoạt hình) lại trở thành chủ đề văn hóa. Theo số
liệu thống kê từ Viện nghiên cứu và Xuất bản Nhật Bản, vào năm 2008, qui
mô thị trường nội địa của ngành công nghiệp truyện tranh đã đạt 448 tỷ yên,
chiếm khoảng 40% thị trường in ấn (Hạ Thị Lan Phi, 2017). Ở Nhật Bản,
manga không chỉ đơn thuần là loại hình văn hóa giải trí đại chúng, phàn ảnh
những hiện tượng của xã hội đương thời, mà đã phát triển đến đỉnh cao nghệ
thuật, sánh ngang với văn học và nghệ thuật thị giác, có giá trị phê bình nghệ
thuật và nghiên cứu. Với sự pha trộn giữa văn hóa truyện thống và hiện đại,
giữa phong cách phương Đông và phương Tây, sự phong phú về nội dung, thể
loại và cách thể hiện, cùng công nghệ hiện đại đã khiến truyện tranh trở thành
loại hình văn hóa đặc sắc của Nhật Bản. Sự thành công của manga và các
ngành công nghiệp văn hóa giải trí khác đã trở thành kì vọng vực dậy nền
kinh tế, đưa Nhật Bản thoát khỏi khủng hoảng.
Nhờ thành công của mình, truyện tranh Nhật Bản đã được lựa chọn là
một trong những công cụ ngoại giao văn hóa để nước Nhật quảng bá hình ảnh
và lan tỏa sự ảnh hưởng ra thế giới. Truyện tranh Nhật Bản đã được xuất
khẩu đến nhiều nước trên thế giới và nhanh chóng nhận được sự chú ý.
Những tựa truyện nổi tiếng được nhiều người trẻ biết là Doraemon, Sailor
Moon, Crayon Shinchan, Dragon Ball và nhiều đầu truyện khác. Ở những
nước châu Á, do vị trí gần nên sức lan tỏa của truyện tranh Nhật Bản ở những
quốc gia này nhanh hơn ở những nước phương Tây. Trong một thời gian,
truyện tranh Nhật Bản đã trở thành một hiện tượng ở các quốc gia châu Á và
được đông đảo người đọc đón nhận. Việt Nam cũng không phải một ngoại lệ.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được hình thành từ lâu
trong lịch sử. Mối quan hệ này bắt đầu vào thế kỉ XVI, khi những nhà buôn
người Nhật tìm đến Việt Nam để buôn bán. Trong lịch sử, mối quan hệ giữa
hai nước không phải lúc nào cũng tốt đẹp, có một khoảng thời gian đã bị gián
đoạn, nhưng cả hai nước đã bình thường hóa quan hệ sau khi Việt Nam thực
hiện chính sách mở cửa. Vào năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản lập quan hệ
ngoại giao chính thức. Từ đó đến nay, mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đã
được mở rộng về mọi mặt. Nhiều sản phẩm, hàng hóa uy tín của Nhật như đồ
gia dụng, ô tô, xe máy, cùng các công nghệ, khoa học kĩ thuật đã có cơ hội
đến Việt Nam. Một trong những sản phẩm Nhật Bản du nhập vào Việt Nam
chính là truyện tranh Nhật Bản. Việc thành lập mối quan hệ ngoại giao chính
thức giữa hai nước đã giúp truyện tranh Nhật Bản có cơ hội đến Việt Nam.
Tuy nhiên, để trả lời chính xác câu hỏi truyện tranh Nhật Bản du nhập vào
Việt Nam từ khi nào thì rất khó. Có thể ước tính rằng truyện tranh Nhật Bản
đã xâm nhập vào Việt Nam được khoảng 20 năm.Truyện tranh Nhật Bản du
nhập vào Việt Nam thông qua hai con đường, con đường chính thức và không
chính thức. on đường chính thức là thông qua các nhà xuất bản uy tín.
Truyện tranh được mua bản quyền, dịch và xuất bản ở Việt Nam dưới sự cho
phép của nhà xuất bản bên phía Nhật Bản. Trái lại, con đường không chính
thức là thông qua nhập, dịch và in lậu. Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần VI thực hiện chính sách Đổi Mới vào năm 1986 đã tạo tiền đề cho
truyện tranh Nhật Bản được du nhập vào Việt Nam. Truyện tranh Nhật Bản
đóng vai trò như một công cụ ngoại giao không chính thức để người dân Việt
Nam có thể tiếp cận và biết đến văn hóa Nhật Bản. Một số tác phẩm kinh điển
đã được xuất bản từ lâu và trở thành một phần tuổi thơ của nhiều thế hệ.
Từ khi tiến vào thị trường Việt Nam, truyện tranh Nhật Bản được yêu
thích bởi nhiều thế hệ và ngày càng nhiều đầu sách mới được xuất bản. Khi
đến những nhà sách, truyện tranh luôn được dành một gian bán riêng. Trong
đó, có thể tìm thấy truyện tranh Nhật Bản (manga) chiếm đa số. Những đầu
truyện tranh được bán chủ yếu là những truyện nổi tiếng như Doraemon,
Dragon Ball (Bảy viên ngọc rồng), Detective Conan (Thám tử lừng danh
Conan), Sailor Moon (Thủy thủ mặt trăng) và một số tựa truyện khác. Ở
những hội sách lớn, không khó để tìm thấy những gian hàng bán truyện tranh.
Ở những tiệm sách cũ, truyện tranh manga cũng được bày bán nhiều. Không
những vậy, một số đầu truyện nổi tiếng còn được tái bản nhiều lần và dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trong những bộ truyện tranh Nhật Bản đã được
xuất bản, tựa truyện tranh quan trọng nhất có lẽ là Doraemon, được NXB Kim
Đồng mua bản quyền và xuất bản ở Việt Nam vào năm 1992. Sự xuất hiện
của bộ truyện này là dấu mốc quan trọng ở nhiều mặt, cả trong việc xuất bản
truyện thiếu nhi của NXB Kim Đồng cũng như mở đường cho nhiều đầu
truyện tranh Nhật Bản khác vào Việt Nam. Bộ truyện đã đưa nhà xuất bản
thoát khỏi bế tắc khi nền kinh tế bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường.
Ngoài ra, trong số những độc giả của truyện tranh, trẻ em và thanh thiếu niên
là những đối tượng chủ yếu. Bộ truyện Doraemon nói riêng và truyện tranh
Nhật Bản nói chung đã đem đến đam mê đọc truyện tranh cho nhiều thế hệ
thanh, thiếu niên, nhi đồng của Việt Nam. Đời sống văn hóa của lứa tuổi học
sinh đã trở nên phong phú và đa dạng hơn. Truyện tranh Nhật Bản đã ảnh
hưởng đến tư duy văn học, sáng tác truyện tranh, hình thành nhân sinh quan
và cách nhìn nhận thế giới của những người trẻ tuổi.
Sau hơn 20 năm hiện diện ở thị trường Việt Nam, thế hệ độc giả truyện
tranh cũng đã thay đổi. Cùng với đó, mối quan hệ giữa truyện tranh Nhật Bản
và độc giả cũng trở thành chủ đề tranh luận. Những ảnh hưởng của truyện
tranh đến quá trình phát triển của trẻ nhỏ và thanh thiếu niên là chủ đề rất
được quan tâm trên nhiều trên báo chí và mạng xã hội. Tuy nhiên, có một
điểm cần nhắc lại là manga đã xâm nhập và phát triển ở Việt Nam được hai
thập kỉ, điều này có nghĩa là thế hệ đọc truyện tranh đã có sự biến đổi. Mặc dù
thế hệ độc giả đã bước sang thế hệ thứ hai, nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho
rằng manga là loại hình ấn phẩm có ảnh hưởng tiêu cực đến lứa tuổi này vì
nhiều manga có bao hàm yếu tố giới tính và bạo lực. Bên cạnh đó, tại Việt
Nam, đa phần nghiên cứu quan tâm đến ảnh hưởng của truyện tranh đến đối
tượng là trẻ em mà ít quan tâm đến lứa tuổi lớn hơn. Với những yếu tố đó,
một số câu hỏi về thị trường xuất bản manga ở Việt Nam và bộ phận độc giả.
Đối với thị trường xuất bản truyện tranh,trải qua quá trình du nhập lâu dài như
vậy, truyện tranh Nhật Bản được xuất bản ở Việt Nam có chuyển biến gì
không? Thể loại được xuất bản ở Việt Nam sau hai thập kỉ có thay đổi không?
Hình thức xuất bản như thế nào so với trước kia? Về phía độc giả độc giả Việt
Nam, những thế hệ thứ hai đọc truyện tranh, loại ấn phẩm này được họ đón
nhận như thế nào? Mức độ quan tâm và yêu thích của độc giả đối với truyện
tranh Nhật Bản manga? Truyện tranh Nhật Bản manga có ảnh hưởng như thế
nào đến người đọc? Bên cạnh đó, với vai trò là một trong những công cụ của
ngoại giao văn hóa, truyện tranh manga có quảng bá hình ảnh Nhật Bản đến
độc giả Việt Nam không? Hình ảnh đất nước Nhật Bản hiện lên thế nào với
những độc giả truyện tranh? Truyện tranh Nhật Bản có phải một kênh văn
hóa giúp người Việt Nam tiếp cận và hiểu hơn về văn hóa Nhật Bản không?
Ngoài ra, truyện tranh Nhật Bản manga có đóng góp như thế nào vào mối
quan hệ Việt Nam – Nhật Bản và cả hai nước có thể thu được lợi ích gì thông
qua loại hình văn hóa này.
Với những lí do đó, luận văn lựa chọn tìm hiểu về ảnh hưởng của
truyện tranh Nhật Bản manga đến giới trẻ Việt Nam là đề tài nghiên cứu.
Luận văn hi vọng có thể tìm hiểu quá trình truyện tranh manga thâm nhập và
phát triển tại thị trường Việt Nam, những độc giả Việt Nam thế hệ mới đón
nhận loại hình văn hóa này ra sao, và hiểu hơn về ảnh hưởng của văn hóa
Nhật Bản. Đồng thời, nghiên cứu mong muốn có thể đóng góp vào sự phát
triển của quan hệ Nhật Bản và Việt Nam, và hai quốc gia có thể thấu hiểu
nhau hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu là tìm hiểu cách độc giả Việt Nam tiếp nhận
truyện tranh manga Nhật Bản, mức độ quan tâm, mức độ ảnh hưởng của
manga đến người trẻ Việt Nam. Nghiên cứu hi vọng làm rõ những lí do khiến
truyện tranh Nhật Bản được ưa chuộng ở Việt Nam và đưa ra những gợi ý để
phát triển hơn nữa giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật Bản. Ngoài ra, nghiên
cứu muốn tìm hiểu hình ảnh đất nước Nhật Bản hiện lên trong những người
đọc truyện tranh như thế nào và truyện tranh có ảnh hưởng đến cách người trẻ
nhìn nhận Nhật Bản hay không.
3. ối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng trong nghiên cứu này là những người trẻ Việt Nam, cụ thể là
thanh niên trong lứa tuổi 16 và 17 tuổi, hiện đang học lớp 10 và 11 tại trường
THPT Khoa học Giáo Dục. Nghiên cứu tập trung làm rõ những ảnh hưởng
của truyện tranh manga đến lứa tuổi này, mức độ quan tâm của họ với manga
và hình ảnh đất nước Nhật Bản thông qua truyện tranh Nhật Bản manga.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên địa bàn Hà Nội. Luận văn khảo sát ngẫu
nhiên 100 người để tìm hiểu tác động của truyện tranh tới giới trẻ hiện nay.
Khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 7 tháng 5 năm 2019
đến ngày 17 tháng 5 năm 2019.
Về nội dung, luận văn chỉ chú trọng vào truyện tranh Nhật Bản là
manga. Cần phân biệt rõ chủ thể được nghiên cứu là manga chứ không phải
Ehon, cũng là một thể loại sách tranh Nhật Bản. Ngoài ra, luận văn không tập
trung vào các loại hình văn hóa đại chúng Nhật Bản nào khác, như phim ảnh,
phim truyền hình, âm nhạc, hoạt hình, thời trang... Luận văn sử dụng luôn
thuật ngữ “manga” thay vì gọi là “truyện tranh Nhật Bản”. Manga đã vô cùng
phát triển, trở thành một thể loại thay vì chỉ đơn thuần được dịch là “truyện
tranh” trong tiếng Việt hay “comic” trong tiếng nh. Vì lí do đó, luận văn lựa
chọn gọi là manga để nói không chỉ nghĩa đen của từ mà bao hàm cả những
cách thể hiện trong loại nghệ thuật này.
5. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Luận văn chú trọng tìm hiểu những khía cạnh sau:
- Thực trạng đọc truyện tranh manga ở lứa thổi THPT. Luận văn tìm hiều
thái độ của học sinh THPT đối với truyện tranh, mức độ yêu thích, quan tâm,
nguồn đọc, thời gian đọc, thể loại truyện tranh thường được các học sinh phổ
thông tìm đọc, số tiền chi vào sở thích đọc truyện tranh và những yếu tố tác
động đến việc đọc và mua truyện tranh.
- Truyện tranh Nhật Bản manga có ảnh hưởng đến hành vi, giao tiếp,
ngôn ngữ và học tập của giới trẻ Việt Nam hiện nay?
- Phụ huynh có quan điểm như thế nào về việc con cái đọc truyện tranh?
- Độc giả nhìn nhận nước Nhật thông qua truyện tranh manga như thế nào?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những kết quả tốt nhất, luận văn sử dụng nhiều phương
pháp. Luận văn sử dụng bảng hỏi để điều tra, thu thập thông tin và những dữ
liệu cần thiết. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra mô tả, nhận xét và phân tích
thông qua những tài liệu, những nghiên cứu trước đó về chủ đề truyện tranh
Nhật Bản manga. Những tư liệu sử dụng trong luận văn bao gồm các công
trình nghiên cứu, bài báo tạp chí và sách về truyện tranh của những tác giả
trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu có tham khảo thêm những
sách và tư liệu về chính sách ngoại giao, ngoại giao văn hóa và sức mạnh
mềm (soft power). Những tài liệu dung để tham khảo được viết bằng tiếng
Việt và tiếng Anh. Ngoài ra, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình
huống (case study). Đầu tiên, luận văn sẽ thu thập và phân tích những tài liệu.
Tiếp theo, luận văn sử dụng bảng hỏi điều tra để thu thập những thông tin cần
thiết. Luận văn sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi. Đây là phương pháp
nghiên cứu chính được sử dụng. Số người được khảo sát là 100 người, hiện
đang học tập tại trường THPT Khoa học Giáo dục. Những đối tượng được
khảo sát ở độ tuổi 16 và 17. Địa bàn điều tra là thành phố Hà Nội. Ngoài ra,
luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn đề tìm hiểu hiện trang xuất bản
truyện tranh manga ở Việt Nam. Luận văn phỏng vấn 1 BTV nam, 28 tuổi,
hiện đang làm ở NXB Kim Đồng. Thông qua việc phỏng vấn, luận văn sẽ tìm
hiểu hiện trang, số liệu những đầu truyện tranh hiện đang được xuất bản ở
Việt Nam và doanh thu đạt được từ truyện tranh.
ƢƠ . ỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT
1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa
Ngoại giao văn hóa không còn là một khái niệm mới. Một số định
nghĩa đã được đưa ra để giải thích cụm từ này. Nhà nghiên cứu Simeo
Adebolu, thành viên Hiệp hội các nhà ngoại giao thương mại nh, định nghĩa
ngoại giao văn hóa là “là một hình thức ngoại giao nhấn mạnh tới sự thừa
nhận văn hóa và hiểu biết lẫn nhau như là một cơ sở của đối thoại.” Nhà
nghiên cứu Milton C. Cummings Jr thuộc Trung tâm nghệ thuật và văn hóa
Mỹ ở Washington cho rằng ngoại giao văn hóa là “sự giao lưu những tư
tưởng, trao đổi thông tin nghệ thuật, lối sống, hệ giá trị, truyền thống, tín
ngưỡng và các phương diện khác nhau của văn hóa nhằm thúc đẩy sự hiểu
biết lẫn nhau.” Bên cạnh đó, giáo sư Joseph S. Nye thuộc đại học Harvard,
đồng thời là nguyên trợ lý Thứ trưởng ngoại giao Mỹ từ năm 1977 đến năm
1979, nhận định ngoại giao văn hóa là “một ví dụ hàng đầu về sức mạnh mềm
hoặc khả năng thuyết phục thông qua văn hóa, giá trị và những tư tưởng trái
với sức mạnh cứng, tức là chinh phục hoặc cưỡng ép thông qua sức mạnh
quân sự.” Ở Việt Nam, một số định nghĩa đã được đưa ra để giải thích ngoại
giao văn hóa. Theo Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, ngoại giao văn
hóa là “một trong những trụ cột của ngoại giao chứ không phải là bộ phận của
văn hóa đối ngoại. Đó là việc thực hiện chính sách đối ngoại để đạt được mục
tiêu chính trị bằng công cụ văn hóa, biện pháp văn hóa. Trong đó các giá trị
văn hóa sẽ là chỗ dựa tinh thần bền vững cho các hoạt động ngoại giao, làm
áp lực đối với các đối tác để thực hiện có kết quả các chính sách chính trị,
kinh tế và văn hóa quốc gia.” Đối tượng của ngoại giao văn hóa là những chủ
thể quốc gia khác, chính phủ và người dân ở những quốc gia đó. Ngoại giao
văn hóa hướng đến quảng bá hình ảnh quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước,
dân tộc và không hướng tới mục đích lợi nhuận.Mục đích của ngoại giao văn
1
hóa là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế, nâng
cao vị thế, hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế và phục vụ cộng đồng người
Việt ở nước ngoài. Ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa là ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam1.
Ngoại giao văn hóa có ba vai trò chính, đó là chính trị, kinh tế và phát
huy bản sắc dân tộc. Về chính trị, vai trò của ngoại giao văn hóa có sự khác
biệt giữa các quốc gia. Đối với những nước lớn, ngoại giao văn hóa là phương
tiện để tăng tầm ảnh hưởng của mình với thế giới. Ví dụ, đối với Mỹ, mục
tiêu hàng đầu là “mở rộng những giá trị về dân chủ và nhân quyền trên khắp
thế giới nhằm tạo lập sự thống trị và ảnh hưởng rộng khắp”. Về kinh tế, ngoại
giao văn hóa góp phần thu hút đầu tư, phát triển du lịch và khai thác các
ngành công nghiệp văn hóa. Ở Hàn Quốc, thông qua phim ảnh, văn hóa Hàn
Quốc đã được đưa đến những đất nước trong vực, mang lại cho chính phủ và
quốc gia những khoản lợi nhuận lớn. Ở Singapore, chính phủ quảng bá văn
hóa gắn liền với phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài và lao động
nước ngoài có tay nghề làm việc tại nước này. Trong việc phát huy bản sắc
dân tộc, ngoại giao văn hóa không phải là một hoạt động một chiều mà là
tương tác có sự qua lại giữa các quốc gia. Sự trao đổi này sẽ khiến các quốc
gia tiếp nhận các giá trị và thành tựu văn hóa nổi bật của nhân loại, làm giàu
kho tàng văn hóa của đất nước, định hướng việc gìn giữ, phát huy và điều
chỉnh các giá trị văn hóa riêng cho phù hợp với dòng chảy phát triển chung của thế giới.2
Nhìn chung, ngoại giao văn hóa có thể được hiểu là một hoạt động
ngoại giao, sử dụng văn hóa làm phương tiện để đạt được những mục tiêu cơ
bản trong chính sách đối ngoại, quảng bá hình ảnh và văn hóa của đất nước,
(2016). Ngoại giao văn hóa
( ultural diplomacy). Truy xuất
từ
2 Phạm Thủy Tiên http://nghiencuuquocte.org/2016/01/23/ngoai-giao-van-hoa-cultural-diplomacy/
2
đồng thời góp phần vào việc gia tăng ảnh hưởng và củng cố an ninh. Ba yếu 1 Trần Thị Thu Hà (2012). Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại Ngữ 28 (2012) 185-193
tố chính ngoại giao văn hóa đóng góp là chính trị, kinh tế và phát huy bản sắc
dân tộc. Ngoại giao văn hóa hướng đến việc gây ảnh hưởng lên những chủ thể
quốc gia khác, chính phủ và người dân ở những quốc gia đó. Ngoại giao văn
hóa đã đem lại những lợi ích đáng kể cho quốc gia. Mỗi quốc gia và chính
phủ sẽ có cách sử dụng ngoại giao văn hóa khác nhau.
1.2. Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản
Khái niệm về sức mạnh mềm xuất hiện ở Nhật Bản vào những năm 90
của thế kỉ XX. Luận thuyết về sức mạnh mềm đã được chính phủ Nhật Bản
vận dụng sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Với mục đích cải thiện hình
ảnh, truyền thông điệp về một Nhật Bản yêu hòa bình, phát triển và thân
thiện, phương hướng chiến lược phát triển văn hóa của Nhật Bản đã xác định
và triển khai trên mọi khía cạnh, gồm những giá trị kinh tế, chính trị, ngoại
giao, giáo dục mang đặc trưng nền văn hóa Nhật Bản. hính sách văn hóa
Nhật Bảo được chia thành nhiều giai đoạn: giai đoạn trong những năm 1950 –
1960, giai đoạn 1960 – 1970, giai đoạn đầu những năm 1980 và giai đoạn từ
năm 1990 trở đi. Trong giai đoạn 1950 và 1960, Nhật Bản tập trung vào
quảng bá hình ảnh đất nước, thay đổi từ một nước quân phiệt trong chiến
tranh sang một đất nước vì hòa bình. Từ năm 1960 đến năm 1970, Nhật Bản
chú trọng vào hình ảnh một đất nước hòa bình, có nền kinh tế phát triển. Vào
đầu những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản đã lớn mạnh và có ảnh hưởng
toàn cầu, đối tượng trong chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản là các
quốc gia châu Á. Từ những năm 1990, Nhật Bản bắt đầu phát triển văn hóa
đại chúng (Pop Culture) với mục đích quảng bá hình ảnh, truyền tải “bản sắc Nhật Bản” sang các nước khác3. Có thể thấy rằng, trong giai đoạn đầu triển
khai, Nhật Bản muốn thay đổi hình ảnh của đất nước với toàn thế giới, chuyển
3Ngô Phương nh (2015). Chiến lược quảng bá sức mạnh mềm của Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp chí Lý luận chính trị điện tử số 9-2015.
3
từ một đất nước quân phiệt trong chiến tranh thành một nước hòa bình, có nền
kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế trong nước đã đủ mạnh mẽ, thay vì hướng
tới toàn cầu như trước, chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản hướng
đến những quốc gia lân cận, cụ thể là những nước châu Á. Với vị trí gần,
Nhật Bản sẽ quảng bá văn hóa, xuất khẩu những sản phẩm văn hóa đại chúng
một cách dễ dàng, từ đó sẽ thuận lợi cho việc lan tỏa rộng ảnh hưởng. Vào
năm 2004, khái niệm sức mạnh mềm đã chính thức được công nhận trong
“Sách Xanh” ngoại giao Nhật Bản. Ngoài ra, khái niệm “sức mạnh mềm”
được nhắc đến nhiều trong những cuộc bàn luận và văn bản hoạch định chính
sách của Chính phủ Nhật Bản. Một viện nghiên cứu mang tên “The Japan
Soft Power Research Institute” đã được thành lập ở Nhật Bản đề nghiên cứu
về sức mạnh mềm. Sức mạnh mềm cũng là chủ đề trong cuốn sách “Soft
Power Superpowers: Cultural and National Assets of Japan and the United
States” do hai tác giả Yasushi Watanabe và David L. Mc onnell đồng thực
hiện. Cuốn sách đã nghiên cứu những ưu điểm và khuyết điểm về sức mạnh
mềm của Nhật Bản và Hoa Kì. Có thể thấy rằng sức mạnh mềm của Nhật Bản
ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm từ những nghiên cứu trong nước lẫn
quốc tế.
Chính sách ngoại giao văn hóa được thể hiện trong chiến dịch “ ool
Japan”, với mục tiêu đẩy mạnh hình ảnh một “Nhật Bản thú vị”. Đây là chiến
dịch để Nhật Bản cải thiện, quảng bá hình ảnh của mình với những nước khác
và thúc đẩy kinh doanh thông qua việc xuất khẩu sản phẩm văn hóa ngoại
chúng ra nước ngoài. Thuật ngữ “ ool Japan” lần đầu xuất hiện thông qua một
bài báo của tác giả Douglas McGray đăng trên tờ Chính sách Ngoại giao vào
năm 2002. Bài báo đó mang tên "Japan's Gross National ool" (Tổng sản
lượng thú vị quốc gia của Nhật Bản). Trong bài viết của mình, McGray (2002)
đã chỉ ra những thành công Nhật Bản đạt được và trở thành một đất nước siêu
cường văn hóa thông qua những loại hình văn hóa đại chúng lan tỏa trên thế
4
giới, mặc cho những vấn đề kinh tế và chính trị gặp phải trong giai đoạn
đó.Chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản còn được thể hiện qua việc lựa
chọn những đại sứ văn hóa vào cuối những năm 1990 – đầu thế kỉ XXI. Những
đại sứ văn hóa trong giai đoạn này là những nhân vật manga được yêu thích
như Doraemon, Hello Kitty. thay thế những nghệ sĩ nổi tiếng để đảm nhiệm
việc quảng bá, giao lưu văn hóa đến các nước khác. Trong thời gian này, chính
sách ngoại giao của Nhật Bản đã chuyển đổi sang “hướng về hâu Á”. Thông
qua hình ảnh những nhân vật truyện tranh dễ thương, Nhật Bản hướng đến mục
tiêu tăng thiện cảm và hình ảnh đẹp đến các nước lân cận.
Đã có nhiều ý kiến được đưa ra để giải thích về tính hấp dẫn của các
sản phẩm văn hóa đại chúng Nhật Bản. Iwabuchi (2002) cho rằng các sản
phẩm Nhật Bản thu hút được khán giả toàn cầu là vì những sản phẩm đó
không còn nhiều thuộc tính Nhật. Bên cạnh đó, theo Leheny (2006), khán giả
ở các nước châu Á ít bị thu hút bởi đất nước Nhật Bản mà đa phần bị hấp dẫn
qua những hình ảnh hiện đại thể hiện trong các sản phẩm văn hóa của Nhật
Bản. Ngoài ra, khi bàn về “công cuộc quyến rũ” của Nhật Bản, Jung Sun
(2012) cho rằng công cuộc này diễn ra vì kinh tế Nhật Bản đang giảm sút,
quyền lực cứng về mặt kinh tế không vững chắc nên Nhật Bản khó có thể quảng bá bản thân như một hình mẫu4. Bên cạnh đó, Võ Thị Mai Thuận
(2012) chỉ ra rằng “ ool Japan” đã mở ra cái hình mới về Nhật Bản. “ ool
Japan” đã khiến người nước ngoài bị thu hút từ văn hóa Nhật đương thời là
manga và anime, cho đến môn đấu vật sumo [14, tr. 64]. Ngoài việc gián tiếp
mở rộng quan hệ của Nhật Bản với các nước ngoài, tính thiết thực của manga
và anime với quan hệ quốc tế Nhật Bản còn có một số hạn chế. Võ Thị Mai
Thuận (2012) cho rằng manga và anime có thể thu hút một số người nước
ngoài, tuy nhiên sự hấp dẫn của chúng hơi cường điệu, đặc biệt là với những
4 NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Lịch sử, văn hóa và ngoại giao văn hóa: sức sống của quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh mới của quốc tế và khu vực. tr. 203.
5
quốc gia châu Á bảo thủ. Ở những đất nước này, manga và anime được cho
rằng là sản phẩm dành cho người trưởng thành, có yếu tố bạo lực và dâm tục,
không phù hợp với đạo đức xã hội ở nước họ. Bên cạnh đó, những sản phẩm
này có thể hấp dẫn và là thứ giải trí hữu ích với một số người, nhưng một số
khác có thể thấy rằng chúng trẻ con và không thấy thích thú. Không những
vậy, trong thời đại toàn cầu hóa, người dân ở những quốc gia châu Á cũng
chịu ảnh hưởng bởi những sản phẩm văn hóa từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Mỹ và nhiều nước khác chứ không chỉ bị thu hút duy nhất bởi sản phẩm
của Nhật.
Tóm lại, khái niệm sức mạnh mềm bắt đầu được chính phủ Nhật Bản
chú ý vào những năm 90 của thế kỉ XX. Các loại hình văn hóa đại chúng Nhật
Bản từ lâu đã lan tỏa rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới và được yêu thích
ở rất nhiều nơi. Đến cuối thập niên 1990 – đầu thế kỉ XXI, khi chính sách
ngoại giao trong thời kì hiện nay đã chuyển sang “hướng về hâu Á”, những
quốc gia châu Á là những nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất. Mặc dù có nhiều ý
kiến cho rằng ngoại giao văn hóa đã đem về nhiều lợi ích, một số nghiên cứu
chỉ ra những mặt hạn chế của nó. Sự thu hút từ các loại hình văn hóa này
không phải từ chính bản thân văn hóa hay đất nước Nhật Bản mà từ hình ảnh
thể hiện trên những sản phẩm văn hóa. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức lôi
cuốn của các loại hình văn hóa Nhật Bản. Một trong những công cụ của ngoại
giao văn hóa là truyện tranh Nhật Bản, hay còn được gọi là manga.
1.3. Khái niệm truyện tranh Nhật Bản - Manga
Manga là một phần của văn hóa đại chúng. Văn hóa đại chúng (popular
culture) được PGS. TS Lương Hồng Quang định nghĩa “là một kiểu loại văn
hóa cần được chúng ta nghiên cứu sâu hơn bởi là sản phẩm của xã hội đô thị,
xã hội tiêu thụ, của quan niệm văn hóa là cái của đời sống hằng ngày thay vì
6
chỉ tất cả là tinh túy, cao siêu. Hiểu biết hơn về văn hóa đại chúng sẽ là nền
tảng lý luận cho chúng ta phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo”5. Thuật
ngữ “manga” được cho rằng sử dụng lần đầu vào những năm 1770 [22, tr.
20]. Đến thế kỉ 19, từ ngữ này trở nên thông dụng hơn và được dùng để chỉ
tranh khắc gỗ có chủ đề truyện tranh, như loạt tranh biếm họa khắc gỗ
(Hyakumenso) của họa sĩ Katsushika Hokusai. Yuichiro(2014) cũng có nhận
định tương tự . Cụm từ “manga” được họa sĩ Hokusai sử dụng vào năm 1814,
để đặt tên cuốn sách về tác phẩm của mình. Cuốn sách đó mang tên Hokusai
Manga. Quyển sách có 15 tập, tổng hợp gần 40.000 bức tranh về con người,
động vật, yêu quái, đời sống, phong tục và nhiều đề tài khác [15, tr. 22].
Từ ngữ “manga” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Về mặt
dịch thuật, “manga” được định nghĩa là vô tư, “những hình vẽ kì dị” và
“những bức tranh vẽ vì bản thân” [21, tr. 28]. Thêm vào đó, Schodt (1996)
miêu tả manga là sự kết hợp của nghệ thuật hội họa truyền thống của Nhật và
những yếu tố phương Tây [26, tr. 21]. Schodt (1996) nói rằng người Nhật Bản
đã gắn bó với hội họa từ lâu. Hội họa được thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, nổi tiếng nhất là những đường nét đơn sắc. Những tạp chí manga và
truyện có nguồn gốc từ thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 [26, tr. 22]. Cách các họa sĩ
vẽ trong manga hiện đại, với khung tranh và bong bóng thoại, là bị ảnh hưởng
từ những mẩu chuyện nhỏ trên các tờ báo Mỹ.Về mặt từ ngữ, chữ Hán của
manga là “漫画”, nghĩa là “Mạn họa”. Theo Yuichiro (2014), thuật ngữ
manga đã xuất hiện một lần nữa trong tác phẩm “Tiên sinh Đông Tâm tạp họa
đề kỷ” do nhà văn Kim Đông Tâm sáng tác vào thời nhà Thanh. Từ “Mạn
họa” trong tác phẩm được sử dụng với ý nghĩa vẽ tranh vô tư, vẽ tranh theo ý
thích của mình. Hạ Thị Lan Phi (2017) cũng đề cập việc về mặt ngữ nghĩa,
trong nghĩa Hán – Việt, manga có nghĩa là “mạn họa”, có thể hiểu là “bức họa
5 Hà Hương (2012). Làn sóng Hàn Quốc: thành công của văn hóa đại chúng. Truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoa/lan-song-han-quoc-thanh-cong-cua-van-hoa-dai-chung-49137.html
7
mang tính trào phúng.”Về mặt mĩ thuật, trong một số nghiên cứu, các nhà
chuyên môn định nghĩa manga là “tên gọi chung của một loại hình hội họa về
cơ bản lấy sự châm biếm và hài hước làm nội dung, dựa trên cách vẽ giản
lược hay khoa trương. Nó là một phương tiện giải trí truyền tải thông tin đến
người xem thông qua thị giác dưới hình thức các bức tranh vẽ mang tính liên hoàn”6. Manga có thể được hiểu là “một hình thức đồ họa mang tính ngẫu
hứng hoặc ứng tác, áp dụng những thủ pháp cường điệu (intensification), cách
điệu (stylization) hay biến (caricature)” để thể hiện sự ngộ nghĩnh, dí dỏm,
hài hước, kì lạ và khác thường. Theo từ điển Quốc ngữ Nhật Bản, Manga có
hai khái niệm. Đầu tiên là “loại tranh hoạt hình, hài hước, loại tranh gây cười,
hóm hỉnh (comics). Nghĩa còn lại là “loại tranh đả kích, châm biếm nhân tình thế thái”7. Nhìn từ góc độ lịch sử, nét phác họa đơn giản nhưng hài hước của
manga có nguồn gốc từ một loại tranh vẽ của Nhật Bản. Loại tranh này xuất
hiện vào khoảng giữa thế kỉ VI và VII. Vào thời gian đó, những cuộn giấy da
có hình khắc đã được những thầy tu sử dụng để làm một loại lịch để theo dõi
thời gian. Hình vẽ thường là những hình tượng phổ biến có thể tìm thấy trong
tự nhiên như hoa anh đào và lá phong đỏ để báo hiệu sự chuyển giao mùa,
hoặc những động vật như cáo, gấu trúc, những con vật được xem là đại diện
cho thời gian. Những hình ảnh này được vẽ bằng những nét đơn giản nhưng
rất ngộ nghĩnh và dí dỏm.
Cụm từ “manga” có ý nghĩa khác nhau ở Nhật Bản và nước ngoài. Ở
Nhật Bản, cụm từ này dùng để chỉ các thể loại truyện tranh. Tuy nhiên, ở
những nước khác, cụm từ này lại có ý nghĩa khác biệt. Như ở Đức, “manga”
dùng để chỉ nghệ thuật truyện tranh có xuất xứ từ Nhật Bản. Ngoài ra, đi đôi
với manga là “anime”. nime có nguồn gốc từ từ “animation” trong tiếng
6Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 23 7 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 23
8
nh, dùng đẻ chỉ phim hoạt hình. Manga và anime là hai thứ không thể tách
rời. Cả hai cũng có vị trí quan trọng trong văn hóa của người dân Nhật Bản.
Có thể tìm thấy những hình minh họa manga trong nhiều thể loại sách khác
nhau, như sách nấu ăn hay sách hướng dẫn. Có thể thấy rằng niềm yêu thích
dành cho loại hình nghệ thuật này đến từ mọi tầng lớp xã hội và các nhóm
ngành nghề khác nhau. Trong tiếng Anh, từ ngữ “manga” được hiểu là
“truyện tranh Nhật Bản”. Theo Gravett (2004), người Tây thường cho rằng
các nhân vật trong manga có đôi mắt to và lấp lánh, những quyển tạp chí
truyện tranh dày như từ điển, nhiều người say mê đọc truyện tranh trên xe
điện, truyện tranh có nhiều yếu tố bạo lực và dâm tục. Ngày xưa, khi dịch
sang tiếng Anh, cụm từ “manga” được hiểu là “Japan’s comics”, phiên âm
sang dạnh chữ Katakana của Nhật Bản và giữ nguyên âm đọc là “komiku”.
Đến cuối thập niên 1980, khi manga đã đạt đến đỉnh cao, khiến cả người đọc
và giới nghiên cứu quan tâm, khái niệm “manga” không chỉ đơn thuần là
“comic” (truyện tranh) nữa, mà còn được coi là một danh từ riêng để chỉ loại
hình truyện tranh của Nhật Bản, được phiên âm ra chữ latinh là “manga”. ác
nhà xuất bản trong nước không chỉ dùng chữ Hán khi nói về loại hình này mà
còn sử dụng cả chữ Katakana, bảng chữ của Nhật dùng để phiên âm từ ngoại
lai. Đây là hình thức để khẳng định sự riêng biệt và độc nhất của Manga Nhật
Bản [4, tr. 26].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng truyện tranh manga bắt nguồn từ lịch sử
hội họa Nhật Bản. Những đặc điểm trong những thể loại tranh truyền thống
kết hợp với một số đặc điểm từ truyện tranh phương Tây đã được kế thừa và
tiếp tục trong truyện tranh manga hiện nay. Một hướng nhìn nhận khác về
manga đó là cho rằng đây là tạo vật của xã hội hiện đại. Kinsella (2000) đã
chỉ ra rằng trước khi manga là một đại diện của văn hóa, nó là một ngành
công nghiệp. Theo Kinsella (2000), manga là một hiện tượng của văn hóa cận
hiện đại. Gracia (2010) cũng có nhận định tương tự. Garcia (2010) cho rằng
9
để hiểu về xã hội Nhật Bản cận đại thì không thể không chú trọng vào hiện
tượng manga. Theo Gracia (2010), manga gắn liền với cuộc sống hàng ngày
của người dân Nhật Bản và đây là thứ đã giúp Nhật Bản lan tỏa văn hóa của
mình đến thế giới [18, tr. 100]. Từ Gracia (2010), có thể hiểu rằng manga có
ảnh hưởng cả ở trong đất nước sản sinh ra nó và cả trên toàn thế giới.
Về thể loại, truyện tranh manga có rất đa dạng về thể loại. Truyện tranh
manga có thể được phân loại dựa theo lứa tuổi. Một số những thể loại manga
cơ bản bao gồm:
“Kodomo”: truyện tranh hướngđến đối tượng thiếu nhi, nhi đồng. Một
ví dụ tiêu biểu làtruyện tranh Doraemon.
“Shoujo (sô-giô)”: Đây là thể loại manga hướng đến những bạn nữ ở
độ tuổi thiếu niên. Thể loại truyện này tập trung khai thác những câu chuyện
tình cảm, những rung động đầu đời, cuộc sống trường học, thời học sinh…
“Shounen (sô-nên)”: Đây là thể loại truyện hướng đến nam thiếu niên.
Chủ đề của thể loại này thường là các cuộc phiêu lưu, thể thao, hành động,…
“Seinen (Sê-nên)”: Đây là thể loại truyện tranh dành cho nam trung
niên. Loại Manga này có nội dung phức tạp hơn so với thể loại hướng đến
nam thiếu niên, có thể đề cập các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội.
“Jousei (Giô- sê)”: Đây là thể loại truyện Manga hướng đến nữ trung
niên. Nội dung của thể loại này nhiều khi giống với truyện hướng cho các
thiếu nữ, nhưng được khai thác dưới góc nhìn người lớn hơn. Hai loại truyện
Seinen và Josei thường rất hiếm được mua bản quyền và xuất bản ở Việt Nam
“Boy’s Love”: Thể loại truyện đồng tính Nam. Boy’s Love thường chia
ra làm hai thể loại chính là Shounen Ai và Yaoi
“Shounen- Ai”: Đây là thể loại truyện khai thác tình yêu giữa hai nhân
vật nam, thường không có quan hệ thể xác
“Yaoi (Ya-ôi)”: Thể loại truyện đồng tính nam, có yếu tố quan hệ thể xác.
“Girl’s Love”: Thể loại truyện tranh đồng tính nữ, thường chia ra làm
10
hai thể loại nhỏ là Shoujo Ai và Yuri.
“Shoujo Ai”: Đây là thể loại truyện khai thác tình yêu giữa hai nhân
vật nữ, không đề cập đến quan hệ thể xác.
“Yuri”: Thể loại truyện tranh đồng tính nữ, có yếu tố quan hệ thể xác.
Manga được hiểu đơn giản là truyện tranh nói chung. Tuy nhiên, ở nước
ngoài, “manga” là cụm từ dùng để chỉ riêng truyện tranh có xuất xứ từ Nhật Bản.
Yếu tố khiến manga tách biệt với các loại truyện tranh trên thế giới là nét vẽ,
cách diễn tả câu chuyển và nhân vật. Manga rất đa dạng về thể loại và chủ đề.
Các thể loại manga thường được phân chia dựa theo lứa tuổi, đôi khi dựa theo
chủ đề của truyện.
1.4. Những nghiên cứu trƣớc đó về truyện tranh Nhật Bản
1.4.1. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản trên thế giới
Cùng với sự lan rộng của mình, manga đã trở thành đề tài nghiên cứu
của rất nhiều học giả. Nghiên cứu về manga được bắt đầu tiến hành ở Nhật
Bản vào những năm cuối thập kỉ 1950. Trong thời gian này, các nghiên cứu
chủ yếu là các bài báo viết về những ấn phẩm manga bị coi là “xấu” với
thanh, thiếu niên. Đến những năm cuối ở thập kỉ 1980, khi manga đã phát
triển đến đỉnh cao, đem lại nhiều thành công ở cả thị trường nội địa và quốc
tế, trong giai đoạn này, những nghiên cứu về manga đã từng bước có tính học
thuật. Những thuật ngữ cơ bản như khái niệm về manga hay các thuật ngữ sử
dụng trong quá trình sáng tác đã được ghi chép lại trong cuốn sách “Từ điển
Manga Nhật Bản: Quà tặng cho người hâm mộ Manga toàn quốc” của tác giả
Shimizu Isao (1985). Bên ngoài Nhật Bản, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu
về manga nhằm giải đáp nguyên nhân tạo nên sự lôi cuốn của manga. Nổi trội
là những công trình như Manga! Manga! The World of Japanese omics
(1983) của tác giả Frederik L. Schodt, Adult Manga: Culture and Power in
Contemporary Japanese Society (2000) của tác giảSharon Kinsella, Manga:
Sixty Years of Japanese Comics (2004) của tác giả Paul Gravett, Reading
Manga: Local and Global Perceptions of Japanese Comics (2006) của tác giả
11
Steffi Richter và Jaqueline Berndt, và nhiều công trình khác. Những nghiên
cứu này đã tổng hợp đầy đủ sự ra đời, quá trình phát triển, nghệ thuật thể
hiện, nội dung, ảnh hưởng của manga tại thị trường Nhật Bản và tầm quan
trọng của loại hình giải trí này. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu đã tìm hiểu
về manga ở thị trường phương Tây, như Dreamland Japan: Writings on
Modern Manga (1996) của tác giả Frederik L. Schodt, Japanese Visual
Culture: Explorations in the World of Manga and Anime (2008) của tác giả
Mark W. MacWilliams và nhiều tác phẩm khác.
Có nhiều hướng tiếp cận khi nghiên cứu về manga, điển hình là phân
tích mặt nghệ thuật biểu hiện của manga hoặc tập trung phân tích mặt văn học
trong manga, như nội dung, cốt truyện và sự đa dạng về chủ đề. Ngoài ra, một
số nghiên cứu khác tập trung vào quá trình manga vượt biên giới Nhật Bản và
du nhập sang những quốc gia khác. Một mảng khác được chú trọng khi
nghiên cứu về manga là coi manga là phương tiện ngoại giao của Nhật Bản.
Những nghiên cứu tiếp cận manga từ góc độ nghệ thuật biểu hiện bao gồm
“Văn hóa Manga Nhật Bản” của tác giả Natsume Fusanosuke, “Nhập môn
Tâm lý học Manga” (2001) của tác giả Kyo Taro và Naga Oka; “Ponchi:
Nghiên cứu văn hóa biểu hiện” của tác giả Misuzu Kubota (2002); “Manga:
60 Years of Japanese omics” (2004) của tác giả Paul Gravett; “Nghiên cứu
lí luận biểu hiện trong Manga” của tác giả Kyotaro Nagano (2005) và nhiều
nghiên cứu khác. Những nghiên cứu khai thác manga từ góc độ văn học gồm
có “Xã hội học Manga” (2001) của hai nhà Xã hội học Miyahara Kojiro và
Ogino Masahiro, “Nhật Bản đất nước của Manga: Văn hóa đại chúng của
Nhật Bản. tính khả năng của văn hóa thị giác” (2007) của học giả người Đức Jaqueline Berndt và nhiều nghiên cứu khác.8 Bên cạnh đó, manga và ảnh
hưởng của loại hình này cũng là một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều học
giả. Vào cuối thập niên 1950, những nghiên cứu về ảnh hưởng của manga chỉ
dừng lại ở các bài báo phê phán, chỉ trích các ấn phẩm manga bị coi là “độc
8 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
12
hại” đối với bộ phận thanh, thiếu niên. Đến những năm 1980, khi đời sống
kinh tế của người dân Nhật Bản được nâng cao, xã hội phát triển, có một nền
văn hóa mở, tiệm cận với văn hóa phương Tây, một nền văn hóa đại chúng
dành ch tầng lớp thanh niên trẻ đã được hình thành. Đồng thời, vào giai đoạn
này, manga Nhật Bản đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật biểu hiện, phong
phú và đa dạng về thể loại lẫn nội dung, nghiên cứu về manga đã có chiều
hướng thay đổi và xuất hiện sự phân hóa. Hai luồng nghiên cứu trái chiều về
ảnh hưởng của manga xuất hiện trong thời gian này bao gồm:
(1) Những nghiên cứu cho rằng manga có ảnh hưởng tiêu cực đến
thanh, thiếu niên. Do đa dạng, phong phú về nội dung, chủ đề và các thức
biểu hiện, manga được cho rằng có chứa đựng cả sự “hỗn tạp”, tiêu cực,
không lành mạnh và thiếu chuẩn mực. Nhiều vụ án xảy ra bị cho rằng có liên
quan đến việc đọc truyện tranh. Với lí do đó, nhiều nghiên cứu đã ra đời để
tìm hiểu về ảnh hưởng tiêu cực của manga đến thanh, thiếu niên. Một số công
trình tiêu biểu về hướng nghiên cứu này là “Khái quát và triển vọng nghiên
cứu liên quan đến Manga dước góc độ Tâm lý học” (2007) của tác giả
Ieshima Akihiko thuộc trường đại học Kyoto. Trong nghiên cứu, ông đã đưa
ra cách phân loại “Manga độc hại” và “Manga không độc hại”. Ngoài ra, công
trình nghiên cứu “Tại sao phải ban hành qui chế đối với Manga” (2010) của
tác giả Nagaokao Kayoshi Yuki đã giới thiệu và giải thích lí do cần có những
qui chế qui định đối với những manga bị đánh giá là có yếu tố khiêu dâm.
Một số thể loại manga được cho rằng có cảnh miêu tả về bạo lực và giới tính,
bị đánh giá là tác nhân xấu đến thanh, thiếu niên và ảnh hưởng đến quá trình
hình thành tâm sinh lí của lứa tuổi này, đồng thời có khả năng dẫn đến những
hành động trái pháp luận của trẻ vị thành niên. Tác giả của những nghiên cứu
theo hướng này thường là các nhà nghiên cứu giáo duc, các nhà nghiên cứu
9 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
13
thuộc tổ chức Hội Cha mẹ học sinh Nhật Bản, các nhà nghiên cứu xã hội học và nghiên cứu tội phạm, và nhiều học giả khác. 9
(2) Những nghiên cứu cho rằng manga đem lại ảnh hưởng tích cực đến
thanh, thiếu niên. Vào những năm cuối thế kỉ XX, khi “làn sóng manga” lan
rộng và được nhiều nước trên thế giới yêu mến, có nhiều ý kiến cho rằng cần
nhìn nhận và đánh giá lại tác động của manga lên thanh, thiếu niên. Sang thế kỉ
XXI, khi Nhật Bản quyết định manga là một trong những phương tiện để tiến
hành ngoại giao văn hóa, các nghiên cứu về ảnh hưởng tích cực của manga đã
phát triển. Một số nghiên cứu tiêu biểu của giai đoạn này là “Mô hình nhân vật lí
tưởng ảnh hưởng đến cuộc sống lí tưởng” (2006) của tác giả Ieshima Akihiko.
Nghiên cứu đã khái quát năm ảnh hưởng của manga đến thanh thiếu niên Nhật
Bản, đó là: tình yêu, tình bạn, sự nỗ lực, nhân sinh quanh và thế giới quan, và
kiến thức. Trong công trình nghiên cứu “Khái quát và triển vọng nghiên cứu liên
quan đến Manga dước góc độ Tâm lí học” (2007) của tác giả Ieshima Akihiko,
tác giả cho rằng ngoài những manga bị cho rằng có tác động tiêu cực thì cũng có
nhiều manga mang đến ảnh hưởng tích cục cho thanh, thiếu niên. Vào thời kì
này, manga đã được thừa nhận có ảnh hưởng tích cưc đến trẻ nhỏ, đặc biệt hình
ảnh động trong truyện tranh đã kích thích sáng tạo, phát triển trí tưởng tượng cho
trẻ em nhiều hơn những loại ấn phẩm khác. Nội dung truyện và hình tượng nhân
vật có tác động tốt đến hình thành nhân cách, nhân sinh quan, thế giới quan, đồng thời nâng cao tri thức và giúp trẻ nhỏ học chữ Hán tốt hơn10.
Có thể thấy rằng những nghiên cứu về manga trên thế giới rất đa dạng.
Manga là chủ đề thu hút sự quan tâm của cả học giả Nhật Bản và quốc tế.
Những công trình nghiên cứu tiếp cận manga ở nhiều góc độ khác nhau, tạo
nên góc nhìn đa chiều về loại hình này.
1.4.2. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản ở Việt Nam
Mặc dù đã du nhập vào Việt Nam từ năm 1992 nhưng phải đến những
10 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
14
năm 2000, những công trình nghiên cứu với đề tài là manga Nhật Bản mới
xuất hiện, ví dụ như luận văn Thạc sĩ “Truyện tranh Manga Nhật Bản và
những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam”, chuyên ngành văn hóa học
của tác giả Hạ Thị Lan Phi. Nghiên cứu đã đề cập khái quát khái niệm, đặc
điểm và thể loại của manga. Tuy nhiên, nghiên cứu mới đề cập đến phân loại
manga theo độ tuổi chứ chưa đưa ra được cách phân chia theo thể loại và chủ
đề của manga. Bên cạnh đó, nghiên cứu chưa chỉ ra được những đặc điểm tạo nên sự lôi cuốn của manga không chỉ ở Nhật Bản mà cả trên thế giới11. Ngoài
ra, một số bài báo và tạp chí viết về manga đã xuất hiện. Một vài bài viết bao
gồm “Vài nét về Manga Nhật Bản” của tác giả Hạ Thị Lan Phi (2004) đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, “Manga qua các thời kỳ
lịch sử” (2005) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, hội
thảo “Khám phá bản sắc văn hóa trong truyện tranh (Manga) và Anime (phim
hoạt hình) Nhật Bản” do quỹ Toyota, Lãnh sứ quán Nhật Bản tại thành phố
Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ phối hợp tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh vào cuối năm 2005. Bên cạnh đó còn có triển lãm “Không gian mới của
Manga: Nghệ thuật truyện tranh đương đại Nhật Bản” do Quĩ giao lưu Quốc
tế Nhật Bản tổ chức vào năm 2011, “Truyện tranh Việt Nam: Nhìn từ kinh
nghiệm Manga Nhật Bản” của tác giả Lê Văn Sửu đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Mĩ thuật (2011), “Sơ lược về quá khứ và hiện tại của văn hóa Manga của
Việt Nam” (ベトナムの漫画文化:その過去と現在の概説) của tác giả
Nguyễn Hồng Phúc, đăng vào năm 2014 trên Tạp chí International Manga
Research Center, Kyoto Seka University công bố bằng tiếng Nhật. Các bài
viết đó đã đề cập đến lịch sử hình thành, phát triển, vai trò và vị trí của manga
11 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 12 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 10.
15
trong xã hội Nhật Bản, nhưng chưa đi sâu và chỉ dừng lại ở mức giới thiệu khái quát những vấn đề được nêu ở trên12.
Đầu thế kỉ XXI, nhiều bài báo về tác động của manga Nhật Bản đến trẻ
em Việt Nam đã xuất hiện. Ví dụ như bài viết “Truyện tranh Việt Nam: Một
nhu cầu lớn” đăng trên báo Phụ nữ ngày 27 tháng 9 năm 2003, “ ần quan tâm
đến trẻ em đọc truyện tranh Nhật Bản” của tác giả Thanh Hoa đăng trên báo
Phụ nữ Thủ đô năm 2004. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ “Truyện tranh Manga
Nhật Bản và những bài học rút ra cho Việt Nam” của tác giả Hạ Thị Lan Phi
đã nói đến những ảnh hưởng tiêu cực của manga ở Việt Nam. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu mới chỉ tổng hợp và phân tích các tài liệu trước đó, tính thực chứng của tài liệu chưa cao13. Vào năm 2009, tác giả Đinh Thị Thu Nga đã có
nghiên cứu về việc xuất bản truyện tranh ở Việt Nam, mang tên “Hoạt động
xuất bản sách truyện tranh góp phần giáo dục thiếu nhi ở nước ta hiện nay
(Qua khảo sát Nhà xuất bản Kim Đồng, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin)”14. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tiếp cận từ góc độ khoa học xuất bản
để từ đó chỉ ra những vấn đề lý luận chung của thực trạng và hoạt động xuất
bản sách truyện tranh ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, nghiên cứu có đưa
những kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng xuất bản các sách truyện
tranh giáo dục dành cho thiếu nhi. Vào năm 2012, Viện Nghiên cứu Đông
Bắc Á đã có bài viết tạp chí mang tên “Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hạ Thị Lan Phi15. Bài viết chỉ ra những ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực của manga đến trẻ em Việt Nam và đưa ra những ý
kiến để quản lí việc xuất bản manga ở Việt Nam. Năm 2014, tác giả Đặng
ao ường cũng có một đề tài nghiên cứu về hoạt động xuất bản mang tên
13 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 11. 14http://thuvien.ajc.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/4921
15Hạ Thị Lan Phi (2012). Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt Nam hiện nay. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
16
“nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh tại nhà xuất bản Kim Đồng hiện
nay”16. Ở nghiên cứu này, tác giả đã xác định những vấn đề lí luận chung của
truyện tranh như khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò. Từ đó, tác giả tập
trung vào những yêu cầu trong chất lượng truyện tranh được xuất bản, làm rõ
thực trạng chất lượng của những tựa truyện tranh được NXB Kim Đồng xuất
bản hiện nay, những nguyên nhân, thành tựu và hạn chế của những truyện
tranh đó. Ngoài ra, tác giả đưa ra phương hướng và hướng giải quyết nhằm
nâng cao chất lượng truyện tranh xuất bản của NXB Kim Đồng. Năm 2014,
luận văn thạc sĩ “Giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến
nay: “Nghiên cứu trường hợp Manga Nhật Bản được phát hành tại Việt Nam”
của tác giả Kurokawa Yuichiro đã nghiên cứu những truyện tranh Nhật Bản
khi du nhập vào Việt Nam. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã tập trung
chỉ ra lịch sử manga du nhập và lan tỏa ở Việt Nam, nghiên cứu dịch thuật
trong manga, khác biệt về quan niệm truyện tranh giữa Việt Nam và Nhật
Bản, và ảnh hưởng của manga thể hiện trong truyện tranh Việt Nam. Vào năm
2016, tác giả Ngô Thanh Mai đã có bài viết về manga mang tên “Những ảnh
hưởng của truyện tranh Nhật Bản đối với trẻ em Việt Nam hiện nay”. Bài viết
khai thác những điểm tích cực và tiêu cực manga mang lại cho trẻ em Việt
Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị để chọn lọc truyện tranh cho trẻ em đọc
một cách tốt hơn.
Nhìn chung, chủ đề manga đã được nhiều nhà nghiên cứu ở Nhật Bản
và quốc tế khai thác và tiếp cận từ nhiều góc độ. Những nghiên cứu trước đó
đã tổng hợp, phân tích, khái quát những nét cơ bản của manga, đồng thời so
sánh với truyện tranh (comics) của các nước phương Tây qua góc độ hội họa,
văn học và quá trình sáng tác để tìm ra sự khác biệt và lí giải sự thu hút của
loại hình này đối với thanh, thiếu niên. Ở Việt Nam, những công trình nghiên
16 Đặng ao ường (2014). “Nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh của Nhà xuất bản Kim Đồng”. Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
17
cứu về manga chủ yếu khai thác những ảnh hưởng, tích cực và tiêu cực của
manga đến trẻ em, đưa ra những phương hướng về giáo dục trẻ em. Đây là
hướng nghiên cứu thiết thực, nhưng vẫn có một số giới hạn. Gần đây, chủ đề
nghiên cứu về manga đã mở rộng hơn. Một số nghiên cứu tiếp cận manga từ
góc độ xuất bản. Những nghiên cứu này đã chỉ ra được thực trạng xuất bản
manga ở Việt Nam hiện nay và đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng xuất bản manga. Những nghiên cứu về xuất bản manga ở Việt Nam đã
bước đầu nói về sự thay đổi trong hình thức và chất lượng xuất bản. Tuy
nhiên, những nghiên cứu về manga ở Việt Nam chưa được phong phú và đa
dạng. Mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam 2 thập kỉ, còn thiếu nghiên cứu tìm
hiểu sự thay đổi về manga trên thị trường Việt Nam, các thể loại được xuất
bản và độ tuổi của những manga được xuất bản ở Việt Nam. Ngoài ra, nhiều
nghiên cứu khai thác ảnh hưởng của loại hình này đến trẻ em nhưng vẫn còn
ít nghiên cứu tập trung ảnh hưởng của manga đến độ tuổi lớn hơn.
Trên cơ sở những nghiên cứu trước đó, luận văn chú trọng nghiên cứu
những ảnh hưởng manga mang đến với lứa tuổi thanh thiếu niên và quan điểm
của thanh niên Việt Nam về manga. Ngoài ra, luận văn hi vọng có thể tìm
hiểu cách những độc giả nhìn nhận đất nước, văn hóa và con người Nhật Bản
18
thông qua manga như thế nào.
ƢƠ
TÌNH HÌNH TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA Ở VI T NAM
2.1. Manga đƣợc phổ biến trên thế giới
Từ xưa, đã có một số hoài nghi về việc xuất khẩu manga nói riêng và các
loại hình văn hóa đại chúng nói chung ra nước ngoài. Trong cuốn sách
“Manga! Manga! The World of Japanese omics”, Schodt (1983) đã chỉ ra một
số trở ngại manga gặp phải khi xuất khẩu sang những quốc gia khác. Những trở
ngại đó là khi xuất khẩu ra các nước khác, manga phải được đảo ngược lại để
đọc từ trái sang phải, thay vì phải sang trái như trong nước, vấn đề dịch thuật,
nội dung của truyện và nhiều vấn đề khác. Ngoài ra, trong nghiên cứu của
mình, Schodt (1983) cũng đề cập đến một số thành công của manga ở thị
trường châu Á. Do vị trí gần hơn nên manga dễ dàng thâm nập vào các nước
Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan hơn. Tuy nhiên, manga không hoàn toàn
thu về được lợi nhuận. Ở Thái Lan, một phiên bản lậu của truyện tranh
Doraemon do tác giả Fujio Fujiko sáng tác đã trở thành một hiện tượng. Ở Hàn
Quốc, chính phủ đã hạn chế nghiêm ngặt sự thâm nhập của manga do sự phổ
biến thể loại này có được ở đây (Schodt, 1983, tr. 157). Trong nghiên cứu của
mình, mặc dù Schodt (1983) cho rằng manga sẽ tạo được ảnh hưởng trên thế
giới bằng những phương pháp gián tiếp, như thông qua đồ chơi, trò chơi điện
tử và các sản phẩm ăn theo khác nhưng vẫn có sự hoài nghi về việc manga xuất
khẩu và được ưa chuộng ở thị trường nước ngoài. Schodt (1983) đã nhận định
đúng về việc manga sẽ tạo hiệu ứng thông qua những phương thức gián tiếp
như đã chỉ ra, nhưng trái với sự hoài nghi, manga đã dần dần lan tỏa sang nhiều
nơi trên thế giới, trở thành một hiện tượng.
Ở nhiều nước châu Á, truyện tranh Nhật Bản được phổ biến không
thông qua con đường chính thức. Trong nghiên cứu của mình, Yuichiro
19
(2014) cũng nhắc đến việc bộ truyện tranh Doraemon được dịch và tạo ra một
thị trường không theo bản quyền. Vào năm 1990, sau Trung Quốc chính thức
tham gia công ước Bern, Doraemon đã được dịch và xuất bản có bán quyền.
Tuy nhiên, ở một số nước khác, hiện tượng phát hành trái phép vẫn tiếp diễn.
Tiếp theo đó, nhà xuất bản Thanh Văn đã tiến hành dịch manga Nhật Bản, trở
thành trung tâm phân phối truyện tranh ở khu vực châu Á đến những nơi có
nhiều cư dân Hoa kiều như Singapore và Mã Lai [15, tr. 33]. Ngoài ra, bộ
truyện tranh thiếu nhi Doraemon đã đến Hàn Quốc vào đầu thập niên 80 và
đến Thái Lan vào năm 1982.
Cần nói thêm rằng ở cách phản ứng và đón nhận đối với manga Nhật
Bản ở mỗi nước có sự khác nhau. Mặc dù Doraemon được đón nhận nồng
nhiệt ở các nước thuộc khu vực châu Á song, ở Mỹ, bộ truyện thiếu nhi này
không tạo nên hiện tượng mạnh. Ở Mỹ, Doraemon không được độc giả yêu
thích. Nguyên nhân của việc này là vì người Mỹ có tư duy độc lập, tự làm tự
chịu trách nhiệm nên họ không đồng cảm với một nhân vật ngốc nghếch,
chậm chạp và mãi không trưởng thành như Nobita[15, tr. 34]. hưa kể, ở Mỹ,
họ đã có sẵn thị trường với đủ sản phẩm phục vụ cho thiếu nhi. Đối với người
Mỹ, giái trí và giáo dục là hai yếu tố tách biệt, không liên quan đến nhau nên
sản phẩm trong thị trường Mỹ không đặt nặng yếu tố giáo dục như manga
Nhật Bản. Bộ truyện được chỉnh sửa nội dung, địa phương hóa để phù hợp
với thói quen và tư duy của người Mỹ. Ở phương Tây, Doraemon chỉ có bản
dịch Tây Ban Nha. Trái lại, phim hoạt hình rất được ưa chuộng. Ở Ý, phim
hoạt hình được phát hành từ năm 1982 và đã được tái bản nhiều lần. Đến năm
2003, phim hoạt hình chính thức được phát hành 1 tuần 5 buổi. Ở Tây Ban
Nha, phim cũng được phát hành từ năm 1993 và Pháp phát hành từ năm 2003.
Một quốc gia ở châu Á mà bộ truyện Doraemon không thu hút được độc giả,
đó là Philippines. Độc giả Philippines không đón nhận Doraemon nồng nhiệt
so với các độc giả ở những nước trong khu vực. Lí do là vì đa số người
20
Philippines theo Kitô giáo và họ thường xuyên tiếp xúc với văn hóa phương
Tây và Mỹ. Chính vì vậy, Doraemon cũng không được đón nhận ở đây như ở
Mỹ. Tuy nhiên, bộ phim hoạt hình Nhật “Voltes V” rất được yêu thích ở đất
nước này.
Có thể nhận thấy rằng sự phổ biến của truyện tranh Nhật Bản ở mỗi
khu vực, quốc gia và nền văn hóa là khác nhau. Phương thức phổ biến cũng
thay đổi ở mỗi khu vực và nền văn hóa. Đôi khi, cách truyện tranh Nhật Bản
lan tỏa ở các nước không phải do Nhật Bản hay thông qua con đường chính
thống mà qua những con đường không chính thức. Tốc độ phổ biến truyện
tranh, đặc biệt qua các bản copy, đã vượt quá tưởng tượng của chính phủ Nhật
Bản. Ví dụ, ở Thái Lan đã có trường hợp sáng tác truyện mới dựa trên những
truyện đã xuất bản. Những phiên bản mới này được lưu hành trên các trang
mạng như Youtube.
2.2. Manga đƣợc phổ biến ở Việt Nam
Trước khi bộ truyện tranh Doraemon du nhập vào để rồi trở thành một
hiện tượng, Việt Nam đã có một số truyện tranh nước ngoài. Vào thập niên 50
– 60, ở miền Nam Việt Nam, nhiều tác phẩm Trung Quốc và truyện tranh của
Pháp đã có mặt trên thị trường. Trong chiến tranh chống Mỹ, một số truyện
tranh của Mỹ đã có mặt ở Việt Nam. Việc “đọc truyện bằng tranh” phổ biến ở
miền Nam hơn ở miền Bắc [15, tr. 37]. Bên cạnh đó, truyện tranh do tác giả
người Việt Nam sáng tác đã manh nha xuất hiện. Những tranh truyện này là
những tranh vẽ về nhân vật Lý Toét, Xã Xệ trên đăng trên báo từ thời Pháp
thuộc, truyện ngắn đăng trên báo và tạp chí từ sau Cách mạng tháng Tám và
những truyện tranh bị ảnh hưởng hoặc được vẽ lại từ truyện tranh Mỹ, Pháp – Bỉ ở miền Nam trong giai đoạn 1945 – 197517. Đây là những câu chuyện
mang tính giải trí đơn thuần, giáo dục lịch sử và kĩ năng, không bao hàm yếu
17 Nông Thế Linh (2011). Hình và nét trong thiết kế tranh truyện. Luận văn thạc sĩ mỹ thuật công nghiệp. Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.
21
tố chính trị nên sự phát triển của truyện tranh ở miền Nam không bị yếu tố
chính trị và xã hội ảnh hưởng. Đến khi Doraemon được xuất bản, bộ truyện
tranh đó đã tạo nên một hiện tượng lớn, mở đường cho truyện tranh Nhật Bản
đi vào văn hóa giới trẻ Việt Nam. Một số tác phẩm nước ngoài khác cũng đã
được xuất bản, bao gồm xterix, Siêu Popeye hay Xì Trum, nhưng không tác
phẩm nào tạo ra được ảnh hưởng tương tự như Doraemon.
Năm 1992, nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt bộ truyện tranh Doraemon ở
Việt Nam. Lúc này, bộ truyện được dịch từ phiên bản Thái Lan. Phiên bản
Thái Lan có hai tên gọi, đó là “โดราเอมอน”(Doraemon) và “โดเรมอน”
(Đôrêmon). Vì vậy, tên gốc Nhật “ドラえもん”(Doraemon) đã chuyển thành
“Đôrêmon” do cách phát âm trong tiếng Việt và ảnh hưởng từ bản dịch Thái
Lan. Tác phẩm du nhập vào Việt Nam muộn hơn các nước khác do ảnh hưởng
từ cuộc chiến tranh chống Mỹ và tranh chấp với Campuchia. Nhiều công ty
nước ngoài đã ngừng đầu tư vào Việt Nam và các hoạt động giao lưu văn hóa.
Bộ truyện lần đầu được xuất bản với tựa đề “Đôrêmon chú mèo máy thông
minh”. Năm 1992, 6 tập truyện đã được ra mắt. Năm 1993, nhà xuất bản tiếp
tục phát hành đến tập 33 cùng 3 tập truyện dài. Năm 1994, nhà xuất bản tiếp
tục xuất bản đến tập 74. Năm 1995, truyện được phát hành kéo dài đến tập 78.
Trước khi phát hành bản quyền chính, nhà xuất bản Kim Đồng đã bán được
hơn 10 triệu sách. Ngoài truyện gốc, có rất nhiều tác phẩm khác liên quan đến
Doraemon [15, tr. 35].
Từ khi phát hành, Doraemon đã trở thành hiện tượng ở nhiều nước
châu Á, trong đó có Việt Nam. Ở Thái Lan đã xuất hiện những tác phẩm mô
phỏng theo bộ truyện. Điều tương tự đã xảy ra ở Việt Nam. Vào năm 2011,
phong trào chế Doraemon lan rộng trên các trang mạng Việt Nam. Nhiều hội
chế truyện trên các mạng xã hội, diễn đàn ra đời, các cuộc thi chế được tổ
chức. Những câu chuyện chế này vẫn giữ nguyên hình ảnh trong nguyên tác
22
nhưng thay đổi lời thoại trong truyện theo lối hài hước hơn. Nội dung của
những câu chuyện chế này xoay quanh những vấn đề xã hội, câu chuyện
thường ngày thông qua góc nhìn hài hước của người trẻ. Cùng thời gian đó,
nhiều video âm nhạc chế truyện Doraemon cũng xuất hiệnvà được gọi
là Doraemon Music Video (DMV).Cuối tháng 5 năm 2015, Acecook đã tổ
chức chương trình “ ùng Doraemon chu du thế giới” diễn ra tại Thành phố
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ để quảng bá món
"Mì Doraemon". Đây là sản phẩm mới ra mắt của công ty sau khi hình ảnh
chú mèo máy xanh nổi tiếng chính thức được mua bản quyền. Đồng thời,
công ty này cũng là nhà tài trợ chính cho phần ba và phần bốn của loạt phim
"Doraemon - hú mèo máy đến từ tương lai" chiếu trên kênh HTV3. Ngoài
ra, cục Cảnh sát Giao thông, Bộ Giao thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hợp
tác với Tập đoàn Mainichi Nhật Bản để phát động chương trình "Doraemon
với An toàn giao thông" với mục đích tuyên truyền, phổ biến và giáo dục trẻ
em Việt Nam về Trật tự an toàn giao thông. hương trình được bắt đầu từ
ngày 20 tháng 4 năm 2016. Mức độ nổi tiếng rộng rãi của mèo máy
Doraemon không chỉ thể hiện ở những truyện chế, sản phẩm hay các chương
trình sử dụng hình tượng nhân vật. Bộ truyện cũng gây cảm hứng cho một số
họa sĩ tự sáng tác tác phẩm của mình. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2014, bộ
truyện Dế Rô Bốt - Nhân tài ảo thuật đã được công ty Phan Thị phát hành.
Trước khi phát hành, bộ truyện đã bị "Nghi án đạo truyện Doraemon" và bị
chỉ trích vì sự tương đồng với Doraemon. Sau khi ra mắt, sự hoài nghi càng
gia tăng vì nhân vật và bảo bối trong bộ truyện “Dế Rô Bốt - Nhân tài ảo
thuật”mang nhiều đặc điểm giống như trong “Doraemon”, nhưng đã được
chỉnh sửa. Sau đó, nhóm tác giả của bộ truyện đã thừa nhận lấy cảm hứng từ
“Doraemon” nhưng dựa trên nguyên lý "Innovation". Việc này đã gặp phải sự
phản đối kịch liệt từ các diễn đàn và trang mạng xã hội.
Ngoài việc là một trong những ấn phẩm truyện tranh Nhật Bản đầu tiên
23
phát hành, Doraemon còn có ý nghĩa đặc biệt đối với độc giả nói riêng và
nước Việt Nam nói chung. Đối với Nhật Bản, Doraemon là trường hợp manga
Nhật Bản dần phổ biến ở thị trường châu Á. Tuy nhiên, chính phủ nước này
vẫn kiên định với chiến lược ưu tiên phổ biến phiên bản hoạt hình trước.
Nguyên nhân là vì đọc truyện tranh Nhật Bản khó và cần xử lí kĩ thuật, trong
khi đó với phim hoạt hình, người xem vẫn có thể hiểu được dù không cần suy
nghĩ. Thêm vào đó, bên Nhật không cần phải đầu tư thêm, mà chấp nhận rằng
thị trường nào truyện tranh không bản quyền bán chạy thì thị trường đó cũng
có nhu cầu phim hoạt hình. Tuy nhiên, trường hợp ở Việt Nam có phần đặc
biệt. Năm 1996, Nhà xuất bản Kim Đồng chính thức kí kết bản quyền của
Doraemon với Nhà xuất bản Shogakukan. Toàn bộ số tiền bản quyền tiếng
Việt xuất bản trong giai đoạn 1992-1996 được chuyển vào một quỹ có tên
Quỹ học bổng Doraemon với sự đồng ý của tác giả Fujiko. F. Fujio. Quỹ học
bổng Doraemon, còn gọi là quỹ hỗ trợ giáo dục trẻ Việt Nam, ra đời vào ngày
31 tháng 8 năm 1996 và do ông Nguyễn Thắng Vu, Tổng Biên tập Nhà xuất
bản Kim Đồng từ năm 1988 đến năm 2002, và tác giả của truyện tranh
Doraemon, Fujiko Fujio, sáng lập.Ông Fujimoto lúc đó thường xuyên nhập
viện, sức khỏe không được tốt và được bác sĩ khuyến cáo: “Nếu muốn làm gì
đó thì giờ vẫn kịp.” Vì vậy, ông đã sang Việt Nam và gặp gỡ những độc giả
nhiệt huyết. Bản thân ông cũng yêu thích bộ phim Đông Dương (Indochine)
và Người tình (L’ mant) nên ông dành sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam.
Một năm sau chuyến đi đến Việt Nam, ông Fujimoto qua đời khi ông 62 tuổi
[15, tr. 36].
Quỹ học bổng Doraemon đã tạo cơ hội cho nhiều trẻ em khó khăn tiếp
tục được học tập. Hàng năm, quỹ này được bổ sung từ lợi nhuận phát hành
các ấn bản Doraemon ở Việt Nam, bao gồm những lần tái bản. Trong giai
đoạn 1996 – 2013, quĩ học bổng Doraemon đã được trao 18 lần, 8.719 suất
đến các học sinh trên cả nước. Tính đến tháng 5 năm 2010, hơn 6.600 học
24
sinh Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn đã được quỹ Doraemon cấp học bổng
với tổng số tiền hơn 3,3 tỷ đồng. Quỹ Doraemon được đánh giá là loại quĩ văn
hóa – giáo dục phi chính phủ sớm nhất ở Việt Nam. Ở Việt Nam, Doraemon
không đơn thuần chỉ là một tựa truyện tranh thiếu nhi để giải trí mà còn là thứ
giúp đỡ những trẻ em gặp khó khăn được đi học. Đây là một phần lí do giải
thích vì sao tác phẩm này được ưa chuộng ở Việt Nam lâu dài.
Bên cạnh đó,văn hóa đọc truyện tranh manga ngày càng phát triển và
không ngừng lan rộng ở Việt Nam. Vào năm 2004, Việt Nam gia nhập Công
ước Berne. Bằng việc kí kết văn kiện này, Việt Nam sẽ tuân thủ các quy định
của ông ước Berne và có những chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát
triển theo như trong Phụ lục của ông ước. ông ước Berne là công ước bảo
hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Đây là công ước hướng đến bảo vệ
quyền tác giả giữa các quốc gia có chủ quyền. Nhờ sự kiện này, truyện tranh
nước ngoài, trong đó có manga, có nhiều cơ hội được xuất bản ở Việt Nam
hơn. Bên cạnh bộ truyện Doraemon vốn đã được yêu thích, nhiều tựa truyện
tranh manga khác đã được mua bản quyền và phát hành ở Việt Nam. Số lượng
truyện manga xuất bản ở Việt Nam vượt trội hơn hẳn so với những truyện
tranh của các nước khác. Khi được phỏng vấn, một người đã trả lời “mỗi năm,
trung bình ở Việt Nam có khoảng 400 quyển truyện tranh manga được xuất
bản, không kể tái bản. Về doanh thu, truyện tranh manga chiếm khoảng 40%
doanh số, so với các mảng sách khác.” (Trích Phỏng vấn biên tập viên truyện
tranh, nam, 28 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)
Về việc lựa chọn mua bản quyền và xuất bản truyện tranh manga, khi
được hỏi, một người cho biết những yếu tố khiến truyện tranh manga nổi trội
hơn so với những truyện tranh khác. Yếu tố đầu tiên là hình thức. Khi được
hỏi, một người đã trả lời: “Về hình thức, truyện tranh Nhật Bản rất đa dạng.
Hiện giờ, truyền tranh Hàn Quốc đã chuyển sang thể loại webtoon (truyện
tranh đăng trên mạng), ít ra sách giấy, khiến cho việc du nhập và phát hành ở
25
Việt Nam khó khăn hơn. Truyện tranh Trung Quốc không còn đầu sách nào
đủ ấn tượng và cũng đang dần chuyển sang webtoon. Yếu tố thứ hai là nội
dung. Truyện tranh Hàn Quốc và truyện tranh Trung Quốc có quá nhiều yếu
tố trùng lặp với truyện Nhật. Trong khi đó, truyện tranh Nhật có quá nhiều
yếu tố nổi bật. Ngoài ra, văn hóa Nhật Bản có nhiều nét tương đồng văn hóa
với Việt Nam.Về nét đặc sắc trong Nhật Bản, Nhật Bản là đất nước vẫn giữ
được truyền thống cho đến bây giờ. Yếu tố truyền thống của Nhật là yếu tố
thu hút tất cả các quốc gia khác chứ không chỉ Việt Nam. Bên cạnh đó,văn
hóa Nhật Bản được lồng ghép vào truyện tranh rất khéo léo. Ví dụ như hình
ảnh samurai, ninja, biểu tượng của Nhật như hoa anh đào đều được đưa vào
truyện tranh Nhật Bản một cách khéo léo và tinh tế. Đối với truyện tranh
phương Tây, thể loại truyện này phát triển theo một dòng khác.Nét vẽ và nội
dung khó để tiếp cận với độc giả Việt Nam. Nét vẽ trong truyện tranh phương
Tây mang phong cách tả thực rất nhiều, nội dung thì phức tạp hơn. hưa kể,
về giá thành, truyện tranh Nhật có giá rẻ hơn so với truyện tranh phương Tây
hay truyện tranh webtoon của Hàn Quốc và Trung Quốc.” (Trích Phỏng vấn
biên tập viên truyện tranh, nam, 25 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)
Khi được hỏi về thể loại truyện tranh manga thường được lựa chọn để
xuất bản ở Việt Nam, một người đã trả lời: “Rất nhiều, hành động, giả tưởng,
phiêu lưu, trinh thám…” Về lứa tuổi, một người đã trả lời: “lứa tuổi thịnh
hành nhất bao giờ cũng là lứa tuổi 14 tuổi đến 24 tuổi. Thiếu nhi thụ động
trong việc mua truyện vì được bố mẹ mua cho. Đối tượng có khả năng mua
truyện là những lứa tuổi từ 14 đến 24 tuổi.” (Trích Phỏng vấn biên tập viên
truyện tranh, nam, 25 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)
Nhìn chung, truyện tranh nói chung và truyện tranh Nhật Bản manga
nói riêng đã có một khoảng thời gian du nhập vào Việt Nam. Truyện tranh
được cho rằng đã xuất hiện ở Việt Nam đầu tiên ở miền Nam. So với miền
Nam, truyện tranh du nhập và phát triển ở miền Bắc tương đối muộn. Những
26
truyện tranh được xuất bản ở miền Nam trong thời kì này không bị yếu tố
chính trị ảnh hưởng, vì những ấn phẩm này hoàn toàn mang tính giáo dục lịch
sử, giáo dục kĩ năng, giải trí, mê tín dị đoan và không có mục đích chính trị.
Bộ truyện tranh manga đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam là Doraemon.
Trong lần phát hành đầu tiên, bản dịch Việt Nam được dựa theo bản dịch Thái
Lan nên có nhiều điểm sai sót, đặc biệt ở cách phát âm tên nhân vật. Sau này,
bộ truyện đã được tái bản và dịch đúng tên như bản gốc Nhật. Từ khi phát
hành, Doraemon đã trở thành một hiện tượng ở Việt Nam. Bộ truyện để lại
dấu ấn trong lòng người hâm mộ Việt Nam không chỉ ở câu chuyện mà còn ở
hoạt động quĩ hỗ trợ trẻ em nghèo. Ngoài ra, hình tượng Doraemon cũng
được sử dụng trong nhiều sản phẩm với mục đích truyền thông. Hơn thế nữa,
sự nổi tiếng của truyện tranh Doraemon còn tạo cảm hứng cho một nhóm tác
giả sáng tác một bộ truyện tranh tương tự. Sau khi Việt Nam gia nhập công
ước Bern, nhiều bộ truyện tranh đã có cơ hội du nhập vào Việt Nam hơn.
Truyện tranh manga chiếm đa số trong những đầu truyện tranh nước ngoài
được xuất bản ở Việt Nam. Đồng thời, loại hình giải trí này mang lại lợi
nhuận đáng kể cho NXB. Truyện tranh manga được lựa chọn để xuất bản vì
mang nhiều yếu tố nổi trội hơn so với truyện tranh của các nước khác. Trong
tương lai, nhiều tựa truyện tranh manga sẽ ngày càng được lựa chọn và phát
hành ở Việt Nam hơn.
2.3. iao lƣu văn hóa hật Bản ở Việt Nam thông qua truyện tranh
Manga đã được Nhật Bản sử dụng như một công cụ giao lưu văn hóa
với nhiều quốc gia trên thế giới. Vào năm 2007, giải thưởng Manga Quốc tế
(International MANGA Award) do Bộ Ngoại giao Nhật Bản tổ chức với mục
đích mở rộng quan hệ quốc tế và sự thấu hiểu đối với những quốc gia khác thông qua manga.18 Đây là giải thưởng để vinh danh những cá nhân có đóng
góp vào sự phát triển của manga trên thế giới. Giải thưởng vẫn kéo dài cho
27
đến nay. Mới nhất là việc trao tặng giải thưởng Manga Quốc tế lần thứ 12 vào 18https://www.manga-award.mofa.go.jp/index_e.html
năm 2018. Giải thưởng đã nhận được 331 bài dự thi từ 68 quốc gia và khu
vực. Không chỉ vậy, vào năm 2008, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tiến hành dự án
“Đại sứ nime” (“ nime mbassador”) với mục tiêu tạo hứng thú về Nhật
Bản với những người ở các quốc gia khác thông qua anime. Nhân vật mèo máy “Doraemon” đã được chọn làm Đại sứ Anime Nhật Bản19. Có thể thấy
rằng, manga đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật
Bản. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa có chủ đề manga đã
được tổ chức.
Một trong những ảnh hưởng manga mang dến là sự xuất hiện của trào
lưu cosplay ở Việt Nam. Theo tiếng nhật, cosplay là một từ tiếng Anh do
người Nhật tạo ra. Cụm từ là cách gọi ngắn của “costume play”, phát âm theo
tiếng Nhật là kosupure (コスプレ). Cụm từ dung để chỉ những người ăn mặc
và hành động giống như những nhân vật họ yêu thích trong manga, anime,
tiểu thuyết, video games, phim ảnh… Xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng đầu
những năm 2004, cosplay đã nhanh chóng được đón nhận bởi bộ phận những
thanh thiếu niên đam mê truyện tranh Nhật Bản, trò chơi điện tử và các phim
khoa học viễn tưởng. Trào lưu cosplay phát triển rất nhanh chóng, thậm chí
Nhà xuất bản Kim Đồng, một trong những bộ phận xuất bản uy tính nhất
chuyên phát hành những tác phẩm hướng tới đôc giả trẻ tuổi của nước ta, đã
tổ chức một cuộc thi cosplay vào năm 2008. Lễ hội hoa anh đào tổ chức ở Hà
Nội vào năm 2009 cũng có phần trình diễn cosplay. Theo GS. Furuta Motoo,
cosplay là phương tiện Nhật Bản sử dụng để truyền bá văn hóa cùng hàng hóa20. Từ khi du nhập đến nay, trào lưu cosplay không ngừng lan tỏa. Vào
năm 2017, trong chuỗi sự kiện kỉ niệm 60 năm thành lập, nhà xuất bản Kim
Đồng đã tổ chức lại cuộc thi cosplay mang tên “Summer Night” sau 10 năm.
28
Ngoài ra còn rất nhiều sự kiện khác dành cho những người đam mê cosplay 19https://www.mofa.go.jp/policy/culture/exchange/pop/index.html 20 Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia. Trang 369 – 390.
như Touch Summer, Natsu Matsuri, Fuyu Matsuri và nhiều lễ hội khác. Hầu
như năm nào cũng sẽ có ít nhất một sự kiện cosplay được tổ chức để cho
người hâm mộ thỏa mãn mong ước hóa trang thành nhân vật mình yêu thích.
Bên cạnh những sự kiện về cosplay, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa
với chủ đề manga Nhật Bản đã được tổ chức ở các thành phố lớn, đặc biệt là
ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo Quốc tế “Phụ nữ và truyện
tranh: Kết nối những nền văn hóa ngoài Nhật Bản” tổ chức vào năm 2012 tại
Hà Nội là một ví dụ điển hình. Hội thảo do Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản –
Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam, Dự án nghiên cứu
truyện tranh của phái nữ, chương trình asianbeat của chính quyền tỉnh
Fukuoka, hợp tác với Dự án Shojo Manga Power (Sức mạnh của truyện tranh
thiếu nữ) đã đồng tổ chức chuỗi sự kiện truyện tranh này. Sự kiện này bao
gồm triển lãm các tác phẩm manga, tọa đàm với những khách mời là họa sĩ
truyện tranh nổi tiếng và buổi hội thảo quốc tế giữa nhiều học giả danh tiếng
về manga tới từ nhiều nước. Không chỉ thế, những sự kiện về manga tiếp tục
lan rộng. Gần đây nhất, vào năm 2018, Lễ hội Văn hóa Nhật Bản do hệ thống
nhà sách danh tiếng Fahasa tổ chức trong thành phố Hồ hí Minh có chương
trình liên quan đến manga mang tên Manga Festival. Trong chương trình này,
những người hâm mộ sẽ có cơ hội giao lưu và xin chữ kí những họa sĩ yêu
thích của mình. Có bốn họa sĩ truyện tranh được mời đến trong sự kiện này,
đó là Hidenori Kusaka và họa sĩ Satoshi Yamamoto (tác giả của manga
Pokemon Special), Waka Mivama (tác giả của manga Youkai Apartment no
Yuuga na Nichijou) và Iori Sakisaka (tác giả của manga Omoi, Omoware,
Furi, Furare). Đây là những truyện tranh đã được mua bản quyền và xuất bản
ở Việt Nam. Ngoài ra, lễ hội có triển lãm nhiều tác phẩm truyện tranh đặc sắc
nhất và chiêm ngưỡng khả năng vẽ trực tiếp của họa sĩ Kaoru Mori (tác giả
29
manga Otoyomegatari) nổi tiếng.
Những sự kiện mang chủ đề văn hóa Nhật Bản không chỉ dừng lại ở
giao lưu văn hóa mà ngày càng được mở rộng thêm nhiều mảng khác. Lễ hội
Artist Day x Japan ra mắt gần đây chính là ví dụ tiêu biểu.Artist Day x Japan
là sự kiện lần đầu tổ chức vào mùa hè năm 2018 ở thành phố Hồ Chí Minh.
Sự kiện là sân chơi cộng đồng bổ ích dành cho giới trẻ, với nhiều hoạt động
đặc sắc và đề cao tính “trải nghiệm – tương tác”. Tại ngày hội này, có bốn
hoạt động chính cho người tham gia trải nghiệm. Đầu tiên là workshop dành
cho văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Đây là nơi quảng bá những loại hình
văn hóa cổ truyền, giới thiệu và hướng dẫn những người tham gia về trà đạo,
origami (nghệ thuật xếp giấy Nhật Bản), thư pháp, móc len amigurumi, cơm
cuộn – cơm nắm, trang điểm và mặc yukata truyền thống của Nhật. Hoạt động
thứ hai là triển lãm và biểu diễn. Người tham gia sự kiện sẽ có cơ hội được
tận hưởng múa cổ truyền Yosakoi, đấu võ từ CLB Akido & Kendo và biểu
diễn nhạc Jpop. Những sản phẩm như búp bê truyền thống Hina, cắm hoa
Ikebana, Origami, các mô hình chính hang figure, gundam và nhiều thứ khác
cũng đượcc trưng bày tại lễ hội. Hoạt động thứ ba là gian hàng trò chơi dân
gian. Đây là nơi mọi người có thể tham gia vào các trò chơi dân gian Nhật
Bản như Fukuwarai, vẽ chuông gió Fuurin, thử tài Kendama… Hoạt động
cuối cùng trong ngày hội này là chợ phiên họa sĩ. Đây là hoạt động đặc sắc
nhất và nổi bật nhất của ngày hội. Đây là nơi những tác phẩm được vẽ theo
nhiều phong cách, từ manga đến truyện tranh Âu Mỹ, được bày bán kinh
doanh. Những sản phẩm được bán ở đây chủ yếu là của những họa sĩ Việt
Nam. Đây là nơi có thể mua những sản phẩm độc đáo của họa sĩ như tranh
ảnh, các sản phẩm ăn theo, hay truyện tranh do họ sáng tác.
Có thể thấy rằng những hoạt động giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt
Nam được tổ chức ngày càng nhiều, với nhiều hoạt động thú vị và sôi nổi.Vào
thời gian đầu mới xuất hiện, những hoạt động này được tổ chức trong cộng
30
đồng những người hâm mộ truyện tranh hoặc có chung sở thích. Theo thời
gian, dần dần, những hoạt động này được tổ chức với qui mô ngày càng lớn
và được những tổ chức lớn, có uy tín tài trợ và được cả những người không
yêu thích truyện tranh biết tới. Bên cạnh đó, mật độ diễn ra ngày càng nhiều
hơn, nhiều khi trong một năm có thể có nhiều hoạt động giao lưu văn hóa
được tổ chức.Một điểm đáng chú ý là những hoạt động tổ chức trong những lễ
hộingày càng phong phú và chuyên nghiệp hơn. Một số sự kiện truyện tranh
càng ngày có nhiều nét tương đồng với các sự kiện truyện tranh lớn khác trên
thế giới. Điển hình như trong sự kiện Manga Festival, ban tổ chức đã mời
những họa sĩ chuyên nghiệp của Nhật Bản đến tham dự và giao lưu cùng
người hâm mộ, việc này giống với nhiều sự kiện văn hóa giải trí trên thế giới,
như Anime Expo, hội nghị anime lớn nhất Bắc Mĩhay Comic-Con, hội nghị
truyện tranh và giải trí đa thể loại lớn diễn ra ở San Diego, Mĩ. Không chỉ
vậy, bên cạnh là không gian quảng bá văn hóa Nhật Bản, những dấu hiệu về
không gian trở thành nơi các họa sĩ truyện tranh trẻ kinh doanh đã xuất hiện.
Chợ phiên họa sĩ trong lễ hội Artist Day x Japan là ví dụ tiêu biểu. Mặc dù
hiện tại, hình thức kinh doanh này chưa được mở rộng nhưng chắc hẳn sẽ phát
triển trong tương lai.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Việt Nam đã kéo
theo sự phát triển của những hoạt động giao lưu văn hóa. Từ những hoạt
động, sự kiện này, có thể nhận ra rằng sức lan tỏa của manga ngày càng lớn ở
Việt Nam. Những hoạt động giao lưu văn hóa Nhât – Việt tương tự chắc chắn
31
sẽ không ngừng được mở rộng và phát triển trong tương lai.
ƢƠ 3
NHỮNG Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA
ẾN GIỚI TRẺ VI T NAM HI N NAY
3.1. ặc điểm của địa b n v đối tƣợng nghiên cứu
Về địa bàn nghiên cứu, luận văn thực hiện khảo sát ở trường THPT
Khoa học Giáo dục thuộc thành phố Hà Nội. Nhờ đặc điếm sống ở thủ đô,
người dân có cơ hội tiếp xúc với nhiều thể loại văn học,trong đó có truyện
tranh. Hà Nội có rất nhiều hệ thống nhà sách lớn, phố sách nhằm phục vụ nhu
cầu đọc sách của người dân. Đây cũng là nơi đặt trụ sở của các nhà xuất bản
lâu đời và uy tín. Hàng năm, nhiều hội sách lớn được tổ chức, giúp người dân
có thể mua những đầu sách mình mong muốn.
Đối tượng khảo sát của luận văn là các bạn học sinh hiện đang học tại
trường THPT Khoa học Giáo dục. Đối tượng khảo sát của luận văn đang ở độ
tuổi 16 – 17 tuổi. Đối tượng khảo sát thuộc thế hệ Z, thế hệ người trẻ được
tiếp xúc với internet, mạng xã hội và những thành tựu khoa học công nghệ từ
sớm. Chính vì vậy, những bạn trẻ có may mắn tiếp xúc với truyện tranh
manga một cách dễ dàng.
3.2. Kết quả điều tra
Tổng đối tượng tham gia khảo sát là 100 người, trong đó có 45 nam và
55 nữ. Về độ tuổi, những đối tượng này hiện đang học phổ thông. Khảo sát
được thực hiện trên hai lứa tuổi chủ yếu, đó là độ tuổi 16 và độ tuổi 17. Trong
32
đó, có 58 người đang ở độ tuôi 16 và 42 người đang ở độ tuổi 17.
Hình 3.1: Độ tuổi khảo sát của luận văn
Độ tuổi khảo sát
16 tuổi
58 người
17 tuổi
42 người
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
3.2.1. Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội
Khi hỏi 100 người với câu hỏi: “Bạn đã bao giờ đọc Truyện tranh Nhật
Bản - Manga chưa?”, câu trả lời của nhận được như bảng sau:
Bảng 3.1: Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội
Giới trẻ và việc đọc Truyện
tranh Manga Số ngƣời trả lời (ngƣời)
Có 80
Đã từng 20
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Kết quả của câu hỏi cho thấy không phải đối tượng nào cũng tiếp tục
đọc truyện tranh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng hầu hết các đối tượng đã
từng đọc truyện tranh manga. Phần lớn đối tượng của cuộc điều tra vẫn duy trì
thói quen đọc truyện, trong khi đó một số ít đã ngừng đọc.
Khi hỏi rằng: “Bạn bắt đầu đọc truyện tranh manga từ khi nào?”, câu
33
trả lời nhận được như bảng sau:
Hình 3.2: Độ tuổi lần đầu tiên đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội
Đơn vị: %
Lứa tuổi bắt đầu đọc truyện tranh
2%
0%
37%
Mẫu giáo
36%
Tiểu học
Từ cấp 2
Từ cấp 3
25%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Khi nhìn vào hình 3.2, có thể nhận thấy rằngđộ tuổi bắt đầu tiếp xúc
với truyện tranh manga chủ yếu rơi vào từ mẫu giáo và cấp 2. Trong đó, số
lượng trả lời rằng đã đọc truyện từ mẫu giáo cao hơn từ cấp 2 một chút. Số
lượng người bắt đầu đọc truyện tranh từ cấp 3 là thấp nhất, chỉ với 2%. Số
lượng người đọc truyện tranh bắt đầu từ mẫu giáo là nhiều nhất, với 37%. Số
lượng người bắt đầu đọc truyện tranh từ cấp 2 là 36%, không chênh lệch số
lượng người bắt đầu từ mẫu giáo quá lớn. Số lượng người bắt đầu đọc truyện
tranh manga từ tiểu học chiếm 25%.
Đối với những người không đọc truyện tranh manga, khi được hỏi về
34
nguyên nhân ngừng đọc, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.3: Lí do không đọc truyện tranh manga nữa
Đơn vị: %
Lí do ngừng đọc truyện tranh
đọc nhiều nên chán
4%
4%
8%
không phù hợp với tuổi hiện tại
21%
quan tâm đến hình thức giải trí khác
gia đình không cho phép
muốn chú tâm vào học hành
61%
2%
ý kiến khác
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Nhìn vào biểu đồ3.3, lí do ngừng đọc vì “muốn chú tâm vào học hành” là
nguyên nhân chiếm đa số. Lí do được chọn nhiều thứ hai là “quan tâm đến hình
thức giải trí khác”. Nguyên nhân này chiếm 2%. Lí do “đọc nhiều nên chán” và
“ý kiến khác” bằng nhau, mỗi lí do chiếm 4%. Ý kiến khác của việc ngừng đọc
truyện tranh được đưa ra là không thích nữa. 8% ngừng đọc truyện tranh vì cho
rằng nó không phù hợp với độ tuổi hiện tại nữa. Lí do “gia đình không cho
phép” là lí do thấp nhất, với 2%. Biểu đồ cho thấy thói quen đọc truyện tranh ở
những đối tượng 16-17 tuổi không bị ảnh hưởng nhiều từ lí do gia đình mà chủ
yếu từ bản thân đối tượng.
Khi tìm hiểu về việc mua truyện, luận văn đưa ra câu hỏi “Bạn đã từng
35
mua truyện bao giờ chưa?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.4: Số lượng người đã từng mua truyện
Đơn vị: %
Đã từng mua truyện
0%
6%
Đã từng mua
Chưa từng mua
94%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Với câu hỏi “Bạn đã mua truyện bao giờ chưa?”, có thể thấy rằng phần
lớn đã từng mua truyện tranh. Số người đã từng mua truyện tranh chiếm 94%,
chỉ có 6% trả lời rằng chưa từng mua truyện tranh bao giờ.
3.2.2. Cảm nhận về truyện tranh manga
Việc độc giả nghĩ gì về truyện tranh manga cũng là một vấn đề quan
trọng. Khi được hỏi rằng: “Bạn thấy truyện tranh manga thế nào?”, câu trả lời
36
nhận được như sau:
Hình 3.5: Cảm nhận về truyện tranh manga
Đơn vị: %
Cảm nhận về truyện tranh manga
0%
1%
Có tính giải trí cao
5%
9%
3%
Có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh
Chỉ hợp với trẻ em
45%
Chỉ có tính giải trí chứ không truyền tải kiến thức
37%
Không tốt cho khả năng cảm nhận từ ngữ
Ý kiến khác
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Theo biểu đồ3.5, khi nhận xét về truyện tranh manga, 45% cho rằng
truyện tranh manga có tính giải trí cao. Ý kiến được nhiều người lựa chọn kế
tiếp là “có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh”. Ý kiến này chiếm
37%. 9% người được khảo sát cho rằng truyện tranh manga chỉ có tính giải trí
và không thể truyền tại kiến thức. 5% người có ý kiến khác. Những ý kiến
khác được đưa ra bao gồm “vừa có tính giải trí vừa có thể học hỏi một số điều
từ việc đọc truyện tranh” hay “có tính giáo dục”. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng
truyện tranh “bình thường” và không cảm thấy gì. 1% cho rằng truyện tranh
37
không tốt trong việc cảm nhận từ ngữ.
3.2.3. Hình thức và phương thức đọc manga
Hình thức và phương thức đọc truyện tranh là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến việc đọc truyện tranh của giới trẻ. Khi được hỏi:
“Bạn thường đọc truyện tranh bằng hình thức nào?”, câu trả lời nhận được
như sau:
Hình 3.6: Hình thức đọc truyện tranh manga
Đơn vị: %
Hình thức đọc truyện
11%
Truyện giấy
47%
Đọc online
Cả hai
42%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Nhìn vào hình3.6, về hình thức đọc truyện tranh manga, 47% người
được khảo sát trả lời rằng họ đọc cả hai hình thức, đó là truyện giấy và đọc
online. Trong đó, đọc online nhiều hơn đọc truyện giấy và chênh lệch 31%.
Từ biểu đồ, có thể nhận thấy rằng hình thức đọc trực tuyến được yêu thích
hơn đọc truyện giấy.
Để tìm hiểu về phương thức các bạn trẻ đọc truyện tranh, luận văn đã
đưa ra câu hỏi: “Bạn thường đọc truyện tranh bằng phương thức nào?”. âu
38
trả lời nhận được như sau:
Hình 3.7: Phương thức đọc truyện tranh manga
Đơn vị: %
Phương thức đọc truyện tranh
39%
37%
22%
2%
0%
Phương tiện khác
Mua truyện
Thuê truyện Mượn của bạn bè,
người quen
Đọc trên điện thoại hoặc máy tính
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Theo hình3.7, về phương thức đọc truyện tranh, hai đáp án được lựa
chọn nhiều nhất là hình thức mua truyện và hình thức đọc trên điện thoại
hoặc máy tính. Trong đó, phương thức mua truyện cao hơn 2% so với phương
thức đọc trên điện thoại. Kết quả này hơi khác với biểu đồ hình thức đọc
truyện tranh phía trên, khi hình thức đọc online được chọn nhiều hơn hình
thức truyện giấy. Có thể thấy rằng mặc dù hình thức đọc truyện trên mạng
phát triển nhưng những người thích đọc truyện tranh vẫn có thói quen mua
truyện. Phương thức mượn của bạn bè, người quen chiếm 22%. Phương thức
thuê truyện chiếm thấp nhất, chỉ có 2%. Có thể thấy rằng độc giả tự chủ về
việc đọc truyện hơn là phụ thuộc vào người khác.
3.2.4. Thời gian dành cho việc đọc manga
Thời gian độc giả trẻ tuổi dành cho việc đọc truyện tranh manga là một
vấn đề quan trong. Khi được hỏi “Bạn thường độc truện tranh trong khoảng
39
thời gian nào?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.8: Khoảng thời dành để đọc truyện tranh manga
Đơn vị: %
Khoảng thời gian đọc truyện tranh
0%
Vào giờ nghỉ giải lao
Vào buổi tối các ngày trong tuần
31%
32%
Vào buổi sáng cuối tuần
Vào buổi chiều cuối tuần
Vào buổi tối cuối tuần
9%
12%
Vào bất cứ khi nào được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6
9%
7%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ hình3.8, có thể nhận thấy rằng về khoảng thời gian dành cho việc
đọc truyện, hai lựa chọn nhiều nhất là “vào bất cứ khi nào được nghỉ từ thứ 2
đến thứ 6” và “vào giờ nghỉ giải lao”. Trong đó, thời điểm “vào bất cứ khi nào
được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6” cao hơn lựa chọn “vào giờ nghỉ giải lao” 1%.
Thời điểm “vào các buổi tối các ngày trong tuần” chiếm 12%. Thời điểm “vào
buổi tối cuối tuần” và “vào buổi chiều cuối tuần” có kết quả bằng nhau là 9%.
Thời điểm “vào buổi sáng cuối tuần” là lựa chọn thấp nhất, chiếm 7%.
Khi tìm hiểu về thời gian dành cho việc đọc manga, luận văn đặt ra câu
hỏi: “Bạn thường dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc truyện tranh?”, câu trả
40
lời như sau:
Hình 3.9: Thời gian để đọc truyện tranh manga
Đơn vị: %
Thời gian đọc truyện
0%
3%
8%
28%
Từ 5 - 10 phút
17%
Từ 15 - 20 phút
Từ 20 - 30 phút
Từ 30 - 60 phút
Hơn 1 tiếng
44%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ hình3.9, có thể thấy rằng về thời gian đọc truyện, thời gian “từ 30 –
60 phút” chiếm 44%, cao nhất trong tổng số. Tiếp d dó là hơn 1 tiếng, chiếm
28%. Còn lại là “từ 20 – 30 phút”, “từ 15 – 20 phút” và “từ 5 – 10 phút” lần
lượt là 17%, 8% và 3%. Có thể thấy rằng thời gian dành cho việc đọc truyện
không quá nhiều nhưng cũng không quá ít.
3.2.5. Địa điểm đọc truyện tranh manga
Địa điểm thường được lựa chọn để đọc truyện tranh là một yếu tố đáng chú
ý. Khi được hỏi rằng “Bạn thường đọc truyện tranh ở đâu?”, câu trả lời nhận được
41
như sau:
Hình 3.10: Địa điểm đọc truyện tranh manga
Đơn vị: %
Địa điểm đọc truyện
2%
0%
6%
14%
11%
Ở trường và trên lớp
Ở trường và thư viện
9%
Ở nhà
5%
Ở hiệu sách
Thư viện ngoài trường
8%
Ở nhà bạn bè, người quen
Ở quán cà phê
Ý kiến khác
45%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Dựa theo hình3.10, về địa điểm đọc truyện, lựa chọn “ở nhà” chiếm đa
số, chiếm 45% kết quả. Tiếp đó là ở trường và trên lớp, chiếm 14%. Địa điểm
“ở hiệu sách” chiếm 11%. Những địa điểm “ở trường và thư viện”, “ở hiệu
sách”, “ở quán cà phê” và “thư viện ngoài trường” lần lượt là 9%, 8%, 6% và
5%. Ý kiến khác chiếm 2%, ít nhất trong tổng số.
3.2.6. Yếu tố ảnh hưởng đến việc mua manga
Việc độc giả lựa chọn mua truyện bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố.
Khi tìm hiểu về nguyên nhân chọn mua một tựa truyện tranh manga, khảo sát
đã đưa ra câu hỏi: “Lý do vì sao bạn chọn mua một cuốn truyện?”, câu trả lời
42
nhận được như sau:
Hình 3.11: Lí do chọn mua một quyển truyện tranh manga
Đơn vị: %
Lí do chọn mua truyện
2%
0%
17%
17%
Minh họa bìa đẹp
Lời giới thiệu hấp dẫn
Đã từng đọc qua trên mạng
19%
Được giới thiệu
Không mua truyện bao giờ
45%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua hình3.11, khi tìm hiểu về lí do mua truyện, lí do “đã từng đọc
qua trên mạng” chiếm đa số với 45%. Tiếp đó là lí do “lời giới thiệu hấp dẫn”
chiếm 19%. Lí do “được giới thiệu” và “minh họa bìa đẹp” bằng nhau, chiếm
17%. Cuối cùng, chỉ có 2% nói rằng họ không mua truyện bao giờ. Có thể thấy
rằng việc đã từng đọc bộ truyện trên mạng ảnh hưởng đến quyết định mua.
Một vấn đề khác cần lưu tâm trong việc mua truyện tranh là người mua
có để ý về độ tuổi được ghi ở mặt sau của quyển truyện hay không. Hiện nay,
nhiều NXB đã chú thích độ tuổi để từng lứa tuổi thích hợp được tiếp cận với
loại truyện phù hợp. Khi được hỏi rằng: “Khi mua truyện, bạn có để ý độ tuổi
quy định được ghi trên mặt sau của quyển truyện tranh không?”, câu trả lời
43
nhận được như sau:
Bảng 3.2: để ý độ tuổi quy định được ghi trên mặt sau của quyển
truyện tranh
Đơn vị: %
Có Không
48% 52%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng 3.2, có thể thấy rằng khi hỏi về việc có để ý đến độ tuổi quy
định được ghi ở mặt sau quyển truyện tranh không, kết quả có sự chênh lệch.
Số lượng người trả lời là “không” chiếm đa số, chiếm 52%. Số lượng người
có để ý chiếm 48%. Mặc dù sự chênh lệch không nhiều nhưng có thể thấy
rằng đa phần người mua không để ý đến những quy định được ghi trên truyện.
3.2.7. Thói quen mua truyện tranh manga
Thói quen mua truyện tranh manga là một vấn đề cần lưu tâm. Khi hỏi
rằng “Bạn mua truyện tranh bằng cách nào?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.12: Người mua truyện tranh
Đơn vị: %
Người mua truyện
0%
8%
21%
Tự mua
Bố mẹ mua cho
Người khác mua cho
71%
44
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ hình3.12, khi tìm hiểu về người mua truyện, 71% trả lời rằng họ tự
mua truyện. Số người trả lời rằng bố mẹ mua cho chiếm 21% và người khác
mua cho chiếm 8%. Có thể nhận thấy rằng họ rất chủ động trong việc mua và
lựa chọn truyện tranh mình muốn mua. Bên cạnh đó, những truyện tranh được
đọc dựa theo sở thích và khuynh hướng của đối tượng khảo sát, ít bị ảnh
hưởng bởi định hướng của người khác.
Bên cạnh việc người mua truyện, số lượng truyện sở hữu cũng là một
vấn đề cần tìm hiểu. Khi hỏi rằng “Bạn đã mua bao nhiêu bộ truyện tranh?”,
câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.13: Số lượng truyện tranh manga sở hữu
Đơn vị: %
Số lượng truyện sở hữu
13%
30%
dưới 10 bộ
từ 10 - 20 bộ truyện
trên 20 bộ đến 30 bộ
trên 30 bộ
33%
24%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng 3.13, khi tìm hiểu về số lượng truyện tranh sở hữu, đa số nói
45
rằng họ có “trên 20 bộ đến 30 bộ”. Lựa chọn này chiếm 33%, cao nhất trong
tổng số. Tiếp đó là dưới 10 bộ, chiếm 30%. “Từ 10 – 20 bộ truyện” chiếm
24%. Lựa chọn “trên 30 bộ truyện” chiếm 13%, ít nhất trong tổng số.
Một vấn đề quan trọng khác cần tìm hiểu là số tiền các bạn trẻ chi cho
việc mua truyện tranh. Khi hỏi rằng “Trong 1 năm trở lại, trung bình bạn
dành bao nhiêu tiền cho việc mua truyện trong 1 tháng?”, câu trả lời nhận
được như sau:
Hình 3.14: Số tiền dành để mua truyện tranh manga
Đơn vị: %
Số tiền dành để mua truyện
9%
17%
Dưới 20.000 đồng
Từ 20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng
25%
Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng
21%
Từ 100.000 đồng đến dưới 200.000 đồng
Từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng
Từ 500.000 đồng trở lên
18%
10%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ biểu đồ3.14, khi tìm hiểu về số tiền chi cho việc mua truyện, đa số
nói rằng số tiền dành cho việc đó là “từ 200.000 đồng đến dưới 500.000
đồng”. Lựa chọn này chiếm 25%, cao nhất trong tổng số. Tiếp đó là “từ
20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng”, chiếm 21%. Lựa chọn “từ 100.000 đồng
46
đến dưới 200.000 đồng” và “dưới 20.000 đồng” lần lượt là 18% và 17%. Lựa
chọn “Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng” chiếm 10%. Cuối cùng, số
người nói rằng số tiền bỏ ra để mua truyện từ 500.000 đồng trở lên chiếm 9%,
ít nhất trong tổng số.
Nhìn chung, có thể thấy rằng những độc giả trẻ chủ động trong việc lựa
chọn mua truyện và không bị ảnh hưởng bởi định hướng từ người khác. Khi
hỏi về số tiền dành để mua truyện tranh, câu trả lời có sự khác biệt, nhưng số
người trả lời là “từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng” là nhiều nhất. Đây
là một số tiền tương đối cao so với những độc giả hiện vẫn đang là học sinh.
Số lượng truyện tranh manga các bạn sở hữu cũng tương đối nhiều. Hầu hết
trả lời rằng có từ 20 – 30 bộ truyện. Có thể nhận thấy rằng nhiều người rất
thích mua và đọc truyện tranh manga.
3.2.8. Xu hướng đọc truyện
Xu hướng đọc truyện tranh là một yếu tố cần tìm hiểu khi điều tra về
việc đọc truyện tranh manga của độc giả trẻ. Khi hỏi rằng:“Khi mua truyện,
bạn có thường xuyên chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc không?”, câu
trả lời nhận được như sau:
Bảng 3.3: Chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc
Đơn vị: %
Có Không
85% 15%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng 3.3, có thể thấy rằng hầu hết người được trả lời nói rằng có
chú ý đến thể loại mình đọc. Khi được hỏi về việc có thường xuyên chú ý đến
thể loại truyện tranh bản thân đọc không, 85% trả lời rằng họ có để ý và 15%
nói rằng họ không để ý.
Khi điều tra về thể loại thường được độc giả lựa chọn, khảo sát đưa ra câu
47
hỏi: “Bạn thường đọc thể loại manga nào?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.15: thể loại truyện tranh manga thường đọc
Đơn vị: %
Thể loại manga thường đọc
Thiếu nhi
7%
19%
8%
Truyện dành cho nam thiếu niên (shounen)
Truyện dành cho thiếu nữ (shoujo)
17%
Truyền dành cho nam giới trưởng thành (Seinen)
18%
Truyện dành cho nữ giới trưởng thành (Josei)
19%
12%
Truyện có chủ đề tình cảm LGBT (shounen-ai, shoujo-ai…)
ác bộ manga có yếu tố 18+
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ hình3.15, có thể nhận thấy rằng hai thể loại được yêu thích nhiều
nhất là thiếu nhi và truyện tranh hướng đến nam giới trưởng thành (seinen).
Hai thể loại này đều chiếm 19%. Tiếp đó, thể loại được yêu thích là truyện
dành chon am thiếu niên (shounen) chiếm 18%. Truyên hướng đến nữ giới
trưởng thành (josei) chiếm 17%. Tiếp theo, truyện dành cho thiếu nữ (shoujo)
chiếm 12%. Những truyện có chủ để tình cảm đồng giới (shoujo-ai, shounen-
ai…) và các truyện có yếu tố 18+ lần lượt chiếm 8% và 7%. Có thể thấy rằng
thể loại truyện tranh được ưa chuộng nhất là truyện tranh dành cho thiếu nhi.
Tiếp đó là những thể loại truyện hướng đến người trưởng thành. Những bộ
truyện có yếu tố tình cảm đồng giới và 18+ ít được quan tâm hơn những thể
loại khác.
Khi tìm hiểu về chủ đề yêu thích, khảo sát đã đưa ra câu hỏi: “ hủ đề
48
của truyện tranh bạn yêu thích là gì?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.16: Chủ đề truyện tranh manga yêu thích
Đơn vị: %
Chủ đề truyện tranh yêu thích
31%
23%
22%
17%
6%
Hài hước
Hành động
Phiêu lưu
Tình cảm
Ý kiến khác
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua hình3.16, khi tìm hiểu về chủ đề truyện tranh được yêu
thích, thể loại hành động được yêu thích nhất, chiếm 31% trong tổng số. Tiếp
đó là thể loại hài hước và tình cảm, lần lượt chiếm 23% và 22%. Thể loại
phiêu lưu cũng nhận được sự quan tâm, chiếm 17%. Ý kiến khác chiếm 6%.
Những thể loại khác được ưa chuộng bao gồm trinh thám, tâm lí, khoa học,
đời thường, giả tưởng, kì bí, siêu nhiên và kinh dị. Ngoài ra thể loại truyện do
người hâm mộ sáng tác (hay còn gọi là doujinshi) cũng được nhắc đến.
Ngoài ra, để tìm hiểu về thói quen đọc truyện tranh của nước khác, khi
được hỏi: “Ngoài truyện tranh Nhật Bản manga, bạn có đọc thể loại truyện
49
tranh khác không?”, câu trả lời nhận được như sau:
Bảng 3.4: bạn có đọc thể loại truyện tranh khác không?
Đơn vị: %
Có Không
91% 9%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Qua bảng 3.4, có thể thấy rằng hầu hết độc giả truyện tranh có đọc
những truyện từ quốc gia khác ngoài manga. Khi được hỏi về việc có đọc
những thể loại truyện tranh nào khác bên cạnh truyện tranh manga không, đa
phần trả lời là có. Số lượng trả lời “có” chiếm 91%. Số người trả lời “không”
chiếm 9%.
Để tìm hiểu về thể loại truyện tranh khác được tìm đọc, khi hỏi rầng:
“Ngoài manga, thể loại truyện tranh khác bạn đọc là gì?”, câu trả lời như sau:
Hình 3.17: Thể loại truyện tranh khác được yêu thích
Đơn vị: %
Thể loại truyện tranh khác
32%
27%
21%
19%
1%
Ý kiến khác
Truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa)
Truyện tranh Trung Quốc (Manhua)
Truyện tranh Việt Nam
Truyện tranh Mỹ (Comic book/ Graphic Novel)
50
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Quả biểu đồ 3.17, khi tìm hiểu về thể loại truyện tranh họ đọc bên cạnh
truyện tranh Nhật Bản manga, truyện tranh Việt Nam là cao nhất, chiếm 32%.
Đứng thứ 2 là truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa), chiếm 27%. Truyện tranh
Trung Quốc (Manhua) chiếm 21% và truyện tranh Mỹ (Comic book/ Graphic
novel) chiếm 19%.1% có ý kiến khác.
Việc đọc nhiều truyện tranh có ảnh hưởng đến cảm thụ các thể loại văn
học, tiểu thuyết khác hay không là một vấn đề cần quan tâm. Khi hỏi rằng “Bạn
thích đọc truyện tranh hay truyện chữ hơn?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.18: Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ
Đơn vị: %
Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ
76%
Hai loại như nhau
16%
Thích truyện chữ hơn
7%
Thích truyện tranh hơn
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua biểu đồ 3.18, có thể thấy rằng truyện tranh không ảnh
hưởng nhiều đến việc đọc truyện chữ., 76% trả lời rằng thích truyện tranh và
truyện chữ như nhau. 16% nói rằng họ thích truyện chữ hơn và 7% nói rằng
51
họ thích truyện tranh hơn.
Nhìn chung, việc đọc truyện tranh manga không có nhiều ảnh hưởng
đến văn hóa đọc tiểu thuyết và các loại hình văn học khác. Khi đọc truyện
tranh manga, độc giả rất lưu tâm đến thể loại mình đọc. Những thể loại độc
giả yêu thích rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó, ngoài truyện tranh
manga, độc giả cũng thích đọc cả những truyện tranh của quốc gia khác. Một
điều bất ngờ là truyện tranh Việt Nam nhận được đông đảo sự yêu thích. Đây
là một dấu hiệu tốt, cho thấy rằng mặc dù trên thị trường, truyện tranh manga
áp đảo về số lượng nhưng truyện tranh Việt Nam vẫn có chỗ đứng trong lòng
độc giả.
3.2.9. Thái độ gia đình đối với việc đọc manga
Khi tìm hiểu về ảnh hưởng của truyện tranh manga đến độc giả trẻ tuổi,
thái độ gia đình đối với việc đọc truyện tranh là không thể không nhắc đến.
Khi được hỏi rằng “Bố mẹ của bạn có phản đối việc bạn đọc truyện tranh
không?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.19: Thái độ gia đình đối với việc đọc manga
Đơn vị: %
Thái độ của phụ huynh về việc đọc truyện tranh
89%
6%
4%
Phản đối
Ủng hộ
Không phản đối cũng không ủng hộ
52
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua biểu đồ 3.19 về phàn ứng của phụ huynh với việc con cái
đọc truyện tranh, 89% nói rằng bố mẹ không phản đối cũng không ủng hộ.
6% trả lời rằng bố mẹ ủng hộ việc đọc truyện tranh. Chỉ có 4% nói rằng bố
mẹ phản đối việc đọc truyện tranh. Từ biểu đồ, có thể thấy rằng đa số phụ
huynh không có sự cấm đoán về việc con cái đọc truyện tranh.
Nhìn chung, phụ huynh không có nhiều ảnh hưởng đến việc học sinh
phổ thông đọc truyện tranh manga. Hầu hết bố mẹ có cách nhìn bình thường
với truyện tranh, không cấm đoán nhưng cũng không ủng hộ.
3.2.10. Những điều học được từ manga
Việc độc giả trẻ có học được gì thông qua đọc truyện tranh manga hay
không là một vấn đề thiết yếu. Khi được hỏi rằng “Bạn có học hỏi được gì từ
việc đọc truyện tranh không?”, câu trả lời nhận được là:
Bảng 3.5: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không?
Đơn vị: %
Có Không
95% 5%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng3.5, có thể thấy rằng hầu hết đều cảm thấy mình học được bài
học nào đó từ truyện tranh manga. Khi tìm hiểu về việc có học được bài học
gì từ truyện tranh không, 95% người trả lời là có. Chỉ có 5% trả lời là không.
Khi hỏi rằng “Bạn đã học được những gì từ truyện tranh?”, câu trả lời
53
nhận được như sau:
Bảng 3.6: Bài học rút ra từ việc đọc truyện tranh
Đơn vị: %
áp án %
Tình bạn, tình yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần 11%
trân trọng những người xung quanh mình hơn
Tự tin hơn vào bản thân, không bỏ cuộc khi đối mặt với khó 21%
khăn
32% Học được những kĩ năng bổ ích trong cuộc sống
29% Tất cả các ý kiến trên
7% Ý kiến khác
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng 3.6 về việc tìm hiểu về những điều học được thông qua truyện
tranh, ý kiến được lựa chọn nhiều nhất là “học được những kĩ năng bổ ích
trong cuộc sống”. Ý kiến này chiếm 32%. Đáp án “tất cả các ý kiến trên”
chiếm 29%. Ý kiến được chọn nhiều kế tiếp là “tự tin hơn vào bản thân,
không bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn”, chiếm 21%. Ý kiến “tình bạn, tình
yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần trân trọng những người
xung quanh mình hơn” chiếm 11%. Ý kiến khác chiếm 7%. Những ý kiến
khác được đưa ra bao gồm truyện tranh đem lại những cái nhìn mới và giúp
trí tưởng tượng trở nên phong phú hơn.
Ngoài ra, những cảm hứng truyện tranh manga mang đến cho độc giả là
rất quan trọng. Khi được hỏi rằng “Truyện tranh có tạo cảm hứng cho bạn làm
54
những việc gì?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.20: cảm hứng từ việc đọc truyện tranh
Đơn vị: %
Những cảm hứng từ truyện tranh
Học vẽ
Học tiếng Nhật
3%
10%
23%
Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật Bản
6%
Thiết kế thời trang như trong truyện
5%
Kết bạn với người cùng sở thích
5%
Tham gia các CLB trong trường
Dịch truyện trên mạng
19%
11%
Sáng tác những tác phẩm mô phỏng bộ truyện yêu thích
7%
11%
Hình thành thói quen đọc truyện chữ
Không có cảm hứng gì
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ biểu đồ 3.20, có thể thấy rằng truyện tranh manga đem lại nhiều
cảm hứng cho những độc giả trẻ tuổi. Khi tìm hiểu về những thứ truyện tranh
tạo cảm hứng hay động lực, học vẽ là việc được lựa chọn nhiều nhất, chiếm
23% trong tổng số. Lựa chọn nhiều thứ hai là học tiếng Nhật. Lựa chọn này
chiếm 19%. Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật và kết
bạn với người cùng sở thích đều chiếm 11%. Tiếp đó là hình thành thói quen
đọc truyện chữ, chiếm 10%. Thiết kế thời trang như trong truyện chiếm 7%.
Sáng tác những tác phẩm mô phỏng theo bộ truyện yêu thích chiếm 6%.
Tham gia các LB trong trường và dịch truyện trên mạng cùng chiếm 5%.
55
Cuối cùng, ý kiến “không có cảm hứng gì” chiếm 3%
Nhìn chung, đa số người được hỏi cho rằng bản thân có học được nhiều
bài học bổ ích từ truyện tranh manga. Bên cạnh đó, truyện tranh manga đã tạo
động lực để độc giả làm nhiều điều. Hai việc phổ biến nhất là học vẽ và học
tiếng Nhật. Có thể thấy rằng truyện tranh manga đem lại nhiều nguồn cảm
hứng tốt cho độc giả trẻ.
3.2.11. Những khía cạnh manga ảnh hưởng đến người đọc
Khi tìm hiểu về những khía cạnh truyện tranh manga ảnh hưởng đến
độc giả, kết quả có nhiều sự chênh lệch. Nghiên cứu tìm hiểu về 4 khía cạnh,
đó là giao tiếp, hành vi, ngôn ngữ và học tập. Trong đó, các nhận định về sự
nnh hưởng được chia chia làm 8 phần, đó là giao tiếp tích cực, giao tiếp tiêu
cực, hành vi tích cực, hành vi tiêu cực, ngôn ngữ tốt, ngôn ngữ xấu, học tập
tốt và học tập xấu.
3.2.11.1. Giao tiếp
Hình 3.21: Giao tiếp tích cực
Đơn vị: %
Giao tiếp tích cực
37%
36%
19%
8%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
56
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Hình 3.22: Giao tiếp tiêu cực
Đơn vị: %
Giao tiếp tiêu cực
50%
39%
8%
3%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ biểu đồ 3.21 và biểu đồ 3.22, về mặt giao tiếp, có 19% người nói
rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng tích cực đến giao tiếp. Trái lại,
8% người trả lời rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng tiêu cực đến việc giao
tiếp. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh manga không có ảnh hưởng đến giao
tiếp cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. ó 36% người trả lời rằng truyện tranh
manga ảnh hưởng không nhiều và 37% người nói rằng việc đọc truyện không
hề ảnh hưởng đến giao tiếp tích cực. Bên cạnh đó, 50% người nói rằng truyện
tranh manga không ảnh hưởng nhiều đến giao tiếp tiêu cực và 39% trả lời rằng
57
việc đọc truyện không hề ảnh hưởng đến sự giao tiếp tiêu cực.
3.2.11.2. Hành vi
Hình 3.23: Hành vi tích cực
Đơn vị: %
Hành vi tích cực
49%
24%
20%
8%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Hình 3.24: Hành vi tiêu cực
Đơn vị: %
Hành vi tiêu cực
70%
25%
3%
2%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
58
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua biểu đồ 3.23 và biểu đồ 3.24 tìm hiểu về hành vi, có 20%
người trả lời rằng việc đọc truyện tranh có ảnh hưởng đến hành vi tích cực.
Trái lại, 2% người nói rằng việc đọc truyện tranh ảnh hưởng đến hành vi tiêu
cực. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh manga không ảnh hưởng đến hành
vi cả về tích cực và tiêu cực. ó 24% người nói rằng truyện tranh manga
không có nhiều ảnh hưởng đến hành vi tích cực. Trong khi đó, 25% người cho
rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng không nhiều đến hành vi tiêu
cực. Bên cạnh đó, 49% người cho rằng đọc truyện tranh manga không hề ảnh
hưởng đến hành vi tích cực. Ngoài ra, 70% người nói rằng việc đọc truyện
tranh không hề ảnh hưởng đến hành vi tiêu cực.
3.2.11.3. Ngôn ngữ
Hình 3.25: Ngôn ngữ tốt
Đơn vị: %
Ngôn ngữ tốt
48%
26%
18%
8%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
59
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Hình 3.26: Ngôn ngữ xấu
Đơn vị: %
Ngôn ngữ xấu
73%
16%
8%
4%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua biểu đồ 3.25 và biểu đồ 3.26 về ngôn ngữ, số lượng người
cho rằng việc đọc truyện tranh manga ảnh hưởng đến ngôn ngữ tốt nhiều hơn
số người nói rằng việc đọc truyện tranh manga ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.
ó 26% người nói rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.
Trái lại, 8% người cho rầng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến ngôn ngữ
xấu. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh không có ảnh hưởng đến ngôn ngữ.
ó 18% người cho rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng không nhiều đến
ngôn ngữ tốt. Bên cạnh đó, 16% người nói rằng truyện tranh manga ít có ảnh
hưởng đến ngôn ngữ xấu. Ngoài ra, có 48% người cho rằng việc đọc truyện
tranh manga không hề ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu. ó 73% người cho rằng
60
truyện tranh manga không hề ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.
3.2.11.4. Học tập
Hình 3.27: Học tập tốt
Đơn vị: %
Học tập tốt
51%
33%
10%
6%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Hình 3.28: Học tập xấu
Đơn vị: %
Học tập xấu
70%
19%
6%
4%
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng
Không hề ảnh hưởng
Ảnh hưởng không nhiều
61
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua biểu đồ 3.27 và biểu đồ 3.28 về học tập, có 10% người cho
rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng đến việc học tập tốt. Bên
cạnh đó, 6% người cho rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến học tập
xấu. Đa số cho rằng đọc truyện tranh không ảnh hưởng nhiều đến học tập cả
tốt và xấu. ó 33% người trả lời việc đọc truyện tranh không có nhiều ảnh
hưởng đến việc học tập tốt. Bên cạnh đó, có 19% người cho rằng truyện tranh
manga có ảnh hưởng không nhiều đến việc học tập xấu. Ngoài ra, có 51%
người cho rằng việc học tập tốt. Bên cạnh đó, có 70% người cho rằng đọc
truyện tranh manga không hề ảnh hưởng đến học tập xấu.
3.2.12. Sự quan tâm đến những loại hình văn hóa Nhật Bản khác ngoài
manga
Manga là loại hình giải trí thông dụng nhất trong việc giới thiệu văn hóa
Nhật Bản đến độc giả Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh manga, còn nhiều loại
hình văn hóa khác của Nhật đã xuất hiện ở Việt Nam. Khi được hỏi“Ngoài
manga, bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu khác của
Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?”, câu trả lời như sau:
Bảng 3.7: bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu
khác của Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?”
Đơn vị: %
Có Không
82% 18%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ bảng 3.7, khi được hỏi về việc quan tâm những hình thức giải trí và
trào lưu liên quan đến Nhật khác, 82% trả lời là có. 18% trả lời là không quan
tâm. Đề tìm hiểu những loại hình văn hóa nào khác của Nhật được quan tâm,
khi được hỏi “Bạn thường quan tâm đến các hình thức giải trí hay các trào lưu
62
nào khác liên quan đến manga”, câu trả lời nhận được là:
Hình 3.29: Những loại hình văn hóa Nhật khác được quan tâm
Đơn vị: %
Những hình thức được quan tâm khác
Anime
63%
Live Action (Phim chuyển thể từ manga)
14%
11%
Sưu tầm sản phẩm ăn theo (tượng, búp bê, sticker…)
Cosplay
8%
Đáp án khác
5%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Khi tìm hiểu về những hình thức bên cạnh truyện tranh manga được
quan tâm, 63% trả lời rằng họ quan tâm đến anime. Tiếp đó, 14% nói rằng họ
quan tâm đến những bộ phim live-action, phim có nguyên tác từ truyện tranh
manga. Ngoài ra, sưu tầm các sản phẩm ăn theo như tượng hay búp bê chiếm
11%. Tham gia hoạt động cosplay chiếm 8%. Ý kiến khác chiếm 5%. Những
ý kiến khác được đưa ra bao gồm hứng thú văn hóa Nhật Bản, dòng văn học
Nhật Bản, đồ ăn và những sự kiện giao lưu khác.
Nhìn chung, có thể thấy rằng ngoài manga, văn hóa Nhật Bản được độc
giả quan tâm thông qua nhiều kênh truyền thông đại chúng khác.
3.2.13. Sự liên hệ giữa manga và Nhật Bản
Manga là một loại hình văn hóa đại chúng rất quan trọng trong chính
63
sách ngoại giao của Nhật Bản. Khi được hỏi rằng “Theo bạn, truyện tranh
manga có thể sử dụng làm tư liệu phục vụ cho nghiên cứu về văn hóa – xã hội
Nhật Bản được không?”, câu trả lời như sau:
Hình 3.30: Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không?
Đơn vị: %
Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không?
61%
38%
1%
có
tùy từng bộ
hoàn toàn không
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua hình3.30, 61% trả lời là có. 38% cho rằng tùy từng bộ mà có
thể sử dụng làm tư liệu. Chỉ có 1% trả lời là hoàn toàn không thể sử dụng làm
tư liệu nghiên cứu. Một yếu tố nữa cần chú trọng là việc manga có khiến cho
độc giả có hứng thú với Nhật Bản không. Khi hỏi rằng “Truyện tranh manga
64
có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản không?”, câu trả lời như sau:
Bảng 3.8: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến
Nhật Bản không?
Đơn vị: %
Có Không
84% 16%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua bảng 3.8, có thể thấy rằng hầu hết người đồng ý. Có 84% trả
lời là có và 16% trả lời là không. Để tìm hiểu về mối liên hệ giữa truyện tranh
manga và Nhật Bản, khảo sát đưa ra câu hỏi“Bạn có học được gì về đất nước
Nhật Bản thông qua truyện tranh không?”, câu trả lời nhận được là:
Bảng 3.9: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện
tranh không?
Đơn vị: %
Có Không
94% 6%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Thông qua bảng 3.9, có thể thấy rằng hầu hết người trả lời cho rằng họ
có thể tưởng tượng ra hình ảnh nước Nhật thông qua manga. Khi điều tra về
việc độc giả có học được gì về Nhật Bản thông qua truyện tranh manga hay
không, 94% trả lời là có. 6% trả lời là không. Để tìm hiểu về hình ảnh Nhật
Bản hiện lên qua truyện tranh, khi hỏi “Bạn thấy Nhật Bản là một đất nước
65
thể nào thông qua truyện tranh?”, câu trả lời nhận được như sau:
Hình 3.31: Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh
Đơn vị: %
Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh manga
0%
2%
8%
một đất nước bận rộn
21%
một đất nước nhiều văn hóa truyện thống
một đất nước phát triển
28%
một đất nước nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật
13%
một đất nước giàu truyền thống lịch sử
không cảm thấy gì
ý kiến khác
28%
(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)
Từ biểu đồ 3.31, có thể thấy rằng đa số độc giả đều cảm nhận được mặt
nào đó về nước Nhật thông qua truyện tranh manga. Khi tìm hiểu về hình ảnh
Nhật Bản hiện ra như thế nào thông qua truyện tranh manga, đa số trả lời
rằng thông qua truyện tranh manga, họ thấy Nhật Bản là “một đất nước nhiều
văn hóa truyền thống” và “một đất nước phát triển”. ả hai ý kiến này đều
chiếm 28%. Tiếp đó, Nhật Bản được nhìn nhận là “một đất nước giàu truyền
thống lịch sử” thông qua truyện tranh manga. Ý kiến này chiếm 21%. Tiếp
đó, ý kiến “một đất nước nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật” chiếm 13%.
66
Chỉ có 1 người trả lời rằng “không cảm thấy gì”. Ý kiến khác chiếm 2%.
Những ý kiến khác được đưa ra là “một đất nước điển hình cho sự kì thị, áp
lực của các chuẩn mực xã hội lên con người”. Bên cạnh đó, có ý kiến cho
rằng người Nhật rất tốt và văn hóa Nhật Bản cũng rất đặc sắc. Ngoài ra, có ý
kiến đồng tình với tất cả những ý nêu ở trên.
Qua các biểu đồ, có thể thấy rằng manga đem lại cho độc giả nhiều
khía cạnh của nước Nhật. Hầu hết đều cảm thấy Nhật Bản là một đất nước
67
phát triển nhưng vẫn giữ được nét truyền thống và giàu bản sắc văn hóa.
ƢƠ 4
KẾT LU N
4.1. Kết luận
Sau hai thập kỉ xâm nhập vào thị trường Việt Nam, truyện tranh manga đã
có những tác động đáng kể lên độc giả. Vì đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu, thế hệ
độc giả của truyện tranh manga cũng đã thay đổi. Mục đích chính của luận văn
là tìm hiểu tác động của truyện tranh Nhật Bản manga lên thế hệ độc giả trẻ tuổi
hiện nay, mức độ quan tâm và yêu thích đọc truyện tranh của họ, đồng thời tìm
hiểu những gì độc giả rút ra được từ việc đọc truyện tranh manga.
Sự quan tâm của độc giả với truyện tranh manga đầu tiên thể hiện
thông qua thời gian dành để đọc truyện tranh, lựa chọn thể loại truyện đề đọc
và số tiền dành để mua truyện. Về thói quen đọc, khi so sánh riêng truyện
giấy và đọc trên mạng, sô người đọc truyện trên mạng nhiều hơn đọc truyện
giấy. Có thể thấy rằng thói quen đọc truyện của người trẻ hiện nay đã có phần
thay đổi so với thế hệ trước. Điều này cũng không ngạc nhiên khi hiện giờ,
việc truy cập mạng internet dễ dàng hơn và mạng xã hội ngày càng phổ biến,
đồng thời việc sở hữu điện thoại thông minh cũng gia tăng, trái lại, số lượng
hàng thuê truyện ngày càng giảm. Những yếu tố này đã góp phần khiến độc
giả trẻ tiếp cận truyện tranh manga trên mạng dễ dàng hơn. Mặc dù việc đọc
truyện tranh trên mạng phát triển, số lượng người mua truyện tranh manga
cũng không nhỏ. Theo khảo sát, số lượng tiền dành để mua truyện và số bộ
truyện sở hữu tương đối nhiều. Qua đó, có thể thấy rằng nhiều độc giả có tình
yêu dành cho manga đủ lớn để mua sở hữu hoặc ủng hộ tác giả. Khi được hỏi
về thời gian đọc truyện tranh, hầu hết trả lời rằng họ đọc từ 30 – 60 phút. Đây
là một khoảng thời gian tương đối dài. Thông qua việc độc giả có thể dành
một khoảng thời gian dài để đọc truyện, có thể thấy rằng truyện tranh manga
là một hình thức giải trí khá được ưa chuộng. Tuy nhiên, khi so sánh với loại
68
hình giải trí khác như trò chơi điện tử, thời gian dành để đọc truyện tranh
ngắn hơn. Nhiều trò chơi điện tử bị cho rằng thường dễ thu hút người chơi,
dẫn đến việc họ bị thu hút và không để ý đến thời gian. Khi so sánh như vậy,
có thể thấy rằng việc đọc truyện tranh manga lành mạnh hơn và là một hình
thức giải trí tốt trong những lúc giải lao khi học tập hoặc làm việc. Ngoài ra,
những thể loại truyện tranh được ưa thích cũng chỉ ra được hứng thú và sự
quan tâm hiện giờ ở lứa tuổi được khảo sát.
Manga tác động lên độc giả trẻ ở một số khía cạnh. Mặc dù qua khảo
sát, đối với yếu tố giao tiếp, hành vi, ngôn ngữ và học tập, hầu hết những
người được khảo sát cho rằng việc đọc truyện tranh không ảnh hưởng nhiều
hoặc không hề ảnh hưởng đến những yếu tố đó, nhưng những điều manga
đem đến cho độc giả không nhất thiết là những bài học mang tính áp dụng vào
thực tiễn hay giáo dục, những bài học đó có thể là về cách sống, đức tính, gợi
mở trí tưởng tượng và đem lại cái nhìn mới.Thông qua manga, độc giả học
được những bài học bổ ích về những đức tính tốt, những hướng nhìn mới về
cuộc sống để phát triển bản thân và trở thành một người tốt hơn. Khía cạnh
tiếp theo manga ảnh hưởng là những nguồn cảm hứng. Thông qua khảo sát,
có thể thấy rằng manga là nguồn động lực cho nhiều độc giả thử tham gia
nhiều hoạt động hay hình thành sở thích mới. Những cảm hứng đến từ việc
đọc manga tiêu biểu là học vẽ và học tiếng Nhật. Nhìn chung, có thể nhận thấy
rằng những ảnh hưởng manga mang lại thường là những yếu tố tinh thần, như
những bài học để hình thành nhân sinh quan hoặc những nguồn cảm hứng mới.
Về khía cạnh kinh tế, manga cũng là một ấn phẩm quan trọng đối với những
nhà xuất bản. Lợi nhuận từ phát hành manga đóng góp đáng kể vào tổng doanh
thu của các NXB. Lứa tuổi thiếu niên và trưởng thành là đối tượng chủ yếu
được NXB nhắm đến vì đây là đối tượng chủ động trong kinh tế.
Bên cạnh những tác động nhất định lên độc giả, sự phổ biến của manga
ở Việt Nam đã kéo theo nhiều yếu tố khác. Về phía độc giả Việt Nam, manga
69
là một trong những công cụ đã đưa hình ảnh nước Nhật đến với độc giả Việt
Nam. Thông qua truyện tranh, người đọc có thể hiểu được một vài khía cạnh
về Nhật Bản. Từ việc đọc truyện tranh, độc giả có thể hình thành và đưa ra
nhiều nhận định thú vị về nước Nhật. Sự yêu thích đối với loại hình giải trí
này đã kéo theo nhiều hoạt động giao lưu văn hóa có chủ đề truyện tranh.
Những trào lưu như cosplay đã xuất hiện và ngày càng thu hút nhiều người
hơn. Những người yêu thích cosplay đã tập hợp thành một cộng đồng, cùng
chia sẻ, chung vui và thỏa mãn sở thích hóa thân thành các nhân vật yêu thích.
Các hoạt động giao lưu văn hóa Việt – Nhật phát triển ở Việt Nam. Nhiều
hoạt động giao lưu văn hóa thường sẽ có một số hoạt động gắn với manga.
Đặc biệt hơn nữa, gần đây, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa đã xuất hiện
những gian hàng dành cho họa sĩ Việt Nam. Việc này từ trước đến nay chưa
có. Đây là một dấu hiệu tốt cho họa sĩ, độc giả Việt Nam và những người yêu
thích truyện tranh.
Cuối cùng, luận văn hi vọng đưa ra được một số khuyến nghị cho
những nghiên cứu rong tương lai. Luận văn hi vọng có thể đem đến một cách
nhìn mới về mối quan hệ giữa truyện tranh và độc giả.
4.2. Khuyến nghị
Luận văn đưa ra một số khuyến nghị cho các độc giả của truyện tranh,
nhà xuất bản và những nghiên cứu có chủ đề manga trong tương lai.
Đối với độc giả trẻ, mặc dù manga là một thể loại giải trí tốt, những độc
giả trẻ nên biết phân bổ thời gian hợp lý và cân bằng giữa việc đọc truyện tranh
với các hoạt động khác, không quá sa đà vào “thế giới ảo” mà truyện tranh xây
dựng. Ngoài ra, khi lựa chọn truyện để đọc, độc giả cần lựa chọn một cách sáng
suốt để chọn được bộ truyện có ích và phù hợp với bản thân. Ngoài việc cân
bằng thời gian giải trí và học hành, những độc giả cũng cần chú ý đến số tiền
bỏ ra khi mua truyện.
Đối với các nhà xuất bản và các cấp quản lý, cục xuất bản cần quan tâm
70
hơn nữa tới việc quy định độ tuổi đối với các đầu truyện manga trước khi được
phát hành. Một khung quy định rõ ràng ở độ tuổi nào thì đọc những truyện nào
là rất cần thiết để các độc giả trẻ có thể đọc những cuốn truyện phù hợp với độ
tuổi của mình.
Đối với những nghiên cứu trong tương lai, những nghiên cứu có thể
khai thác ảnh hưởng của truyện tranh manga lên sự phát triển của truyện tranh
Việt Nam chứ không chỉ riêng lên giới trẻ, sự thay đổi về cách tiếp nhận truyện
tranh manga thay đổi qua từng thế hệ và nhiều khía cạnh khác. Ngoài ra, những
nghiên cứu về truyện tranh tương tự có thể nghiên cứu về truyện tranh Việt
Namvà sự phát triển của loại hình này.
Luận văn hi vọng có thể mang lại cách nhìn mới về tác động của
71
truyện tranh manga đến độc giả Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO
I. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt
1. Đặng ao ường (2015), Nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh
của Nhà xuất bản Kim Đồng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
2. Hà Hương (2012), Làn sóng Hàn Quốc: thành công của văn hóa đại
chúng, Truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoa/lan-song-han-quoc-
thanh-cong-cua-van-hoa-dai-chung-49137.html
3. Hạ Thị Lan Phi (2012), Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt
Nam hiện nay, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
4. Hạ Thị Lan Phi (2017), Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh
phổ thông tại thành phố Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội.
5. Hằng Nga (2011), Nhật Bản tìm kiếm sự cân bằng giữa quyền lực mềm
và cứng, Truy xuất từ http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-dong-
bac-a/1806-1806
6. Hoàng Minh Lợi (2013), Quan điểm của Nhật Bản và Hàn Quốc về
"quyền lực mềm", Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
7. Hoàng Minh Lợi (2013), Đối sách của Nhật Bản về sự gia tăng quyền
lực mềm (từ năm 2000 đến nay), Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. Truy
xuất từ http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-dong-bac-a/1806-1806
8. Ngô Phương nh (2015), Chiến lược quảng bá sức mạnh mềm của Nhật
Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử
số 9-2015. Truy xuất từ http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-
te/item/1497-chien-luoc-quang-ba-suc-manh-mem-cua-nhat-ban-va-
kinh-nghiem-doi-voi-viet-nam.html
9. Ngô Thanh Mai (2018), Tác động văn hóa của truyện tranh tới trẻ em
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án tiến
72
sĩ, đã được sự cho phép của tác giả.
10. Nông Thế Linh (2011), Hình và nét trong thiết kế tranh truyện. Luận văn
thạc sĩ mỹ thuật công nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.
11. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc
gia.
12. Phạm Thủy Tiên (2016), Ngoại giao văn hóa (Cultural diplomacy), Truy
xuất từ http://nghiencuuquocte.org/2016/01/23/ngoai-giao-van-hoa-
cultural-diplomacy/
13. Trần Thị Thu Hà (2012), Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với
chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại
Ngữ 28 (2012) 185-193
14. Võ Thị Mai Thuận (2012), Sức mạnh mềm Nhật Bản những năm đầu thế
kỷ 21, Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Yamada, S. (2014), Nghiên cứu Nhật Bản qua Manga (truyện tranh) và
Anime (hoạt hình) Nhật Bản, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản- Viện
nghiên cứu Đông Bắc Á http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=755,
Ngô Hương Lan dịch
16. Yuichiro, K. (2014), Giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật Bản từ năm
1990 đến nay: Nghiên cứu trường hợp Manga Nhật Bản được phát hành
tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Lễ hội văn hóa Nhật Bản, truy xuất từ https://www.fahasa.com/le-hoi-
van-hoa-nhat-ban-manga
18. Có gì hot tại [MANGA FESTIVAL IN VIETNAM] lần đầu tổ chức ở Việt
Nam. truy xuất từ http://truyenbanquyen.com/2018/01/21/co-gi-hot-
tai%E3%80%90manga-festival-in-vietnam%E3%80%91lan-dau-to-
73
chuc-o-viet-nam/
II. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh
19. Bragg, S., Kehily, M. J., & Buckingham, D. (2014), Youth Cultures in
the Age of Global Media, Palgrave Macmillan
20. Garcia, H. (2010), A Geek in Japan, Tuttle Publishing.
21. Gravett, P. (2004), Manga: Sixty Years of Japanese Comics, Laurence
King Publishing
22. Iwabuchi, K. (2002), “Soft” nationalism and narcissism: Japanese
popular culture goes global, truy xuất từ
https://www.blackwellpublishing.com/content/BPL_Images/Journal_Sa
mples2/ASRE1035-7823~26~4/138.PDF
23. Kelts, R (2006), Japanamerica: How Japanese Pop Culture Has Invaded
the U.S, St. Martin's Press.
24. Kinsella, S. (2000), Adult Manga: Culture and Power in Contemporary
Japanese Society, Curzon Press.
25. McGray, D. (2009), Japan’s Gross National Cool, Foreign Policy. Truy
cập ngày 4 tháng 4 năm 2019
26. Nakamura, T. (2013), Japan’s New Public Diplomacy: Coolness in
Foreign Policy Objectives. truy xuất từ https://www.lang.nagoya-
u.ac.jp/media/public/mediasociety/vol5/pdf/nakamura.pdf
27. Schodt, F, L. (1983), Manga! Manga! The World of Japanese Comics,
Kodansha International.
28. Schodt, F, L. (1996), Dreamland Japan: Writings on Modern Manga,
Stone Bridge Press
29. Special issue: cultural diplomacy: beyond the national interest?, truy
xuất từ https://www.cultureinexternalrelations.eu/cier-
data/uploads/2016/08/Report17.pdf
30. Japan International Manga Award, truy xuất từ https://www.manga-
74
award.mofa.go.jp/index_e.html
PHỤ LỤC 1
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
I. hông tin ngƣời đƣợc phỏng vấn
- Họ và tên: Đặng ao ường
- Tuổi: 28
- Nghề nghiệp: BTV truyện tranh
II. N i dung phỏng vấn
Hỏi: Anh đã làm biên tập viên bao lâu rồi ạ?
Trả lời: Mình gắn bó với nghề được khoảng 3 năm rồi.
Hỏi: Vì sao anh lại yêu thích và quyết định gắn bó với Manga?
Trả lời: Vì ở truyện tranh chúng ta sẽ học được rất nhiều những bài học
không có ở bất cứ đâu, về tình bạn, tình đồng đội, tình yêu quê hương, đất
nước và quan trọng nhất là những trải nghiệm của bản thân mỗi khi đồng
hành cùng các nhân vật trong quá trình khẳng định bản thân mình. hưa kể
manga cũng là một kho kiến thức lịch sử, văn hóa nghệ thuật, khoa học vô
cùng phong phú.
Hỏi: Truyện tranh mang về doanh thu cho NXB như thế nào?
Trả lời: Về doanh thu, truyện tranh manga chiếm khoảng 40% doanh số, so
với các mảng sách khác.”
Hỏi: Tiền bản quyển truyện tranh chiếm bao nhiêu?
Trả lời: Tiền bản quyền nằm trong phần doanh thu. Tiền này không rõ lắm vì
nó nằm trong hợp đồng với đối tác, không thể tiết lộ.
Hỏi: Vì sao NXB ưu tiên lựa chọn mua bản quyền manga để xuất bản mà
75
không lựa chọn truyện tranh của nước khác?
Trả lời: Có một số yếu tố. Đầu tiên, về hình thức, truyện tranh Nhật Bản rất
đa dạng. Hiện giờ, truyền tranh Hàn Quốc đã chuyển sang thể loại webtoon
(truyện tranh đăng trên mạng), ít ra sách giấy, khiến cho việc du nhập và phát
hành ở Việt Nam khó khăn hơn. Truyện tranh Trung Quốc không còn đầu
sách nào đủ ấn tượng và cũng đang dần chuyển sang webtoon nên không có
sách cho NXB của Việt Nam mua. Yếu tố thứ hai là nội dung. Hàn Quốc và
Trung Quốc chỉ là hai nước đi sau nước Nhật. Truyện tranh Hàn Quốc và
truyện tranh Trung Quốc có quá nhiều đề tài trùng lặp với truyện Nhật. Trong
khi đó, truyện tranh Nhật có quá nhiều yếu tố nổi bật. Ngoài ra, văn hóa Nhật
Bản có nhiều nét tương đồng văn hóa với Việt Nam.Về nét đặc sắc trong văn
hóa Nhật Bản, Nhật Bản là đất nước vẫn giữ được truyền thống cho đến bây
giờ. Yếu tố truyền thống của Nhật là yếu tố thu hút tất cả các quốc gia khác
chứ không chỉ Việt Nam. Bên cạnh đó,văn hóa Nhật Bản được lồng ghép vào
truyện tranh rất khéo léo. Ví dụ như các ngày lễ truyền thống của Nhật, hình
ảnh samurai, ninja, biểu tượng của Nhật như hoa anh đào đều được đưa vào
truyện tranh Nhật Bản một cách khéo léo và tinh tế. Ngoài ra, một lí do đơn
giản nữa là ở Nhật đã là một ngành công nghiệp, hay còn gọi là “ngành công
nghiệp không khói”. Nền công nghiệp này đã có lịch sử phát triển nhiều năm.
Ngoài ra, giá thành của truyện Nhật cũng rẻ hơn nhiều so với truyện nước
khác.
Hỏi: Vậy tại sao NXB không lựa chọn xuất bản mua những truyện tranh của
các nước phương Tây?
Trả lời: Đối với truyện tranh phương Tây, thể loại truyện này phát triển theo
một dòng khác. Nét vẽ và nội dung khó để tiếp cận với độc giả Việt Nam. Nét
vẽ trong truyện tranh phương Tây mang phong cách tả thực rất nhiều, nội
76
dung thì phức tạp hơn. hưa kể, về giá thành, truyện tranh Nhật có giá rẻ hơn
so với truyện tranh phương Tây hay truyện tranh webtoon của Hàn Quốc và
Trung Quốc.
Hỏi: Từ trước và sau khi công ước Bern, manga xuất bản ở Việt Nam có thay
đổi gì không?
Trả lời: 100% ý thức tôn trọng bản quyền đã được nâng cao. Mặc dù tình
trạng đọc không bản quyền trên mạng vẫn còn nhưng sách giấy hoàn toàn đã
không còn việc in lậu. Không còn NXB nào còn in truyện tranh không bản
quyền nữa. ách đây 1-2 năm còn một vài NXB nhưng bây giờ là không còn
nữa. Đây là yếu tố nổi cộm nhất.
Hỏi: Thể loại thường được lựa chọn để xuất bản ở Việt Nam là gì?
Trả lời: Rất nhiều, hành động, giả tưởng, phiêu lưu, trinh thám…
Hỏi:Lứa tuổi thịnh hành nhất là khoảng bao nhiêu?
Trả lời: Lứa tuổi thịnh hành nhất bao giờ cũng là lứa tuổi 14 tuổi đến 24 tuổi.
Thiếu nhi thụ động trong việc mua truyện vì được bố mẹ mua cho. Đối tượng
có khả năng mua truyện là những lứa tuổi từ 14 đến 24 tuổi.
Hỏi: Anh có thể cho biết mỗi năm NXB phát hành bao nhiêu quyển truyện
tranh manga được không?
Trả lời: Mỗi năm, trung bình ở Việt Nam có khoảng 400 quyển truyện tranh
manga được xuất bản, không kể tái bản.
77
Rất cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này!
PHỤ LỤC 2
BẢNG HỎI VỀ THÓI QUEN C TRUY N TRANH NH T BẢN (MANGA) CỦA H C SINH TRUNG H C PHỔ THÔNG HÀ NỘI HI N NAY Chào bạn! Tôi là nghiên cứu sinh của trường ĐH Việt- Nhật. Hiện nay, tôi
đang làm luận văn với đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của truyện tranh Nhật
Bản (manga) đến giới trẻ Việt Nam” và rất cần sự đóng góp của bạn thông qua
bảng hỏi này. Bạn hãy trả lời các câu hỏi bằng cách đánh dấu “X” vào những
câu trả lời trắc nghiệm và viết câu trả lời đối với những câu hỏi mở rộng.
Rất cảm ơn sự đóng góp của bạn!
I. hông tin ngƣời đƣợc phỏng vấn
Tuổi:
Giới tính: Nam Nữ
Học lớp :
II. N i dung câu hỏi
Câu 1: Bạn đã bao giờ đọc Truyện tranh Nhật Bản- Manga chưa?
a. Có (chuyển sang câu 1a)
b. Đã từng đọc nhưng hiện tại không còn đọc nữa(chuyển câu 1b)
Câu 1a: Bạn bắt đầu đọc truyện tranh manga từ khi nào?
a. Mẫu giáo
b. Tiểu học
78
c. Từ cấp 2
d. Từ cấp 3
Câu 1b: Tại sao bạn không đọc truyện tranh nữa?
a. Đọc nhiều nên chán.
b. Cảm thấy truyện tranh không phù hợp với tuổi hiện tại.
c. Quan tâm đến hình thức giải trí khác.
d. Gia đình không cho phép.
e. Muốn chú tâm vào học hành.
f. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể):
…………………………………..
Câu 2: bạn đã mua truyện bao giời chƣa
a. Có
b. Không
Câu 3: Bạn thấy truyện tranh Manga thế nào?
a. Có tính giải trí cao
b. Có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh
c. Chỉ hợp với trẻ con
d. Chỉ có tính giải trí chứ không truyền tải kiến thức
e. Không tốt cho khả năng cảm nhận từ ngữ
f. Nếu có ý kiến khác xin nêu cụ thể:
79
……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………
Câu 4: Bạn thƣờng đọc truyện tranh bằng hình thức nào? (Có thể
chọn nhiều đáp án)
a. Truyện giấy
b. Đọc online
c. Đọc cả 2 hình thức
Câu 5: Bạn thường đọc truyện tranh bằng phương thức nào? (Có thể
chọn nhiều đáp án)
a. Mua truyện
b. Thuê ở hàng truyện
c. Mượn của bạn bè, người quen
d. Đọc trên điện thoại hoặc máy tính
e. Phương tiện khác (xin cho biết cụ thể)
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 6. Bạn thƣờng đọc truyện tranh trong khoảng thời gian nào? (có
thể chọn nhiều đáp án)
a. Vào giờ nghỉ giải lao
b. Vào buổi tối các ngày trong tuần
80
c. Vào buổi sáng cuối tuần
d. Vào buổi chiều cuối tuần
e. Vào buổi tối cuối tuần
f. Đọc vào bất cứ khoảng thời gian nào được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6
Câu 7. Bạn thƣờng đọc truyện tranh ở đâu?(Có thể chọn nhiều đáp
án)
a. Ở trường và trên lớp
b. Ở trường và thư viện
c. Ở nhà
d. Ở hiệu sách
e. Thư viện ngoài trường học
f. Ở nhà bạn bè, người quen
g. Ở quán cà phê
h. Ý kiến khác
Câu 8: Bạn thƣờng dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc truyện
tranh?
a. Từ 5 – 10 phút
b. Từ 15 – 20 phút
c. Từ 20 – 30 phút
d. Từ 30 – 60 phút
81
e. Hơn 1 tiếng
Câu 9: Lý do vì sao bạn chọn mua m t cuốn truyện?
a. Minh họa bìa đẹp
b. Lời giới thiệu hấp dẫn
c. Đã từng đọc qua trên mạng nên mua
d. Được người khác giới thiệu
e. Không mua truyện bao giờ (chuyển tiếp xuống câu 14)
Câu 10.Khi mua truyện, bạn có để ý đ tuổi quy định đƣợc ghi trên
mặt sau của quyển truyện tranh không?
a. Có
b. Không
Câu 11.Bạn mua truyện tranh bằng cách nào?
a. Tự mua
b. Bố mẹ mua cho
c. Người khác mua cho
Câu 12.Bạn đã mua bao nhiêu b truyện tranh?
a. Dưới 10 bộ
b. Từ 10 – 20 bộ truyện
c. trên 20 bộ đến 30 bộ
82
d. trên 30 bộ
Câu 13. rong năm trở lại, trung bình bạn dành bao nhiêu tiền cho
việc mua truyện trong 1 tháng?
a. Dưới 20.000 đồng
b. Từ 20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng
c. Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng
d. Từ 100.000 đồng đến dưới 200.000 đồng
e. Từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng
f. Từ 500.000 đồng trở lên
Câu 14.Bạn có thƣờng xuyên chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc
không?
a. Có
b. Không
Câu 15: Bạn thƣờng đọc thể loại manga nào? (có thể chọn nhiều đáp
án)
a. Thiếu nhi
b. Truyện dành cho nam thiếu niên (Shounen)
c. Truyện dành cho thiếu nữ (Shoujo)
d. Truyện dành cho nam giới trưởng thành (Seinen)
e. Truyện dành cho nữ giới trưởng thành (Josei)
83
f. Truyện có chủ đề tình cảm LGBT (shounen-ai, shoujo-ai…)
g. Các bộ manga có yếu tố 18+ (…)
Câu 16: Chủ đề của truyện tranh bạn yêu thích là gì? (có thể chọn
nhiều đáp án)
a. Hài hước
b. Hành động
c. Phiêu lưu
d. Tình cảm
e. Ý kiến khác (xin hãy nêu rõ)
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 17: Ngoài truyện tranh Nhật Bản manga, bạn có đọc thể loại
truyện tranh khác không?
a. Có (chuyển sang câu 17a)
b. Không.
Câu 17a: Ngoài manga, thể loại truyện tranh khác bạn đọc là gì?
a. Truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa)
b. Truyện tranh Trung Quốc (Manhua)
c. Truyện tranh Việt Nam
84
d. Truyện tranh Mỹ (Comic book / Graphic Novel)
e. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể)
……………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Câu 18. Bạn thích đọc truyện tranh hay truyện chữ hơn?
a. Truyện tranh
b. Truyện chữ
c. 2 loại như nhau
Câu 19.Bố mẹ của bạn có phản đối việc bạn đọc truyện tranh không?
a. Phản đối
b. Không phản đối nhưng cũng không ủng hộ
c. Ủng hộ
Câu 20: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không?
a. Có (chuyển sang câu 20a)
b. Không
Câu 20a: Bạn đã học được những gì từ truyện tranh?
a. Tình bạn, tình yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần trân
trọng những người xung quanh mình hơn
85
b. Tự tin hơn vào bản thân mình, không bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn
c. Học được những kĩ năng bổ ích trong cuộc sống
d. Tất cả các ý kiến trên
e. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể)
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu20.Truyện tranh có tạo cảm hứng cho bạn làm những gì?(Có thể
chọn nhiều đáp án)
a. Học vẽ
b. Học tiếng Nhật
c. Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật Bản
d. Thiết kế thời trang như trong truyện
e. Kết bạn với người cùng sở thích
f. Tham gia các LB trong trường
g. Dịch truyện trên mạng
h. Sáng tác những tác phẩm mô phỏng bộ truyện yêu thích
i. ó thói quen đọc, từ truyện tranh chuyển sang đọc thêm truyện chữ
86
j. Không có cảm hứng gì
Mức độ ảnh hưởng
Ảnh hưởng
Rất ảnh hưởng Không hề ảnh hưởng Ảnh hưởng không nhiều
Câu 21.Truyện tranh đã ảnh hƣởng đến bạn nhƣ thế nào qua những nhận định sau? (đánh dấu x vào mức đ ảnh hƣởng) Các nhận định về sự ảnh hưởng Giao tiếp tích cực (ghi cụ thể) Giao tiếp tiêu cực Hành vi tích cực Hành vi tiêu cực Ngôn ngữ tốt Ngôn ngữ xấu Học tập tốt Học tập xấu
Cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, yêu đương,… ảnh hưởng đến đời sống tinh thần,… tư duy, lối sống,…
Câu 22: Ngoài Manga, bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí
hay các tr o lƣu khác của Nhật Bản có liên quan đến manga hay
không?
f. Có (chuyển sang câu 22a)
g. Không
Câu 22a: Bạn thƣờng quan tâm đến các hình thức giải trí hay các trào
lƣu n o khác liên quan đến Manga? (có thể chọn nhiều đáp án)
a. Anime (hoạt hình Nhật Bản)
b. Live Action (phim chuyển thể từ Manga)
87
c. Sưu tầm sản phẩm ăn theo (vd: tượng, búp bê, sticker…)
d. Cosplay
e. Đáp án khác (vui lòng nêu rõ)
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Câu 23: Theo bạn, truyện tranh Manga có thể sử dụng làmtư liệu phục
vụ cho nghiên cứu về văn hóa- xã hội Nhật Bản được không?
a. Có
b. Tùy từng bộ truyện cũng như nội dung.
c. Hoàn toàn không thể.
Câu 24: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản
không?
a. Có
b. Không
Câu 25: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện
tranh không?
a. Có.
b. Không.
Câu 26: Bạn thấy Nhật Bản là một đất nước thế nào thông qua truyện
tranh? (được chọn nhiều đáp án)
a. Một đất nước nhiều văn hóa truyền thống.
b. Một đất nước bận rộn.
c. Một đất nước phát triển
d. Một đất nước nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật
88
e. Một đất nước giàu truyền thống lịch sử
f. Không cảm thấy gì.
g. Ý kiến khác (xin hãy cho biết cụ thể)
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
89
………………………………………………………………………………