ĐẠI H QU GI H N I

ƢỜ

DOÃN HẢ Ƣ

Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH

NH T BẢ (MA A) ỐI VỚI GIỚI TRẺ

VI T NAM – ƢỜNG HỢP ƢỜNG

THPT KHOA H C GIÁO DỤC

KHU VỰC H C – VI T NAM H C

i

ĐẠI H QU GI H N I

ƢỜ

DOÃN HẢ Ƣ

Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH

NH T BẢ (MA A) ỐI VỚI GIỚI TRẺ

VI T NAM – ƢỜNG HỢP ƢỜNG

THPT KHOA H C GIÁO DỤC

T NAM H C

M Ố Í ỂM

ƢỜ ƢỚ A

. Ũ M A

i

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ẦU

ƢƠ : TỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT ............................................. 1

1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa .............................................................. 1

1.2. Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản ........................................................ 3

1.3. Khái niệm truyện tranh Nhật Bản - Manga ....................................... 6

1.4. Những nghiên cứu trƣớc đó về truyện tranh Nhật Bản .................. 11

1.4.1. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản trên thế giới ............ 11

1.4.2. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản ở Việt Nam ............. 14

ƢƠ : TÌNH HÌNH TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA Ở

VI T NAM ..................................................................................................... 19

. . Manga đƣợc phổ biến trên thế giới ................................................... 19

. . Manga đƣợc phổ biến ở Việt Nam .................................................... 21

.3. iao lƣu văn hóa hật Bản ở Việt Nam thông qua truyện tranh .. 27

ƢƠ 3: NHỮNG Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH NH T

BẢ MA A ẾN GIỚI TRẺ VI T NAM HI N NAY ........................ 32

3. . ặc điểm của địa b n v đối tƣợng nghiên cứu ............................... 32

3.2. Kết quả điều tra................................................................................... 32

3.2.1. Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội ........ 33

3.2.2. Cảm nhận về truyện tranh manga ................................................... 36

3.2.3. Hình thức và phương thức đọc manga ............................................ 38

3.2.4. Thời gian dành cho việc đọc manga ............................................... 39

3.2.5. Địa điểm đọc truyện tranh manga ................................................... 41

3.2.6. Yếu tố ảnh hưởng đến việc mua manga ......................................... 42

3.2.7. Thói quen mua truyện tranh manga ................................................ 44

3.2.8. Xu hướng đọc truyện ...................................................................... 47

3.2.9. Thái độ gia đình đối với việc đọc manga........................................ 52

3.2.10. Những điều học được từ manga .................................................... 53

3.2.11. Những khía cạnh manga ảnh hưởng đến người đọc ..................... 56

3.2.11.1. Giao tiếp ................................................................................. 56

3.2.11.2. Hành vi .................................................................................... 58

3.2.11.3. Ngôn ngữ ................................................................................ 59

3.2.11.4. Học tập .................................................................................... 61

3.2.12. Sự quan tâm đến những loại hình văn hóa Nhật Bản khác ngoài

manga ........................................................................................................ 62

3.2.13. Sự liên hệ giữa manga và Nhật Bản ............................................. 63

ƢƠ 4 : KẾT LU N ........................................................................... 68

4.1. Kết luận ................................................................................................ 68

4.2. Khuyến nghị ......................................................................................... 70

DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO ..................................................... 72

PHỤ LỤC 1 .................................................................................................... 75

PHỤ LỤC 2 .................................................................................................... 78

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội ....... 33

Bảng 3.2: để ý độ tuổi quy định được ghi trên mặt sau của quyển truyện tranh

......................................................................................................................... 44

Bảng 3.3: hú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc ...................................... 47

Bảng 3.4: bạn có đọc thể loại truyện tranh khác không? ................................ 50

Bảng 3.5: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không? ............... 53

Bảng 3.6: Bài học rút ra từ việc đọc truyện tranh ........................................... 54

Bảng 3.7: bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu khác

của Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?” ...................................... 62

Bảng 3.8: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản

không? ............................................................................................................. 65

Bảng 3.9: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện tranh

không? ........................................................................................................................... 65

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Độ tuổi khảo sát của luận văn ......................................................... 33 Hình 3.2: Độ tuổi lần đầu tiên đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội . 34 Hình 3.3: Lí do không đọc truyện tranh manga nữa ....................................... 35 Hình 3.4: Số lượng người đã từng mua truyện ............................................... 36 Hình 3.5: Cảm nhận về truyện tranh manga ................................................... 37 Hình 3.6: Hình thức đọc truyện tranh manga .................................................. 38 Hình 3.7: Phương thức đọc truyện tranh manga ............................................. 39 Hình 3.8: Khoảng thời dành để đọc truyện tranh manga ................................ 40 Hình 3.9: Thời gian để đọc truyện tranh manga ............................................. 41 Hình 3.10: Địa điểm đọc truyện tranh manga ................................................. 42 Hình 3.11: Lí do chọn mua một quyển truyện tranh manga ........................... 43 Hình 3.12: Người mua truyện tranh ................................................................ 44 Hình 3.13: Số lượng truyện tranh manga sở hữu ............................................ 45 Hình 3.14: Số tiền dành để mua truyện tranh manga ...................................... 46 Hình 3.15: thể loại truyện tranh manga thường đọc ....................................... 48 Hình 3.16: Chủ đề truyện tranh manga yêu thích ........................................... 49 Hình 3.17: Thể loại truyện tranh khác được yêu thích ................................... 50 Hình 3.18: Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ ...................................... 51 Hình 3.19: Thái độ gia đình đối với việc đọc manga ...................................... 52 Hình 3.20: cảm hứng từ việc đọc truyện tranh ............................................... 55 Hình 3.21: Giao tiếp tích cực .......................................................................... 56 Hình 3.22: Giao tiếp tiêu cực .......................................................................... 57 Hình 3.23: Hành vi tích cực ............................................................................ 58 Hình 3.24: Hành vi tiêu cực ............................................................................ 58 Hình 3.25: Ngôn ngữ tốt ................................................................................. 59 Hình 3.26: Ngôn ngữ xấu ................................................................................ 60 Hình 3.27: Học tập tốt ..................................................................................... 61 Hình 3.28: Học tập xấu ................................................................................... 61 Hình 3.29: Những loại hình văn hóa Nhật khác được quan tâm .................... 63 Hình 3.30: Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không? ............................... 64 Hình 3.31: Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh ............................ 66

LỜ AM A

Tôi xin cam đoan nội dung được trình bày trong luận văn là kết quả

nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của . . ũ

Minh Giang.

Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với

bất kì công trình nào đã được công bố.

Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019

Tác giả luận văn

Doãn Hải Thư

LỜI CẢM Ơ

Tôi muốn gửi lời cảm ơn đến những người đã giúp đỡ tôi trong quá

trình viết luận văn. Nếu thiếu sự giúp đỡ và động viên của họ, tôi sẽ không thể

hoàn thiện luận văn này.

Đầu tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến các thầy cô của trường Đại học

Việt – Nhật đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi thực hiện luận văn. Tôi muốn gửi

lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ tôi trong quá trình thực

hiện luận văn.

Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng

dẫn của tôi, GS. TSKH Vũ Minh Giang, đã giúp đỡ tôi trong quá trình làm

luận văn. Tôi không thể nào hoàn thành luận văn nếu thiếu sự giúp đỡ và

những lời gợi ý của thầy.

Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến biên tập viên của nhà xuất bản

Kim Đồng đã cho phép tôi được phỏng vấn, thu nhận những thông tin hữu

ích. Tôi xin cảm ơn các em học sinh và thầy cô giáo của trường THPT Khoa

học Giáo dục đã tạo điều kiện gặp gỡ, khảo sát và cung cấp những thông tin, ý

kiến cần thiết để hoàn thành nghiên cứu này.Ngoài ra, tôi muốn gửi lời cảm

ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.

Những gợi ý và lời động viên chân thành của họ là những yếu tố đã thúc đẩy

tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2019

Tác giả luận văn

Doãn Hải Thư

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BTV : Biên tập viên

NXB : Nhà xuất bản

PGS.TS : Phó giáo sư tiến sĩ

THPT : Trung học phổ thông

PHẦN MỞ ẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong thời đại toàn cầu hóa, khi những biên giới về mọi mặt giữa các

quốc gia ngày càng phai mờ, sức mạnh mềm càng khẳng định vai trò của

mình trong việc quảng bá hình ảnh của quốc gia với thế giới. Chiếm được

cảm tình và sự ủng hộ của quần chúng, và trong thế giới thông tin như hiện

nay, việc đó càng trở nên thiết yếu hơn. Những giá trị văn hóa trở thành sức

mạnh, bên cạnh những sức mạnh như kinh tế hay quân sự. Thông tin là sức

mạnh, và với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, việc truyền tải thông

tin đến đại chúng càng rộng rãi hơn. Bên cạnh việc quảng bá những giá trị văn

hóa, sức mạnh mềm được kì vọng sẽ mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu

các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài, từ đó tạo sức hút đối với những nước

khác. Mỗi quốc gia sẽ có cách thực hiện sức mạnh mềm khác nhau. Một trong

những phương tiện của sức mạnh mềm là ngoại giao văn hóa. Ngoại giao văn

hóa được hiểu cơ bản là hoạt động ngoại giao gắn liền với văn hóa. Nhìn từ

góc độ quan hệ quốc tế, ngoại giao văn hóa là “một hình thức ngoại giao

thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại

nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninh

và ảnh hưởng”. Ngoại giao văn hóa có thể bao gồm việc giới thiệu các thành

tựu khoa học kỹ thuật, nghệ thuật và khoa học xã hội của quốc gia và của các

nhóm quốc gia hoặc tổ chức quốc tế. Với sự nổi trội của xu hướng “đối thoại

thay cho đối đầu”, ngoại giao văn hóa được công nhận là một trong ba trụ cột

chính của hoạt động ngoại giao, với hai trụ cột còn lại là ngoại giao chính trị

và ngoại giao kinh tế. Mỗi nước sẽ có hình thức sử dụng kênh ngoại giao văn

hóa khác nhau. Ví dụ, đối với Mỹ, đó là hàng tiêu dùng được sản xuất hàng

loạt, phim ảnh, truyền hình, tạp chí âm nhạc và kể cả thương hiệu đồ ăn

nhanh, như McDonald, nhạc Pop, phim Hollywood... Đối với Hàn Quốc, đó là

công nghiệp điện ảnh và công nghiệp giải trí, với những chương trình truyền

hình, các phim truyền hình, quảng bá thần tượng cùng nhiều lĩnh vực khác.

Đối với Nhật Bản, ngoại giao văn hóa của quốc gia này được thể hiện trong

chính sách truyền bá và xuất khẩu truyện tranh (manga), hoạt hình (anime),

cùng những nhân vật truyện tranh, hoạt hình được yêu thích ra các quốc gia

trên thế giới.

Truyện tranh Nhật Bản, hay còn gọi là manga, là một sản phẩm văn hóa

tinh thần rất được ưa chuộng ở Nhật. Loại hình nghệ thuật này mang nhiều

đặc trưng trong cách thể hiện. Những nhân vật trong manga thường có tỉ lệ cơ

thể khác với người thật. Tùy từng họa sĩ mà một số truyện, nhân vật sẽ có

cách vẽ hoạt hình, vui nhộn hơn, và một số sẽ có cách vẽ giống với người thật

hơn. Đặc biệt, đôi mắt của nhân vật trong truyện tranh thường được vẽ to và

lấp lánh. Cách manga thể hiện nội dung truyện cũng rất đặc biệt. Chủ đề trong

các tác phẩm manga cũng có rất nhiều thể loại, như phiêu lưu, hành động, giả

tưởng, đời thường, cuộc sống học đường, thể thao, hài hước và nhiều thể loại

khác. Tại quê nhà, truyện tranh Nhật Bản được mọi tầng lớp trong xã hội yêu

thích. Từ những trẻ em bé đến người già, cả nam cả nữ, độc giả manga rất đa

dạng. Manga được bày bán ở mọi nơi, từ những hiệu sách đến sạp báo, ở ga

tàu hay cả trong cửa hàng tiện lợi. Manga là một phương tiện giải trí tốt, giúp

người đọc giải tỏa áp lực và cũng mang đến một số bài học có ý nghĩa. Đây

cũng là một hình thức giải trí được nhiều người dân Nhật Bản lựa chọn vì nó

cho phép người đọc giải tỏa căng thẳng nhưng không làm phiền đến xung

quanh, một phương pháp giải trí im lặng. Ngành công nghiệp truyện tranh

cũng là một trong những ngành công nghiệp lớn của Nhật Bản. Vào những

năm đầu thập niên 1990, khi nền kinh tế Nhật Bản bị khủng hoàng, manga và

anime (truyện tranh và phim hoạt hình) lại trở thành chủ đề văn hóa. Theo số

liệu thống kê từ Viện nghiên cứu và Xuất bản Nhật Bản, vào năm 2008, qui

mô thị trường nội địa của ngành công nghiệp truyện tranh đã đạt 448 tỷ yên,

chiếm khoảng 40% thị trường in ấn (Hạ Thị Lan Phi, 2017). Ở Nhật Bản,

manga không chỉ đơn thuần là loại hình văn hóa giải trí đại chúng, phàn ảnh

những hiện tượng của xã hội đương thời, mà đã phát triển đến đỉnh cao nghệ

thuật, sánh ngang với văn học và nghệ thuật thị giác, có giá trị phê bình nghệ

thuật và nghiên cứu. Với sự pha trộn giữa văn hóa truyện thống và hiện đại,

giữa phong cách phương Đông và phương Tây, sự phong phú về nội dung, thể

loại và cách thể hiện, cùng công nghệ hiện đại đã khiến truyện tranh trở thành

loại hình văn hóa đặc sắc của Nhật Bản. Sự thành công của manga và các

ngành công nghiệp văn hóa giải trí khác đã trở thành kì vọng vực dậy nền

kinh tế, đưa Nhật Bản thoát khỏi khủng hoảng.

Nhờ thành công của mình, truyện tranh Nhật Bản đã được lựa chọn là

một trong những công cụ ngoại giao văn hóa để nước Nhật quảng bá hình ảnh

và lan tỏa sự ảnh hưởng ra thế giới. Truyện tranh Nhật Bản đã được xuất

khẩu đến nhiều nước trên thế giới và nhanh chóng nhận được sự chú ý.

Những tựa truyện nổi tiếng được nhiều người trẻ biết là Doraemon, Sailor

Moon, Crayon Shinchan, Dragon Ball và nhiều đầu truyện khác. Ở những

nước châu Á, do vị trí gần nên sức lan tỏa của truyện tranh Nhật Bản ở những

quốc gia này nhanh hơn ở những nước phương Tây. Trong một thời gian,

truyện tranh Nhật Bản đã trở thành một hiện tượng ở các quốc gia châu Á và

được đông đảo người đọc đón nhận. Việt Nam cũng không phải một ngoại lệ.

Mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được hình thành từ lâu

trong lịch sử. Mối quan hệ này bắt đầu vào thế kỉ XVI, khi những nhà buôn

người Nhật tìm đến Việt Nam để buôn bán. Trong lịch sử, mối quan hệ giữa

hai nước không phải lúc nào cũng tốt đẹp, có một khoảng thời gian đã bị gián

đoạn, nhưng cả hai nước đã bình thường hóa quan hệ sau khi Việt Nam thực

hiện chính sách mở cửa. Vào năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản lập quan hệ

ngoại giao chính thức. Từ đó đến nay, mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đã

được mở rộng về mọi mặt. Nhiều sản phẩm, hàng hóa uy tín của Nhật như đồ

gia dụng, ô tô, xe máy, cùng các công nghệ, khoa học kĩ thuật đã có cơ hội

đến Việt Nam. Một trong những sản phẩm Nhật Bản du nhập vào Việt Nam

chính là truyện tranh Nhật Bản. Việc thành lập mối quan hệ ngoại giao chính

thức giữa hai nước đã giúp truyện tranh Nhật Bản có cơ hội đến Việt Nam.

Tuy nhiên, để trả lời chính xác câu hỏi truyện tranh Nhật Bản du nhập vào

Việt Nam từ khi nào thì rất khó. Có thể ước tính rằng truyện tranh Nhật Bản

đã xâm nhập vào Việt Nam được khoảng 20 năm.Truyện tranh Nhật Bản du

nhập vào Việt Nam thông qua hai con đường, con đường chính thức và không

chính thức. on đường chính thức là thông qua các nhà xuất bản uy tín.

Truyện tranh được mua bản quyền, dịch và xuất bản ở Việt Nam dưới sự cho

phép của nhà xuất bản bên phía Nhật Bản. Trái lại, con đường không chính

thức là thông qua nhập, dịch và in lậu. Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt

Nam lần VI thực hiện chính sách Đổi Mới vào năm 1986 đã tạo tiền đề cho

truyện tranh Nhật Bản được du nhập vào Việt Nam. Truyện tranh Nhật Bản

đóng vai trò như một công cụ ngoại giao không chính thức để người dân Việt

Nam có thể tiếp cận và biết đến văn hóa Nhật Bản. Một số tác phẩm kinh điển

đã được xuất bản từ lâu và trở thành một phần tuổi thơ của nhiều thế hệ.

Từ khi tiến vào thị trường Việt Nam, truyện tranh Nhật Bản được yêu

thích bởi nhiều thế hệ và ngày càng nhiều đầu sách mới được xuất bản. Khi

đến những nhà sách, truyện tranh luôn được dành một gian bán riêng. Trong

đó, có thể tìm thấy truyện tranh Nhật Bản (manga) chiếm đa số. Những đầu

truyện tranh được bán chủ yếu là những truyện nổi tiếng như Doraemon,

Dragon Ball (Bảy viên ngọc rồng), Detective Conan (Thám tử lừng danh

Conan), Sailor Moon (Thủy thủ mặt trăng) và một số tựa truyện khác. Ở

những hội sách lớn, không khó để tìm thấy những gian hàng bán truyện tranh.

Ở những tiệm sách cũ, truyện tranh manga cũng được bày bán nhiều. Không

những vậy, một số đầu truyện nổi tiếng còn được tái bản nhiều lần và dưới

nhiều hình thức khác nhau. Trong những bộ truyện tranh Nhật Bản đã được

xuất bản, tựa truyện tranh quan trọng nhất có lẽ là Doraemon, được NXB Kim

Đồng mua bản quyền và xuất bản ở Việt Nam vào năm 1992. Sự xuất hiện

của bộ truyện này là dấu mốc quan trọng ở nhiều mặt, cả trong việc xuất bản

truyện thiếu nhi của NXB Kim Đồng cũng như mở đường cho nhiều đầu

truyện tranh Nhật Bản khác vào Việt Nam. Bộ truyện đã đưa nhà xuất bản

thoát khỏi bế tắc khi nền kinh tế bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường.

Ngoài ra, trong số những độc giả của truyện tranh, trẻ em và thanh thiếu niên

là những đối tượng chủ yếu. Bộ truyện Doraemon nói riêng và truyện tranh

Nhật Bản nói chung đã đem đến đam mê đọc truyện tranh cho nhiều thế hệ

thanh, thiếu niên, nhi đồng của Việt Nam. Đời sống văn hóa của lứa tuổi học

sinh đã trở nên phong phú và đa dạng hơn. Truyện tranh Nhật Bản đã ảnh

hưởng đến tư duy văn học, sáng tác truyện tranh, hình thành nhân sinh quan

và cách nhìn nhận thế giới của những người trẻ tuổi.

Sau hơn 20 năm hiện diện ở thị trường Việt Nam, thế hệ độc giả truyện

tranh cũng đã thay đổi. Cùng với đó, mối quan hệ giữa truyện tranh Nhật Bản

và độc giả cũng trở thành chủ đề tranh luận. Những ảnh hưởng của truyện

tranh đến quá trình phát triển của trẻ nhỏ và thanh thiếu niên là chủ đề rất

được quan tâm trên nhiều trên báo chí và mạng xã hội. Tuy nhiên, có một

điểm cần nhắc lại là manga đã xâm nhập và phát triển ở Việt Nam được hai

thập kỉ, điều này có nghĩa là thế hệ đọc truyện tranh đã có sự biến đổi. Mặc dù

thế hệ độc giả đã bước sang thế hệ thứ hai, nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho

rằng manga là loại hình ấn phẩm có ảnh hưởng tiêu cực đến lứa tuổi này vì

nhiều manga có bao hàm yếu tố giới tính và bạo lực. Bên cạnh đó, tại Việt

Nam, đa phần nghiên cứu quan tâm đến ảnh hưởng của truyện tranh đến đối

tượng là trẻ em mà ít quan tâm đến lứa tuổi lớn hơn. Với những yếu tố đó,

một số câu hỏi về thị trường xuất bản manga ở Việt Nam và bộ phận độc giả.

Đối với thị trường xuất bản truyện tranh,trải qua quá trình du nhập lâu dài như

vậy, truyện tranh Nhật Bản được xuất bản ở Việt Nam có chuyển biến gì

không? Thể loại được xuất bản ở Việt Nam sau hai thập kỉ có thay đổi không?

Hình thức xuất bản như thế nào so với trước kia? Về phía độc giả độc giả Việt

Nam, những thế hệ thứ hai đọc truyện tranh, loại ấn phẩm này được họ đón

nhận như thế nào? Mức độ quan tâm và yêu thích của độc giả đối với truyện

tranh Nhật Bản manga? Truyện tranh Nhật Bản manga có ảnh hưởng như thế

nào đến người đọc? Bên cạnh đó, với vai trò là một trong những công cụ của

ngoại giao văn hóa, truyện tranh manga có quảng bá hình ảnh Nhật Bản đến

độc giả Việt Nam không? Hình ảnh đất nước Nhật Bản hiện lên thế nào với

những độc giả truyện tranh? Truyện tranh Nhật Bản có phải một kênh văn

hóa giúp người Việt Nam tiếp cận và hiểu hơn về văn hóa Nhật Bản không?

Ngoài ra, truyện tranh Nhật Bản manga có đóng góp như thế nào vào mối

quan hệ Việt Nam – Nhật Bản và cả hai nước có thể thu được lợi ích gì thông

qua loại hình văn hóa này.

Với những lí do đó, luận văn lựa chọn tìm hiểu về ảnh hưởng của

truyện tranh Nhật Bản manga đến giới trẻ Việt Nam là đề tài nghiên cứu.

Luận văn hi vọng có thể tìm hiểu quá trình truyện tranh manga thâm nhập và

phát triển tại thị trường Việt Nam, những độc giả Việt Nam thế hệ mới đón

nhận loại hình văn hóa này ra sao, và hiểu hơn về ảnh hưởng của văn hóa

Nhật Bản. Đồng thời, nghiên cứu mong muốn có thể đóng góp vào sự phát

triển của quan hệ Nhật Bản và Việt Nam, và hai quốc gia có thể thấu hiểu

nhau hơn.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của nghiên cứu là tìm hiểu cách độc giả Việt Nam tiếp nhận

truyện tranh manga Nhật Bản, mức độ quan tâm, mức độ ảnh hưởng của

manga đến người trẻ Việt Nam. Nghiên cứu hi vọng làm rõ những lí do khiến

truyện tranh Nhật Bản được ưa chuộng ở Việt Nam và đưa ra những gợi ý để

phát triển hơn nữa giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật Bản. Ngoài ra, nghiên

cứu muốn tìm hiểu hình ảnh đất nước Nhật Bản hiện lên trong những người

đọc truyện tranh như thế nào và truyện tranh có ảnh hưởng đến cách người trẻ

nhìn nhận Nhật Bản hay không.

3. ối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng trong nghiên cứu này là những người trẻ Việt Nam, cụ thể là

thanh niên trong lứa tuổi 16 và 17 tuổi, hiện đang học lớp 10 và 11 tại trường

THPT Khoa học Giáo Dục. Nghiên cứu tập trung làm rõ những ảnh hưởng

của truyện tranh manga đến lứa tuổi này, mức độ quan tâm của họ với manga

và hình ảnh đất nước Nhật Bản thông qua truyện tranh Nhật Bản manga.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên địa bàn Hà Nội. Luận văn khảo sát ngẫu

nhiên 100 người để tìm hiểu tác động của truyện tranh tới giới trẻ hiện nay.

Khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 7 tháng 5 năm 2019

đến ngày 17 tháng 5 năm 2019.

Về nội dung, luận văn chỉ chú trọng vào truyện tranh Nhật Bản là

manga. Cần phân biệt rõ chủ thể được nghiên cứu là manga chứ không phải

Ehon, cũng là một thể loại sách tranh Nhật Bản. Ngoài ra, luận văn không tập

trung vào các loại hình văn hóa đại chúng Nhật Bản nào khác, như phim ảnh,

phim truyền hình, âm nhạc, hoạt hình, thời trang... Luận văn sử dụng luôn

thuật ngữ “manga” thay vì gọi là “truyện tranh Nhật Bản”. Manga đã vô cùng

phát triển, trở thành một thể loại thay vì chỉ đơn thuần được dịch là “truyện

tranh” trong tiếng Việt hay “comic” trong tiếng nh. Vì lí do đó, luận văn lựa

chọn gọi là manga để nói không chỉ nghĩa đen của từ mà bao hàm cả những

cách thể hiện trong loại nghệ thuật này.

5. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Luận văn chú trọng tìm hiểu những khía cạnh sau:

- Thực trạng đọc truyện tranh manga ở lứa thổi THPT. Luận văn tìm hiều

thái độ của học sinh THPT đối với truyện tranh, mức độ yêu thích, quan tâm,

nguồn đọc, thời gian đọc, thể loại truyện tranh thường được các học sinh phổ

thông tìm đọc, số tiền chi vào sở thích đọc truyện tranh và những yếu tố tác

động đến việc đọc và mua truyện tranh.

- Truyện tranh Nhật Bản manga có ảnh hưởng đến hành vi, giao tiếp,

ngôn ngữ và học tập của giới trẻ Việt Nam hiện nay?

- Phụ huynh có quan điểm như thế nào về việc con cái đọc truyện tranh?

- Độc giả nhìn nhận nước Nhật thông qua truyện tranh manga như thế nào?

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được những kết quả tốt nhất, luận văn sử dụng nhiều phương

pháp. Luận văn sử dụng bảng hỏi để điều tra, thu thập thông tin và những dữ

liệu cần thiết. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra mô tả, nhận xét và phân tích

thông qua những tài liệu, những nghiên cứu trước đó về chủ đề truyện tranh

Nhật Bản manga. Những tư liệu sử dụng trong luận văn bao gồm các công

trình nghiên cứu, bài báo tạp chí và sách về truyện tranh của những tác giả

trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu có tham khảo thêm những

sách và tư liệu về chính sách ngoại giao, ngoại giao văn hóa và sức mạnh

mềm (soft power). Những tài liệu dung để tham khảo được viết bằng tiếng

Việt và tiếng Anh. Ngoài ra, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tình

huống (case study). Đầu tiên, luận văn sẽ thu thập và phân tích những tài liệu.

Tiếp theo, luận văn sử dụng bảng hỏi điều tra để thu thập những thông tin cần

thiết. Luận văn sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi. Đây là phương pháp

nghiên cứu chính được sử dụng. Số người được khảo sát là 100 người, hiện

đang học tập tại trường THPT Khoa học Giáo dục. Những đối tượng được

khảo sát ở độ tuổi 16 và 17. Địa bàn điều tra là thành phố Hà Nội. Ngoài ra,

luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn đề tìm hiểu hiện trang xuất bản

truyện tranh manga ở Việt Nam. Luận văn phỏng vấn 1 BTV nam, 28 tuổi,

hiện đang làm ở NXB Kim Đồng. Thông qua việc phỏng vấn, luận văn sẽ tìm

hiểu hiện trang, số liệu những đầu truyện tranh hiện đang được xuất bản ở

Việt Nam và doanh thu đạt được từ truyện tranh.

ƢƠ . ỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT

1.1. Khái niệm ngoại giao văn hóa

Ngoại giao văn hóa không còn là một khái niệm mới. Một số định

nghĩa đã được đưa ra để giải thích cụm từ này. Nhà nghiên cứu Simeo

Adebolu, thành viên Hiệp hội các nhà ngoại giao thương mại nh, định nghĩa

ngoại giao văn hóa là “là một hình thức ngoại giao nhấn mạnh tới sự thừa

nhận văn hóa và hiểu biết lẫn nhau như là một cơ sở của đối thoại.” Nhà

nghiên cứu Milton C. Cummings Jr thuộc Trung tâm nghệ thuật và văn hóa

Mỹ ở Washington cho rằng ngoại giao văn hóa là “sự giao lưu những tư

tưởng, trao đổi thông tin nghệ thuật, lối sống, hệ giá trị, truyền thống, tín

ngưỡng và các phương diện khác nhau của văn hóa nhằm thúc đẩy sự hiểu

biết lẫn nhau.” Bên cạnh đó, giáo sư Joseph S. Nye thuộc đại học Harvard,

đồng thời là nguyên trợ lý Thứ trưởng ngoại giao Mỹ từ năm 1977 đến năm

1979, nhận định ngoại giao văn hóa là “một ví dụ hàng đầu về sức mạnh mềm

hoặc khả năng thuyết phục thông qua văn hóa, giá trị và những tư tưởng trái

với sức mạnh cứng, tức là chinh phục hoặc cưỡng ép thông qua sức mạnh

quân sự.” Ở Việt Nam, một số định nghĩa đã được đưa ra để giải thích ngoại

giao văn hóa. Theo Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, ngoại giao văn

hóa là “một trong những trụ cột của ngoại giao chứ không phải là bộ phận của

văn hóa đối ngoại. Đó là việc thực hiện chính sách đối ngoại để đạt được mục

tiêu chính trị bằng công cụ văn hóa, biện pháp văn hóa. Trong đó các giá trị

văn hóa sẽ là chỗ dựa tinh thần bền vững cho các hoạt động ngoại giao, làm

áp lực đối với các đối tác để thực hiện có kết quả các chính sách chính trị,

kinh tế và văn hóa quốc gia.” Đối tượng của ngoại giao văn hóa là những chủ

thể quốc gia khác, chính phủ và người dân ở những quốc gia đó. Ngoại giao

văn hóa hướng đến quảng bá hình ảnh quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước,

dân tộc và không hướng tới mục đích lợi nhuận.Mục đích của ngoại giao văn

1

hóa là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế, nâng

cao vị thế, hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế và phục vụ cộng đồng người

Việt ở nước ngoài. Ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa là ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam1.

Ngoại giao văn hóa có ba vai trò chính, đó là chính trị, kinh tế và phát

huy bản sắc dân tộc. Về chính trị, vai trò của ngoại giao văn hóa có sự khác

biệt giữa các quốc gia. Đối với những nước lớn, ngoại giao văn hóa là phương

tiện để tăng tầm ảnh hưởng của mình với thế giới. Ví dụ, đối với Mỹ, mục

tiêu hàng đầu là “mở rộng những giá trị về dân chủ và nhân quyền trên khắp

thế giới nhằm tạo lập sự thống trị và ảnh hưởng rộng khắp”. Về kinh tế, ngoại

giao văn hóa góp phần thu hút đầu tư, phát triển du lịch và khai thác các

ngành công nghiệp văn hóa. Ở Hàn Quốc, thông qua phim ảnh, văn hóa Hàn

Quốc đã được đưa đến những đất nước trong vực, mang lại cho chính phủ và

quốc gia những khoản lợi nhuận lớn. Ở Singapore, chính phủ quảng bá văn

hóa gắn liền với phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài và lao động

nước ngoài có tay nghề làm việc tại nước này. Trong việc phát huy bản sắc

dân tộc, ngoại giao văn hóa không phải là một hoạt động một chiều mà là

tương tác có sự qua lại giữa các quốc gia. Sự trao đổi này sẽ khiến các quốc

gia tiếp nhận các giá trị và thành tựu văn hóa nổi bật của nhân loại, làm giàu

kho tàng văn hóa của đất nước, định hướng việc gìn giữ, phát huy và điều

chỉnh các giá trị văn hóa riêng cho phù hợp với dòng chảy phát triển chung của thế giới.2

Nhìn chung, ngoại giao văn hóa có thể được hiểu là một hoạt động

ngoại giao, sử dụng văn hóa làm phương tiện để đạt được những mục tiêu cơ

bản trong chính sách đối ngoại, quảng bá hình ảnh và văn hóa của đất nước,

(2016). Ngoại giao văn hóa

( ultural diplomacy). Truy xuất

từ

2 Phạm Thủy Tiên http://nghiencuuquocte.org/2016/01/23/ngoai-giao-van-hoa-cultural-diplomacy/

2

đồng thời góp phần vào việc gia tăng ảnh hưởng và củng cố an ninh. Ba yếu 1 Trần Thị Thu Hà (2012). Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại Ngữ 28 (2012) 185-193

tố chính ngoại giao văn hóa đóng góp là chính trị, kinh tế và phát huy bản sắc

dân tộc. Ngoại giao văn hóa hướng đến việc gây ảnh hưởng lên những chủ thể

quốc gia khác, chính phủ và người dân ở những quốc gia đó. Ngoại giao văn

hóa đã đem lại những lợi ích đáng kể cho quốc gia. Mỗi quốc gia và chính

phủ sẽ có cách sử dụng ngoại giao văn hóa khác nhau.

1.2. Ngoại giao văn hóa của Nhật Bản

Khái niệm về sức mạnh mềm xuất hiện ở Nhật Bản vào những năm 90

của thế kỉ XX. Luận thuyết về sức mạnh mềm đã được chính phủ Nhật Bản

vận dụng sau Chiến tranh thế giới lần thứ Hai. Với mục đích cải thiện hình

ảnh, truyền thông điệp về một Nhật Bản yêu hòa bình, phát triển và thân

thiện, phương hướng chiến lược phát triển văn hóa của Nhật Bản đã xác định

và triển khai trên mọi khía cạnh, gồm những giá trị kinh tế, chính trị, ngoại

giao, giáo dục mang đặc trưng nền văn hóa Nhật Bản. hính sách văn hóa

Nhật Bảo được chia thành nhiều giai đoạn: giai đoạn trong những năm 1950 –

1960, giai đoạn 1960 – 1970, giai đoạn đầu những năm 1980 và giai đoạn từ

năm 1990 trở đi. Trong giai đoạn 1950 và 1960, Nhật Bản tập trung vào

quảng bá hình ảnh đất nước, thay đổi từ một nước quân phiệt trong chiến

tranh sang một đất nước vì hòa bình. Từ năm 1960 đến năm 1970, Nhật Bản

chú trọng vào hình ảnh một đất nước hòa bình, có nền kinh tế phát triển. Vào

đầu những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản đã lớn mạnh và có ảnh hưởng

toàn cầu, đối tượng trong chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản là các

quốc gia châu Á. Từ những năm 1990, Nhật Bản bắt đầu phát triển văn hóa

đại chúng (Pop Culture) với mục đích quảng bá hình ảnh, truyền tải “bản sắc Nhật Bản” sang các nước khác3. Có thể thấy rằng, trong giai đoạn đầu triển

khai, Nhật Bản muốn thay đổi hình ảnh của đất nước với toàn thế giới, chuyển

3Ngô Phương nh (2015). Chiến lược quảng bá sức mạnh mềm của Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Tạp chí Lý luận chính trị điện tử số 9-2015.

3

từ một đất nước quân phiệt trong chiến tranh thành một nước hòa bình, có nền

kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế trong nước đã đủ mạnh mẽ, thay vì hướng

tới toàn cầu như trước, chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản hướng

đến những quốc gia lân cận, cụ thể là những nước châu Á. Với vị trí gần,

Nhật Bản sẽ quảng bá văn hóa, xuất khẩu những sản phẩm văn hóa đại chúng

một cách dễ dàng, từ đó sẽ thuận lợi cho việc lan tỏa rộng ảnh hưởng. Vào

năm 2004, khái niệm sức mạnh mềm đã chính thức được công nhận trong

“Sách Xanh” ngoại giao Nhật Bản. Ngoài ra, khái niệm “sức mạnh mềm”

được nhắc đến nhiều trong những cuộc bàn luận và văn bản hoạch định chính

sách của Chính phủ Nhật Bản. Một viện nghiên cứu mang tên “The Japan

Soft Power Research Institute” đã được thành lập ở Nhật Bản đề nghiên cứu

về sức mạnh mềm. Sức mạnh mềm cũng là chủ đề trong cuốn sách “Soft

Power Superpowers: Cultural and National Assets of Japan and the United

States” do hai tác giả Yasushi Watanabe và David L. Mc onnell đồng thực

hiện. Cuốn sách đã nghiên cứu những ưu điểm và khuyết điểm về sức mạnh

mềm của Nhật Bản và Hoa Kì. Có thể thấy rằng sức mạnh mềm của Nhật Bản

ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm từ những nghiên cứu trong nước lẫn

quốc tế.

Chính sách ngoại giao văn hóa được thể hiện trong chiến dịch “ ool

Japan”, với mục tiêu đẩy mạnh hình ảnh một “Nhật Bản thú vị”. Đây là chiến

dịch để Nhật Bản cải thiện, quảng bá hình ảnh của mình với những nước khác

và thúc đẩy kinh doanh thông qua việc xuất khẩu sản phẩm văn hóa ngoại

chúng ra nước ngoài. Thuật ngữ “ ool Japan” lần đầu xuất hiện thông qua một

bài báo của tác giả Douglas McGray đăng trên tờ Chính sách Ngoại giao vào

năm 2002. Bài báo đó mang tên "Japan's Gross National ool" (Tổng sản

lượng thú vị quốc gia của Nhật Bản). Trong bài viết của mình, McGray (2002)

đã chỉ ra những thành công Nhật Bản đạt được và trở thành một đất nước siêu

cường văn hóa thông qua những loại hình văn hóa đại chúng lan tỏa trên thế

4

giới, mặc cho những vấn đề kinh tế và chính trị gặp phải trong giai đoạn

đó.Chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản còn được thể hiện qua việc lựa

chọn những đại sứ văn hóa vào cuối những năm 1990 – đầu thế kỉ XXI. Những

đại sứ văn hóa trong giai đoạn này là những nhân vật manga được yêu thích

như Doraemon, Hello Kitty. thay thế những nghệ sĩ nổi tiếng để đảm nhiệm

việc quảng bá, giao lưu văn hóa đến các nước khác. Trong thời gian này, chính

sách ngoại giao của Nhật Bản đã chuyển đổi sang “hướng về hâu Á”. Thông

qua hình ảnh những nhân vật truyện tranh dễ thương, Nhật Bản hướng đến mục

tiêu tăng thiện cảm và hình ảnh đẹp đến các nước lân cận.

Đã có nhiều ý kiến được đưa ra để giải thích về tính hấp dẫn của các

sản phẩm văn hóa đại chúng Nhật Bản. Iwabuchi (2002) cho rằng các sản

phẩm Nhật Bản thu hút được khán giả toàn cầu là vì những sản phẩm đó

không còn nhiều thuộc tính Nhật. Bên cạnh đó, theo Leheny (2006), khán giả

ở các nước châu Á ít bị thu hút bởi đất nước Nhật Bản mà đa phần bị hấp dẫn

qua những hình ảnh hiện đại thể hiện trong các sản phẩm văn hóa của Nhật

Bản. Ngoài ra, khi bàn về “công cuộc quyến rũ” của Nhật Bản, Jung Sun

(2012) cho rằng công cuộc này diễn ra vì kinh tế Nhật Bản đang giảm sút,

quyền lực cứng về mặt kinh tế không vững chắc nên Nhật Bản khó có thể quảng bá bản thân như một hình mẫu4. Bên cạnh đó, Võ Thị Mai Thuận

(2012) chỉ ra rằng “ ool Japan” đã mở ra cái hình mới về Nhật Bản. “ ool

Japan” đã khiến người nước ngoài bị thu hút từ văn hóa Nhật đương thời là

manga và anime, cho đến môn đấu vật sumo [14, tr. 64]. Ngoài việc gián tiếp

mở rộng quan hệ của Nhật Bản với các nước ngoài, tính thiết thực của manga

và anime với quan hệ quốc tế Nhật Bản còn có một số hạn chế. Võ Thị Mai

Thuận (2012) cho rằng manga và anime có thể thu hút một số người nước

ngoài, tuy nhiên sự hấp dẫn của chúng hơi cường điệu, đặc biệt là với những

4 NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Lịch sử, văn hóa và ngoại giao văn hóa: sức sống của quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh mới của quốc tế và khu vực. tr. 203.

5

quốc gia châu Á bảo thủ. Ở những đất nước này, manga và anime được cho

rằng là sản phẩm dành cho người trưởng thành, có yếu tố bạo lực và dâm tục,

không phù hợp với đạo đức xã hội ở nước họ. Bên cạnh đó, những sản phẩm

này có thể hấp dẫn và là thứ giải trí hữu ích với một số người, nhưng một số

khác có thể thấy rằng chúng trẻ con và không thấy thích thú. Không những

vậy, trong thời đại toàn cầu hóa, người dân ở những quốc gia châu Á cũng

chịu ảnh hưởng bởi những sản phẩm văn hóa từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn

Độ, Mỹ và nhiều nước khác chứ không chỉ bị thu hút duy nhất bởi sản phẩm

của Nhật.

Tóm lại, khái niệm sức mạnh mềm bắt đầu được chính phủ Nhật Bản

chú ý vào những năm 90 của thế kỉ XX. Các loại hình văn hóa đại chúng Nhật

Bản từ lâu đã lan tỏa rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới và được yêu thích

ở rất nhiều nơi. Đến cuối thập niên 1990 – đầu thế kỉ XXI, khi chính sách

ngoại giao trong thời kì hiện nay đã chuyển sang “hướng về hâu Á”, những

quốc gia châu Á là những nơi chịu ảnh hưởng lớn nhất. Mặc dù có nhiều ý

kiến cho rằng ngoại giao văn hóa đã đem về nhiều lợi ích, một số nghiên cứu

chỉ ra những mặt hạn chế của nó. Sự thu hút từ các loại hình văn hóa này

không phải từ chính bản thân văn hóa hay đất nước Nhật Bản mà từ hình ảnh

thể hiện trên những sản phẩm văn hóa. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức lôi

cuốn của các loại hình văn hóa Nhật Bản. Một trong những công cụ của ngoại

giao văn hóa là truyện tranh Nhật Bản, hay còn được gọi là manga.

1.3. Khái niệm truyện tranh Nhật Bản - Manga

Manga là một phần của văn hóa đại chúng. Văn hóa đại chúng (popular

culture) được PGS. TS Lương Hồng Quang định nghĩa “là một kiểu loại văn

hóa cần được chúng ta nghiên cứu sâu hơn bởi là sản phẩm của xã hội đô thị,

xã hội tiêu thụ, của quan niệm văn hóa là cái của đời sống hằng ngày thay vì

6

chỉ tất cả là tinh túy, cao siêu. Hiểu biết hơn về văn hóa đại chúng sẽ là nền

tảng lý luận cho chúng ta phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo”5. Thuật

ngữ “manga” được cho rằng sử dụng lần đầu vào những năm 1770 [22, tr.

20]. Đến thế kỉ 19, từ ngữ này trở nên thông dụng hơn và được dùng để chỉ

tranh khắc gỗ có chủ đề truyện tranh, như loạt tranh biếm họa khắc gỗ

(Hyakumenso) của họa sĩ Katsushika Hokusai. Yuichiro(2014) cũng có nhận

định tương tự . Cụm từ “manga” được họa sĩ Hokusai sử dụng vào năm 1814,

để đặt tên cuốn sách về tác phẩm của mình. Cuốn sách đó mang tên Hokusai

Manga. Quyển sách có 15 tập, tổng hợp gần 40.000 bức tranh về con người,

động vật, yêu quái, đời sống, phong tục và nhiều đề tài khác [15, tr. 22].

Từ ngữ “manga” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Về mặt

dịch thuật, “manga” được định nghĩa là vô tư, “những hình vẽ kì dị” và

“những bức tranh vẽ vì bản thân” [21, tr. 28]. Thêm vào đó, Schodt (1996)

miêu tả manga là sự kết hợp của nghệ thuật hội họa truyền thống của Nhật và

những yếu tố phương Tây [26, tr. 21]. Schodt (1996) nói rằng người Nhật Bản

đã gắn bó với hội họa từ lâu. Hội họa được thể hiện dưới nhiều hình thức khác

nhau, nổi tiếng nhất là những đường nét đơn sắc. Những tạp chí manga và

truyện có nguồn gốc từ thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 [26, tr. 22]. Cách các họa sĩ

vẽ trong manga hiện đại, với khung tranh và bong bóng thoại, là bị ảnh hưởng

từ những mẩu chuyện nhỏ trên các tờ báo Mỹ.Về mặt từ ngữ, chữ Hán của

manga là “漫画”, nghĩa là “Mạn họa”. Theo Yuichiro (2014), thuật ngữ

manga đã xuất hiện một lần nữa trong tác phẩm “Tiên sinh Đông Tâm tạp họa

đề kỷ” do nhà văn Kim Đông Tâm sáng tác vào thời nhà Thanh. Từ “Mạn

họa” trong tác phẩm được sử dụng với ý nghĩa vẽ tranh vô tư, vẽ tranh theo ý

thích của mình. Hạ Thị Lan Phi (2017) cũng đề cập việc về mặt ngữ nghĩa,

trong nghĩa Hán – Việt, manga có nghĩa là “mạn họa”, có thể hiểu là “bức họa

5 Hà Hương (2012). Làn sóng Hàn Quốc: thành công của văn hóa đại chúng. Truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoa/lan-song-han-quoc-thanh-cong-cua-van-hoa-dai-chung-49137.html

7

mang tính trào phúng.”Về mặt mĩ thuật, trong một số nghiên cứu, các nhà

chuyên môn định nghĩa manga là “tên gọi chung của một loại hình hội họa về

cơ bản lấy sự châm biếm và hài hước làm nội dung, dựa trên cách vẽ giản

lược hay khoa trương. Nó là một phương tiện giải trí truyền tải thông tin đến

người xem thông qua thị giác dưới hình thức các bức tranh vẽ mang tính liên hoàn”6. Manga có thể được hiểu là “một hình thức đồ họa mang tính ngẫu

hứng hoặc ứng tác, áp dụng những thủ pháp cường điệu (intensification), cách

điệu (stylization) hay biến (caricature)” để thể hiện sự ngộ nghĩnh, dí dỏm,

hài hước, kì lạ và khác thường. Theo từ điển Quốc ngữ Nhật Bản, Manga có

hai khái niệm. Đầu tiên là “loại tranh hoạt hình, hài hước, loại tranh gây cười,

hóm hỉnh (comics). Nghĩa còn lại là “loại tranh đả kích, châm biếm nhân tình thế thái”7. Nhìn từ góc độ lịch sử, nét phác họa đơn giản nhưng hài hước của

manga có nguồn gốc từ một loại tranh vẽ của Nhật Bản. Loại tranh này xuất

hiện vào khoảng giữa thế kỉ VI và VII. Vào thời gian đó, những cuộn giấy da

có hình khắc đã được những thầy tu sử dụng để làm một loại lịch để theo dõi

thời gian. Hình vẽ thường là những hình tượng phổ biến có thể tìm thấy trong

tự nhiên như hoa anh đào và lá phong đỏ để báo hiệu sự chuyển giao mùa,

hoặc những động vật như cáo, gấu trúc, những con vật được xem là đại diện

cho thời gian. Những hình ảnh này được vẽ bằng những nét đơn giản nhưng

rất ngộ nghĩnh và dí dỏm.

Cụm từ “manga” có ý nghĩa khác nhau ở Nhật Bản và nước ngoài. Ở

Nhật Bản, cụm từ này dùng để chỉ các thể loại truyện tranh. Tuy nhiên, ở

những nước khác, cụm từ này lại có ý nghĩa khác biệt. Như ở Đức, “manga”

dùng để chỉ nghệ thuật truyện tranh có xuất xứ từ Nhật Bản. Ngoài ra, đi đôi

với manga là “anime”. nime có nguồn gốc từ từ “animation” trong tiếng

6Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 23 7 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 23

8

nh, dùng đẻ chỉ phim hoạt hình. Manga và anime là hai thứ không thể tách

rời. Cả hai cũng có vị trí quan trọng trong văn hóa của người dân Nhật Bản.

Có thể tìm thấy những hình minh họa manga trong nhiều thể loại sách khác

nhau, như sách nấu ăn hay sách hướng dẫn. Có thể thấy rằng niềm yêu thích

dành cho loại hình nghệ thuật này đến từ mọi tầng lớp xã hội và các nhóm

ngành nghề khác nhau. Trong tiếng Anh, từ ngữ “manga” được hiểu là

“truyện tranh Nhật Bản”. Theo Gravett (2004), người Tây thường cho rằng

các nhân vật trong manga có đôi mắt to và lấp lánh, những quyển tạp chí

truyện tranh dày như từ điển, nhiều người say mê đọc truyện tranh trên xe

điện, truyện tranh có nhiều yếu tố bạo lực và dâm tục. Ngày xưa, khi dịch

sang tiếng Anh, cụm từ “manga” được hiểu là “Japan’s comics”, phiên âm

sang dạnh chữ Katakana của Nhật Bản và giữ nguyên âm đọc là “komiku”.

Đến cuối thập niên 1980, khi manga đã đạt đến đỉnh cao, khiến cả người đọc

và giới nghiên cứu quan tâm, khái niệm “manga” không chỉ đơn thuần là

“comic” (truyện tranh) nữa, mà còn được coi là một danh từ riêng để chỉ loại

hình truyện tranh của Nhật Bản, được phiên âm ra chữ latinh là “manga”. ác

nhà xuất bản trong nước không chỉ dùng chữ Hán khi nói về loại hình này mà

còn sử dụng cả chữ Katakana, bảng chữ của Nhật dùng để phiên âm từ ngoại

lai. Đây là hình thức để khẳng định sự riêng biệt và độc nhất của Manga Nhật

Bản [4, tr. 26].

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng truyện tranh manga bắt nguồn từ lịch sử

hội họa Nhật Bản. Những đặc điểm trong những thể loại tranh truyền thống

kết hợp với một số đặc điểm từ truyện tranh phương Tây đã được kế thừa và

tiếp tục trong truyện tranh manga hiện nay. Một hướng nhìn nhận khác về

manga đó là cho rằng đây là tạo vật của xã hội hiện đại. Kinsella (2000) đã

chỉ ra rằng trước khi manga là một đại diện của văn hóa, nó là một ngành

công nghiệp. Theo Kinsella (2000), manga là một hiện tượng của văn hóa cận

hiện đại. Gracia (2010) cũng có nhận định tương tự. Garcia (2010) cho rằng

9

để hiểu về xã hội Nhật Bản cận đại thì không thể không chú trọng vào hiện

tượng manga. Theo Gracia (2010), manga gắn liền với cuộc sống hàng ngày

của người dân Nhật Bản và đây là thứ đã giúp Nhật Bản lan tỏa văn hóa của

mình đến thế giới [18, tr. 100]. Từ Gracia (2010), có thể hiểu rằng manga có

ảnh hưởng cả ở trong đất nước sản sinh ra nó và cả trên toàn thế giới.

Về thể loại, truyện tranh manga có rất đa dạng về thể loại. Truyện tranh

manga có thể được phân loại dựa theo lứa tuổi. Một số những thể loại manga

cơ bản bao gồm:

“Kodomo”: truyện tranh hướngđến đối tượng thiếu nhi, nhi đồng. Một

ví dụ tiêu biểu làtruyện tranh Doraemon.

“Shoujo (sô-giô)”: Đây là thể loại manga hướng đến những bạn nữ ở

độ tuổi thiếu niên. Thể loại truyện này tập trung khai thác những câu chuyện

tình cảm, những rung động đầu đời, cuộc sống trường học, thời học sinh…

“Shounen (sô-nên)”: Đây là thể loại truyện hướng đến nam thiếu niên.

Chủ đề của thể loại này thường là các cuộc phiêu lưu, thể thao, hành động,…

“Seinen (Sê-nên)”: Đây là thể loại truyện tranh dành cho nam trung

niên. Loại Manga này có nội dung phức tạp hơn so với thể loại hướng đến

nam thiếu niên, có thể đề cập các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội.

“Jousei (Giô- sê)”: Đây là thể loại truyện Manga hướng đến nữ trung

niên. Nội dung của thể loại này nhiều khi giống với truyện hướng cho các

thiếu nữ, nhưng được khai thác dưới góc nhìn người lớn hơn. Hai loại truyện

Seinen và Josei thường rất hiếm được mua bản quyền và xuất bản ở Việt Nam

“Boy’s Love”: Thể loại truyện đồng tính Nam. Boy’s Love thường chia

ra làm hai thể loại chính là Shounen Ai và Yaoi

“Shounen- Ai”: Đây là thể loại truyện khai thác tình yêu giữa hai nhân

vật nam, thường không có quan hệ thể xác

“Yaoi (Ya-ôi)”: Thể loại truyện đồng tính nam, có yếu tố quan hệ thể xác.

“Girl’s Love”: Thể loại truyện tranh đồng tính nữ, thường chia ra làm

10

hai thể loại nhỏ là Shoujo Ai và Yuri.

“Shoujo Ai”: Đây là thể loại truyện khai thác tình yêu giữa hai nhân

vật nữ, không đề cập đến quan hệ thể xác.

“Yuri”: Thể loại truyện tranh đồng tính nữ, có yếu tố quan hệ thể xác.

Manga được hiểu đơn giản là truyện tranh nói chung. Tuy nhiên, ở nước

ngoài, “manga” là cụm từ dùng để chỉ riêng truyện tranh có xuất xứ từ Nhật Bản.

Yếu tố khiến manga tách biệt với các loại truyện tranh trên thế giới là nét vẽ,

cách diễn tả câu chuyển và nhân vật. Manga rất đa dạng về thể loại và chủ đề.

Các thể loại manga thường được phân chia dựa theo lứa tuổi, đôi khi dựa theo

chủ đề của truyện.

1.4. Những nghiên cứu trƣớc đó về truyện tranh Nhật Bản

1.4.1. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản trên thế giới

Cùng với sự lan rộng của mình, manga đã trở thành đề tài nghiên cứu

của rất nhiều học giả. Nghiên cứu về manga được bắt đầu tiến hành ở Nhật

Bản vào những năm cuối thập kỉ 1950. Trong thời gian này, các nghiên cứu

chủ yếu là các bài báo viết về những ấn phẩm manga bị coi là “xấu” với

thanh, thiếu niên. Đến những năm cuối ở thập kỉ 1980, khi manga đã phát

triển đến đỉnh cao, đem lại nhiều thành công ở cả thị trường nội địa và quốc

tế, trong giai đoạn này, những nghiên cứu về manga đã từng bước có tính học

thuật. Những thuật ngữ cơ bản như khái niệm về manga hay các thuật ngữ sử

dụng trong quá trình sáng tác đã được ghi chép lại trong cuốn sách “Từ điển

Manga Nhật Bản: Quà tặng cho người hâm mộ Manga toàn quốc” của tác giả

Shimizu Isao (1985). Bên ngoài Nhật Bản, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu

về manga nhằm giải đáp nguyên nhân tạo nên sự lôi cuốn của manga. Nổi trội

là những công trình như Manga! Manga! The World of Japanese omics

(1983) của tác giả Frederik L. Schodt, Adult Manga: Culture and Power in

Contemporary Japanese Society (2000) của tác giảSharon Kinsella, Manga:

Sixty Years of Japanese Comics (2004) của tác giả Paul Gravett, Reading

Manga: Local and Global Perceptions of Japanese Comics (2006) của tác giả

11

Steffi Richter và Jaqueline Berndt, và nhiều công trình khác. Những nghiên

cứu này đã tổng hợp đầy đủ sự ra đời, quá trình phát triển, nghệ thuật thể

hiện, nội dung, ảnh hưởng của manga tại thị trường Nhật Bản và tầm quan

trọng của loại hình giải trí này. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu đã tìm hiểu

về manga ở thị trường phương Tây, như Dreamland Japan: Writings on

Modern Manga (1996) của tác giả Frederik L. Schodt, Japanese Visual

Culture: Explorations in the World of Manga and Anime (2008) của tác giả

Mark W. MacWilliams và nhiều tác phẩm khác.

Có nhiều hướng tiếp cận khi nghiên cứu về manga, điển hình là phân

tích mặt nghệ thuật biểu hiện của manga hoặc tập trung phân tích mặt văn học

trong manga, như nội dung, cốt truyện và sự đa dạng về chủ đề. Ngoài ra, một

số nghiên cứu khác tập trung vào quá trình manga vượt biên giới Nhật Bản và

du nhập sang những quốc gia khác. Một mảng khác được chú trọng khi

nghiên cứu về manga là coi manga là phương tiện ngoại giao của Nhật Bản.

Những nghiên cứu tiếp cận manga từ góc độ nghệ thuật biểu hiện bao gồm

“Văn hóa Manga Nhật Bản” của tác giả Natsume Fusanosuke, “Nhập môn

Tâm lý học Manga” (2001) của tác giả Kyo Taro và Naga Oka; “Ponchi:

Nghiên cứu văn hóa biểu hiện” của tác giả Misuzu Kubota (2002); “Manga:

60 Years of Japanese omics” (2004) của tác giả Paul Gravett; “Nghiên cứu

lí luận biểu hiện trong Manga” của tác giả Kyotaro Nagano (2005) và nhiều

nghiên cứu khác. Những nghiên cứu khai thác manga từ góc độ văn học gồm

có “Xã hội học Manga” (2001) của hai nhà Xã hội học Miyahara Kojiro và

Ogino Masahiro, “Nhật Bản đất nước của Manga: Văn hóa đại chúng của

Nhật Bản. tính khả năng của văn hóa thị giác” (2007) của học giả người Đức Jaqueline Berndt và nhiều nghiên cứu khác.8 Bên cạnh đó, manga và ảnh

hưởng của loại hình này cũng là một chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều học

giả. Vào cuối thập niên 1950, những nghiên cứu về ảnh hưởng của manga chỉ

dừng lại ở các bài báo phê phán, chỉ trích các ấn phẩm manga bị coi là “độc

8 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

12

hại” đối với bộ phận thanh, thiếu niên. Đến những năm 1980, khi đời sống

kinh tế của người dân Nhật Bản được nâng cao, xã hội phát triển, có một nền

văn hóa mở, tiệm cận với văn hóa phương Tây, một nền văn hóa đại chúng

dành ch tầng lớp thanh niên trẻ đã được hình thành. Đồng thời, vào giai đoạn

này, manga Nhật Bản đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật biểu hiện, phong

phú và đa dạng về thể loại lẫn nội dung, nghiên cứu về manga đã có chiều

hướng thay đổi và xuất hiện sự phân hóa. Hai luồng nghiên cứu trái chiều về

ảnh hưởng của manga xuất hiện trong thời gian này bao gồm:

(1) Những nghiên cứu cho rằng manga có ảnh hưởng tiêu cực đến

thanh, thiếu niên. Do đa dạng, phong phú về nội dung, chủ đề và các thức

biểu hiện, manga được cho rằng có chứa đựng cả sự “hỗn tạp”, tiêu cực,

không lành mạnh và thiếu chuẩn mực. Nhiều vụ án xảy ra bị cho rằng có liên

quan đến việc đọc truyện tranh. Với lí do đó, nhiều nghiên cứu đã ra đời để

tìm hiểu về ảnh hưởng tiêu cực của manga đến thanh, thiếu niên. Một số công

trình tiêu biểu về hướng nghiên cứu này là “Khái quát và triển vọng nghiên

cứu liên quan đến Manga dước góc độ Tâm lý học” (2007) của tác giả

Ieshima Akihiko thuộc trường đại học Kyoto. Trong nghiên cứu, ông đã đưa

ra cách phân loại “Manga độc hại” và “Manga không độc hại”. Ngoài ra, công

trình nghiên cứu “Tại sao phải ban hành qui chế đối với Manga” (2010) của

tác giả Nagaokao Kayoshi Yuki đã giới thiệu và giải thích lí do cần có những

qui chế qui định đối với những manga bị đánh giá là có yếu tố khiêu dâm.

Một số thể loại manga được cho rằng có cảnh miêu tả về bạo lực và giới tính,

bị đánh giá là tác nhân xấu đến thanh, thiếu niên và ảnh hưởng đến quá trình

hình thành tâm sinh lí của lứa tuổi này, đồng thời có khả năng dẫn đến những

hành động trái pháp luận của trẻ vị thành niên. Tác giả của những nghiên cứu

theo hướng này thường là các nhà nghiên cứu giáo duc, các nhà nghiên cứu

9 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

13

thuộc tổ chức Hội Cha mẹ học sinh Nhật Bản, các nhà nghiên cứu xã hội học và nghiên cứu tội phạm, và nhiều học giả khác. 9

(2) Những nghiên cứu cho rằng manga đem lại ảnh hưởng tích cực đến

thanh, thiếu niên. Vào những năm cuối thế kỉ XX, khi “làn sóng manga” lan

rộng và được nhiều nước trên thế giới yêu mến, có nhiều ý kiến cho rằng cần

nhìn nhận và đánh giá lại tác động của manga lên thanh, thiếu niên. Sang thế kỉ

XXI, khi Nhật Bản quyết định manga là một trong những phương tiện để tiến

hành ngoại giao văn hóa, các nghiên cứu về ảnh hưởng tích cực của manga đã

phát triển. Một số nghiên cứu tiêu biểu của giai đoạn này là “Mô hình nhân vật lí

tưởng ảnh hưởng đến cuộc sống lí tưởng” (2006) của tác giả Ieshima Akihiko.

Nghiên cứu đã khái quát năm ảnh hưởng của manga đến thanh thiếu niên Nhật

Bản, đó là: tình yêu, tình bạn, sự nỗ lực, nhân sinh quanh và thế giới quan, và

kiến thức. Trong công trình nghiên cứu “Khái quát và triển vọng nghiên cứu liên

quan đến Manga dước góc độ Tâm lí học” (2007) của tác giả Ieshima Akihiko,

tác giả cho rằng ngoài những manga bị cho rằng có tác động tiêu cực thì cũng có

nhiều manga mang đến ảnh hưởng tích cục cho thanh, thiếu niên. Vào thời kì

này, manga đã được thừa nhận có ảnh hưởng tích cưc đến trẻ nhỏ, đặc biệt hình

ảnh động trong truyện tranh đã kích thích sáng tạo, phát triển trí tưởng tượng cho

trẻ em nhiều hơn những loại ấn phẩm khác. Nội dung truyện và hình tượng nhân

vật có tác động tốt đến hình thành nhân cách, nhân sinh quan, thế giới quan, đồng thời nâng cao tri thức và giúp trẻ nhỏ học chữ Hán tốt hơn10.

Có thể thấy rằng những nghiên cứu về manga trên thế giới rất đa dạng.

Manga là chủ đề thu hút sự quan tâm của cả học giả Nhật Bản và quốc tế.

Những công trình nghiên cứu tiếp cận manga ở nhiều góc độ khác nhau, tạo

nên góc nhìn đa chiều về loại hình này.

1.4.2. Những nghiên cứu về truyện tranh Nhật Bản ở Việt Nam

Mặc dù đã du nhập vào Việt Nam từ năm 1992 nhưng phải đến những

10 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

14

năm 2000, những công trình nghiên cứu với đề tài là manga Nhật Bản mới

xuất hiện, ví dụ như luận văn Thạc sĩ “Truyện tranh Manga Nhật Bản và

những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam”, chuyên ngành văn hóa học

của tác giả Hạ Thị Lan Phi. Nghiên cứu đã đề cập khái quát khái niệm, đặc

điểm và thể loại của manga. Tuy nhiên, nghiên cứu mới đề cập đến phân loại

manga theo độ tuổi chứ chưa đưa ra được cách phân chia theo thể loại và chủ

đề của manga. Bên cạnh đó, nghiên cứu chưa chỉ ra được những đặc điểm tạo nên sự lôi cuốn của manga không chỉ ở Nhật Bản mà cả trên thế giới11. Ngoài

ra, một số bài báo và tạp chí viết về manga đã xuất hiện. Một vài bài viết bao

gồm “Vài nét về Manga Nhật Bản” của tác giả Hạ Thị Lan Phi (2004) đăng

trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, “Manga qua các thời kỳ

lịch sử” (2005) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, hội

thảo “Khám phá bản sắc văn hóa trong truyện tranh (Manga) và Anime (phim

hoạt hình) Nhật Bản” do quỹ Toyota, Lãnh sứ quán Nhật Bản tại thành phố

Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ phối hợp tổ chức tại thành phố Hồ Chí

Minh vào cuối năm 2005. Bên cạnh đó còn có triển lãm “Không gian mới của

Manga: Nghệ thuật truyện tranh đương đại Nhật Bản” do Quĩ giao lưu Quốc

tế Nhật Bản tổ chức vào năm 2011, “Truyện tranh Việt Nam: Nhìn từ kinh

nghiệm Manga Nhật Bản” của tác giả Lê Văn Sửu đăng trên Tạp chí Nghiên

cứu Mĩ thuật (2011), “Sơ lược về quá khứ và hiện tại của văn hóa Manga của

Việt Nam” (ベトナムの漫画文化:その過去と現在の概説) của tác giả

Nguyễn Hồng Phúc, đăng vào năm 2014 trên Tạp chí International Manga

Research Center, Kyoto Seka University công bố bằng tiếng Nhật. Các bài

viết đó đã đề cập đến lịch sử hình thành, phát triển, vai trò và vị trí của manga

11 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 12 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 10.

15

trong xã hội Nhật Bản, nhưng chưa đi sâu và chỉ dừng lại ở mức giới thiệu khái quát những vấn đề được nêu ở trên12.

Đầu thế kỉ XXI, nhiều bài báo về tác động của manga Nhật Bản đến trẻ

em Việt Nam đã xuất hiện. Ví dụ như bài viết “Truyện tranh Việt Nam: Một

nhu cầu lớn” đăng trên báo Phụ nữ ngày 27 tháng 9 năm 2003, “ ần quan tâm

đến trẻ em đọc truyện tranh Nhật Bản” của tác giả Thanh Hoa đăng trên báo

Phụ nữ Thủ đô năm 2004. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ “Truyện tranh Manga

Nhật Bản và những bài học rút ra cho Việt Nam” của tác giả Hạ Thị Lan Phi

đã nói đến những ảnh hưởng tiêu cực của manga ở Việt Nam. Tuy nhiên, kết

quả nghiên cứu mới chỉ tổng hợp và phân tích các tài liệu trước đó, tính thực chứng của tài liệu chưa cao13. Vào năm 2009, tác giả Đinh Thị Thu Nga đã có

nghiên cứu về việc xuất bản truyện tranh ở Việt Nam, mang tên “Hoạt động

xuất bản sách truyện tranh góp phần giáo dục thiếu nhi ở nước ta hiện nay

(Qua khảo sát Nhà xuất bản Kim Đồng, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin)”14. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tiếp cận từ góc độ khoa học xuất bản

để từ đó chỉ ra những vấn đề lý luận chung của thực trạng và hoạt động xuất

bản sách truyện tranh ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, nghiên cứu có đưa

những kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng xuất bản các sách truyện

tranh giáo dục dành cho thiếu nhi. Vào năm 2012, Viện Nghiên cứu Đông

Bắc Á đã có bài viết tạp chí mang tên “Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hạ Thị Lan Phi15. Bài viết chỉ ra những ảnh

hưởng tích cực, tiêu cực của manga đến trẻ em Việt Nam và đưa ra những ý

kiến để quản lí việc xuất bản manga ở Việt Nam. Năm 2014, tác giả Đặng

ao ường cũng có một đề tài nghiên cứu về hoạt động xuất bản mang tên

13 Hạ Thị Lan Phi (2017). Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. tr. 11. 14http://thuvien.ajc.edu.vn:8080/dspace/handle/123456789/4921

15Hạ Thị Lan Phi (2012). Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt Nam hiện nay. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

16

“nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh tại nhà xuất bản Kim Đồng hiện

nay”16. Ở nghiên cứu này, tác giả đã xác định những vấn đề lí luận chung của

truyện tranh như khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò. Từ đó, tác giả tập

trung vào những yêu cầu trong chất lượng truyện tranh được xuất bản, làm rõ

thực trạng chất lượng của những tựa truyện tranh được NXB Kim Đồng xuất

bản hiện nay, những nguyên nhân, thành tựu và hạn chế của những truyện

tranh đó. Ngoài ra, tác giả đưa ra phương hướng và hướng giải quyết nhằm

nâng cao chất lượng truyện tranh xuất bản của NXB Kim Đồng. Năm 2014,

luận văn thạc sĩ “Giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1990 đến

nay: “Nghiên cứu trường hợp Manga Nhật Bản được phát hành tại Việt Nam”

của tác giả Kurokawa Yuichiro đã nghiên cứu những truyện tranh Nhật Bản

khi du nhập vào Việt Nam. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã tập trung

chỉ ra lịch sử manga du nhập và lan tỏa ở Việt Nam, nghiên cứu dịch thuật

trong manga, khác biệt về quan niệm truyện tranh giữa Việt Nam và Nhật

Bản, và ảnh hưởng của manga thể hiện trong truyện tranh Việt Nam. Vào năm

2016, tác giả Ngô Thanh Mai đã có bài viết về manga mang tên “Những ảnh

hưởng của truyện tranh Nhật Bản đối với trẻ em Việt Nam hiện nay”. Bài viết

khai thác những điểm tích cực và tiêu cực manga mang lại cho trẻ em Việt

Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị để chọn lọc truyện tranh cho trẻ em đọc

một cách tốt hơn.

Nhìn chung, chủ đề manga đã được nhiều nhà nghiên cứu ở Nhật Bản

và quốc tế khai thác và tiếp cận từ nhiều góc độ. Những nghiên cứu trước đó

đã tổng hợp, phân tích, khái quát những nét cơ bản của manga, đồng thời so

sánh với truyện tranh (comics) của các nước phương Tây qua góc độ hội họa,

văn học và quá trình sáng tác để tìm ra sự khác biệt và lí giải sự thu hút của

loại hình này đối với thanh, thiếu niên. Ở Việt Nam, những công trình nghiên

16 Đặng ao ường (2014). “Nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh của Nhà xuất bản Kim Đồng”. Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

17

cứu về manga chủ yếu khai thác những ảnh hưởng, tích cực và tiêu cực của

manga đến trẻ em, đưa ra những phương hướng về giáo dục trẻ em. Đây là

hướng nghiên cứu thiết thực, nhưng vẫn có một số giới hạn. Gần đây, chủ đề

nghiên cứu về manga đã mở rộng hơn. Một số nghiên cứu tiếp cận manga từ

góc độ xuất bản. Những nghiên cứu này đã chỉ ra được thực trạng xuất bản

manga ở Việt Nam hiện nay và đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao chất

lượng xuất bản manga. Những nghiên cứu về xuất bản manga ở Việt Nam đã

bước đầu nói về sự thay đổi trong hình thức và chất lượng xuất bản. Tuy

nhiên, những nghiên cứu về manga ở Việt Nam chưa được phong phú và đa

dạng. Mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam 2 thập kỉ, còn thiếu nghiên cứu tìm

hiểu sự thay đổi về manga trên thị trường Việt Nam, các thể loại được xuất

bản và độ tuổi của những manga được xuất bản ở Việt Nam. Ngoài ra, nhiều

nghiên cứu khai thác ảnh hưởng của loại hình này đến trẻ em nhưng vẫn còn

ít nghiên cứu tập trung ảnh hưởng của manga đến độ tuổi lớn hơn.

Trên cơ sở những nghiên cứu trước đó, luận văn chú trọng nghiên cứu

những ảnh hưởng manga mang đến với lứa tuổi thanh thiếu niên và quan điểm

của thanh niên Việt Nam về manga. Ngoài ra, luận văn hi vọng có thể tìm

hiểu cách những độc giả nhìn nhận đất nước, văn hóa và con người Nhật Bản

18

thông qua manga như thế nào.

ƢƠ

TÌNH HÌNH TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA Ở VI T NAM

2.1. Manga đƣợc phổ biến trên thế giới

Từ xưa, đã có một số hoài nghi về việc xuất khẩu manga nói riêng và các

loại hình văn hóa đại chúng nói chung ra nước ngoài. Trong cuốn sách

“Manga! Manga! The World of Japanese omics”, Schodt (1983) đã chỉ ra một

số trở ngại manga gặp phải khi xuất khẩu sang những quốc gia khác. Những trở

ngại đó là khi xuất khẩu ra các nước khác, manga phải được đảo ngược lại để

đọc từ trái sang phải, thay vì phải sang trái như trong nước, vấn đề dịch thuật,

nội dung của truyện và nhiều vấn đề khác. Ngoài ra, trong nghiên cứu của

mình, Schodt (1983) cũng đề cập đến một số thành công của manga ở thị

trường châu Á. Do vị trí gần hơn nên manga dễ dàng thâm nập vào các nước

Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan hơn. Tuy nhiên, manga không hoàn toàn

thu về được lợi nhuận. Ở Thái Lan, một phiên bản lậu của truyện tranh

Doraemon do tác giả Fujio Fujiko sáng tác đã trở thành một hiện tượng. Ở Hàn

Quốc, chính phủ đã hạn chế nghiêm ngặt sự thâm nhập của manga do sự phổ

biến thể loại này có được ở đây (Schodt, 1983, tr. 157). Trong nghiên cứu của

mình, mặc dù Schodt (1983) cho rằng manga sẽ tạo được ảnh hưởng trên thế

giới bằng những phương pháp gián tiếp, như thông qua đồ chơi, trò chơi điện

tử và các sản phẩm ăn theo khác nhưng vẫn có sự hoài nghi về việc manga xuất

khẩu và được ưa chuộng ở thị trường nước ngoài. Schodt (1983) đã nhận định

đúng về việc manga sẽ tạo hiệu ứng thông qua những phương thức gián tiếp

như đã chỉ ra, nhưng trái với sự hoài nghi, manga đã dần dần lan tỏa sang nhiều

nơi trên thế giới, trở thành một hiện tượng.

Ở nhiều nước châu Á, truyện tranh Nhật Bản được phổ biến không

thông qua con đường chính thức. Trong nghiên cứu của mình, Yuichiro

19

(2014) cũng nhắc đến việc bộ truyện tranh Doraemon được dịch và tạo ra một

thị trường không theo bản quyền. Vào năm 1990, sau Trung Quốc chính thức

tham gia công ước Bern, Doraemon đã được dịch và xuất bản có bán quyền.

Tuy nhiên, ở một số nước khác, hiện tượng phát hành trái phép vẫn tiếp diễn.

Tiếp theo đó, nhà xuất bản Thanh Văn đã tiến hành dịch manga Nhật Bản, trở

thành trung tâm phân phối truyện tranh ở khu vực châu Á đến những nơi có

nhiều cư dân Hoa kiều như Singapore và Mã Lai [15, tr. 33]. Ngoài ra, bộ

truyện tranh thiếu nhi Doraemon đã đến Hàn Quốc vào đầu thập niên 80 và

đến Thái Lan vào năm 1982.

Cần nói thêm rằng ở cách phản ứng và đón nhận đối với manga Nhật

Bản ở mỗi nước có sự khác nhau. Mặc dù Doraemon được đón nhận nồng

nhiệt ở các nước thuộc khu vực châu Á song, ở Mỹ, bộ truyện thiếu nhi này

không tạo nên hiện tượng mạnh. Ở Mỹ, Doraemon không được độc giả yêu

thích. Nguyên nhân của việc này là vì người Mỹ có tư duy độc lập, tự làm tự

chịu trách nhiệm nên họ không đồng cảm với một nhân vật ngốc nghếch,

chậm chạp và mãi không trưởng thành như Nobita[15, tr. 34]. hưa kể, ở Mỹ,

họ đã có sẵn thị trường với đủ sản phẩm phục vụ cho thiếu nhi. Đối với người

Mỹ, giái trí và giáo dục là hai yếu tố tách biệt, không liên quan đến nhau nên

sản phẩm trong thị trường Mỹ không đặt nặng yếu tố giáo dục như manga

Nhật Bản. Bộ truyện được chỉnh sửa nội dung, địa phương hóa để phù hợp

với thói quen và tư duy của người Mỹ. Ở phương Tây, Doraemon chỉ có bản

dịch Tây Ban Nha. Trái lại, phim hoạt hình rất được ưa chuộng. Ở Ý, phim

hoạt hình được phát hành từ năm 1982 và đã được tái bản nhiều lần. Đến năm

2003, phim hoạt hình chính thức được phát hành 1 tuần 5 buổi. Ở Tây Ban

Nha, phim cũng được phát hành từ năm 1993 và Pháp phát hành từ năm 2003.

Một quốc gia ở châu Á mà bộ truyện Doraemon không thu hút được độc giả,

đó là Philippines. Độc giả Philippines không đón nhận Doraemon nồng nhiệt

so với các độc giả ở những nước trong khu vực. Lí do là vì đa số người

20

Philippines theo Kitô giáo và họ thường xuyên tiếp xúc với văn hóa phương

Tây và Mỹ. Chính vì vậy, Doraemon cũng không được đón nhận ở đây như ở

Mỹ. Tuy nhiên, bộ phim hoạt hình Nhật “Voltes V” rất được yêu thích ở đất

nước này.

Có thể nhận thấy rằng sự phổ biến của truyện tranh Nhật Bản ở mỗi

khu vực, quốc gia và nền văn hóa là khác nhau. Phương thức phổ biến cũng

thay đổi ở mỗi khu vực và nền văn hóa. Đôi khi, cách truyện tranh Nhật Bản

lan tỏa ở các nước không phải do Nhật Bản hay thông qua con đường chính

thống mà qua những con đường không chính thức. Tốc độ phổ biến truyện

tranh, đặc biệt qua các bản copy, đã vượt quá tưởng tượng của chính phủ Nhật

Bản. Ví dụ, ở Thái Lan đã có trường hợp sáng tác truyện mới dựa trên những

truyện đã xuất bản. Những phiên bản mới này được lưu hành trên các trang

mạng như Youtube.

2.2. Manga đƣợc phổ biến ở Việt Nam

Trước khi bộ truyện tranh Doraemon du nhập vào để rồi trở thành một

hiện tượng, Việt Nam đã có một số truyện tranh nước ngoài. Vào thập niên 50

– 60, ở miền Nam Việt Nam, nhiều tác phẩm Trung Quốc và truyện tranh của

Pháp đã có mặt trên thị trường. Trong chiến tranh chống Mỹ, một số truyện

tranh của Mỹ đã có mặt ở Việt Nam. Việc “đọc truyện bằng tranh” phổ biến ở

miền Nam hơn ở miền Bắc [15, tr. 37]. Bên cạnh đó, truyện tranh do tác giả

người Việt Nam sáng tác đã manh nha xuất hiện. Những tranh truyện này là

những tranh vẽ về nhân vật Lý Toét, Xã Xệ trên đăng trên báo từ thời Pháp

thuộc, truyện ngắn đăng trên báo và tạp chí từ sau Cách mạng tháng Tám và

những truyện tranh bị ảnh hưởng hoặc được vẽ lại từ truyện tranh Mỹ, Pháp – Bỉ ở miền Nam trong giai đoạn 1945 – 197517. Đây là những câu chuyện

mang tính giải trí đơn thuần, giáo dục lịch sử và kĩ năng, không bao hàm yếu

17 Nông Thế Linh (2011). Hình và nét trong thiết kế tranh truyện. Luận văn thạc sĩ mỹ thuật công nghiệp. Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.

21

tố chính trị nên sự phát triển của truyện tranh ở miền Nam không bị yếu tố

chính trị và xã hội ảnh hưởng. Đến khi Doraemon được xuất bản, bộ truyện

tranh đó đã tạo nên một hiện tượng lớn, mở đường cho truyện tranh Nhật Bản

đi vào văn hóa giới trẻ Việt Nam. Một số tác phẩm nước ngoài khác cũng đã

được xuất bản, bao gồm xterix, Siêu Popeye hay Xì Trum, nhưng không tác

phẩm nào tạo ra được ảnh hưởng tương tự như Doraemon.

Năm 1992, nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt bộ truyện tranh Doraemon ở

Việt Nam. Lúc này, bộ truyện được dịch từ phiên bản Thái Lan. Phiên bản

Thái Lan có hai tên gọi, đó là “โดราเอมอน”(Doraemon) và “โดเรมอน”

(Đôrêmon). Vì vậy, tên gốc Nhật “ドラえもん”(Doraemon) đã chuyển thành

“Đôrêmon” do cách phát âm trong tiếng Việt và ảnh hưởng từ bản dịch Thái

Lan. Tác phẩm du nhập vào Việt Nam muộn hơn các nước khác do ảnh hưởng

từ cuộc chiến tranh chống Mỹ và tranh chấp với Campuchia. Nhiều công ty

nước ngoài đã ngừng đầu tư vào Việt Nam và các hoạt động giao lưu văn hóa.

Bộ truyện lần đầu được xuất bản với tựa đề “Đôrêmon chú mèo máy thông

minh”. Năm 1992, 6 tập truyện đã được ra mắt. Năm 1993, nhà xuất bản tiếp

tục phát hành đến tập 33 cùng 3 tập truyện dài. Năm 1994, nhà xuất bản tiếp

tục xuất bản đến tập 74. Năm 1995, truyện được phát hành kéo dài đến tập 78.

Trước khi phát hành bản quyền chính, nhà xuất bản Kim Đồng đã bán được

hơn 10 triệu sách. Ngoài truyện gốc, có rất nhiều tác phẩm khác liên quan đến

Doraemon [15, tr. 35].

Từ khi phát hành, Doraemon đã trở thành hiện tượng ở nhiều nước

châu Á, trong đó có Việt Nam. Ở Thái Lan đã xuất hiện những tác phẩm mô

phỏng theo bộ truyện. Điều tương tự đã xảy ra ở Việt Nam. Vào năm 2011,

phong trào chế Doraemon lan rộng trên các trang mạng Việt Nam. Nhiều hội

chế truyện trên các mạng xã hội, diễn đàn ra đời, các cuộc thi chế được tổ

chức. Những câu chuyện chế này vẫn giữ nguyên hình ảnh trong nguyên tác

22

nhưng thay đổi lời thoại trong truyện theo lối hài hước hơn. Nội dung của

những câu chuyện chế này xoay quanh những vấn đề xã hội, câu chuyện

thường ngày thông qua góc nhìn hài hước của người trẻ. Cùng thời gian đó,

nhiều video âm nhạc chế truyện Doraemon cũng xuất hiệnvà được gọi

là Doraemon Music Video (DMV).Cuối tháng 5 năm 2015, Acecook đã tổ

chức chương trình “ ùng Doraemon chu du thế giới” diễn ra tại Thành phố

Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ để quảng bá món

"Mì Doraemon". Đây là sản phẩm mới ra mắt của công ty sau khi hình ảnh

chú mèo máy xanh nổi tiếng chính thức được mua bản quyền. Đồng thời,

công ty này cũng là nhà tài trợ chính cho phần ba và phần bốn của loạt phim

"Doraemon - hú mèo máy đến từ tương lai" chiếu trên kênh HTV3. Ngoài

ra, cục Cảnh sát Giao thông, Bộ Giao thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hợp

tác với Tập đoàn Mainichi Nhật Bản để phát động chương trình "Doraemon

với An toàn giao thông" với mục đích tuyên truyền, phổ biến và giáo dục trẻ

em Việt Nam về Trật tự an toàn giao thông. hương trình được bắt đầu từ

ngày 20 tháng 4 năm 2016. Mức độ nổi tiếng rộng rãi của mèo máy

Doraemon không chỉ thể hiện ở những truyện chế, sản phẩm hay các chương

trình sử dụng hình tượng nhân vật. Bộ truyện cũng gây cảm hứng cho một số

họa sĩ tự sáng tác tác phẩm của mình. Vào ngày 20 tháng 2 năm 2014, bộ

truyện Dế Rô Bốt - Nhân tài ảo thuật đã được công ty Phan Thị phát hành.

Trước khi phát hành, bộ truyện đã bị "Nghi án đạo truyện Doraemon" và bị

chỉ trích vì sự tương đồng với Doraemon. Sau khi ra mắt, sự hoài nghi càng

gia tăng vì nhân vật và bảo bối trong bộ truyện “Dế Rô Bốt - Nhân tài ảo

thuật”mang nhiều đặc điểm giống như trong “Doraemon”, nhưng đã được

chỉnh sửa. Sau đó, nhóm tác giả của bộ truyện đã thừa nhận lấy cảm hứng từ

“Doraemon” nhưng dựa trên nguyên lý "Innovation". Việc này đã gặp phải sự

phản đối kịch liệt từ các diễn đàn và trang mạng xã hội.

Ngoài việc là một trong những ấn phẩm truyện tranh Nhật Bản đầu tiên

23

phát hành, Doraemon còn có ý nghĩa đặc biệt đối với độc giả nói riêng và

nước Việt Nam nói chung. Đối với Nhật Bản, Doraemon là trường hợp manga

Nhật Bản dần phổ biến ở thị trường châu Á. Tuy nhiên, chính phủ nước này

vẫn kiên định với chiến lược ưu tiên phổ biến phiên bản hoạt hình trước.

Nguyên nhân là vì đọc truyện tranh Nhật Bản khó và cần xử lí kĩ thuật, trong

khi đó với phim hoạt hình, người xem vẫn có thể hiểu được dù không cần suy

nghĩ. Thêm vào đó, bên Nhật không cần phải đầu tư thêm, mà chấp nhận rằng

thị trường nào truyện tranh không bản quyền bán chạy thì thị trường đó cũng

có nhu cầu phim hoạt hình. Tuy nhiên, trường hợp ở Việt Nam có phần đặc

biệt. Năm 1996, Nhà xuất bản Kim Đồng chính thức kí kết bản quyền của

Doraemon với Nhà xuất bản Shogakukan. Toàn bộ số tiền bản quyền tiếng

Việt xuất bản trong giai đoạn 1992-1996 được chuyển vào một quỹ có tên

Quỹ học bổng Doraemon với sự đồng ý của tác giả Fujiko. F. Fujio. Quỹ học

bổng Doraemon, còn gọi là quỹ hỗ trợ giáo dục trẻ Việt Nam, ra đời vào ngày

31 tháng 8 năm 1996 và do ông Nguyễn Thắng Vu, Tổng Biên tập Nhà xuất

bản Kim Đồng từ năm 1988 đến năm 2002, và tác giả của truyện tranh

Doraemon, Fujiko Fujio, sáng lập.Ông Fujimoto lúc đó thường xuyên nhập

viện, sức khỏe không được tốt và được bác sĩ khuyến cáo: “Nếu muốn làm gì

đó thì giờ vẫn kịp.” Vì vậy, ông đã sang Việt Nam và gặp gỡ những độc giả

nhiệt huyết. Bản thân ông cũng yêu thích bộ phim Đông Dương (Indochine)

và Người tình (L’ mant) nên ông dành sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam.

Một năm sau chuyến đi đến Việt Nam, ông Fujimoto qua đời khi ông 62 tuổi

[15, tr. 36].

Quỹ học bổng Doraemon đã tạo cơ hội cho nhiều trẻ em khó khăn tiếp

tục được học tập. Hàng năm, quỹ này được bổ sung từ lợi nhuận phát hành

các ấn bản Doraemon ở Việt Nam, bao gồm những lần tái bản. Trong giai

đoạn 1996 – 2013, quĩ học bổng Doraemon đã được trao 18 lần, 8.719 suất

đến các học sinh trên cả nước. Tính đến tháng 5 năm 2010, hơn 6.600 học

24

sinh Việt Nam có hoàn cảnh khó khăn đã được quỹ Doraemon cấp học bổng

với tổng số tiền hơn 3,3 tỷ đồng. Quỹ Doraemon được đánh giá là loại quĩ văn

hóa – giáo dục phi chính phủ sớm nhất ở Việt Nam. Ở Việt Nam, Doraemon

không đơn thuần chỉ là một tựa truyện tranh thiếu nhi để giải trí mà còn là thứ

giúp đỡ những trẻ em gặp khó khăn được đi học. Đây là một phần lí do giải

thích vì sao tác phẩm này được ưa chuộng ở Việt Nam lâu dài.

Bên cạnh đó,văn hóa đọc truyện tranh manga ngày càng phát triển và

không ngừng lan rộng ở Việt Nam. Vào năm 2004, Việt Nam gia nhập Công

ước Berne. Bằng việc kí kết văn kiện này, Việt Nam sẽ tuân thủ các quy định

của ông ước Berne và có những chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát

triển theo như trong Phụ lục của ông ước. ông ước Berne là công ước bảo

hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Đây là công ước hướng đến bảo vệ

quyền tác giả giữa các quốc gia có chủ quyền. Nhờ sự kiện này, truyện tranh

nước ngoài, trong đó có manga, có nhiều cơ hội được xuất bản ở Việt Nam

hơn. Bên cạnh bộ truyện Doraemon vốn đã được yêu thích, nhiều tựa truyện

tranh manga khác đã được mua bản quyền và phát hành ở Việt Nam. Số lượng

truyện manga xuất bản ở Việt Nam vượt trội hơn hẳn so với những truyện

tranh của các nước khác. Khi được phỏng vấn, một người đã trả lời “mỗi năm,

trung bình ở Việt Nam có khoảng 400 quyển truyện tranh manga được xuất

bản, không kể tái bản. Về doanh thu, truyện tranh manga chiếm khoảng 40%

doanh số, so với các mảng sách khác.” (Trích Phỏng vấn biên tập viên truyện

tranh, nam, 28 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)

Về việc lựa chọn mua bản quyền và xuất bản truyện tranh manga, khi

được hỏi, một người cho biết những yếu tố khiến truyện tranh manga nổi trội

hơn so với những truyện tranh khác. Yếu tố đầu tiên là hình thức. Khi được

hỏi, một người đã trả lời: “Về hình thức, truyện tranh Nhật Bản rất đa dạng.

Hiện giờ, truyền tranh Hàn Quốc đã chuyển sang thể loại webtoon (truyện

tranh đăng trên mạng), ít ra sách giấy, khiến cho việc du nhập và phát hành ở

25

Việt Nam khó khăn hơn. Truyện tranh Trung Quốc không còn đầu sách nào

đủ ấn tượng và cũng đang dần chuyển sang webtoon. Yếu tố thứ hai là nội

dung. Truyện tranh Hàn Quốc và truyện tranh Trung Quốc có quá nhiều yếu

tố trùng lặp với truyện Nhật. Trong khi đó, truyện tranh Nhật có quá nhiều

yếu tố nổi bật. Ngoài ra, văn hóa Nhật Bản có nhiều nét tương đồng văn hóa

với Việt Nam.Về nét đặc sắc trong Nhật Bản, Nhật Bản là đất nước vẫn giữ

được truyền thống cho đến bây giờ. Yếu tố truyền thống của Nhật là yếu tố

thu hút tất cả các quốc gia khác chứ không chỉ Việt Nam. Bên cạnh đó,văn

hóa Nhật Bản được lồng ghép vào truyện tranh rất khéo léo. Ví dụ như hình

ảnh samurai, ninja, biểu tượng của Nhật như hoa anh đào đều được đưa vào

truyện tranh Nhật Bản một cách khéo léo và tinh tế. Đối với truyện tranh

phương Tây, thể loại truyện này phát triển theo một dòng khác.Nét vẽ và nội

dung khó để tiếp cận với độc giả Việt Nam. Nét vẽ trong truyện tranh phương

Tây mang phong cách tả thực rất nhiều, nội dung thì phức tạp hơn. hưa kể,

về giá thành, truyện tranh Nhật có giá rẻ hơn so với truyện tranh phương Tây

hay truyện tranh webtoon của Hàn Quốc và Trung Quốc.” (Trích Phỏng vấn

biên tập viên truyện tranh, nam, 25 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)

Khi được hỏi về thể loại truyện tranh manga thường được lựa chọn để

xuất bản ở Việt Nam, một người đã trả lời: “Rất nhiều, hành động, giả tưởng,

phiêu lưu, trinh thám…” Về lứa tuổi, một người đã trả lời: “lứa tuổi thịnh

hành nhất bao giờ cũng là lứa tuổi 14 tuổi đến 24 tuổi. Thiếu nhi thụ động

trong việc mua truyện vì được bố mẹ mua cho. Đối tượng có khả năng mua

truyện là những lứa tuổi từ 14 đến 24 tuổi.” (Trích Phỏng vấn biên tập viên

truyện tranh, nam, 25 tuổi, hiện đang làm ở NXB Kim Đồng)

Nhìn chung, truyện tranh nói chung và truyện tranh Nhật Bản manga

nói riêng đã có một khoảng thời gian du nhập vào Việt Nam. Truyện tranh

được cho rằng đã xuất hiện ở Việt Nam đầu tiên ở miền Nam. So với miền

Nam, truyện tranh du nhập và phát triển ở miền Bắc tương đối muộn. Những

26

truyện tranh được xuất bản ở miền Nam trong thời kì này không bị yếu tố

chính trị ảnh hưởng, vì những ấn phẩm này hoàn toàn mang tính giáo dục lịch

sử, giáo dục kĩ năng, giải trí, mê tín dị đoan và không có mục đích chính trị.

Bộ truyện tranh manga đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam là Doraemon.

Trong lần phát hành đầu tiên, bản dịch Việt Nam được dựa theo bản dịch Thái

Lan nên có nhiều điểm sai sót, đặc biệt ở cách phát âm tên nhân vật. Sau này,

bộ truyện đã được tái bản và dịch đúng tên như bản gốc Nhật. Từ khi phát

hành, Doraemon đã trở thành một hiện tượng ở Việt Nam. Bộ truyện để lại

dấu ấn trong lòng người hâm mộ Việt Nam không chỉ ở câu chuyện mà còn ở

hoạt động quĩ hỗ trợ trẻ em nghèo. Ngoài ra, hình tượng Doraemon cũng

được sử dụng trong nhiều sản phẩm với mục đích truyền thông. Hơn thế nữa,

sự nổi tiếng của truyện tranh Doraemon còn tạo cảm hứng cho một nhóm tác

giả sáng tác một bộ truyện tranh tương tự. Sau khi Việt Nam gia nhập công

ước Bern, nhiều bộ truyện tranh đã có cơ hội du nhập vào Việt Nam hơn.

Truyện tranh manga chiếm đa số trong những đầu truyện tranh nước ngoài

được xuất bản ở Việt Nam. Đồng thời, loại hình giải trí này mang lại lợi

nhuận đáng kể cho NXB. Truyện tranh manga được lựa chọn để xuất bản vì

mang nhiều yếu tố nổi trội hơn so với truyện tranh của các nước khác. Trong

tương lai, nhiều tựa truyện tranh manga sẽ ngày càng được lựa chọn và phát

hành ở Việt Nam hơn.

2.3. iao lƣu văn hóa hật Bản ở Việt Nam thông qua truyện tranh

Manga đã được Nhật Bản sử dụng như một công cụ giao lưu văn hóa

với nhiều quốc gia trên thế giới. Vào năm 2007, giải thưởng Manga Quốc tế

(International MANGA Award) do Bộ Ngoại giao Nhật Bản tổ chức với mục

đích mở rộng quan hệ quốc tế và sự thấu hiểu đối với những quốc gia khác thông qua manga.18 Đây là giải thưởng để vinh danh những cá nhân có đóng

góp vào sự phát triển của manga trên thế giới. Giải thưởng vẫn kéo dài cho

27

đến nay. Mới nhất là việc trao tặng giải thưởng Manga Quốc tế lần thứ 12 vào 18https://www.manga-award.mofa.go.jp/index_e.html

năm 2018. Giải thưởng đã nhận được 331 bài dự thi từ 68 quốc gia và khu

vực. Không chỉ vậy, vào năm 2008, Bộ Ngoại giao Nhật Bản tiến hành dự án

“Đại sứ nime” (“ nime mbassador”) với mục tiêu tạo hứng thú về Nhật

Bản với những người ở các quốc gia khác thông qua anime. Nhân vật mèo máy “Doraemon” đã được chọn làm Đại sứ Anime Nhật Bản19. Có thể thấy

rằng, manga đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật

Bản. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa có chủ đề manga đã

được tổ chức.

Một trong những ảnh hưởng manga mang dến là sự xuất hiện của trào

lưu cosplay ở Việt Nam. Theo tiếng nhật, cosplay là một từ tiếng Anh do

người Nhật tạo ra. Cụm từ là cách gọi ngắn của “costume play”, phát âm theo

tiếng Nhật là kosupure (コスプレ). Cụm từ dung để chỉ những người ăn mặc

và hành động giống như những nhân vật họ yêu thích trong manga, anime,

tiểu thuyết, video games, phim ảnh… Xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng đầu

những năm 2004, cosplay đã nhanh chóng được đón nhận bởi bộ phận những

thanh thiếu niên đam mê truyện tranh Nhật Bản, trò chơi điện tử và các phim

khoa học viễn tưởng. Trào lưu cosplay phát triển rất nhanh chóng, thậm chí

Nhà xuất bản Kim Đồng, một trong những bộ phận xuất bản uy tính nhất

chuyên phát hành những tác phẩm hướng tới đôc giả trẻ tuổi của nước ta, đã

tổ chức một cuộc thi cosplay vào năm 2008. Lễ hội hoa anh đào tổ chức ở Hà

Nội vào năm 2009 cũng có phần trình diễn cosplay. Theo GS. Furuta Motoo,

cosplay là phương tiện Nhật Bản sử dụng để truyền bá văn hóa cùng hàng hóa20. Từ khi du nhập đến nay, trào lưu cosplay không ngừng lan tỏa. Vào

năm 2017, trong chuỗi sự kiện kỉ niệm 60 năm thành lập, nhà xuất bản Kim

Đồng đã tổ chức lại cuộc thi cosplay mang tên “Summer Night” sau 10 năm.

28

Ngoài ra còn rất nhiều sự kiện khác dành cho những người đam mê cosplay 19https://www.mofa.go.jp/policy/culture/exchange/pop/index.html 20 Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia. Trang 369 – 390.

như Touch Summer, Natsu Matsuri, Fuyu Matsuri và nhiều lễ hội khác. Hầu

như năm nào cũng sẽ có ít nhất một sự kiện cosplay được tổ chức để cho

người hâm mộ thỏa mãn mong ước hóa trang thành nhân vật mình yêu thích.

Bên cạnh những sự kiện về cosplay, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa

với chủ đề manga Nhật Bản đã được tổ chức ở các thành phố lớn, đặc biệt là

ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo Quốc tế “Phụ nữ và truyện

tranh: Kết nối những nền văn hóa ngoài Nhật Bản” tổ chức vào năm 2012 tại

Hà Nội là một ví dụ điển hình. Hội thảo do Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản –

Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam, Dự án nghiên cứu

truyện tranh của phái nữ, chương trình asianbeat của chính quyền tỉnh

Fukuoka, hợp tác với Dự án Shojo Manga Power (Sức mạnh của truyện tranh

thiếu nữ) đã đồng tổ chức chuỗi sự kiện truyện tranh này. Sự kiện này bao

gồm triển lãm các tác phẩm manga, tọa đàm với những khách mời là họa sĩ

truyện tranh nổi tiếng và buổi hội thảo quốc tế giữa nhiều học giả danh tiếng

về manga tới từ nhiều nước. Không chỉ thế, những sự kiện về manga tiếp tục

lan rộng. Gần đây nhất, vào năm 2018, Lễ hội Văn hóa Nhật Bản do hệ thống

nhà sách danh tiếng Fahasa tổ chức trong thành phố Hồ hí Minh có chương

trình liên quan đến manga mang tên Manga Festival. Trong chương trình này,

những người hâm mộ sẽ có cơ hội giao lưu và xin chữ kí những họa sĩ yêu

thích của mình. Có bốn họa sĩ truyện tranh được mời đến trong sự kiện này,

đó là Hidenori Kusaka và họa sĩ Satoshi Yamamoto (tác giả của manga

Pokemon Special), Waka Mivama (tác giả của manga Youkai Apartment no

Yuuga na Nichijou) và Iori Sakisaka (tác giả của manga Omoi, Omoware,

Furi, Furare). Đây là những truyện tranh đã được mua bản quyền và xuất bản

ở Việt Nam. Ngoài ra, lễ hội có triển lãm nhiều tác phẩm truyện tranh đặc sắc

nhất và chiêm ngưỡng khả năng vẽ trực tiếp của họa sĩ Kaoru Mori (tác giả

29

manga Otoyomegatari) nổi tiếng.

Những sự kiện mang chủ đề văn hóa Nhật Bản không chỉ dừng lại ở

giao lưu văn hóa mà ngày càng được mở rộng thêm nhiều mảng khác. Lễ hội

Artist Day x Japan ra mắt gần đây chính là ví dụ tiêu biểu.Artist Day x Japan

là sự kiện lần đầu tổ chức vào mùa hè năm 2018 ở thành phố Hồ Chí Minh.

Sự kiện là sân chơi cộng đồng bổ ích dành cho giới trẻ, với nhiều hoạt động

đặc sắc và đề cao tính “trải nghiệm – tương tác”. Tại ngày hội này, có bốn

hoạt động chính cho người tham gia trải nghiệm. Đầu tiên là workshop dành

cho văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Đây là nơi quảng bá những loại hình

văn hóa cổ truyền, giới thiệu và hướng dẫn những người tham gia về trà đạo,

origami (nghệ thuật xếp giấy Nhật Bản), thư pháp, móc len amigurumi, cơm

cuộn – cơm nắm, trang điểm và mặc yukata truyền thống của Nhật. Hoạt động

thứ hai là triển lãm và biểu diễn. Người tham gia sự kiện sẽ có cơ hội được

tận hưởng múa cổ truyền Yosakoi, đấu võ từ CLB Akido & Kendo và biểu

diễn nhạc Jpop. Những sản phẩm như búp bê truyền thống Hina, cắm hoa

Ikebana, Origami, các mô hình chính hang figure, gundam và nhiều thứ khác

cũng đượcc trưng bày tại lễ hội. Hoạt động thứ ba là gian hàng trò chơi dân

gian. Đây là nơi mọi người có thể tham gia vào các trò chơi dân gian Nhật

Bản như Fukuwarai, vẽ chuông gió Fuurin, thử tài Kendama… Hoạt động

cuối cùng trong ngày hội này là chợ phiên họa sĩ. Đây là hoạt động đặc sắc

nhất và nổi bật nhất của ngày hội. Đây là nơi những tác phẩm được vẽ theo

nhiều phong cách, từ manga đến truyện tranh Âu Mỹ, được bày bán kinh

doanh. Những sản phẩm được bán ở đây chủ yếu là của những họa sĩ Việt

Nam. Đây là nơi có thể mua những sản phẩm độc đáo của họa sĩ như tranh

ảnh, các sản phẩm ăn theo, hay truyện tranh do họ sáng tác.

Có thể thấy rằng những hoạt động giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt

Nam được tổ chức ngày càng nhiều, với nhiều hoạt động thú vị và sôi nổi.Vào

thời gian đầu mới xuất hiện, những hoạt động này được tổ chức trong cộng

30

đồng những người hâm mộ truyện tranh hoặc có chung sở thích. Theo thời

gian, dần dần, những hoạt động này được tổ chức với qui mô ngày càng lớn

và được những tổ chức lớn, có uy tín tài trợ và được cả những người không

yêu thích truyện tranh biết tới. Bên cạnh đó, mật độ diễn ra ngày càng nhiều

hơn, nhiều khi trong một năm có thể có nhiều hoạt động giao lưu văn hóa

được tổ chức.Một điểm đáng chú ý là những hoạt động tổ chức trong những lễ

hộingày càng phong phú và chuyên nghiệp hơn. Một số sự kiện truyện tranh

càng ngày có nhiều nét tương đồng với các sự kiện truyện tranh lớn khác trên

thế giới. Điển hình như trong sự kiện Manga Festival, ban tổ chức đã mời

những họa sĩ chuyên nghiệp của Nhật Bản đến tham dự và giao lưu cùng

người hâm mộ, việc này giống với nhiều sự kiện văn hóa giải trí trên thế giới,

như Anime Expo, hội nghị anime lớn nhất Bắc Mĩhay Comic-Con, hội nghị

truyện tranh và giải trí đa thể loại lớn diễn ra ở San Diego, Mĩ. Không chỉ

vậy, bên cạnh là không gian quảng bá văn hóa Nhật Bản, những dấu hiệu về

không gian trở thành nơi các họa sĩ truyện tranh trẻ kinh doanh đã xuất hiện.

Chợ phiên họa sĩ trong lễ hội Artist Day x Japan là ví dụ tiêu biểu. Mặc dù

hiện tại, hình thức kinh doanh này chưa được mở rộng nhưng chắc hẳn sẽ phát

triển trong tương lai.

Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Việt Nam đã kéo

theo sự phát triển của những hoạt động giao lưu văn hóa. Từ những hoạt

động, sự kiện này, có thể nhận ra rằng sức lan tỏa của manga ngày càng lớn ở

Việt Nam. Những hoạt động giao lưu văn hóa Nhât – Việt tương tự chắc chắn

31

sẽ không ngừng được mở rộng và phát triển trong tương lai.

ƢƠ 3

NHỮNG Ả ƢỞNG CỦA TRUY N TRANH NH T BẢN MANGA

ẾN GIỚI TRẺ VI T NAM HI N NAY

3.1. ặc điểm của địa b n v đối tƣợng nghiên cứu

Về địa bàn nghiên cứu, luận văn thực hiện khảo sát ở trường THPT

Khoa học Giáo dục thuộc thành phố Hà Nội. Nhờ đặc điếm sống ở thủ đô,

người dân có cơ hội tiếp xúc với nhiều thể loại văn học,trong đó có truyện

tranh. Hà Nội có rất nhiều hệ thống nhà sách lớn, phố sách nhằm phục vụ nhu

cầu đọc sách của người dân. Đây cũng là nơi đặt trụ sở của các nhà xuất bản

lâu đời và uy tín. Hàng năm, nhiều hội sách lớn được tổ chức, giúp người dân

có thể mua những đầu sách mình mong muốn.

Đối tượng khảo sát của luận văn là các bạn học sinh hiện đang học tại

trường THPT Khoa học Giáo dục. Đối tượng khảo sát của luận văn đang ở độ

tuổi 16 – 17 tuổi. Đối tượng khảo sát thuộc thế hệ Z, thế hệ người trẻ được

tiếp xúc với internet, mạng xã hội và những thành tựu khoa học công nghệ từ

sớm. Chính vì vậy, những bạn trẻ có may mắn tiếp xúc với truyện tranh

manga một cách dễ dàng.

3.2. Kết quả điều tra

Tổng đối tượng tham gia khảo sát là 100 người, trong đó có 45 nam và

55 nữ. Về độ tuổi, những đối tượng này hiện đang học phổ thông. Khảo sát

được thực hiện trên hai lứa tuổi chủ yếu, đó là độ tuổi 16 và độ tuổi 17. Trong

32

đó, có 58 người đang ở độ tuôi 16 và 42 người đang ở độ tuổi 17.

Hình 3.1: Độ tuổi khảo sát của luận văn

Độ tuổi khảo sát

16 tuổi

58 người

17 tuổi

42 người

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

3.2.1. Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội

Khi hỏi 100 người với câu hỏi: “Bạn đã bao giờ đọc Truyện tranh Nhật

Bản - Manga chưa?”, câu trả lời của nhận được như bảng sau:

Bảng 3.1: Thực trạng việc đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội

Giới trẻ và việc đọc Truyện

tranh Manga Số ngƣời trả lời (ngƣời)

Có 80

Đã từng 20

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Kết quả của câu hỏi cho thấy không phải đối tượng nào cũng tiếp tục

đọc truyện tranh. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng hầu hết các đối tượng đã

từng đọc truyện tranh manga. Phần lớn đối tượng của cuộc điều tra vẫn duy trì

thói quen đọc truyện, trong khi đó một số ít đã ngừng đọc.

Khi hỏi rằng: “Bạn bắt đầu đọc truyện tranh manga từ khi nào?”, câu

33

trả lời nhận được như bảng sau:

Hình 3.2: Độ tuổi lần đầu tiên đọc truyện tranh Manga của giới trẻ Hà Nội

Đơn vị: %

Lứa tuổi bắt đầu đọc truyện tranh

2%

0%

37%

Mẫu giáo

36%

Tiểu học

Từ cấp 2

Từ cấp 3

25%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Khi nhìn vào hình 3.2, có thể nhận thấy rằngđộ tuổi bắt đầu tiếp xúc

với truyện tranh manga chủ yếu rơi vào từ mẫu giáo và cấp 2. Trong đó, số

lượng trả lời rằng đã đọc truyện từ mẫu giáo cao hơn từ cấp 2 một chút. Số

lượng người bắt đầu đọc truyện tranh từ cấp 3 là thấp nhất, chỉ với 2%. Số

lượng người đọc truyện tranh bắt đầu từ mẫu giáo là nhiều nhất, với 37%. Số

lượng người bắt đầu đọc truyện tranh từ cấp 2 là 36%, không chênh lệch số

lượng người bắt đầu từ mẫu giáo quá lớn. Số lượng người bắt đầu đọc truyện

tranh manga từ tiểu học chiếm 25%.

Đối với những người không đọc truyện tranh manga, khi được hỏi về

34

nguyên nhân ngừng đọc, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.3: Lí do không đọc truyện tranh manga nữa

Đơn vị: %

Lí do ngừng đọc truyện tranh

đọc nhiều nên chán

4%

4%

8%

không phù hợp với tuổi hiện tại

21%

quan tâm đến hình thức giải trí khác

gia đình không cho phép

muốn chú tâm vào học hành

61%

2%

ý kiến khác

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Nhìn vào biểu đồ3.3, lí do ngừng đọc vì “muốn chú tâm vào học hành” là

nguyên nhân chiếm đa số. Lí do được chọn nhiều thứ hai là “quan tâm đến hình

thức giải trí khác”. Nguyên nhân này chiếm 2%. Lí do “đọc nhiều nên chán” và

“ý kiến khác” bằng nhau, mỗi lí do chiếm 4%. Ý kiến khác của việc ngừng đọc

truyện tranh được đưa ra là không thích nữa. 8% ngừng đọc truyện tranh vì cho

rằng nó không phù hợp với độ tuổi hiện tại nữa. Lí do “gia đình không cho

phép” là lí do thấp nhất, với 2%. Biểu đồ cho thấy thói quen đọc truyện tranh ở

những đối tượng 16-17 tuổi không bị ảnh hưởng nhiều từ lí do gia đình mà chủ

yếu từ bản thân đối tượng.

Khi tìm hiểu về việc mua truyện, luận văn đưa ra câu hỏi “Bạn đã từng

35

mua truyện bao giờ chưa?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.4: Số lượng người đã từng mua truyện

Đơn vị: %

Đã từng mua truyện

0%

6%

Đã từng mua

Chưa từng mua

94%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Với câu hỏi “Bạn đã mua truyện bao giờ chưa?”, có thể thấy rằng phần

lớn đã từng mua truyện tranh. Số người đã từng mua truyện tranh chiếm 94%,

chỉ có 6% trả lời rằng chưa từng mua truyện tranh bao giờ.

3.2.2. Cảm nhận về truyện tranh manga

Việc độc giả nghĩ gì về truyện tranh manga cũng là một vấn đề quan

trọng. Khi được hỏi rằng: “Bạn thấy truyện tranh manga thế nào?”, câu trả lời

36

nhận được như sau:

Hình 3.5: Cảm nhận về truyện tranh manga

Đơn vị: %

Cảm nhận về truyện tranh manga

0%

1%

Có tính giải trí cao

5%

9%

3%

Có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh

Chỉ hợp với trẻ em

45%

Chỉ có tính giải trí chứ không truyền tải kiến thức

37%

Không tốt cho khả năng cảm nhận từ ngữ

Ý kiến khác

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Theo biểu đồ3.5, khi nhận xét về truyện tranh manga, 45% cho rằng

truyện tranh manga có tính giải trí cao. Ý kiến được nhiều người lựa chọn kế

tiếp là “có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh”. Ý kiến này chiếm

37%. 9% người được khảo sát cho rằng truyện tranh manga chỉ có tính giải trí

và không thể truyền tại kiến thức. 5% người có ý kiến khác. Những ý kiến

khác được đưa ra bao gồm “vừa có tính giải trí vừa có thể học hỏi một số điều

từ việc đọc truyện tranh” hay “có tính giáo dục”. Ngoài ra, có ý kiến cho rằng

truyện tranh “bình thường” và không cảm thấy gì. 1% cho rằng truyện tranh

37

không tốt trong việc cảm nhận từ ngữ.

3.2.3. Hình thức và phương thức đọc manga

Hình thức và phương thức đọc truyện tranh là một trong những yếu tố

quan trọng ảnh hưởng đến việc đọc truyện tranh của giới trẻ. Khi được hỏi:

“Bạn thường đọc truyện tranh bằng hình thức nào?”, câu trả lời nhận được

như sau:

Hình 3.6: Hình thức đọc truyện tranh manga

Đơn vị: %

Hình thức đọc truyện

11%

Truyện giấy

47%

Đọc online

Cả hai

42%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Nhìn vào hình3.6, về hình thức đọc truyện tranh manga, 47% người

được khảo sát trả lời rằng họ đọc cả hai hình thức, đó là truyện giấy và đọc

online. Trong đó, đọc online nhiều hơn đọc truyện giấy và chênh lệch 31%.

Từ biểu đồ, có thể nhận thấy rằng hình thức đọc trực tuyến được yêu thích

hơn đọc truyện giấy.

Để tìm hiểu về phương thức các bạn trẻ đọc truyện tranh, luận văn đã

đưa ra câu hỏi: “Bạn thường đọc truyện tranh bằng phương thức nào?”. âu

38

trả lời nhận được như sau:

Hình 3.7: Phương thức đọc truyện tranh manga

Đơn vị: %

Phương thức đọc truyện tranh

39%

37%

22%

2%

0%

Phương tiện khác

Mua truyện

Thuê truyện Mượn của bạn bè,

người quen

Đọc trên điện thoại hoặc máy tính

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Theo hình3.7, về phương thức đọc truyện tranh, hai đáp án được lựa

chọn nhiều nhất là hình thức mua truyện và hình thức đọc trên điện thoại

hoặc máy tính. Trong đó, phương thức mua truyện cao hơn 2% so với phương

thức đọc trên điện thoại. Kết quả này hơi khác với biểu đồ hình thức đọc

truyện tranh phía trên, khi hình thức đọc online được chọn nhiều hơn hình

thức truyện giấy. Có thể thấy rằng mặc dù hình thức đọc truyện trên mạng

phát triển nhưng những người thích đọc truyện tranh vẫn có thói quen mua

truyện. Phương thức mượn của bạn bè, người quen chiếm 22%. Phương thức

thuê truyện chiếm thấp nhất, chỉ có 2%. Có thể thấy rằng độc giả tự chủ về

việc đọc truyện hơn là phụ thuộc vào người khác.

3.2.4. Thời gian dành cho việc đọc manga

Thời gian độc giả trẻ tuổi dành cho việc đọc truyện tranh manga là một

vấn đề quan trong. Khi được hỏi “Bạn thường độc truện tranh trong khoảng

39

thời gian nào?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.8: Khoảng thời dành để đọc truyện tranh manga

Đơn vị: %

Khoảng thời gian đọc truyện tranh

0%

Vào giờ nghỉ giải lao

Vào buổi tối các ngày trong tuần

31%

32%

Vào buổi sáng cuối tuần

Vào buổi chiều cuối tuần

Vào buổi tối cuối tuần

9%

12%

Vào bất cứ khi nào được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6

9%

7%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ hình3.8, có thể nhận thấy rằng về khoảng thời gian dành cho việc

đọc truyện, hai lựa chọn nhiều nhất là “vào bất cứ khi nào được nghỉ từ thứ 2

đến thứ 6” và “vào giờ nghỉ giải lao”. Trong đó, thời điểm “vào bất cứ khi nào

được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6” cao hơn lựa chọn “vào giờ nghỉ giải lao” 1%.

Thời điểm “vào các buổi tối các ngày trong tuần” chiếm 12%. Thời điểm “vào

buổi tối cuối tuần” và “vào buổi chiều cuối tuần” có kết quả bằng nhau là 9%.

Thời điểm “vào buổi sáng cuối tuần” là lựa chọn thấp nhất, chiếm 7%.

Khi tìm hiểu về thời gian dành cho việc đọc manga, luận văn đặt ra câu

hỏi: “Bạn thường dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc truyện tranh?”, câu trả

40

lời như sau:

Hình 3.9: Thời gian để đọc truyện tranh manga

Đơn vị: %

Thời gian đọc truyện

0%

3%

8%

28%

Từ 5 - 10 phút

17%

Từ 15 - 20 phút

Từ 20 - 30 phút

Từ 30 - 60 phút

Hơn 1 tiếng

44%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ hình3.9, có thể thấy rằng về thời gian đọc truyện, thời gian “từ 30 –

60 phút” chiếm 44%, cao nhất trong tổng số. Tiếp d dó là hơn 1 tiếng, chiếm

28%. Còn lại là “từ 20 – 30 phút”, “từ 15 – 20 phút” và “từ 5 – 10 phút” lần

lượt là 17%, 8% và 3%. Có thể thấy rằng thời gian dành cho việc đọc truyện

không quá nhiều nhưng cũng không quá ít.

3.2.5. Địa điểm đọc truyện tranh manga

Địa điểm thường được lựa chọn để đọc truyện tranh là một yếu tố đáng chú

ý. Khi được hỏi rằng “Bạn thường đọc truyện tranh ở đâu?”, câu trả lời nhận được

41

như sau:

Hình 3.10: Địa điểm đọc truyện tranh manga

Đơn vị: %

Địa điểm đọc truyện

2%

0%

6%

14%

11%

Ở trường và trên lớp

Ở trường và thư viện

9%

Ở nhà

5%

Ở hiệu sách

Thư viện ngoài trường

8%

Ở nhà bạn bè, người quen

Ở quán cà phê

Ý kiến khác

45%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Dựa theo hình3.10, về địa điểm đọc truyện, lựa chọn “ở nhà” chiếm đa

số, chiếm 45% kết quả. Tiếp đó là ở trường và trên lớp, chiếm 14%. Địa điểm

“ở hiệu sách” chiếm 11%. Những địa điểm “ở trường và thư viện”, “ở hiệu

sách”, “ở quán cà phê” và “thư viện ngoài trường” lần lượt là 9%, 8%, 6% và

5%. Ý kiến khác chiếm 2%, ít nhất trong tổng số.

3.2.6. Yếu tố ảnh hưởng đến việc mua manga

Việc độc giả lựa chọn mua truyện bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố.

Khi tìm hiểu về nguyên nhân chọn mua một tựa truyện tranh manga, khảo sát

đã đưa ra câu hỏi: “Lý do vì sao bạn chọn mua một cuốn truyện?”, câu trả lời

42

nhận được như sau:

Hình 3.11: Lí do chọn mua một quyển truyện tranh manga

Đơn vị: %

Lí do chọn mua truyện

2%

0%

17%

17%

Minh họa bìa đẹp

Lời giới thiệu hấp dẫn

Đã từng đọc qua trên mạng

19%

Được giới thiệu

Không mua truyện bao giờ

45%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua hình3.11, khi tìm hiểu về lí do mua truyện, lí do “đã từng đọc

qua trên mạng” chiếm đa số với 45%. Tiếp đó là lí do “lời giới thiệu hấp dẫn”

chiếm 19%. Lí do “được giới thiệu” và “minh họa bìa đẹp” bằng nhau, chiếm

17%. Cuối cùng, chỉ có 2% nói rằng họ không mua truyện bao giờ. Có thể thấy

rằng việc đã từng đọc bộ truyện trên mạng ảnh hưởng đến quyết định mua.

Một vấn đề khác cần lưu tâm trong việc mua truyện tranh là người mua

có để ý về độ tuổi được ghi ở mặt sau của quyển truyện hay không. Hiện nay,

nhiều NXB đã chú thích độ tuổi để từng lứa tuổi thích hợp được tiếp cận với

loại truyện phù hợp. Khi được hỏi rằng: “Khi mua truyện, bạn có để ý độ tuổi

quy định được ghi trên mặt sau của quyển truyện tranh không?”, câu trả lời

43

nhận được như sau:

Bảng 3.2: để ý độ tuổi quy định được ghi trên mặt sau của quyển

truyện tranh

Đơn vị: %

Có Không

48% 52%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng 3.2, có thể thấy rằng khi hỏi về việc có để ý đến độ tuổi quy

định được ghi ở mặt sau quyển truyện tranh không, kết quả có sự chênh lệch.

Số lượng người trả lời là “không” chiếm đa số, chiếm 52%. Số lượng người

có để ý chiếm 48%. Mặc dù sự chênh lệch không nhiều nhưng có thể thấy

rằng đa phần người mua không để ý đến những quy định được ghi trên truyện.

3.2.7. Thói quen mua truyện tranh manga

Thói quen mua truyện tranh manga là một vấn đề cần lưu tâm. Khi hỏi

rằng “Bạn mua truyện tranh bằng cách nào?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.12: Người mua truyện tranh

Đơn vị: %

Người mua truyện

0%

8%

21%

Tự mua

Bố mẹ mua cho

Người khác mua cho

71%

44

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ hình3.12, khi tìm hiểu về người mua truyện, 71% trả lời rằng họ tự

mua truyện. Số người trả lời rằng bố mẹ mua cho chiếm 21% và người khác

mua cho chiếm 8%. Có thể nhận thấy rằng họ rất chủ động trong việc mua và

lựa chọn truyện tranh mình muốn mua. Bên cạnh đó, những truyện tranh được

đọc dựa theo sở thích và khuynh hướng của đối tượng khảo sát, ít bị ảnh

hưởng bởi định hướng của người khác.

Bên cạnh việc người mua truyện, số lượng truyện sở hữu cũng là một

vấn đề cần tìm hiểu. Khi hỏi rằng “Bạn đã mua bao nhiêu bộ truyện tranh?”,

câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.13: Số lượng truyện tranh manga sở hữu

Đơn vị: %

Số lượng truyện sở hữu

13%

30%

dưới 10 bộ

từ 10 - 20 bộ truyện

trên 20 bộ đến 30 bộ

trên 30 bộ

33%

24%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng 3.13, khi tìm hiểu về số lượng truyện tranh sở hữu, đa số nói

45

rằng họ có “trên 20 bộ đến 30 bộ”. Lựa chọn này chiếm 33%, cao nhất trong

tổng số. Tiếp đó là dưới 10 bộ, chiếm 30%. “Từ 10 – 20 bộ truyện” chiếm

24%. Lựa chọn “trên 30 bộ truyện” chiếm 13%, ít nhất trong tổng số.

Một vấn đề quan trọng khác cần tìm hiểu là số tiền các bạn trẻ chi cho

việc mua truyện tranh. Khi hỏi rằng “Trong 1 năm trở lại, trung bình bạn

dành bao nhiêu tiền cho việc mua truyện trong 1 tháng?”, câu trả lời nhận

được như sau:

Hình 3.14: Số tiền dành để mua truyện tranh manga

Đơn vị: %

Số tiền dành để mua truyện

9%

17%

Dưới 20.000 đồng

Từ 20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng

25%

Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng

21%

Từ 100.000 đồng đến dưới 200.000 đồng

Từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng

Từ 500.000 đồng trở lên

18%

10%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ biểu đồ3.14, khi tìm hiểu về số tiền chi cho việc mua truyện, đa số

nói rằng số tiền dành cho việc đó là “từ 200.000 đồng đến dưới 500.000

đồng”. Lựa chọn này chiếm 25%, cao nhất trong tổng số. Tiếp đó là “từ

20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng”, chiếm 21%. Lựa chọn “từ 100.000 đồng

46

đến dưới 200.000 đồng” và “dưới 20.000 đồng” lần lượt là 18% và 17%. Lựa

chọn “Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng” chiếm 10%. Cuối cùng, số

người nói rằng số tiền bỏ ra để mua truyện từ 500.000 đồng trở lên chiếm 9%,

ít nhất trong tổng số.

Nhìn chung, có thể thấy rằng những độc giả trẻ chủ động trong việc lựa

chọn mua truyện và không bị ảnh hưởng bởi định hướng từ người khác. Khi

hỏi về số tiền dành để mua truyện tranh, câu trả lời có sự khác biệt, nhưng số

người trả lời là “từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng” là nhiều nhất. Đây

là một số tiền tương đối cao so với những độc giả hiện vẫn đang là học sinh.

Số lượng truyện tranh manga các bạn sở hữu cũng tương đối nhiều. Hầu hết

trả lời rằng có từ 20 – 30 bộ truyện. Có thể nhận thấy rằng nhiều người rất

thích mua và đọc truyện tranh manga.

3.2.8. Xu hướng đọc truyện

Xu hướng đọc truyện tranh là một yếu tố cần tìm hiểu khi điều tra về

việc đọc truyện tranh manga của độc giả trẻ. Khi hỏi rằng:“Khi mua truyện,

bạn có thường xuyên chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc không?”, câu

trả lời nhận được như sau:

Bảng 3.3: Chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc

Đơn vị: %

Có Không

85% 15%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng 3.3, có thể thấy rằng hầu hết người được trả lời nói rằng có

chú ý đến thể loại mình đọc. Khi được hỏi về việc có thường xuyên chú ý đến

thể loại truyện tranh bản thân đọc không, 85% trả lời rằng họ có để ý và 15%

nói rằng họ không để ý.

Khi điều tra về thể loại thường được độc giả lựa chọn, khảo sát đưa ra câu

47

hỏi: “Bạn thường đọc thể loại manga nào?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.15: thể loại truyện tranh manga thường đọc

Đơn vị: %

Thể loại manga thường đọc

Thiếu nhi

7%

19%

8%

Truyện dành cho nam thiếu niên (shounen)

Truyện dành cho thiếu nữ (shoujo)

17%

Truyền dành cho nam giới trưởng thành (Seinen)

18%

Truyện dành cho nữ giới trưởng thành (Josei)

19%

12%

Truyện có chủ đề tình cảm LGBT (shounen-ai, shoujo-ai…)

ác bộ manga có yếu tố 18+

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ hình3.15, có thể nhận thấy rằng hai thể loại được yêu thích nhiều

nhất là thiếu nhi và truyện tranh hướng đến nam giới trưởng thành (seinen).

Hai thể loại này đều chiếm 19%. Tiếp đó, thể loại được yêu thích là truyện

dành chon am thiếu niên (shounen) chiếm 18%. Truyên hướng đến nữ giới

trưởng thành (josei) chiếm 17%. Tiếp theo, truyện dành cho thiếu nữ (shoujo)

chiếm 12%. Những truyện có chủ để tình cảm đồng giới (shoujo-ai, shounen-

ai…) và các truyện có yếu tố 18+ lần lượt chiếm 8% và 7%. Có thể thấy rằng

thể loại truyện tranh được ưa chuộng nhất là truyện tranh dành cho thiếu nhi.

Tiếp đó là những thể loại truyện hướng đến người trưởng thành. Những bộ

truyện có yếu tố tình cảm đồng giới và 18+ ít được quan tâm hơn những thể

loại khác.

Khi tìm hiểu về chủ đề yêu thích, khảo sát đã đưa ra câu hỏi: “ hủ đề

48

của truyện tranh bạn yêu thích là gì?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.16: Chủ đề truyện tranh manga yêu thích

Đơn vị: %

Chủ đề truyện tranh yêu thích

31%

23%

22%

17%

6%

Hài hước

Hành động

Phiêu lưu

Tình cảm

Ý kiến khác

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua hình3.16, khi tìm hiểu về chủ đề truyện tranh được yêu

thích, thể loại hành động được yêu thích nhất, chiếm 31% trong tổng số. Tiếp

đó là thể loại hài hước và tình cảm, lần lượt chiếm 23% và 22%. Thể loại

phiêu lưu cũng nhận được sự quan tâm, chiếm 17%. Ý kiến khác chiếm 6%.

Những thể loại khác được ưa chuộng bao gồm trinh thám, tâm lí, khoa học,

đời thường, giả tưởng, kì bí, siêu nhiên và kinh dị. Ngoài ra thể loại truyện do

người hâm mộ sáng tác (hay còn gọi là doujinshi) cũng được nhắc đến.

Ngoài ra, để tìm hiểu về thói quen đọc truyện tranh của nước khác, khi

được hỏi: “Ngoài truyện tranh Nhật Bản manga, bạn có đọc thể loại truyện

49

tranh khác không?”, câu trả lời nhận được như sau:

Bảng 3.4: bạn có đọc thể loại truyện tranh khác không?

Đơn vị: %

Có Không

91% 9%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Qua bảng 3.4, có thể thấy rằng hầu hết độc giả truyện tranh có đọc

những truyện từ quốc gia khác ngoài manga. Khi được hỏi về việc có đọc

những thể loại truyện tranh nào khác bên cạnh truyện tranh manga không, đa

phần trả lời là có. Số lượng trả lời “có” chiếm 91%. Số người trả lời “không”

chiếm 9%.

Để tìm hiểu về thể loại truyện tranh khác được tìm đọc, khi hỏi rầng:

“Ngoài manga, thể loại truyện tranh khác bạn đọc là gì?”, câu trả lời như sau:

Hình 3.17: Thể loại truyện tranh khác được yêu thích

Đơn vị: %

Thể loại truyện tranh khác

32%

27%

21%

19%

1%

Ý kiến khác

Truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa)

Truyện tranh Trung Quốc (Manhua)

Truyện tranh Việt Nam

Truyện tranh Mỹ (Comic book/ Graphic Novel)

50

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Quả biểu đồ 3.17, khi tìm hiểu về thể loại truyện tranh họ đọc bên cạnh

truyện tranh Nhật Bản manga, truyện tranh Việt Nam là cao nhất, chiếm 32%.

Đứng thứ 2 là truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa), chiếm 27%. Truyện tranh

Trung Quốc (Manhua) chiếm 21% và truyện tranh Mỹ (Comic book/ Graphic

novel) chiếm 19%.1% có ý kiến khác.

Việc đọc nhiều truyện tranh có ảnh hưởng đến cảm thụ các thể loại văn

học, tiểu thuyết khác hay không là một vấn đề cần quan tâm. Khi hỏi rằng “Bạn

thích đọc truyện tranh hay truyện chữ hơn?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.18: Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ

Đơn vị: %

Cảm nhận về truyện tranh và truyện chữ

76%

Hai loại như nhau

16%

Thích truyện chữ hơn

7%

Thích truyện tranh hơn

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua biểu đồ 3.18, có thể thấy rằng truyện tranh không ảnh

hưởng nhiều đến việc đọc truyện chữ., 76% trả lời rằng thích truyện tranh và

truyện chữ như nhau. 16% nói rằng họ thích truyện chữ hơn và 7% nói rằng

51

họ thích truyện tranh hơn.

Nhìn chung, việc đọc truyện tranh manga không có nhiều ảnh hưởng

đến văn hóa đọc tiểu thuyết và các loại hình văn học khác. Khi đọc truyện

tranh manga, độc giả rất lưu tâm đến thể loại mình đọc. Những thể loại độc

giả yêu thích rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó, ngoài truyện tranh

manga, độc giả cũng thích đọc cả những truyện tranh của quốc gia khác. Một

điều bất ngờ là truyện tranh Việt Nam nhận được đông đảo sự yêu thích. Đây

là một dấu hiệu tốt, cho thấy rằng mặc dù trên thị trường, truyện tranh manga

áp đảo về số lượng nhưng truyện tranh Việt Nam vẫn có chỗ đứng trong lòng

độc giả.

3.2.9. Thái độ gia đình đối với việc đọc manga

Khi tìm hiểu về ảnh hưởng của truyện tranh manga đến độc giả trẻ tuổi,

thái độ gia đình đối với việc đọc truyện tranh là không thể không nhắc đến.

Khi được hỏi rằng “Bố mẹ của bạn có phản đối việc bạn đọc truyện tranh

không?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.19: Thái độ gia đình đối với việc đọc manga

Đơn vị: %

Thái độ của phụ huynh về việc đọc truyện tranh

89%

6%

4%

Phản đối

Ủng hộ

Không phản đối cũng không ủng hộ

52

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua biểu đồ 3.19 về phàn ứng của phụ huynh với việc con cái

đọc truyện tranh, 89% nói rằng bố mẹ không phản đối cũng không ủng hộ.

6% trả lời rằng bố mẹ ủng hộ việc đọc truyện tranh. Chỉ có 4% nói rằng bố

mẹ phản đối việc đọc truyện tranh. Từ biểu đồ, có thể thấy rằng đa số phụ

huynh không có sự cấm đoán về việc con cái đọc truyện tranh.

Nhìn chung, phụ huynh không có nhiều ảnh hưởng đến việc học sinh

phổ thông đọc truyện tranh manga. Hầu hết bố mẹ có cách nhìn bình thường

với truyện tranh, không cấm đoán nhưng cũng không ủng hộ.

3.2.10. Những điều học được từ manga

Việc độc giả trẻ có học được gì thông qua đọc truyện tranh manga hay

không là một vấn đề thiết yếu. Khi được hỏi rằng “Bạn có học hỏi được gì từ

việc đọc truyện tranh không?”, câu trả lời nhận được là:

Bảng 3.5: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không?

Đơn vị: %

Có Không

95% 5%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng3.5, có thể thấy rằng hầu hết đều cảm thấy mình học được bài

học nào đó từ truyện tranh manga. Khi tìm hiểu về việc có học được bài học

gì từ truyện tranh không, 95% người trả lời là có. Chỉ có 5% trả lời là không.

Khi hỏi rằng “Bạn đã học được những gì từ truyện tranh?”, câu trả lời

53

nhận được như sau:

Bảng 3.6: Bài học rút ra từ việc đọc truyện tranh

Đơn vị: %

áp án %

Tình bạn, tình yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần 11%

trân trọng những người xung quanh mình hơn

Tự tin hơn vào bản thân, không bỏ cuộc khi đối mặt với khó 21%

khăn

32% Học được những kĩ năng bổ ích trong cuộc sống

29% Tất cả các ý kiến trên

7% Ý kiến khác

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng 3.6 về việc tìm hiểu về những điều học được thông qua truyện

tranh, ý kiến được lựa chọn nhiều nhất là “học được những kĩ năng bổ ích

trong cuộc sống”. Ý kiến này chiếm 32%. Đáp án “tất cả các ý kiến trên”

chiếm 29%. Ý kiến được chọn nhiều kế tiếp là “tự tin hơn vào bản thân,

không bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn”, chiếm 21%. Ý kiến “tình bạn, tình

yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần trân trọng những người

xung quanh mình hơn” chiếm 11%. Ý kiến khác chiếm 7%. Những ý kiến

khác được đưa ra bao gồm truyện tranh đem lại những cái nhìn mới và giúp

trí tưởng tượng trở nên phong phú hơn.

Ngoài ra, những cảm hứng truyện tranh manga mang đến cho độc giả là

rất quan trọng. Khi được hỏi rằng “Truyện tranh có tạo cảm hứng cho bạn làm

54

những việc gì?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.20: cảm hứng từ việc đọc truyện tranh

Đơn vị: %

Những cảm hứng từ truyện tranh

Học vẽ

Học tiếng Nhật

3%

10%

23%

Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật Bản

6%

Thiết kế thời trang như trong truyện

5%

Kết bạn với người cùng sở thích

5%

Tham gia các CLB trong trường

Dịch truyện trên mạng

19%

11%

Sáng tác những tác phẩm mô phỏng bộ truyện yêu thích

7%

11%

Hình thành thói quen đọc truyện chữ

Không có cảm hứng gì

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ biểu đồ 3.20, có thể thấy rằng truyện tranh manga đem lại nhiều

cảm hứng cho những độc giả trẻ tuổi. Khi tìm hiểu về những thứ truyện tranh

tạo cảm hứng hay động lực, học vẽ là việc được lựa chọn nhiều nhất, chiếm

23% trong tổng số. Lựa chọn nhiều thứ hai là học tiếng Nhật. Lựa chọn này

chiếm 19%. Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật và kết

bạn với người cùng sở thích đều chiếm 11%. Tiếp đó là hình thành thói quen

đọc truyện chữ, chiếm 10%. Thiết kế thời trang như trong truyện chiếm 7%.

Sáng tác những tác phẩm mô phỏng theo bộ truyện yêu thích chiếm 6%.

Tham gia các LB trong trường và dịch truyện trên mạng cùng chiếm 5%.

55

Cuối cùng, ý kiến “không có cảm hứng gì” chiếm 3%

Nhìn chung, đa số người được hỏi cho rằng bản thân có học được nhiều

bài học bổ ích từ truyện tranh manga. Bên cạnh đó, truyện tranh manga đã tạo

động lực để độc giả làm nhiều điều. Hai việc phổ biến nhất là học vẽ và học

tiếng Nhật. Có thể thấy rằng truyện tranh manga đem lại nhiều nguồn cảm

hứng tốt cho độc giả trẻ.

3.2.11. Những khía cạnh manga ảnh hưởng đến người đọc

Khi tìm hiểu về những khía cạnh truyện tranh manga ảnh hưởng đến

độc giả, kết quả có nhiều sự chênh lệch. Nghiên cứu tìm hiểu về 4 khía cạnh,

đó là giao tiếp, hành vi, ngôn ngữ và học tập. Trong đó, các nhận định về sự

nnh hưởng được chia chia làm 8 phần, đó là giao tiếp tích cực, giao tiếp tiêu

cực, hành vi tích cực, hành vi tiêu cực, ngôn ngữ tốt, ngôn ngữ xấu, học tập

tốt và học tập xấu.

3.2.11.1. Giao tiếp

Hình 3.21: Giao tiếp tích cực

Đơn vị: %

Giao tiếp tích cực

37%

36%

19%

8%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

56

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Hình 3.22: Giao tiếp tiêu cực

Đơn vị: %

Giao tiếp tiêu cực

50%

39%

8%

3%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ biểu đồ 3.21 và biểu đồ 3.22, về mặt giao tiếp, có 19% người nói

rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng tích cực đến giao tiếp. Trái lại,

8% người trả lời rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng tiêu cực đến việc giao

tiếp. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh manga không có ảnh hưởng đến giao

tiếp cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. ó 36% người trả lời rằng truyện tranh

manga ảnh hưởng không nhiều và 37% người nói rằng việc đọc truyện không

hề ảnh hưởng đến giao tiếp tích cực. Bên cạnh đó, 50% người nói rằng truyện

tranh manga không ảnh hưởng nhiều đến giao tiếp tiêu cực và 39% trả lời rằng

57

việc đọc truyện không hề ảnh hưởng đến sự giao tiếp tiêu cực.

3.2.11.2. Hành vi

Hình 3.23: Hành vi tích cực

Đơn vị: %

Hành vi tích cực

49%

24%

20%

8%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Hình 3.24: Hành vi tiêu cực

Đơn vị: %

Hành vi tiêu cực

70%

25%

3%

2%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

58

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua biểu đồ 3.23 và biểu đồ 3.24 tìm hiểu về hành vi, có 20%

người trả lời rằng việc đọc truyện tranh có ảnh hưởng đến hành vi tích cực.

Trái lại, 2% người nói rằng việc đọc truyện tranh ảnh hưởng đến hành vi tiêu

cực. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh manga không ảnh hưởng đến hành

vi cả về tích cực và tiêu cực. ó 24% người nói rằng truyện tranh manga

không có nhiều ảnh hưởng đến hành vi tích cực. Trong khi đó, 25% người cho

rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng không nhiều đến hành vi tiêu

cực. Bên cạnh đó, 49% người cho rằng đọc truyện tranh manga không hề ảnh

hưởng đến hành vi tích cực. Ngoài ra, 70% người nói rằng việc đọc truyện

tranh không hề ảnh hưởng đến hành vi tiêu cực.

3.2.11.3. Ngôn ngữ

Hình 3.25: Ngôn ngữ tốt

Đơn vị: %

Ngôn ngữ tốt

48%

26%

18%

8%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

59

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Hình 3.26: Ngôn ngữ xấu

Đơn vị: %

Ngôn ngữ xấu

73%

16%

8%

4%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua biểu đồ 3.25 và biểu đồ 3.26 về ngôn ngữ, số lượng người

cho rằng việc đọc truyện tranh manga ảnh hưởng đến ngôn ngữ tốt nhiều hơn

số người nói rằng việc đọc truyện tranh manga ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.

ó 26% người nói rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.

Trái lại, 8% người cho rầng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến ngôn ngữ

xấu. Đa số cho rằng việc đọc truyện tranh không có ảnh hưởng đến ngôn ngữ.

ó 18% người cho rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng không nhiều đến

ngôn ngữ tốt. Bên cạnh đó, 16% người nói rằng truyện tranh manga ít có ảnh

hưởng đến ngôn ngữ xấu. Ngoài ra, có 48% người cho rằng việc đọc truyện

tranh manga không hề ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu. ó 73% người cho rằng

60

truyện tranh manga không hề ảnh hưởng đến ngôn ngữ xấu.

3.2.11.4. Học tập

Hình 3.27: Học tập tốt

Đơn vị: %

Học tập tốt

51%

33%

10%

6%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Hình 3.28: Học tập xấu

Đơn vị: %

Học tập xấu

70%

19%

6%

4%

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng

Không hề ảnh hưởng

Ảnh hưởng không nhiều

61

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua biểu đồ 3.27 và biểu đồ 3.28 về học tập, có 10% người cho

rằng việc đọc truyện tranh manga có ảnh hưởng đến việc học tập tốt. Bên

cạnh đó, 6% người cho rằng truyện tranh manga có ảnh hưởng đến học tập

xấu. Đa số cho rằng đọc truyện tranh không ảnh hưởng nhiều đến học tập cả

tốt và xấu. ó 33% người trả lời việc đọc truyện tranh không có nhiều ảnh

hưởng đến việc học tập tốt. Bên cạnh đó, có 19% người cho rằng truyện tranh

manga có ảnh hưởng không nhiều đến việc học tập xấu. Ngoài ra, có 51%

người cho rằng việc học tập tốt. Bên cạnh đó, có 70% người cho rằng đọc

truyện tranh manga không hề ảnh hưởng đến học tập xấu.

3.2.12. Sự quan tâm đến những loại hình văn hóa Nhật Bản khác ngoài

manga

Manga là loại hình giải trí thông dụng nhất trong việc giới thiệu văn hóa

Nhật Bản đến độc giả Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh manga, còn nhiều loại

hình văn hóa khác của Nhật đã xuất hiện ở Việt Nam. Khi được hỏi“Ngoài

manga, bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu khác của

Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?”, câu trả lời như sau:

Bảng 3.7: bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí hay các trào lưu

khác của Nhật Bản có liên quan đến manga hay không?”

Đơn vị: %

Có Không

82% 18%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ bảng 3.7, khi được hỏi về việc quan tâm những hình thức giải trí và

trào lưu liên quan đến Nhật khác, 82% trả lời là có. 18% trả lời là không quan

tâm. Đề tìm hiểu những loại hình văn hóa nào khác của Nhật được quan tâm,

khi được hỏi “Bạn thường quan tâm đến các hình thức giải trí hay các trào lưu

62

nào khác liên quan đến manga”, câu trả lời nhận được là:

Hình 3.29: Những loại hình văn hóa Nhật khác được quan tâm

Đơn vị: %

Những hình thức được quan tâm khác

Anime

63%

Live Action (Phim chuyển thể từ manga)

14%

11%

Sưu tầm sản phẩm ăn theo (tượng, búp bê, sticker…)

Cosplay

8%

Đáp án khác

5%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Khi tìm hiểu về những hình thức bên cạnh truyện tranh manga được

quan tâm, 63% trả lời rằng họ quan tâm đến anime. Tiếp đó, 14% nói rằng họ

quan tâm đến những bộ phim live-action, phim có nguyên tác từ truyện tranh

manga. Ngoài ra, sưu tầm các sản phẩm ăn theo như tượng hay búp bê chiếm

11%. Tham gia hoạt động cosplay chiếm 8%. Ý kiến khác chiếm 5%. Những

ý kiến khác được đưa ra bao gồm hứng thú văn hóa Nhật Bản, dòng văn học

Nhật Bản, đồ ăn và những sự kiện giao lưu khác.

Nhìn chung, có thể thấy rằng ngoài manga, văn hóa Nhật Bản được độc

giả quan tâm thông qua nhiều kênh truyền thông đại chúng khác.

3.2.13. Sự liên hệ giữa manga và Nhật Bản

Manga là một loại hình văn hóa đại chúng rất quan trọng trong chính

63

sách ngoại giao của Nhật Bản. Khi được hỏi rằng “Theo bạn, truyện tranh

manga có thể sử dụng làm tư liệu phục vụ cho nghiên cứu về văn hóa – xã hội

Nhật Bản được không?”, câu trả lời như sau:

Hình 3.30: Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không?

Đơn vị: %

Manga có thể làm tư liệu nghiên cứu không?

61%

38%

1%

tùy từng bộ

hoàn toàn không

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua hình3.30, 61% trả lời là có. 38% cho rằng tùy từng bộ mà có

thể sử dụng làm tư liệu. Chỉ có 1% trả lời là hoàn toàn không thể sử dụng làm

tư liệu nghiên cứu. Một yếu tố nữa cần chú trọng là việc manga có khiến cho

độc giả có hứng thú với Nhật Bản không. Khi hỏi rằng “Truyện tranh manga

64

có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản không?”, câu trả lời như sau:

Bảng 3.8: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến

Nhật Bản không?

Đơn vị: %

Có Không

84% 16%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua bảng 3.8, có thể thấy rằng hầu hết người đồng ý. Có 84% trả

lời là có và 16% trả lời là không. Để tìm hiểu về mối liên hệ giữa truyện tranh

manga và Nhật Bản, khảo sát đưa ra câu hỏi“Bạn có học được gì về đất nước

Nhật Bản thông qua truyện tranh không?”, câu trả lời nhận được là:

Bảng 3.9: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện

tranh không?

Đơn vị: %

Có Không

94% 6%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Thông qua bảng 3.9, có thể thấy rằng hầu hết người trả lời cho rằng họ

có thể tưởng tượng ra hình ảnh nước Nhật thông qua manga. Khi điều tra về

việc độc giả có học được gì về Nhật Bản thông qua truyện tranh manga hay

không, 94% trả lời là có. 6% trả lời là không. Để tìm hiểu về hình ảnh Nhật

Bản hiện lên qua truyện tranh, khi hỏi “Bạn thấy Nhật Bản là một đất nước

65

thể nào thông qua truyện tranh?”, câu trả lời nhận được như sau:

Hình 3.31: Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh

Đơn vị: %

Cảm nhận về Nhật Bản thông qua truyện tranh manga

0%

2%

8%

một đất nước bận rộn

21%

một đất nước nhiều văn hóa truyện thống

một đất nước phát triển

28%

một đất nước nhiều thành tựu khoa học - kĩ thuật

13%

một đất nước giàu truyền thống lịch sử

không cảm thấy gì

ý kiến khác

28%

(Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của đề tài)

Từ biểu đồ 3.31, có thể thấy rằng đa số độc giả đều cảm nhận được mặt

nào đó về nước Nhật thông qua truyện tranh manga. Khi tìm hiểu về hình ảnh

Nhật Bản hiện ra như thế nào thông qua truyện tranh manga, đa số trả lời

rằng thông qua truyện tranh manga, họ thấy Nhật Bản là “một đất nước nhiều

văn hóa truyền thống” và “một đất nước phát triển”. ả hai ý kiến này đều

chiếm 28%. Tiếp đó, Nhật Bản được nhìn nhận là “một đất nước giàu truyền

thống lịch sử” thông qua truyện tranh manga. Ý kiến này chiếm 21%. Tiếp

đó, ý kiến “một đất nước nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật” chiếm 13%.

66

Chỉ có 1 người trả lời rằng “không cảm thấy gì”. Ý kiến khác chiếm 2%.

Những ý kiến khác được đưa ra là “một đất nước điển hình cho sự kì thị, áp

lực của các chuẩn mực xã hội lên con người”. Bên cạnh đó, có ý kiến cho

rằng người Nhật rất tốt và văn hóa Nhật Bản cũng rất đặc sắc. Ngoài ra, có ý

kiến đồng tình với tất cả những ý nêu ở trên.

Qua các biểu đồ, có thể thấy rằng manga đem lại cho độc giả nhiều

khía cạnh của nước Nhật. Hầu hết đều cảm thấy Nhật Bản là một đất nước

67

phát triển nhưng vẫn giữ được nét truyền thống và giàu bản sắc văn hóa.

ƢƠ 4

KẾT LU N

4.1. Kết luận

Sau hai thập kỉ xâm nhập vào thị trường Việt Nam, truyện tranh manga đã

có những tác động đáng kể lên độc giả. Vì đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu, thế hệ

độc giả của truyện tranh manga cũng đã thay đổi. Mục đích chính của luận văn

là tìm hiểu tác động của truyện tranh Nhật Bản manga lên thế hệ độc giả trẻ tuổi

hiện nay, mức độ quan tâm và yêu thích đọc truyện tranh của họ, đồng thời tìm

hiểu những gì độc giả rút ra được từ việc đọc truyện tranh manga.

Sự quan tâm của độc giả với truyện tranh manga đầu tiên thể hiện

thông qua thời gian dành để đọc truyện tranh, lựa chọn thể loại truyện đề đọc

và số tiền dành để mua truyện. Về thói quen đọc, khi so sánh riêng truyện

giấy và đọc trên mạng, sô người đọc truyện trên mạng nhiều hơn đọc truyện

giấy. Có thể thấy rằng thói quen đọc truyện của người trẻ hiện nay đã có phần

thay đổi so với thế hệ trước. Điều này cũng không ngạc nhiên khi hiện giờ,

việc truy cập mạng internet dễ dàng hơn và mạng xã hội ngày càng phổ biến,

đồng thời việc sở hữu điện thoại thông minh cũng gia tăng, trái lại, số lượng

hàng thuê truyện ngày càng giảm. Những yếu tố này đã góp phần khiến độc

giả trẻ tiếp cận truyện tranh manga trên mạng dễ dàng hơn. Mặc dù việc đọc

truyện tranh trên mạng phát triển, số lượng người mua truyện tranh manga

cũng không nhỏ. Theo khảo sát, số lượng tiền dành để mua truyện và số bộ

truyện sở hữu tương đối nhiều. Qua đó, có thể thấy rằng nhiều độc giả có tình

yêu dành cho manga đủ lớn để mua sở hữu hoặc ủng hộ tác giả. Khi được hỏi

về thời gian đọc truyện tranh, hầu hết trả lời rằng họ đọc từ 30 – 60 phút. Đây

là một khoảng thời gian tương đối dài. Thông qua việc độc giả có thể dành

một khoảng thời gian dài để đọc truyện, có thể thấy rằng truyện tranh manga

là một hình thức giải trí khá được ưa chuộng. Tuy nhiên, khi so sánh với loại

68

hình giải trí khác như trò chơi điện tử, thời gian dành để đọc truyện tranh

ngắn hơn. Nhiều trò chơi điện tử bị cho rằng thường dễ thu hút người chơi,

dẫn đến việc họ bị thu hút và không để ý đến thời gian. Khi so sánh như vậy,

có thể thấy rằng việc đọc truyện tranh manga lành mạnh hơn và là một hình

thức giải trí tốt trong những lúc giải lao khi học tập hoặc làm việc. Ngoài ra,

những thể loại truyện tranh được ưa thích cũng chỉ ra được hứng thú và sự

quan tâm hiện giờ ở lứa tuổi được khảo sát.

Manga tác động lên độc giả trẻ ở một số khía cạnh. Mặc dù qua khảo

sát, đối với yếu tố giao tiếp, hành vi, ngôn ngữ và học tập, hầu hết những

người được khảo sát cho rằng việc đọc truyện tranh không ảnh hưởng nhiều

hoặc không hề ảnh hưởng đến những yếu tố đó, nhưng những điều manga

đem đến cho độc giả không nhất thiết là những bài học mang tính áp dụng vào

thực tiễn hay giáo dục, những bài học đó có thể là về cách sống, đức tính, gợi

mở trí tưởng tượng và đem lại cái nhìn mới.Thông qua manga, độc giả học

được những bài học bổ ích về những đức tính tốt, những hướng nhìn mới về

cuộc sống để phát triển bản thân và trở thành một người tốt hơn. Khía cạnh

tiếp theo manga ảnh hưởng là những nguồn cảm hứng. Thông qua khảo sát,

có thể thấy rằng manga là nguồn động lực cho nhiều độc giả thử tham gia

nhiều hoạt động hay hình thành sở thích mới. Những cảm hứng đến từ việc

đọc manga tiêu biểu là học vẽ và học tiếng Nhật. Nhìn chung, có thể nhận thấy

rằng những ảnh hưởng manga mang lại thường là những yếu tố tinh thần, như

những bài học để hình thành nhân sinh quan hoặc những nguồn cảm hứng mới.

Về khía cạnh kinh tế, manga cũng là một ấn phẩm quan trọng đối với những

nhà xuất bản. Lợi nhuận từ phát hành manga đóng góp đáng kể vào tổng doanh

thu của các NXB. Lứa tuổi thiếu niên và trưởng thành là đối tượng chủ yếu

được NXB nhắm đến vì đây là đối tượng chủ động trong kinh tế.

Bên cạnh những tác động nhất định lên độc giả, sự phổ biến của manga

ở Việt Nam đã kéo theo nhiều yếu tố khác. Về phía độc giả Việt Nam, manga

69

là một trong những công cụ đã đưa hình ảnh nước Nhật đến với độc giả Việt

Nam. Thông qua truyện tranh, người đọc có thể hiểu được một vài khía cạnh

về Nhật Bản. Từ việc đọc truyện tranh, độc giả có thể hình thành và đưa ra

nhiều nhận định thú vị về nước Nhật. Sự yêu thích đối với loại hình giải trí

này đã kéo theo nhiều hoạt động giao lưu văn hóa có chủ đề truyện tranh.

Những trào lưu như cosplay đã xuất hiện và ngày càng thu hút nhiều người

hơn. Những người yêu thích cosplay đã tập hợp thành một cộng đồng, cùng

chia sẻ, chung vui và thỏa mãn sở thích hóa thân thành các nhân vật yêu thích.

Các hoạt động giao lưu văn hóa Việt – Nhật phát triển ở Việt Nam. Nhiều

hoạt động giao lưu văn hóa thường sẽ có một số hoạt động gắn với manga.

Đặc biệt hơn nữa, gần đây, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa đã xuất hiện

những gian hàng dành cho họa sĩ Việt Nam. Việc này từ trước đến nay chưa

có. Đây là một dấu hiệu tốt cho họa sĩ, độc giả Việt Nam và những người yêu

thích truyện tranh.

Cuối cùng, luận văn hi vọng đưa ra được một số khuyến nghị cho

những nghiên cứu rong tương lai. Luận văn hi vọng có thể đem đến một cách

nhìn mới về mối quan hệ giữa truyện tranh và độc giả.

4.2. Khuyến nghị

Luận văn đưa ra một số khuyến nghị cho các độc giả của truyện tranh,

nhà xuất bản và những nghiên cứu có chủ đề manga trong tương lai.

Đối với độc giả trẻ, mặc dù manga là một thể loại giải trí tốt, những độc

giả trẻ nên biết phân bổ thời gian hợp lý và cân bằng giữa việc đọc truyện tranh

với các hoạt động khác, không quá sa đà vào “thế giới ảo” mà truyện tranh xây

dựng. Ngoài ra, khi lựa chọn truyện để đọc, độc giả cần lựa chọn một cách sáng

suốt để chọn được bộ truyện có ích và phù hợp với bản thân. Ngoài việc cân

bằng thời gian giải trí và học hành, những độc giả cũng cần chú ý đến số tiền

bỏ ra khi mua truyện.

Đối với các nhà xuất bản và các cấp quản lý, cục xuất bản cần quan tâm

70

hơn nữa tới việc quy định độ tuổi đối với các đầu truyện manga trước khi được

phát hành. Một khung quy định rõ ràng ở độ tuổi nào thì đọc những truyện nào

là rất cần thiết để các độc giả trẻ có thể đọc những cuốn truyện phù hợp với độ

tuổi của mình.

Đối với những nghiên cứu trong tương lai, những nghiên cứu có thể

khai thác ảnh hưởng của truyện tranh manga lên sự phát triển của truyện tranh

Việt Nam chứ không chỉ riêng lên giới trẻ, sự thay đổi về cách tiếp nhận truyện

tranh manga thay đổi qua từng thế hệ và nhiều khía cạnh khác. Ngoài ra, những

nghiên cứu về truyện tranh tương tự có thể nghiên cứu về truyện tranh Việt

Namvà sự phát triển của loại hình này.

Luận văn hi vọng có thể mang lại cách nhìn mới về tác động của

71

truyện tranh manga đến độc giả Việt Nam.

DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO

I. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt

1. Đặng ao ường (2015), Nâng cao chất lượng xuất bản truyện tranh

của Nhà xuất bản Kim Đồng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

2. Hà Hương (2012), Làn sóng Hàn Quốc: thành công của văn hóa đại

chúng, Truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoa/lan-song-han-quoc-

thanh-cong-cua-van-hoa-dai-chung-49137.html

3. Hạ Thị Lan Phi (2012), Sự du nhập và ảnh hưởng của manga ở Việt

Nam hiện nay, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

4. Hạ Thị Lan Phi (2017), Ảnh hưởng của Manga Nhật Bản đến học sinh

phổ thông tại thành phố Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội.

5. Hằng Nga (2011), Nhật Bản tìm kiếm sự cân bằng giữa quyền lực mềm

và cứng, Truy xuất từ http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-dong-

bac-a/1806-1806

6. Hoàng Minh Lợi (2013), Quan điểm của Nhật Bản và Hàn Quốc về

"quyền lực mềm", Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

7. Hoàng Minh Lợi (2013), Đối sách của Nhật Bản về sự gia tăng quyền

lực mềm (từ năm 2000 đến nay), Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. Truy

xuất từ http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-dong-bac-a/1806-1806

8. Ngô Phương nh (2015), Chiến lược quảng bá sức mạnh mềm của Nhật

Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử

số 9-2015. Truy xuất từ http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-

te/item/1497-chien-luoc-quang-ba-suc-manh-mem-cua-nhat-ban-va-

kinh-nghiem-doi-voi-viet-nam.html

9. Ngô Thanh Mai (2018), Tác động văn hóa của truyện tranh tới trẻ em

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án tiến

72

sĩ, đã được sự cho phép của tác giả.

10. Nông Thế Linh (2011), Hình và nét trong thiết kế tranh truyện. Luận văn

thạc sĩ mỹ thuật công nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.

11. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt

Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc

gia.

12. Phạm Thủy Tiên (2016), Ngoại giao văn hóa (Cultural diplomacy), Truy

xuất từ http://nghiencuuquocte.org/2016/01/23/ngoai-giao-van-hoa-

cultural-diplomacy/

13. Trần Thị Thu Hà (2012), Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với

chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại

Ngữ 28 (2012) 185-193

14. Võ Thị Mai Thuận (2012), Sức mạnh mềm Nhật Bản những năm đầu thế

kỷ 21, Đại học Quốc gia Hà Nội.

15. Yamada, S. (2014), Nghiên cứu Nhật Bản qua Manga (truyện tranh) và

Anime (hoạt hình) Nhật Bản, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản- Viện

nghiên cứu Đông Bắc Á http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=755,

Ngô Hương Lan dịch

16. Yuichiro, K. (2014), Giao lưu văn hóa Việt Nam – Nhật Bản từ năm

1990 đến nay: Nghiên cứu trường hợp Manga Nhật Bản được phát hành

tại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Lễ hội văn hóa Nhật Bản, truy xuất từ https://www.fahasa.com/le-hoi-

van-hoa-nhat-ban-manga

18. Có gì hot tại [MANGA FESTIVAL IN VIETNAM] lần đầu tổ chức ở Việt

Nam. truy xuất từ http://truyenbanquyen.com/2018/01/21/co-gi-hot-

tai%E3%80%90manga-festival-in-vietnam%E3%80%91lan-dau-to-

73

chuc-o-viet-nam/

II. Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh

19. Bragg, S., Kehily, M. J., & Buckingham, D. (2014), Youth Cultures in

the Age of Global Media, Palgrave Macmillan

20. Garcia, H. (2010), A Geek in Japan, Tuttle Publishing.

21. Gravett, P. (2004), Manga: Sixty Years of Japanese Comics, Laurence

King Publishing

22. Iwabuchi, K. (2002), “Soft” nationalism and narcissism: Japanese

popular culture goes global, truy xuất từ

https://www.blackwellpublishing.com/content/BPL_Images/Journal_Sa

mples2/ASRE1035-7823~26~4/138.PDF

23. Kelts, R (2006), Japanamerica: How Japanese Pop Culture Has Invaded

the U.S, St. Martin's Press.

24. Kinsella, S. (2000), Adult Manga: Culture and Power in Contemporary

Japanese Society, Curzon Press.

25. McGray, D. (2009), Japan’s Gross National Cool, Foreign Policy. Truy

cập ngày 4 tháng 4 năm 2019

26. Nakamura, T. (2013), Japan’s New Public Diplomacy: Coolness in

Foreign Policy Objectives. truy xuất từ https://www.lang.nagoya-

u.ac.jp/media/public/mediasociety/vol5/pdf/nakamura.pdf

27. Schodt, F, L. (1983), Manga! Manga! The World of Japanese Comics,

Kodansha International.

28. Schodt, F, L. (1996), Dreamland Japan: Writings on Modern Manga,

Stone Bridge Press

29. Special issue: cultural diplomacy: beyond the national interest?, truy

xuất từ https://www.cultureinexternalrelations.eu/cier-

data/uploads/2016/08/Report17.pdf

30. Japan International Manga Award, truy xuất từ https://www.manga-

74

award.mofa.go.jp/index_e.html

PHỤ LỤC 1

BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU

I. hông tin ngƣời đƣợc phỏng vấn

- Họ và tên: Đặng ao ường

- Tuổi: 28

- Nghề nghiệp: BTV truyện tranh

II. N i dung phỏng vấn

Hỏi: Anh đã làm biên tập viên bao lâu rồi ạ?

Trả lời: Mình gắn bó với nghề được khoảng 3 năm rồi.

Hỏi: Vì sao anh lại yêu thích và quyết định gắn bó với Manga?

Trả lời: Vì ở truyện tranh chúng ta sẽ học được rất nhiều những bài học

không có ở bất cứ đâu, về tình bạn, tình đồng đội, tình yêu quê hương, đất

nước và quan trọng nhất là những trải nghiệm của bản thân mỗi khi đồng

hành cùng các nhân vật trong quá trình khẳng định bản thân mình. hưa kể

manga cũng là một kho kiến thức lịch sử, văn hóa nghệ thuật, khoa học vô

cùng phong phú.

Hỏi: Truyện tranh mang về doanh thu cho NXB như thế nào?

Trả lời: Về doanh thu, truyện tranh manga chiếm khoảng 40% doanh số, so

với các mảng sách khác.”

Hỏi: Tiền bản quyển truyện tranh chiếm bao nhiêu?

Trả lời: Tiền bản quyền nằm trong phần doanh thu. Tiền này không rõ lắm vì

nó nằm trong hợp đồng với đối tác, không thể tiết lộ.

Hỏi: Vì sao NXB ưu tiên lựa chọn mua bản quyền manga để xuất bản mà

75

không lựa chọn truyện tranh của nước khác?

Trả lời: Có một số yếu tố. Đầu tiên, về hình thức, truyện tranh Nhật Bản rất

đa dạng. Hiện giờ, truyền tranh Hàn Quốc đã chuyển sang thể loại webtoon

(truyện tranh đăng trên mạng), ít ra sách giấy, khiến cho việc du nhập và phát

hành ở Việt Nam khó khăn hơn. Truyện tranh Trung Quốc không còn đầu

sách nào đủ ấn tượng và cũng đang dần chuyển sang webtoon nên không có

sách cho NXB của Việt Nam mua. Yếu tố thứ hai là nội dung. Hàn Quốc và

Trung Quốc chỉ là hai nước đi sau nước Nhật. Truyện tranh Hàn Quốc và

truyện tranh Trung Quốc có quá nhiều đề tài trùng lặp với truyện Nhật. Trong

khi đó, truyện tranh Nhật có quá nhiều yếu tố nổi bật. Ngoài ra, văn hóa Nhật

Bản có nhiều nét tương đồng văn hóa với Việt Nam.Về nét đặc sắc trong văn

hóa Nhật Bản, Nhật Bản là đất nước vẫn giữ được truyền thống cho đến bây

giờ. Yếu tố truyền thống của Nhật là yếu tố thu hút tất cả các quốc gia khác

chứ không chỉ Việt Nam. Bên cạnh đó,văn hóa Nhật Bản được lồng ghép vào

truyện tranh rất khéo léo. Ví dụ như các ngày lễ truyền thống của Nhật, hình

ảnh samurai, ninja, biểu tượng của Nhật như hoa anh đào đều được đưa vào

truyện tranh Nhật Bản một cách khéo léo và tinh tế. Ngoài ra, một lí do đơn

giản nữa là ở Nhật đã là một ngành công nghiệp, hay còn gọi là “ngành công

nghiệp không khói”. Nền công nghiệp này đã có lịch sử phát triển nhiều năm.

Ngoài ra, giá thành của truyện Nhật cũng rẻ hơn nhiều so với truyện nước

khác.

Hỏi: Vậy tại sao NXB không lựa chọn xuất bản mua những truyện tranh của

các nước phương Tây?

Trả lời: Đối với truyện tranh phương Tây, thể loại truyện này phát triển theo

một dòng khác. Nét vẽ và nội dung khó để tiếp cận với độc giả Việt Nam. Nét

vẽ trong truyện tranh phương Tây mang phong cách tả thực rất nhiều, nội

76

dung thì phức tạp hơn. hưa kể, về giá thành, truyện tranh Nhật có giá rẻ hơn

so với truyện tranh phương Tây hay truyện tranh webtoon của Hàn Quốc và

Trung Quốc.

Hỏi: Từ trước và sau khi công ước Bern, manga xuất bản ở Việt Nam có thay

đổi gì không?

Trả lời: 100% ý thức tôn trọng bản quyền đã được nâng cao. Mặc dù tình

trạng đọc không bản quyền trên mạng vẫn còn nhưng sách giấy hoàn toàn đã

không còn việc in lậu. Không còn NXB nào còn in truyện tranh không bản

quyền nữa. ách đây 1-2 năm còn một vài NXB nhưng bây giờ là không còn

nữa. Đây là yếu tố nổi cộm nhất.

Hỏi: Thể loại thường được lựa chọn để xuất bản ở Việt Nam là gì?

Trả lời: Rất nhiều, hành động, giả tưởng, phiêu lưu, trinh thám…

Hỏi:Lứa tuổi thịnh hành nhất là khoảng bao nhiêu?

Trả lời: Lứa tuổi thịnh hành nhất bao giờ cũng là lứa tuổi 14 tuổi đến 24 tuổi.

Thiếu nhi thụ động trong việc mua truyện vì được bố mẹ mua cho. Đối tượng

có khả năng mua truyện là những lứa tuổi từ 14 đến 24 tuổi.

Hỏi: Anh có thể cho biết mỗi năm NXB phát hành bao nhiêu quyển truyện

tranh manga được không?

Trả lời: Mỗi năm, trung bình ở Việt Nam có khoảng 400 quyển truyện tranh

manga được xuất bản, không kể tái bản.

77

Rất cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này!

PHỤ LỤC 2

BẢNG HỎI VỀ THÓI QUEN C TRUY N TRANH NH T BẢN (MANGA) CỦA H C SINH TRUNG H C PHỔ THÔNG HÀ NỘI HI N NAY Chào bạn! Tôi là nghiên cứu sinh của trường ĐH Việt- Nhật. Hiện nay, tôi

đang làm luận văn với đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của truyện tranh Nhật

Bản (manga) đến giới trẻ Việt Nam” và rất cần sự đóng góp của bạn thông qua

bảng hỏi này. Bạn hãy trả lời các câu hỏi bằng cách đánh dấu “X” vào những

câu trả lời trắc nghiệm và viết câu trả lời đối với những câu hỏi mở rộng.

Rất cảm ơn sự đóng góp của bạn!

I. hông tin ngƣời đƣợc phỏng vấn

Tuổi:

Giới tính: Nam Nữ

Học lớp :

II. N i dung câu hỏi

Câu 1: Bạn đã bao giờ đọc Truyện tranh Nhật Bản- Manga chưa?

a. Có (chuyển sang câu 1a)

b. Đã từng đọc nhưng hiện tại không còn đọc nữa(chuyển câu 1b)

Câu 1a: Bạn bắt đầu đọc truyện tranh manga từ khi nào?

a. Mẫu giáo

b. Tiểu học

78

c. Từ cấp 2

d. Từ cấp 3

Câu 1b: Tại sao bạn không đọc truyện tranh nữa?

a. Đọc nhiều nên chán.

b. Cảm thấy truyện tranh không phù hợp với tuổi hiện tại.

c. Quan tâm đến hình thức giải trí khác.

d. Gia đình không cho phép.

e. Muốn chú tâm vào học hành.

f. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể):

…………………………………..

Câu 2: bạn đã mua truyện bao giời chƣa

a. Có

b. Không

Câu 3: Bạn thấy truyện tranh Manga thế nào?

a. Có tính giải trí cao

b. Có thể học hỏi được nhiều thứ từ truyện tranh

c. Chỉ hợp với trẻ con

d. Chỉ có tính giải trí chứ không truyền tải kiến thức

e. Không tốt cho khả năng cảm nhận từ ngữ

f. Nếu có ý kiến khác xin nêu cụ thể:

79

……………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………

Câu 4: Bạn thƣờng đọc truyện tranh bằng hình thức nào? (Có thể

chọn nhiều đáp án)

a. Truyện giấy

b. Đọc online

c. Đọc cả 2 hình thức

Câu 5: Bạn thường đọc truyện tranh bằng phương thức nào? (Có thể

chọn nhiều đáp án)

a. Mua truyện

b. Thuê ở hàng truyện

c. Mượn của bạn bè, người quen

d. Đọc trên điện thoại hoặc máy tính

e. Phương tiện khác (xin cho biết cụ thể)

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Câu 6. Bạn thƣờng đọc truyện tranh trong khoảng thời gian nào? (có

thể chọn nhiều đáp án)

a. Vào giờ nghỉ giải lao

b. Vào buổi tối các ngày trong tuần

80

c. Vào buổi sáng cuối tuần

d. Vào buổi chiều cuối tuần

e. Vào buổi tối cuối tuần

f. Đọc vào bất cứ khoảng thời gian nào được nghỉ từ thứ 2 đến thứ 6

Câu 7. Bạn thƣờng đọc truyện tranh ở đâu?(Có thể chọn nhiều đáp

án)

a. Ở trường và trên lớp

b. Ở trường và thư viện

c. Ở nhà

d. Ở hiệu sách

e. Thư viện ngoài trường học

f. Ở nhà bạn bè, người quen

g. Ở quán cà phê

h. Ý kiến khác

Câu 8: Bạn thƣờng dành bao nhiêu thời gian cho việc đọc truyện

tranh?

a. Từ 5 – 10 phút

b. Từ 15 – 20 phút

c. Từ 20 – 30 phút

d. Từ 30 – 60 phút

81

e. Hơn 1 tiếng

Câu 9: Lý do vì sao bạn chọn mua m t cuốn truyện?

a. Minh họa bìa đẹp

b. Lời giới thiệu hấp dẫn

c. Đã từng đọc qua trên mạng nên mua

d. Được người khác giới thiệu

e. Không mua truyện bao giờ (chuyển tiếp xuống câu 14)

Câu 10.Khi mua truyện, bạn có để ý đ tuổi quy định đƣợc ghi trên

mặt sau của quyển truyện tranh không?

a. Có

b. Không

Câu 11.Bạn mua truyện tranh bằng cách nào?

a. Tự mua

b. Bố mẹ mua cho

c. Người khác mua cho

Câu 12.Bạn đã mua bao nhiêu b truyện tranh?

a. Dưới 10 bộ

b. Từ 10 – 20 bộ truyện

c. trên 20 bộ đến 30 bộ

82

d. trên 30 bộ

Câu 13. rong năm trở lại, trung bình bạn dành bao nhiêu tiền cho

việc mua truyện trong 1 tháng?

a. Dưới 20.000 đồng

b. Từ 20.000 đồng đến dưới 50.000 đồng

c. Từ 50.000 đồng đến dưới 100.000 đồng

d. Từ 100.000 đồng đến dưới 200.000 đồng

e. Từ 200.000 đồng đến dưới 500.000 đồng

f. Từ 500.000 đồng trở lên

Câu 14.Bạn có thƣờng xuyên chú ý đến thể loại truyện tranh mình đọc

không?

a. Có

b. Không

Câu 15: Bạn thƣờng đọc thể loại manga nào? (có thể chọn nhiều đáp

án)

a. Thiếu nhi

b. Truyện dành cho nam thiếu niên (Shounen)

c. Truyện dành cho thiếu nữ (Shoujo)

d. Truyện dành cho nam giới trưởng thành (Seinen)

e. Truyện dành cho nữ giới trưởng thành (Josei)

83

f. Truyện có chủ đề tình cảm LGBT (shounen-ai, shoujo-ai…)

g. Các bộ manga có yếu tố 18+ (…)

Câu 16: Chủ đề của truyện tranh bạn yêu thích là gì? (có thể chọn

nhiều đáp án)

a. Hài hước

b. Hành động

c. Phiêu lưu

d. Tình cảm

e. Ý kiến khác (xin hãy nêu rõ)

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Câu 17: Ngoài truyện tranh Nhật Bản manga, bạn có đọc thể loại

truyện tranh khác không?

a. Có (chuyển sang câu 17a)

b. Không.

Câu 17a: Ngoài manga, thể loại truyện tranh khác bạn đọc là gì?

a. Truyện tranh Hàn Quốc (Manhwa)

b. Truyện tranh Trung Quốc (Manhua)

c. Truyện tranh Việt Nam

84

d. Truyện tranh Mỹ (Comic book / Graphic Novel)

e. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể)

……………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………

Câu 18. Bạn thích đọc truyện tranh hay truyện chữ hơn?

a. Truyện tranh

b. Truyện chữ

c. 2 loại như nhau

Câu 19.Bố mẹ của bạn có phản đối việc bạn đọc truyện tranh không?

a. Phản đối

b. Không phản đối nhưng cũng không ủng hộ

c. Ủng hộ

Câu 20: Bạn có học hỏi được gì từ việc đọc truyện tranh không?

a. Có (chuyển sang câu 20a)

b. Không

Câu 20a: Bạn đã học được những gì từ truyện tranh?

a. Tình bạn, tình yêu và sự nỗ lực của bản thân, từ đó cảm thấy cần trân

trọng những người xung quanh mình hơn

85

b. Tự tin hơn vào bản thân mình, không bỏ cuộc khi đối mặt với khó khăn

c. Học được những kĩ năng bổ ích trong cuộc sống

d. Tất cả các ý kiến trên

e. Ý kiến khác (xin cho biết cụ thể)

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Câu20.Truyện tranh có tạo cảm hứng cho bạn làm những gì?(Có thể

chọn nhiều đáp án)

a. Học vẽ

b. Học tiếng Nhật

c. Tham gia những hoạt động, sự kiện liên quan đến Nhật Bản

d. Thiết kế thời trang như trong truyện

e. Kết bạn với người cùng sở thích

f. Tham gia các LB trong trường

g. Dịch truyện trên mạng

h. Sáng tác những tác phẩm mô phỏng bộ truyện yêu thích

i. ó thói quen đọc, từ truyện tranh chuyển sang đọc thêm truyện chữ

86

j. Không có cảm hứng gì

Mức độ ảnh hưởng

Ảnh hưởng

Rất ảnh hưởng Không hề ảnh hưởng Ảnh hưởng không nhiều

Câu 21.Truyện tranh đã ảnh hƣởng đến bạn nhƣ thế nào qua những nhận định sau? (đánh dấu x vào mức đ ảnh hƣởng) Các nhận định về sự ảnh hưởng Giao tiếp tích cực (ghi cụ thể) Giao tiếp tiêu cực Hành vi tích cực Hành vi tiêu cực Ngôn ngữ tốt Ngôn ngữ xấu Học tập tốt Học tập xấu

Cảm xúc, tình cảm, tư tưởng, yêu đương,… ảnh hưởng đến đời sống tinh thần,… tư duy, lối sống,…

Câu 22: Ngoài Manga, bạn có quan tâm đến những hình thức giải trí

hay các tr o lƣu khác của Nhật Bản có liên quan đến manga hay

không?

f. Có (chuyển sang câu 22a)

g. Không

Câu 22a: Bạn thƣờng quan tâm đến các hình thức giải trí hay các trào

lƣu n o khác liên quan đến Manga? (có thể chọn nhiều đáp án)

a. Anime (hoạt hình Nhật Bản)

b. Live Action (phim chuyển thể từ Manga)

87

c. Sưu tầm sản phẩm ăn theo (vd: tượng, búp bê, sticker…)

d. Cosplay

e. Đáp án khác (vui lòng nêu rõ)

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

Câu 23: Theo bạn, truyện tranh Manga có thể sử dụng làmtư liệu phục

vụ cho nghiên cứu về văn hóa- xã hội Nhật Bản được không?

a. Có

b. Tùy từng bộ truyện cũng như nội dung.

c. Hoàn toàn không thể.

Câu 24: Truyện tranh manga có khiến bạn quan tâm hơn đến Nhật Bản

không?

a. Có

b. Không

Câu 25: Bạn có học được gì về đất nước Nhật Bản thông qua truyện

tranh không?

a. Có.

b. Không.

Câu 26: Bạn thấy Nhật Bản là một đất nước thế nào thông qua truyện

tranh? (được chọn nhiều đáp án)

a. Một đất nước nhiều văn hóa truyền thống.

b. Một đất nước bận rộn.

c. Một đất nước phát triển

d. Một đất nước nhiều thành tựu khoa học – kĩ thuật

88

e. Một đất nước giàu truyền thống lịch sử

f. Không cảm thấy gì.

g. Ý kiến khác (xin hãy cho biết cụ thể)

………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………

89

………………………………………………………………………………