
- 18 -
Chương 4
TỔ CHỨC CÔNG TÁC CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ KHUYẾT TẬT
1. Thời điểm bắt đầu can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật
CTS chủ yếu tập trung vào hai nhóm trẻ : từ 0 đến 3 tuổi và từ 3 đến 6 tuổi, nhưng
không dừng lại ở 6 tuổi mà còn có thể kéo dài tới khi trẻ vào trường phổ thông nếu điều
này là cần thiết và có lợi cho trẻ.
Giai đoạn 0-3 tuổi
Đối với trẻ lứa tuổi này công tác CTS chủ yếu tập trung vào vai trò của cha mẹ trẻ.
Các chuyên gia CTS là người tư vấn và hướng dẫn phụ huynh cách giáo dục và hỗ trợ con
mình. Nếu trẻ đến nhà trẻ trong giai đoạn này thì các cô bảo mẫu cũng nhận được tư vấn và
hướng dẫn từ các chuyên gia CTS. Tất nhiên mọi hoạt động CTS ở đây đều dựa trên 5 giai
đoạn cơ bản của quá trình CTS nói chung như đã trình bày ở trên.
Giai đoạn 3-6 tuổi
ở giai đoạn này trẻ là trung tâm của CTS. Chuyên gia CTS không chỉ hướng dẫn, tư
vấn cho cha mẹ của trẻ mà còn cho cả giáo viên dạy trẻ trong các lớp mẫu giáo. ở đây vai
trò của giáo viên, cha mẹ trẻ và chuyên gia CTS là như nhau.
Đây là giai đoạn rất quan trọng đối với trẻ, vì nếu công tác CTS và giáo dục trước
tuổi học cho trẻ được thực hiện tốt thì trẻ sẽ có nhiều thuận lợi và cơ hội để vào trường tiểu
học.
Giai đoạn 6 tuổi trở lên
Dịch vụ CTS ở những hình thức và mức độ khác nhau vẫn có thể duy trì đối với trẻ
trên 6 tuổi nếu điều đó là cần thiết và thực sự mang lại lợi ích cho sự tiến bộ của trẻ trong
quá trình học tập ở trường. Gia đình trẻ, giáo viên và các nhà chuyên môn đều có thể đặt ra
vấn đề này và cùng bàn bạc giải quyết.
2. Đối tượng của can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật
Trong chương trình CTS cho TKT thì đối tượng nhằm vào TKT, người thường
xuyên chăm sóc trẻ và các thành viên trong gia đình.
2.1.Cách tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm
Kiểm tra các nghiên cứu về sự CTS, theo dõi cac chương trình và các cuộc đối
thoại với những người can thiệp cũng như các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các chương trình
tập trung vào trẻ em khuyết tật được phát triển từ một số quan điểm xã hội học trên diện
rộng và các giả thuyết. Có hai giả thuyết đã tạo ra nền tảng cơ bản cho sự phát triển của
chương trình CTS tập trung vào trẻ: (1) Những vấn đề về gen và sinh học có thể được giải
quyết hoặc đơn giản hoá; (2) Những kinh nghiệm đầu đời là rất quan trọng đối với quá
trình phát triển của trẻ. Nếu không tin rằng có thể giải quyết hoặc ít nhất làm giảm bớt tình
trạng khuyết tật thì không nên nói về chương trình CTS nữa. Hơn nữa, cần phải hiểu rõ tầm
quan trọng của sự phát triển trong những năm đầu của đứa trẻ.
Hai giả thuyết tạo nền tảng cơ bản cho các chương trình CTS phục vụ cho việc phát sinh
các lí thuyết có liên quan tới việc xây dựng chiến lược chương trình. Sự kết hợp này biểu
hiện ý kiến về các nhu cầu và lợi ích ma trẻ thu được từ quá trình tiến triển theo tiền đề
chung cho rằng: các kinh nghiệm đầu đời là rất quan trọng và những sắp đặt của môi

- 19 -
trường sống có thể bù đắp hoặc giảm bớt những trục trặc về sinh học. Nhu cầu cần có một
cấu trúc đúng đắn sẽ tạo nền tảng cho bước phát triển cao hơn của chương trình. Một cấu
trúc đúng đắn chỉ ra rằng những học thuyết về phát triển được những người can thiệp đã
qua đào tạo áp dụng một cách hệ thống để có thể thay đổi hành động.
Các chương trình tập trung vào trẻ không bỏ qua nhu cầu của gia đình.
2.2.Cách tiếp cận tập trung vào người chăm sóc
Những cách tiếp cận tập trung vào người chăm sóc là những cach tiếp cận tập trung
chủ yếu vào việc cung cấp dịch vụ cho các bậc cha mẹ. Trong nhóm này có hai loại
chương trình riêng biệt. Loại đầu tiên cố gắng tạo ra một mối quan hệ về trị liệu y tế với
cha mẹ trẻ, thường là với người mẹ nhằm tạo ra những thay đổi về tâm lý động. VD:
Những thay đổi trong quan niệm của người mẹ về bản thân hoặc thay đổi trong cách nhìn
nhận và đánh giá đứa trẻ của chính người mẹ. Trong cách tiếp cận này, người ta cho rằng
một khi những thay đổi tâm lý va tinh cảm được tạo ra thì những tương tác của người mẹ
và mối quan hệ của người mẹ với trẻ sẽ tự động trở nên tích cực. Cách tiếp cận thứ hại có
thể không tập trung nhìều như vậy vào mối quan hệ mang tính liệu pháp, nhưng các nhà
khoa học tin rằng việc giứp củng cố về mặt cảm xúc và hướng dẫn những người chăm sóc
sẽ có tác dụng tốt đối với trẻ sơ sinh.
Nhóm các chương trình CTS hướng vào người chăm sóc trẻ tập trung chủ yếu vào
việc đào tạo những chiến lược tương tác giữa người chăm sóc và trẻ em, đặc biệt là tương
tác bằng ngôn ngữ. Cách tiếp cận này mong muốn thay đổi hay củng cố những hành vi của
những người chăm sóc khi họ chăm sóc trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ của họ trong môi trương
hàng ngày. Cách tiếp cận này không yêu cầu cha mẹ của trẻ phải được đào tạo nhưng họ
phải biết cách đáp ứng những tín hiệu tự phát trong hành động của trẻ sơ sinh.
Rõ ràng là việc lựa chọn các hệ thống để cung cấp hay nhận các dịch vụ là một quá
trình phức tạp đòi hỏi sự hợp tác cẩn thận giữa các bậc phụ huynh và các nhà chuyên môn.
Các nhà chuyên môn càng thấu hiểu nhu cầu của trẻ và gia đình bao nhiêu thì khả năng họ
để ra biện pháp thích hợp càng lớn bấy nhiêu.
Nhìn chung tuỳ từng giai đoạn phát triển của trẻ mà tập trung định hướng vào trẻ
hay gia đình. Nhìn chung giai đoạn từ 0-3 tưổi thì mục tiêu đối tượng của CTS là hướng
dẫn cha mẹ hoặc người thường xuyên chăm sóc trẻ gần gũi trẻ nhất, ví dụ như bà, chị lớn
trong gia đình hay cô giúp việc. Giai đoạn từ 3-6 tuổi khi trẻ đã đến lớp mẫu giáo thì mục
tiêu đối tượng của CTS là tập trung vào trẻ, bên cạnh đó việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên
cũng cần được tính đến.
3. Môi trường thực hiện can thiệp sớm
Các phụ huynh thường quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề: ai là trọng tâm của
dịch vụ? Dịch vụ đó được cung cấp tại đâu? Ai là người cung cấp dịch vụ và mức độ cung
cấp dịch vụ cho trẻ trong môi trường trẻ bình thường xung quanh. Các chuyên gia cần phải
đưa ra phương án cung cấp dịch vụ thích hợp nhất với từng đứa trẻ. Đôi khi những dịch vụ
này được cung cấp tại nhà của một người họ hàng hoặc người nhận trông trẻ.
Các chương trình tại nhà được xác định theo nhu cầu cá nhân của từng đứa trẻ và
gia đình. Những người cung cấp dịch vụ có khả năng đánh giá những ưu tiên và những
nguồn nhân lực của gia đình. Những người đến chăm sóc tại nhà bao gồm các chuyên gia
thuộc các tỏ chức khác nhau trong cộng đồng.Với trẻ sơ sinh, các dịch vụ can thiệp sớm có
thể được cung cấp bởi một y tá về y tế cộng đồng - người có trách nhiệm giải quyết các
vấn đề có liên quan đến chăm sóc sức khoẻ.
Những dịch vụ can thiệp sớm cần phải được cung cấp trong các môi trường tự
nhiên bao gồm nhà và những môi trường cộng đồng đa dạng khác. Để cho trẻ và gia đình
có được sự lựa chọn thích hợp nhất, ngày nay các cộng đồng đang phát triển các hình thức
“ thực đơn dịch vụ”. Đối với những trẻ sơ sinh và những trẻ có khuyết tật nặng thì các dịch
vụ tại nhà dường như là thoải mái và tốt hơn cả vì đó là môi trường gần gũi nhất đối với
trẻ. Những vấn đề phụ huynh gặp phải tại nhà có thể được giải quyết ngay. Và những
người can thiệp có thể thấy ngay là liệu một số kích thích đưa ra có giúp gì cho trẻ không

- 20 -
và lời khuyên cho gia đình có phù hợp cho họ không. Cũng như với mọi trẻ em, đối với trẻ
khuyết tật, gia đình là môi trường lý tưởng nhất để trẻ có thể phát triển tự nhiên. Tuy nhiên
nếu chỉ có lòng thương yêu, lòng nhiệt tình và sự kiên nhẫn thôi thì vẫn chưa đủ, cha mẹ
trẻ cần được cung cấp thêm các kiến thức và các kĩ năng liên quan tới khuyết tật của trẻ,
những hiểu biết về quá trình hình thành ngôn ngữ của trẻ nhỏ, một số kĩ năng kích thích và
khuyến khích sự phát triển của trẻ nhỏ… Vì vậy, giáo viên và các chuyên gia sẽ phối hợp
với nhau để hỗ trợ phụ huynh tại nhà, tại bệnh viện và tại trung tâm, tuỳ theo mục đích của
từng buổi gặp.Thông thường, khi trẻ trước 3 tuổi thì gia đình là môi trường chính, khi cần
thiết thì trẻ và cha mẹ tới trung tâm để nhận những can thiệp hay chỉ dẫn chuyên môn của
bác sĩ, chuyên gia trị liệu ngôn ngữ, gv, nhà tâm lý, nhà giáo dục v.v… Khi trẻ bước vào
học hoà nhập ở trường mẫu giáo thì môi trường chính của trẻ lúc này là ở trường. Tuy
nhiên, trẻ cần sự hỗ trợ của nhiều dịch vụ can thiệp sớm khác.
Bản thân môi trường không thể quyết định được hiệu quả của chương trình can
thiệp sớm. Do có sự đa dạng về các loại hình chương trình nên rất khó so sánh hiệu quả
tương đối của chương trình giáo dục tại gia đình và chương trình giáo dục tại trung tâm.
4. Người thực hiện can thiệp sớm
Để chương trình can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật có hiệu quả, những người thực
hiện chương trình can thiệp sớm cần có những kĩ năng, sự thành thạo về chuyên môn và
kinh nghiệm. Làm việc theo phương thức cộng tác nhóm là một mô hình sử dụng rất có
hiệu quả trong lĩnh vực giáo dụccho trẻ khuyết tật, đặc biệt là trong công tác can thiệp sớm.
Nhóm cộng tác làm việc bao gồm: Cha mẹ, giáo viên , nhóm chuyên gia thuộc các lĩnh vực
khác nhau( gv chuyên ngành, nhà xã hội học, bác sĩ nhi khoa, nhà tâm lý giáo dục, chuyên
gia chỉnh âm, chuyên gia vật lý trị liệu, bác sĩ tai mũi họng… tuỳ theo từng loại khuyết
tật).
Sự phối hợp giữa cha mẹ v
ới các chuyên gia và giữa các chuyên gia thuộc các
ngành có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ phối hợp, hoàn chỉnh. Các
chuyên gia không chỉ cộng tác với gia đình mà cả với những nhà cung cấp dịch vụ cộng
đồng. Các chương trình càng ngày càng tập trung vào một mô hình mới nhằm tăng cường
kích thích hoặc chữa trị, ở đó phản ánh quan điểm sinh thái về trẻ và gia đình trẻ đặt trong
một cộng đồng rộng lớn. Để đáp ứng được những nhu cầu chuyển đổi của mô hình này, các
chương trình đào tạo đang bỏ dần những chương trình giảng dạy tuân theo những giới hạn
chuyên môn truyền thống để chuyển sang những chương trình giảng dạy tuân theo hướng
kết hợp đa chuyên môn, đa ngành. Những chương trình như vậy sẽ làm cho các chuyên gia
thuộc các chuyên môn khác nhau cộng tác cùng với gia đình theo những phương pháp khác
nhau, kết hợp những mô hình tư vấn liên ngành, đa chuyên môn với những cách thực hành
tối ưu của giáo dục chính qui và gddb cho trẻ trước tuổi học.
Việc tập trung vào sự hợp tác liên ngành và đa chuyên môn sẽ thúc đẩy việc học
hổi những kĩ năng cần thiết làm việc trong những nhóm có nhiều chuyên môn và có nhiều
ngành. Phương pháp làm việc phối hợp đa chuyên môn cho phép trẻ và gia đình hưởng lợi
từ nhiều chuyên môn khác nhau mà không când phải gặp gỡ trực tiếp với nhiều chuyên gia.
Các chuyên gia thuộc các chuyên môn khác nhau sẽ làm việc trên tinh thần hợp tác để đào
tạo lẫn nhau sao cho một chuyên gia có thể cung cấp một loạt dịch vụ quan trọng. Ví dụ
như một giáo viên hoặc một người trông trẻ có thể dựa trên hướng dẫn của nhà trị liệu về
ngôn ngữ lời nói mà định hướng lại hoạt động vui chơi nhằm thúc đẩy việc phát triển ngôn
ngữ.
Để chương trình can thiệp sớm thành công:
- Các thành viên trong nhóm xem mục tiêu là việc để giúp đỡ trẻ là quan trong hơn
cả.
- Trong nhóm cần có người bao quát chung cho cả quá trình
- Gia đình được coi là trung tâm của cả quá trình và là những người quan trọng nhất
của các quá trình đó.

- 21 -
5. Qui trình can thiệp sớm
Hầu hết các chương trình can thiệp sớm đều được tiến hành theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phát hiện, chẩn đoán và giới thiệu trẻ vào chương trình.
Giai đoạn 2: Đánh giá ban đầu, xây dựng chương trình kế hoạch giáo dục cá nhân,
thực hiện chương trình và đánh giá kết quả.
Giai đoạn 3: Kết thúc, tập trung vào các hệ thống chuyển tiếp cho trẻ từ chương
trình can thiệp sớm tới những can thiệp tiếp theo
Sơ đồ Qui trình can thiệp sớm
giai ®o¹n 1
giai ®o¹n 3
giai ®o¹n 2
Phát hiện
Chẩn đoán
Giới thiệu
Đánh giá ban đầu
Chuyển sang môi
trường hoà nhập
Thực hiện chương
trình
Đánh giá kết quả
Xây dựng kế hoạch
giáo dục cá nhân

- 22 -
Giai đoạn 1
Là giai đoạn phát hiện, chẩn đoán và giới thiệu trẻ vào chương trình.
Phát hiện là tìm tòi các dấu hiệu và tín hiệu cho thấy sự phát triển của trẻ có nguy
cơ hoặc đang tiến triển không bình thường. Phát hiện bao gồm việc quan sát các dấu hiệu
và tín hiệu nói trên và các chương trình khám sàng lọc (phát hiện khả năng nghe, thử
nghiệm Ewing và các rối loạn về phát triển - thử nghiệm về phát triển của Denver, phát
hiện bệnh tuyến giáp trạng nhỏ bẩm sinh...). Kết quả không phái là một sự chẩn đoán. Trẻ
em được sàng lọc ra để kiểm tra tiếp. Hiện nay ở Việt Nam, hệ thống dịch vụ khám sàng
lọc cho trẻ sơ sinh hoặc chẩn đoán, phát hiện trẻ có vấn đề hoặc nguy cơ vẫn còn thiếu.
Đây sẽ là một thiệt thòi lớn cho trẻ khuyết tật. Vì những năm tháng đầu tiên trong cuộc đời
có ý nghĩa cực kì quan trọng cho sự phát triển.
Chẩn đoán là quá trình thu thập các thông tin liên quan tới tình trạng phát triển, sức
khoẻ và nguyên nhân gây ra những khó khăn cho trẻ để đưa ra những phương thức hỗ trợ
phù hợp. Việc chẩn đoán được thực hiện theo kết quả của việc phát hiện các dấu hiệu và
tín hiệu cho thấy có sự lệch lạc hay có nguy cơ về phát triển.
Trong quá trình chẩn đoán còn cần phải xem xét xem tới mỗi trẻ có những mặt
mạnh nào, nhu cầu đặc biệt của trẻ là gì? Những mặt mạnh và nhu cầu của phụ huynh và
các thành viên trong gia đình là gì? Mối liên hệ giữa trẻ và các thành viên trong gia đình ra
sao? Ai là người chăm sóc chính?…
Phát hiện và chẩn đoán sớm mới có hi vọng điều trị và ngăn chặn tật, kịp thời tiến
hành phục hồi chức năng.
Trẻ em được phát hiện qua khám sàng lọc được đưa tới các địa chỉ thích hợp để
thực hiện các chẩn đoán toàn diện và sâu hơn. Trước khi tham gia chương trình giáo dục
đặc biệt, trẻ em được chẩn đoán và đánh giá toàn diện về các nhu cầu giáo dục của chúng.
Mục đích chính của quá trình này là để xác định trẻ bị khuyết tật như thế nào, và nếu có thể
cũng xác định phạm vi và cách thức giáo dục, các dịch vụ cần thiết để can thiệp. Quá trình
đánh giá đó phải đa dạng và do nhiều nguồn, phải được kết luận bởi nhóm chuyên gia đa
chức năng. Các thành viên của nhóm này phải đa dạng tuỳ theo đặc điểm riêng của mỗi trẻ.
Thực tế cho thấy có sự không tương xứng giữa các thông tin do chẩn đoán đưa ra
và các thông tin tìm kiếm bởi các chuyên gia can thiệp sớm. Trước hết, các nhà giáo dục
hoạt động với giả định rằng các thông tin về chẩn đoán là có ích cho việc xây dựng các
chương trình định lượng. Tuy nhiên, các thông tin này hiếm khi được cung cấp, nếu có thì
rất chung chung. Các công cụ chẩn đoán đưa ra và các thông tin liên quan tới tình trạng
phát triển, sức khoẻ và y tế nhiều hơn phát triển quy trình can thiệp đặc biệt. Thông qua
các bước trong cùng một quá trình (ví dụ: đảm bảo và cung cấp các dịch vụ giáo dục), đánh
giá chẩn đoán và phát triển chương trình định hướng cung cấp các chức năng hoàn toàn
khác biệt. Nếu sự mất cân bằng này thực sự rõ rệt, thì không có lí do gì để tin rằng các
thông tin do một hoạt động tạo ra có thể dùng cho các hoạt động khác. Thất bại về việc sử
dụng đánh giá chẩn đoán thường dẫn đến thất bại trong việc hoàn thiện các chức năng của
nó.
Giai đoạn 2
Việc tìm ra những trẻ em cần can thiệp sớm dựa vào một đánh giá chẩn đoán được
đánh giá được nhắc đến trong giai đoạn 2. Phần lớn các chương trình can thiệp sớm có quy
trình đòi hỏi các trẻ em thực hiện các đánh giá dựa trên chương trình đã tham gia. Các
nhân viên của chương trình dùng các công cụ đánh giá và các quy trình khác nhau để xây
dựng kế hoạch giáo dục cá nhân (nói rộng hơn là kế hoạch can thiệp cá nhân) cho các trẻ
em tham gia chương trình. Những đánh giá ban đầu đưa ra mức độ hiểu biết so với những
thay đổi trong tương lai. Trong các chương trình can thiệp sớm, đôi khi đấy được coi là
một cẩm nang cơ bản.
Việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân là bước tiếp nối của đánh giá ban đầu
trong chuỗi làm việc liên tục của chương trình can thiệp sớm. Quy trình thực hiện kế hoạch
cá nhân có lẽ cũng tương tự như tất cả các chương trình can thiệp sớm. Kế hoạch giáo dục