LỜI NÓI ĐẦU

Bài giảng Địa lí tự nhiên Việt Nam là bài giảng dành cho sinh viên đại học chuyên ngành Lịch Sử. Nội dung của bài giảng tập trung phân tích các vấn đề tự nhiên Việt Nam…

Bài giảng Địa lí tự nhiên Việt Nam được cấu trúc trong 6 chương: Chương 1: Lãnh thổ Việt Nam Chương 2: Địa hình Việt Nam Chương 3: Khí hậu Việt Nam Chương 4: Thủy văn Việt Nam Chương 5: Thỗ nhưỡng Việt Nam Chương 6: Sinh vật Việt Nam Trong quá trình biên soạn bài giảng, tác giả đã sử dụng nhiều tài liệu tham khảo từ các bài giảng, cuốn sách, tạp chí, bài báo của nhiều tác giả khách nhau. Tác giả có trích nguồn đầy đủ, xin chân thành cảm ơn các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học có tài liệu được cơ cấu trong bài giảng.

1

Chương 1. LÃNH THỔ VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 1: - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về lãnh thổ Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ..

Chuẩn đầu ra của chương 1: Sinh viên biết được đặc điểm lãnh thổ Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn

đề về lãnh thổ. Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

1.1. Vị trí địa lí Hệ tọa độ địa lí phần trên đất liền của Việt Nam được xác định như sau: Điểm cực Bắc ở vĩ độ 23o23’B, kinh độ 105o19’Đ tại xã Lũng Cú nằm trên cao nguyên Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.

Điểm cực Nam ở vĩ độ 8o30’B, kinh độ 104o50’Đ tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.

Điểm cực Tây ở vĩ độ 22o25’B, kinh độ 102o08’Đ nằm trên đỉnh núi Khoan La San ở khu vực ngã ba biên giới giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc thuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Điểm cực Đông ở vĩ độ 12o40’B, kinh độ 109o28’Đ tại xã Vạn Thạnh trên bán đảo Hòn Gốm thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà.

Nước Việt Nam nằm ở rìa phía Đông của bán đảo Đông Dương, ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á. Phía Bắc Việt Nam giáp với Trung Quốc, phía Tây giáp với Lào và Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp với Biển Đông. Việt Nam vừa gắn với lục địa châu Á rộng lớn, vừa có một bộ phận trên Biển Đông để tiếp nối với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Việt Nam nằm trên ngã tư đường hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây, nối liền châu Á với châu Đại Dương, Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Trong tương lai Việt Nam còn nằm trên các tuyến đường bộ và đường sắt xuyên Á nối liền với các nước ở xung quanh và các nước ở châu Á. So với nhiều nước trên thế giới và ngay cả với các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí địa lí khá thuận lợi trong việc mở rộng mối giao lưu về kinh tế và văn hoá với các nước lân cận cũng như các nước khác trên thế giới.

1.2. Lãnh thổ 1.2.1. Vùng đất

Vùng đất là toàn bộ phần đất liền được xác định trong phạm vi đường biên giới của Việt Nam với các nước kề bên và phần đất nổi bao gồm khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ trên Biển Đông. Lãnh thổ Việt Nam phần trên đất liền có diện tích 330.991km2 , có dáng hẹp ngang và chạy dài theo hướng kinh tuyến với chiều dài gần 1650km.

Việt Nam có 4.510km đường biên giới trên đất liền. Trong đó,đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc dài 1.306km thuộc địa giới của 6 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai,

2

Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Đường biên giới giáp với Lào dài 2067km thuộc địa giới của 10 tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum. Đường biên giới giáp với Campuchia dài 1137km thuộc địa giới của 9 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Phần lớn đường biên giới trên đất liền của Việt Nam ở miền núi tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và một phần của Campuchia là đường ranh giới tự nhiên chạy dọc theo các đỉnh núi, các đường chia nước, các hẻm núi và các thung lũng sông suối rất dễ nhận biết nhưng việc qua lại giữa hai nước chỉ thuận tiện ở một số cửa khẩu nhất định. Chỉ có một số bộ phận trên đường biên giới tiếp giáp với Campuchia là nằm trong vùng đồng bằng hạ lưu sông Mê Công. Ở đoạn biên giới này đất đai bằng phẳng, dân cư Đông đúc, đường sá thuận tiện nên việc giao lưu giữa hai nước trở nên rất dễ dàng.

Việt Nam có đường bờ biển dài 3260 km có hình cong như hình chữ S từ Móng Cái (Quảnh Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang). Đường bờ biển tạo điều kiện cho 28 trong số 63 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam có đường thông thương ra biển và có điều kiện trực tiếp khai thác những tiềm năng to lớn của Biển Đông.

1.2.2. Vùng biển a. Nội thuỷ Nội thuỷ là vùng nước ở phía trong đường cơ sở để tính lãnh hải của mỗi quốc gia. Ngày 12 tháng 11 năm 1982 Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố quy định đường cơ sở ven đường bờ biển để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Việc xác định các điểm chuẩn là các đảo ven bờ và các mũi đất dọc bờ biển để vạch đường cơ sở của Việt Nam được dựa trên cơ sở pháp lí phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Riêng đường cơ sở của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan sẽ được quy định sau do hiện nay chưa giải quyết xong vấn đề chủ quyền và phân định biên giới trên biển với các nước có liên quan. Theo đó vùng nội thuỷ của Việt Nam mặc dù ở trên biển song vẫn được coi

như lãnh thổ trên đất liền. b. Lãnh hải Lãnh hải Việt Nam, theo tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12 tháng 5 năm 1977, có chiều rộng 12 hải lí

Ranh giới phía ngoài của lãnh hải được coi là biên giới quốc gia trên biển. Trên thực tế đó là các đường song song và cách đều đường cơ sở về phía biển 12 hải lí.

c. Tiếp giáp lãnh hải Tiếp giáp lãnh hải là vùng biển được quy định nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chủ quyền của một nước ven biển. Vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam cũng được quy định có chiều rộng 12 hải lí. Trong vùng này, Nhà Việt Nam có quyền thực hiện các biện pháp để bảo vệ an ninh quốc phòng, kiểm soát thuế quan, các quy định về y tế, môi trường, di cư, nhập cư…

d. Vùng đặc quyền về kinh tế Vùng đặc quyền về kinh tế cũng đã được quy định có chiều rộng 200 hải lí tính từ đường cơ sở. Ở vùng này Nhà Việt Nam đã có chủ quyền hoàn toàn về kinh tế nhưng vẫn để các nước khác được đặt các đường ống dẫn dầu, dây cáp ngầm và tàu thuyền, máy bay nước ngoài được tự do về hàng hải và hàng không, đúng như các công ước quốc tế về luật biển đã quy định.

đ. Thềm lục địa

3

Thềm lục địa Việt Nam cũng đã được Nhà nước quy định bao gồm đáy biển và lòng đất dưới biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, có độ sâu khoảng 200 m hoặc hơn nữa. Nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở không đến 200 hải lí thì thềm lục địa nơi ấy được tính cho đến 200 hải lí. Nhà Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam. Như vậy, theo quan điểm mới về chủ quyền quốc gia thì Việt Nam có chủ

quyền trên một vùng biển khá rộng, khoảng 1 triệu km2 tại Biển Đông.

1.2.3. Vùng trời Vùng trời Việt Nam là khoảng không gian bao trùm lên lãnh thổ Việt Nam, trên đất liền được xác định bằng các đường biên giới, trên biển là ranh giới phía ngoài của lãnh hải và không gian của các hải đảo.

Câu hỏi ôn tập chương 1:

1. Phân tích ý nghĩa vị trí địa lí Việt Nam. 2. Nêu các bộ phận cấu thành lãnh thổ Việt Nam.

4

Chương 2. ĐỊA HÌNH VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 2: - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về địa hình Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Chuẩn đầu ra của chương 2: Sinh viên biết được địa hình Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn đề về địa

hình. Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

2.1. Đặc điểm chung của địa hình Việt Nam 2.1.1. Đồi núi là bộ phận quan trọng nhất của cấu trúc địa hình Việt Nam * Trên đất liền Đồi núi chiếm tỉ lệ lớn, tới 3/4 diện tích lãnh thổ, phần còn lại là đồng bằng

chỉ chiếm có 1/4 diện tích.

Bản thân nền móng các đồng bằng cũng là miền đồi núi sụt võng, tách dãn được phù sa sông bồi đắp mà thành. Vì thế hiện tại trên các đồng bằng ở Việt Nam còn có nhiều ngọn núi sót, nhô cao như Sài Sơn (Hà Tây), núi Voi (Hải Phòng), Non Nước (Ninh Bình) tạo nên những thắng cảnh ngoạn mục.

Đồi núi tạo thành biên giới tự nhiên bao quanh phía Bắc và phía Tây Tổ quốc giữa Việt Nam với Trung Quốc, Việt Nam với Lào và phần lớn đường biên giới với Campuchia.

* Các hải đảo Đồi núi nhấp nhô trên mặt biển làm thành các hải đảo, quần đảo ở Quảng Ninh, Hải Phòng, các đảo ở ngoài khơi Trung Bộ như Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Phú Quốc và các quần đảo ở Kiên Giang. Đứng giữa đồng bằng có thể nhìn thấy các đỉnh núi xung quanh (Tam Đảo, Ba

Vì…) Đồi núi còn lan ngầm dưới đáy biển, tạo ra những thân ngầm làm chỗ dựa cho san hô phát triển (các đảo san hô Hoàng Sa, Trường Sa)

2.1.2. Hệ núi Việt Nam già, được tân kiến tạo nâng lên, làm trẻ lại 2.1.2.1. Tính chất kế thừa và thống nhất tân kiến tạo và cổ kiến tạo Giai đoạn cổ kiến tạo đã tạo lập nền móng các đồi núi, song do thời kỳ yên tĩnh của mặt đất quá dài mà địa hình bị san bằng thành dạng bán bình nguyên cổ.

Đến thời kỳ Miôxen của đại Tân sinh cách đây hơn 23 triệu năm, những vận động mới - tân kiến tạo - đã nâng cao những vùng núi cũ, nền móng cũ. Sông suối, nước chảy trên mặt đã cắt xẻ sâu vào bán bình nguyên cổ để tạo nên những khe sâu, những sườn núi dốc đứng hiện nay.

Núi ở Việt Nam không phải là núi uốn nếp trẻ của vận động tạo núi Himalaya mà chủ yếu là kết quả của sự cắt xẻ bề mặt bán bình nguyên cổ theo nhiều bậc của ngoại lực.

5

Nhìn từ xa ta thấy các đỉnh núi thường là những bề mặt có độ cao sàn sàn

nhau, chập vào nhau ở đường chân trời. 2.1.2.2. Hoạt động xâm thực - bồi tụ là nguyên nhân trực tiếp hình thành địa hình hiện đại. Tác động của dòng nước, của gió, của nhiệt độ… thường xuyên, bền bỉ biến

đổi bề mặt địa hình cổ hoặc làm xuất hiện địa hình cổ xưa ẩn chứa dưới sâu.

Khi các lớp đất đá trẻ nhưng vụn bở bị bóc đi lại làm lộ ra các vỉa đá rắn, các nếp núi cổ, chẳng hạn như đỉnh Phu Hoạt, Pu Xai Lai Leng, Rào Cỏ, Mẫu Sơn. Khi các lớp trầm tích trẻ không phủ hết cấu trúc cũ cũng làm lộ ra các địa hình già như các núi sót ở các đồng bằng tạo nên sự tương phản trên địa hình: núi nổi cao giữa đồng bằng. Đấy là những điểm du lịch hấp dẫn, những trạm thông tin viễn thông, truyền hình thuận lợi.

2.1.2.3. Kiến trúc cổ chi phối hướng địa hình hiện đại Quy luật này thể hiện qua hướng vòng cung của các nếp núi bao quanh khối Vòm sông Chảy ở khu vực Đông Bắc và Việt Bắc, hướng Tây Bắc - Đông Nam ở vùng núi Tây Bắc, Trường Sơn Bắc do các nhân đá kết tinh cổ song song và kéo dài theo hướng Tây Bắc Đông Nam và hướng vòng cung của các dãy núi Động Ngài, Bạch Mã, Lang Biang (cực Nam Trung Bộ) bao quanh khối nền cổ Inđôxini. Hướng các dòng sông lớn trùng với hướng của các đứt gãy cổ kiến tạo quyết

định như sông Hồng, sông Chảy, sông Mã, sông Cả và sông Gianh. 2.1.2.4. Giữa địa hình và nham thạch cấu tạo nên địa hình có mối quan hệ chặt chẽ

Mỗi loại đá có một hình dạng đặc trưng. Nhìn địa hình có thể đoán biết nham thạch: - Địa hình mềm mại, lượn sóng: đá phiến, đá cát kết, nguyên là bán bình nguyên cổ được nâng lên rất nhẹ.

- Địa hình cacxtơ hiểm trở, vách dựng đứng: thường được cấu tạo bởi đá vôi. - Địa hình cao, đỉnh nhọn là các đá phun trào riolit: Tam Đảo, Mẫu Sơn. - Địa hình cao nguyên rộng lớn, bằng phẳng là do đá badan phun trào. - Địa hình thấp, bằng phẳng là do nham thạch phù sa bở rời, Q. 2.1.3. Địa hình Việt Nam tạo nên nhiều bậc, nhiều bề mặt có độ cao khác nhau là kết quả của 6 chu kỳ tân kiến tạo

2.1.3.1. Các bậc địa hình núi cao trên 2000m Ngoài các khu vực đỉnh núi nhô cao đơn lẻ với độ cao trên 2400m cho đến trên 3000m, ở các vùng núi cao có thể quan sát thấy có một bậc địa hình ở độ cao 2100m đến 2200m vốn nằm chung trên một mặt bằng bán bình nguyên cổ có tuổi Paleôgen sau bị chia cắt mà thành các đỉnh núi đơn độc hoặc các dải núi kéo dài. Điển hình nhất của địa hình này là vùng núi cao Hoàng Liên Sơn.

2.1.3.2. Các bậc địa hình có độ cao từ 1000m đến 2000m. Ở miền núi có độ cao từ 1000m đến 2000m có hai bậc địa hình: - Bậc địa hình từ 1500m đến 1800m. Bậc địa hình này cũng vốn là các bề mặt của các bán bình nguyên cổ ở Việt Nam. Nơi nào bị chia cắt mạnh thì nay chỉ còn là những đỉnh núi. Ở những nơi có địa thế thuận lợi và thành phần đã gốc tương đối thuần nhất, mặt bằng của bán bình nguyên này còn sót lại khá rộng như các cao nguyên đá vôi Đồng Văn, Bắc Hà, vùng núi Sa Pa, Đà Lạt. - Bậc địa hình có độ cao 1000m đến 1400m.

6

Bậc địa hình này là bề mặt của các bình nguyên cổ có tuổi trẻ hơn tuổi Đệ Tam được hình thành từ các chu kỳ nâng lên tiếp theo và bị chia cắt mạnh. Bậc địa hình này khá phổ biến ở vùng núi phía Bắc, Trường Sơn và Tây Nguyên. 2.1.3.3. Các bậc địa hình của các vùng đồi núi và đồng bằng có độ cao dưới 1000m

Các vùng đồi núi có độ cao trên 200m có thể phân biệt rất rõ hai bậc địa hình: - Bậc địa hình có độ cao từ 600m đến 900m. Đây là bậc địa hình có độ cao trung bình tiêu biểu cho vùng núi thấp tập trung nhiều ở vùng núi phía Bắc và các cao nguyên Kon Tum, Plây Cu, Đác Lác ở Tây Nguyên.

- Bậc địa hình có độ cao từ 200m đến 600m. Bậc địa hình này bao gồm các vùng đồi núi thấp đã bị chia cắt thành các núi, đồi và các dãy đồi có diện tích lớn nhất ở Việt Nam và phân bố rộng khắp ở trung du Bắc Bộ, các vùng đồi núi thấp chân núi ở Trung Bộ và Nam Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bôm.

- Bậc địa hình có độ cao từ 25m đến 100m. Bậc địa hình này là các vùng đồi gò thấp, phần lớn là các bậc thềm phù sa có tuổi Đệ Tứ ở đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ.

- Bậc địa hình thấp dưới 15m. Bậc địa hình thấp ở các vùng đồng bằng và ven biển có độ cao dưới 15m là các bậc thềm sông và thềm biển hiện đại.

Các bậc địa hình ở Việt Nam, đặc biệt là các bậc địa hình có độ cao trên 1000m đã có tác động trực tiếp đến các yếu tố khí hậu (chủ yếu là chế độ nhiệt và chế độ ẩm) cũng như các thành phần khác của tự nhiên như thuỷ văn, lớp phủ thổ nhưỡng và sinh vật. Các bậc địa hình có độ cao trên 1000m đã thể hiện một cách rõ ràng sự phân

hoá của tự nhiên thành các đai cao.

Nhìn chung, ở các bậc địa hình thấp dưới 600m ít có sự biến động lớn của các thành phần tự nhiên, ở các vùng đồng bằng thấp và bằng phẳng có sự tương đối đồng nhất của các thành phần tự nhiên.

2.1.4. Địa hình Việt Nam thể hiện tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa 2.1.4.1. Lớp vỏ phong hoá dày Bị mưa nắng công phá, bề mặt địa hình bị thay đổi tạo nên lớp vỏ phong hoá dày, có nơi tới 10 - 15 m. Trên cùng của lớp vỏ phong hoá là tầng đất mềm (thổ nhưỡng) và rừng cây che phủ bảo vệ. Lớp vỏ phong hoá có dặc tính thấm nước, vụn bở, dễ dàng bị phá huỷ, xói mòn và rửa trôi, nhất là ở những nơi có địa hình dốc, lớp phủ thực vật và thổ nhưỡng bị tàn phá. Ở Việt Nam, quá trình phong hoá hoá học diễn ra mạnh mẽ. Các vùng núi đá vôi bị nước mưa hoà tan tạo nên những hang động lớn và sông suối ngầm. Còn các vùng đá macma, biến chất quá trình phong hoá diễn ra yếu và chậm hơn.

2.1.4.2. Các hiện tượng đất trượt và sụt lở trên bề mặt địa hình Địa hình Việt Nam có nhiều hiện tượng thiên nhiên bất lợi thường xuyên xảy ra như đất trượt, đất chảy, đấ đổ, hang động ngầm. Ở miền núi, khi gặp mưa lớn thường xảy ra lũ bùn, lũ quét. Hiện tượng kết von và đá ong hoá xảy ra trong lớp vỏ phong hoá và thổ nhưỡng diễn ra khá mạnh.

2.1.5. Địa hình Việt Nam chịu tác động sâu sắc của các hoạt động kinh tế - xã hội.

7

Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình tác động của con người vào các đối tượng tự nhiên. Ở Việt Nam quá trình đó diễn ra cách đây hàng ngàn năm gắn liền với quá trình định cư, di cư của các dân tộc từ miền núi xuống ĐBSH, vào phía Nam và trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ngày nay do nhu cầu phát triển các tác động đó diễn ra trên phạm vi rộng và sâu sắc từ việc canh tác, xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện đến việc xây dựng các công trình giao thông, khu công nghiệp, đô thị... Các biến đổi bề mặt địa hình diễn ra ngày càng sâu sắc hơn và rộng rãi hơn.

2.2. Các kiểu địa hình ở Việt Nam Căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài, còn gọi là hình thái và trắc lương hình thái của địa hình, có thể phân biệt địa hình Việt Nam thành các kiểu hình thái địa hình chính như núi, cao nguyên, đồi và đồng bằng (bảng 1).

2.2.1. Kiểu địa hình núi Kiểu địa hình núi ở Việt Nam bao gồm các miền núi thấp có độ cao trung bình dưới 1000m, miền núi trung bình có độ cao trung bình từ 1000 - 2000 m và miền núi cao có độ cao trên 2000m.

Kiểu địa hình núi khá phổ biến và tiêu biểu cho địa hình Việt Nam. Kiểu địa hình núi ở Việt Nam có đặc điểm chung là có độ cao tuyệt đối và độ cao tương đối khá lớn, về ngoại hình thường là các khối núi hoặc các dãy núi, có độ chia cắt sâu và sườn dốc lớn.

Ở Việt Nam các đơn vị sơn văn lớn thường được ngăn cách với nhau bởi các thung lũng sông lớn, hình thành trên các khu vực núi có các sắc thái riêng.Tuy vậy vẫn có thể phân chia kiểu địa hình núi thành các kiểu địa hình núi cao, núi trung bình và núi thấp.

Phân loại địa hình theo tập hợp các dấu hiệu hình thái (Theo Lại Huy Anh, Phạm Khang, 1993)

Ngoại hình Độ cao tương đối Độ dốc sườn Kiểu hình thái địa hình Độ chia cắt sâu

Đồng bằng Nhỏ hơn 100 m - Bằng phẳng - Lượn sóng - Yếu: nhỏ hơn 10 m - Hầu như nằm ngang: nhỏ hơn 2o

Đồi 10 - 100 m - Bát úp - Dãy đồi - Trung bình: từ 10 - 100 m - Sườn thoải: 2o - 8o - Dốc vừa phải: 8o – 15o Trắc lượng hình thái Độ chia cắt ngang (km/km2) - Yếu: nhỏ hơn 0.5 - Trung bình: từ 0,5 - 1 - Mạnh: từ 1-1,5

Cao nguyên Nhỏ hơn 100 m - Mạnh: từ 100 - 500m - Rất mạnh: lớn hơn 1,5 - Sườn dốc: 15o - 30o - Bằng phẳng - Lượn sóng - Đồi

Núi Lớn hơn 100m - Khối - Dãy - Rất mạnh: lớn hơn 500m - Sườn rất dốc: 30o - 40o - Sườn gần như dốc đứng: lớn hơn 40o

2.2.1.1. Kiểu địa hình núi cao Các khu vực núi cao ở Việt Nam với các đỉnh núi cao trên 2000m phần lớn nằm sâu trong đất liền và ở vùng biên giới, đặc biệt là ở biên giới phía Bắc từ Hà Giang đến Lai Châu và biên giới phía Tây thuộc hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Đó là

8

các đỉnh núi Pu Tha Ca (2274m), Tây Côn Lĩnh (2419m), Kiều Liêu Ti (2402m) nằm ở vùng thượng lưu sông Gâm, sông Lô, sông Chảy thuộc tỉnh Hà Giang, đỉnh 2820m ở Bát Sát (Lào Cai), đỉnh Pu Si Lung (3076m) ở Mường Tè (Lai Châu), đỉnh Phu Hoạt (2452m), Pu Xai Lai Leng (2711m) ở biên giới phía Tây Nghệ An, đỉnh Rào Cỏ (2235m), ở biên giới phía Tây Hà Tĩnh giáp Lào.

Tiêu biểu cho kiểu địa hình núi cao ở Việt Nam là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Hoàng Liên Sơn là dãy núi đồ sộ và hùng vĩ nhất ở Việt Nam chạy dài 180 km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ biên giới phía Bắc thuộc hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu cho đến Yên Bái. Ở đây có đỉnh Phan Si Păng (3143m) cao nhất Việt Nam và cả bán đảo Đông Dương, đỉnh Tả Yang Phình (3096m) và các đỉnh núi cao khác như Phu Luông (2985m), Sà Phình (2874m). Ngoài ra còn có hàng chục đỉnh núi cao trên 2000m.

Ở khu vực phía Nam của dãy núi Trường Sơn cũng có một số đỉnh núi cao trên 2000m như Ngọc Linh (2598m), đỉnh 2052m và đỉnh Ngọc Kring (2025m) ở Kon Tum, đỉnh Vọng Phu (2015m) ở Khánh Hoà, đỉnh Chư Yang Sin (2405m) ở Đác Lắc.

Kiểu địa hình núi cao ở Việt Nam đều được cấu tạo bằng các loại đá macma và đá biến chất có thành phần khá đồng nhất như granit, riôlit rất cứng và rắn, khó bị phong hoá tạo nên các đỉnh sắc nhọn, lởm chởm hình răng cưa. Địa hình của vùng núi cao rất hiểm trở vì có độ cao lớn, sườn dốc với nhiều vách đứng bị xâm thực mạnh tạo nên độ chia cắt sâu tới hàng nghìn mét. Do lớp vỏ phong hoá mỏng nên lớp phủ thổ nhưỡng và thực vật cũng rất nghèo nàn, cằn cỗi. Các vùng núi cao ở Việt Nam đều có lượng mưa lớn trên dưới 3000mm, có lượng ẩm cao nhưng rất lạnh. Ở vùng núi Phan Si Păng mùa Đông rất rét và thường có tuyết rơi.

2.2.1.2. Kiểu địa hình núi trung bình Kiểu địa hình núi trung bình ở Việt Nam có độ cao từ 1000 - 2000m chiếm diện tích không lớn lắm, khoảng 14% diện tích cả nước nhưng cũng được phân bố khá rộng khắp từ biên giới phía Bắc cho đến phía Nam của dãy Trường Sơn.

Kiểu địa hình núi trung bình có các dạng đỉnh núi, khối núi và dãy núi đơn độc tách biệt với các vùng núi cao như đỉnh Phia Ya (1980m) Phia Uắc (1930m) ở Cao Bằng, Mẫu Sơn (1541m) ở Lạng Sơn, Nam Châu Lãnh (1506m) ở Quảng Ninh, Tam Đảo (1591m) ở Vĩnh Phúc, Tản Viên (1287m) ở Hà Tây, Động Ngài (1774m), Bạch Mã (1444m) ở Thừa Thiên - Huế, Bảo Lộc (1545m) ở Lâm Đồng hoặc gắn liền với các vùng núi cao ở Tây Bắc, Bắc và Nam dãy núi Trường Sơn.

Kiểu địa hình núi trung bình gồm các núi được cấu tạo bởi các loại nham thạch cứng, chủ yếu là các loại đá macma và đá biến chất, tuy nhiên có độ cao thấp hơn và mức độ xâm thực, chia cắt địa hình yếu hơn so với các vùng núi cao. Đặc biệt ở vùng núi Tây Bắc, tính chất phân bậc của địa hình biểu hiện rõ ràng hơn. Ở những nơi có địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn còn giữ lại được lớp phủ rừng tự nhiên.

2.2.1.3. Kiểu địa hình núi thấp Kiểu địa hình núi thấp dưới 1000m thường gặp ở vùng liền kề với vùng núi trung bình và vùng đồi thành một dải liên tục với các bậc địa hình cao thấp khác nhau. Cũng có khi kiểu địa hình núi thấp còn được gặp ở ngay vùng đồng bằng và vùng ven biển dưới dạng núi sót. Đó là các núi Voi (130m), núi Đồ Sơn (135m) ở Hải Phòng, núi Bà Đen (986m) ở Tây Ninh, núi Thất Sơn(716m) ở An Giang và các đảo ven bờ.

9

Điển hình của kiểu địa hình núi thấp ở Việt Nam là ở vùng Đông Bắc, khu vực núi Hoà Bình - Thanh Hoá - Nghệ An. Phần lớn các núi thấp được cấu tạo bởi các đá trầm tích, có dáng hình mềm mại, có lớp vỏ phong hoá khá dày. (Hình 8)

2.2.2. Kiểu địa hình cao nguyên Do tính chất phân bậc của địa hình gây nên bởi các chu kì trong vận động tân kiến tạo, trên đất Việt Nam đã hình thành nên một số cao nguyên. Các cao nguyên này có cấu tạo, nguồn gốc và độ cao khác nhau nhưng vẫn có thể xếp chung vào một kiểu địa hình về đặc điểm hình thái của nó. Đó là kiểu địa hình có độ cao khá lớn với bề mặt khá bằng phẳng, lượn sóng hoặc có các dãy đồi ở trên các miền núi và ngăn cách với các vùng thấp bởi các vách bậc địa hình. Ở Việt Nam thường gặp 3 kiểu địa hình cao nguyên chính là các cao nguyên đá vôi, cao nguyên đất đá badan và cao nguyên hỗn hợp các loại đá trầm tích macma và biến chất.

2.2.2.1. Kiểu địa hình cao nguyên đá vôi Kiểu địa hình cao nguyên đá vôi rất điển hình ở vùng núi phía Bắc và Tây Bắc Việt Nam. Kiểu địa hình này có đặc điểm chung là có độ cao khá lớn nhưng có bề mặt khá bằng phẳng, mạng lưới sông suối rất thưa thớt và rất hiếm nước, nhất là vào thời kì mùa khô.

Điển hình cho địa hình cao nguyên đá vôi ở vùng núi tương đối cao mang tính chất sơn nguyên là các cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), cao nguyên Bắc Hà (Lào Cai).

Cao nguyên Đồng Văn nằm ở vùng núi cao ở khu vực cực Bắc của Việt Nam, có độ cao trung bình 1600 - 1650m, chạy dài 40km và rộng 26km. Đá vôi ở đây có màu xám sáng và đen, có chứa nhiều hoá đá vi sinh vật. Do ảnh hưởng của vận động tân kiến tạo, khu vực này được nâng lên mạnh mẽ và các quá trình cacxtơ hiện đang trong giai đoạn trẻ lại. Xung quanh cao nguyên Đồng Văn là những thành vách đá vôi dựng đứng cao 700 - 800m, có nơi tới 1000m. Mạng lưới thuỷ văn ở đây chủ yếu là các sông suối ngầm, còn dòng chảy trên mặt rất hiếm và rất thiếu nước.

Cao nguyên Bắc Hà phần lớn được cấu tạo bởi đá vôi phân lớp màu sáng, một số đã bị biến chất thành đá hoa, xen kẽ các lớp đá phiến có tuổi Cambri. Cao nguyên Bắc Hà có độ cao tương đối lớn, từ 1000 - 1500m, đỉnh núi cao nhất ở đây trên 1800m. Địa hình vùng này có độ chia cắt sâu rất lớn, có nơi tới 1000 m, điển hình là hẻm vực sông Chảy ở khu vực giữa Mường Khương và Bắc Hà. Cao nguyên Bắc Hà cũng nằm trên một vùng được nâng lên mạnh nên các quá trình cacxtơ ở đây cũng rất phát triển, dòng chảy trên mặt rất hiếm, mạng lưới sông suối thưa thớt, chủ yếu là các mạch suối ngầm.

Ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam còn có một dải các cao nguyên chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có độ cao tương đối thấp, dưới 1000m. Đó là các cao nguyên Tả Phình - Sin Chải, cao nguyên Sơn La và cao nguyên Mộc Châu.

Cao nguyên Tả Phình - Sin Chải là cao nguyên đá vôi có độ cao trung bình 1000m. Đá vôi ở đây có màu đen và sáng, phân lớp và dạng khối, có tuổi Cacbon và Cacbon - Pecmi. Trên bề mặt cao nguyên Tả Phình - Sin Chải các dải đá vôi nằm xen kẽ với các loại đá phiến, cát kết, cuội kết và đá phun trào spilit. Do đặc tính của địa hình đá vôi nên ở đây xuất hiện nhiều phễu cacxtơ, địa hình chia cắt sâu và rất hiếm nước. Đáng chú ý là lớp phủ thực vật tự nhiên ở đây đã bị tàn phá nhiều và còn lại diện tích khá lớn các đồng cỏ.

Cao nguyên đá vôi Sơn La có địa hình thấp hơn cả, độ cao trung bình chỉ vào khoảng 550 - 770m. Đá vôi ở đây phân lớp mỏng, có nhiều màu sắc tạo thành các

10

dải nằm kẹp giữa các đứt gãy và những dải đá trầm tích, biến chất và macman xâm nhập. Quá trình cacxtơ ở đây đã trải qua giai đoạn phát triển rất lâu dài, nhiều nơi còn sót lại các đỉnh núi đá vôi đã bị phong hoá mạnh.

Cao nguyên đá vôi Mộc Châu bao gồm các dải đá vôi lớn hơn và có địa hình cacxtơ trẻ hơn. Mặt bằng của cao nguyên này có độ cao trung bình 1000 - 1100m, còn ở bộ phần rìa cao nguyên có độ cao từ 600 - 1000m. Trên bề mặt cao nguyên đã xuất hiện nhiều thung đá vôi và các cánh đồng cacxtơ mở rộng thành các cánh đồng phù sa. Nhiều nơiđá vôi bị bóc mòn để lộ ra các lớp đá trầm tích khác ở bên dưới. Cao nguyên Mộc Châu còn có lớp phủ thổ nhưỡng khá dày là đất feralit có mùn và đất feralit đỏ sẫm do đá vôi phong hoá. Lớp phủ thực vật ở đây cũng còn khá và có nhiều cánh đồng cỏ tự nhiên rất xanh tốt.

2.2.2.2. Kiểu địa hình cao nguyên badan Khác với kiểu địa hình cao nguyên đá vôi còn có nét hiểm trở, các cao nguyên badan có dáng hình mềm mại, bằng phẳng hơn và trên bề mặt cao nguyên còn có nhiều di tích của các hoạt động núi lửa như các nón miệng núi lửa, các hồ tròn. Các cao nguyên badan được bao phủ chủ yếu bởi các lớp đá badan phun trào tuổi Tân sinh đã được phong hoá và trở thành loại đất đỏ badan rất phì nhiêu, rất thuận lợi cho sự phát triển của các cánh rừng tự nhiên cũng như cho sản xuất nông lâm nghiệp.

Các cao nguyên badan ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và rìa của miền Đông Nam Bộ.

Cao nguyên Kon Tum - Plây Cu và cao nguyên Đác Lắc là hai cao nguyên badan rộng lớn nhất ở Tây Nguyên có địa hình bằng phẳng và nằm ở độ cao 700 - 800m.

Cao nguyên Mơ Nông và cao nguyên Di Linh ở phía Nam Tây Nguyên có độ cao trung bình 1000m và được bao phủ bởi lớp đất đá badan có tuổi trẻ hơn. (Hình 10) 2.2.2.3. Kiểu địa hình cao nguyên hỗn hợp các loại đá trầm tích, macma và biến chất

Thuộc kiểu địa hình này là các cao nguyên bóc mòn có độ cao khá lớn, tới 1500m ở phía Bắc tỉnh Lâm Đồng. Trên bề mặt cao nguyên còn lộ ra các loại đá trầm tích tuổi Cổ sinh và các loại đá macma, biến chất có tuổi trẻ hơn. Ở đây có địa hình bằng phẳng xen kỹ với các dãy đồi và ngọn đồi thoải tạo nên cảnh quan thiên nhiên rộng mở có nhiều phong cảnh đẹp mà tiêu biểu là cao nguyên Lâm Viên - Đà Lạt.

2.2.3. Kiểu địa hình đồi Kiểu địa hình đồi ở Việt Nam thường gặp ở vùng giáp ranh có tính chất chuyển tiếp từ địa hình miền núi xuống đồng bằng. Kiểu địa hình đồi ở Việt Nam thường có độ cao trung bình từ 50 - 85m. Địa hình đồi thuộc kiểu địa hình bóc mòn do tác động của quá trình ngoại lực đã phá huỷ, xâm thực đá gốc hoặc thềm sông, thềm biển.

Kiểu địa hình đồi ở Việt Nam phổ biến có hai dạng: - Đồi bát úp: Là dạng địa hình chủ yếu gồm những quả đồi riêng biệt có kích thước tương tự như nhau và được ngăn cách với nhau bởi các thung lũng xâm thực. - Dãy đồi: Bao gồm các đồi nối tiếp nhau dưới dạng yên ngựa hoặc lượng sóng. Các dãy đồi thường nằm xen kẽ nhau, giữa chúng là các khoảng trũng hoặc các thung lũng.

11

Kiểu địa hình đồi ở Việt Nam rất phổ biến ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ thuộc vùng trung du Bắc bộ cũng như ở Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai ở vùng Đông Nam Bộ. 2.2.4. Kiểu địa hình đồng bằng Kiểu địa hình đồng bằng ở Việt Nam thuộc bậc địa hình thấp nhất, phần lớn

nằm ở phía Đông lãnh thổ tiếp giáp với Biển Đông.

Kiểu địa hình đồng bằng có đặc điểm chung rất bằng phẳng, tuyệt đại bộ phận có độ cao thấp, thường không vượt quá 15m, được bồi đắp bằng các trầm tích biển, trầm tích lục địa và phù sa của các con sông lớn trên các vùng trũng, sụt lún mạnh.

Kiểu địa hình đồng bằng điển hình nhất ở Việt Nam là ở 2 vùng đồng bằng lớn là đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, ngoài ra cũng còn một số nét riêng ở dải đồng bằng ven biển miền Trung.

Đồng bằng Bắc Bộ với diện tích khoảng 15000km2 có địa hình rất bằng phẳng, hơi nghiêng ra biển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Đồng bằng Bắc Bộ được che phủ bởi lớp trầm tích Đệ Tứ có độ dày từ một vài mét đến trên 100m. Trên bề mặt là lớp đất phù sa màu mỡ do hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp và đã được khai thác để sản xuất nông nghiệp từ lâu đời.

Ở khu vực phía Bắc của đồng bằng Bắc Bộ còn có nhiều đồi núi sót và ở phía Nam còn có nhiều ô trũng nằm kẹp giữa một bên là sông Hồng một bên là sông Đáy ở Hà Tây và Hà Nam. Các ô trũng này càng khó thoát nước hơn từ khi có hệ thống đê điều. Ở một số nơi ở vùng ven biển của đồng bằng Bắc Bộ còn có các giòng cát cổ có nguồn gốc biển.

Đồng bằng Bắc Bộ hiện vẫn đang có xu hướng tiếp tục lấn ra phía biển. Khu vực tam giác châu cửa sông Hồng hàng năm tiến ra biển tới gần 100m. Hệ thống đê biển trở nên đặc biệt quan trọng trong việc quai đê lấn biển và ngăn chặn ảnh hưởng của nước mặn xâm nhập vào đất liền.

Đồng bằng Nam Bộ với diện tích khoảng 40.000 km2 bao gồm 2 bộ phận có các đặc điểm khác hẳn nhau. Đó là đồng bằng cao bao gồm các thềm phù sa cổ và bán bình nguyên đất đỏ badan ở miền Đông Nam Bộ, và đồng bằng sông Cửu Long, còn gọi là miền Tây Nam Bộ.

Đồng bằng cao Đông Nam Bộ có hai bậc địa hình khá bằng phẳng ở độ cao 200m và 100m chạy song song theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và dốc nghiêng về phía hạ lưu của sông Sài Gòn.

Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của khu vực hạ lưu sông Mê Công, có địa hình rất bằng phẳng và độ cao thấp, trung bình chỉ khoảng 2m. Do không có hệ thống đê điều ven sông như ở đồng bằng Bắc Bộ nên khi mùa lũ đến, nước sông Cửu Long tràn ngập một vùng rất rộng lớn hàng chục nghìn km2, riêng vùng trũng Đồng Tháp Mười cũng đã chiếm tới 5.000 km2. Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt và chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ thủy triều. Do các sông vận chuyển một lượng nước và giàu phù sa nên đồng bằng sông Cửu Long hàng năm lấn ra biển ở khu vực bán đảo Cà Mau tới trên 100 m. Ở trên các bãi triều ven biển và cửa sông đã hình thành nên vùng rừng ngập mặn rất phát triển có diện tích hàng chục nghìn km2, chẳng những lớn nhất ở Việt Nam mà còn nổi tiếng trên thế giới vì chỉ đứng sau vùng ngập mặn lớn nhất thế giới ở khu vực cửa sông Amadôn ở Nam Mĩ.

Kiểu địa hình dải đồng bằng ven biển miền Trung có đặc điểm chung là nhỏ hẹp và dốc hơn nhiều so với đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các đồng bằng này thường được các dòng sông nhỏ, ngắn và dốc bồi đắp nên rất dễ

12

xẩy ra tình trạng thiếu nước trong mùa cạn và ngập lụt trong mùa mưa lũ. Ở một số nơi ven biển miền Trung còn xuất hiện các cồn cát có nguồn gốc biển, có địa thế cao, được tạo thành và thường di chuyển do gió.

2.2.5. Các kiểu địa hình đặc biệt 2.2.5.1. Kiểu địa hình cacxtơ Kiểu địa hình cacxtơ ở Việt Nam là kiểu địa hình của vùng núi đá vôi được hình thành do quá trình xâm thực chủ yếu là của nước đối với các loại đá cacbonnat có đặc tính thấm nước và hoà tan. Địa hình núi đá vôi ở Việt Nam có diện tích rất rộng lớn, tới 50.000km2 và tập trung chủ yếu ở miền Bắc, từ biên giới phía Bắc tới Quảng Bình, còn ở miền Nam chỉ có một ít ở Hà Tiên (Kiên Giang). Địa hình cacxtơ ở Việt Nam có thể phân chia ra các kiểu địa hình cacxtơ ngập nước, địa hình cacxtơ nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng và địa hình cacxtơ tập trung.

Kiểu địa hình cacxtơ ngập nước tập trung ở vùng biển Đông Bắc trên vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long với hàng nghìn hòn đảo đá vôi tạo nên một kỳ quan và vịnh Hạ Long đã được Tổ chức văn hoá khoa học giáo dục Thế giới (UNESCO) xếp hạng di sản thiên nhiên thế giới.

Kiểu địa hình cacxtơ nằm xen kẽ ở vùng đồng bằng bao gồm các núi đá vôi còn sót lại nằm rải rác và xen kẽ giữa các cánh đồng như ở Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình có dáng dấp như một Vịnh Hạ Long trên cạn.

Kiểu địa hình cacxtơ tập trung thành các khối núi, dãy núi vào cao nguyên rất phổ biến ở các vùng núi đá vôi Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Quảng Bình.

Nói chung, kiểu địa hình cacxtơ ở Việt Nam có địa hình hiểm trở, bề mặt lởm chởm sắc nhọn, thành vách núi dựng đứng, có nhiều khe nứt, phễu, giếng sâu, hang động. Ở những vùng địa hình cacxtơ đã trải qua quá trình phát triển lâu dài có các dạng thung và cánh đồng cacxtơ và đá vôi đã bị phong hoá thành loại đất đá vôi tơi xốp, mầu hồng và nâm sẫm rất thích hợp với một số loài thực vật ưa đất kiềm và trung tính.

Địa hình cacxtơ tạo nên nhiều phong cảnh đẹp vì núi non hùng vĩ và nhiều dáng hình, đặc biệt là các hang động và sông suối ngầm kỳ ảo là đối tượng du lịch rất hấp dẫn. Nhiều hang động còn là nơi cư trú của người cổ xưa vì thế còn để lại nhiều dấu tích khảo cổ học rất có giá trị. 2.2.5.2. Kiểu địa hình bờ biển Việt Nam có đường bờ biển dài và có các kiểu địa hình bờ biển rất đa dạng. - Kiểu địa hình bờ biển bồi tụ Kiểu địa hình bờ biển bồi tụ được quyết định bởi quá trình bồi tụ ở vùng cửa sông và ven biển. Khu vực cửa sông Hồng và khu vực bờ biển từ cửa sông Sài Gòn đến Hà Tiên là điển hình cho kiểu địa hình bồi tụ tam giác châu ở Việt Nam. Ở đây hàng năm có lượng nước rất lớn của các sông đổ ra biển mang theo rất nhiều phù sa. Các phù sa này được bồi đắp ở ngay khu vực cửa sông và di chuyển, tích tụ ở các khu vực lân cận do tác động của các dòng biển.

Trong kiểu địa hình bờ biển bồi tụ bên cạnh các đoạn bờ biển có kiểu địa hình tam giác châu còn có kiểu địa hình cửa sông dạng etchuye hình phễu. Kiểu địa hình này được hình thành ở những nơi sông chảy ra biển với lượng nước không lớn, nghèo phù sa lại chịu nhiều ảnh hưởng của thuỷ triều nên hạn chế sự bồi đắp phù sa và làm cho khu vực cửa sông có độ sâu khá lớn. Điều này rất thuận lợi cho việc xây dựng và khai thác các cảng ở tương đối sâu trong đất liền như cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn.

13

- Kiểu địa hình bờ biển mài mòn Kiểu địa hình bờ biển mài mòn ở Việt Nam xuất hiện ở các khu vực đồi núi trực tiếp tiếp xúc với biển, điển hình nhất ở đoạn bờ biển từ mũi Đại Lãnh (Phú Yên) đến Mũi Dinh (Ninh Thuận).

Đặc điểm của kiểu địa hình bờ biển mài mòn là bờ biển khúc khuỷu với các mũi đá, bán đảo, vũng, vịnh sâu và các đảo sát bờ. Ở nhiều nơi thuộc kiểu địa hình này có những điều kiện thuận lợi để xây dựng các cảng biển nước sâu, kín đáo như cảng Cam Ranh hoặc có nhiều bãi biển bằng phẳng rộng lớn, cát trắng trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ rất có giá trị để phát triển du lịch biển.

- Kiểu địa hình bờ biển bồi tụ - mài mòn Kiểu địa hình bờ biển bồi tụ - mài mòn có dạng tương đối bằng phẳng, ở những nơi có đồi núi nằm sát biển thì bờ biển có khúc khuỷu hơn với các mũi đất và vũng biển. Ở khu vực ven biển Trung bộ còn xuất hiện kiểu địa hình cồn cát ven biển như ở Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận hoặc các đầm phá và vùng biển như ở Thừa Thiên - Huế.

Điển hình cho kiểu địa hình bờ biển này là các khu vực ven biển Quảng Ninh, khu vực bờ biển miền Trung từ Thanh Hoá đến Mũi Dinh và đoạn ven biển từ Ninh Thuận đến Vũng Tàu. Ở đây có rất nhiều nơi có phong cảnh đẹp và bãi biển nổi tiếng như vịnh Hạ Long, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Thuận An, Sa Huỳnh, Quy Nhơn, Cà Ná, Vũng Tàu.

2.2.5.3. Kiểu địa hình đảo Vùng biển Việt Nam có khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 2779 hòn đảo ven bờ với tổng diện tích 1636km2, và hai quần đảo xa ở khu vực giữa và Đông Nam Biển Đông. Các đảo ở Việt Nam tập trung nhiều nhất ở vùng biển Đông Bắc thuộc hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng gồm hơn 2000 hòn đảo, chiếm 77% tổng số đảo của cả nước.

- Kiểu địa hình đảo núi đất, núi đá ven bờ Các đảo ven bờ được cấu tạo như phần tiếp nối của địa hình khu vực bờ biển tương ứng. Các đảo này có nguồn gốc hình thành, thành phần đất đá và các điều kiện tự nhiên khác tương tự như các vùng ven biển. Phần lớn các đảo ven bờ được cấu tạo bằng các đá trầm tích là các đồi núi thấp, có độ cao từ một vài chục mét đến hàng trăm mét. Địa hình các đảo thường là các địa hình bóc mòn và các bãi biển với nhiều cảnh quan đẹp, hoang sơ. Trừ các đảo đá vôi, các đảo còn lại có lớp vỏ phong hoá và lớp phủ thổ nhưỡng khá dày. Nhiều đảo có diện tích lớn như Phú Quốc (567km2), có sông suối và giới sinh vật rất phát triển.

- Kiểu địa hình đảo san hô Ở ngoài khơi xa trên Biển Đông, vùng biển Việt Nam còn có hai quần đảo được cấu tạo bằng đá san hô là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Các đảo này được tạo thành bởi san hô kết gắn từ một bậc thềm ở sâu dưới mặt nước biển khoảng 1000m, với các thành vách đá dốc đứng và đến khi nhô lên khỏi mặt nước có địa hình thấp từ một vài mét đến hơn một chục mét. Các đảo san hô bao gồm các đảo đá, bãi cạn, xung quanh và bề mặt được phủ cát, chủ yếu là mảnh vụn san hô và vỏ xác sinh vật biển. Tại nhiều đảo còn được phủ bởi một lớp phân chim biển khá dày chứa tới 20 - 40% phốt phát.

Quần đảo Hoàng Sa, thuộc thành phố Đà Nẵng, có tên quốc tế là Paracels - Pattle gồm trên 30 đảo san hô nằm rải rác ở toạ độ giữa 15o45’B - 17o15’B và 110oĐ - 113oĐ, cách Đà Nẵng 170 hải lý (trên 300km), cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 150 hải lí (277km) và cách Philippin 450 hải lí (trên 830km).

14

Quần đảo Hoàng Sa bao gồm ba nhóm đảo: - Nhóm Nguyệt Thiên (Croissont), ở phía Tây Nam, là nhóm lớn nhất, trong đó có đảo Hoàng Sa (Pattle) là đảo lớn nhất có diện tích 150 ha, cao 9m, với toàn bộ diện tích ám tiêu vòng, hồ nước ở xung quanh là 350 ha.

- Nhóm Tuyên Đức (Amphitrite), ở phía Bắc trong đó có đảo Phú Lâm (Boissé) dài 3700m, rộng 2800m, cao 6m, trên đảo có lớp phân chim biển dày 0,5m và có nhiều cây cối. - Nhóm Linh Côn (Lincoln) ở phía Đông, trong đó có đảo Linh Côn là đảo lớn

nhất rộng 150 ha.

Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà có tên quốc tế là Spratly Islands bao gồm khoảng 100 đảo đá, bãi cạn san hô lớn nhỏ phân bố rải rác trong khu vực có toạ độ 6o50’B - 12oB và 111o3’Đ - 117o20’Đ, có độ sâu của biển ở xung quanh từ 1500 - 2000m. Quần đảo Trường Sa có diện tích các đảo và bãi cạn chỉ khoảng 10km2 nhưng dàn trải trên một khu vực rất rộng lớn có diện tích tới 160 - 180 nghìn km2, nơi cách xa nhất từ Đông sang Tây tới 800km và từ Bắc xuống Nam 600km. Quần đảo Trường Sa cách bờ biển Việt Nam khoảng 500km. Địa hình quần đảo Trường Sa bao gồm ba dạng cơ bản: + Đảo nổi có vành đai san hô kiểu ám tiêu sát bờ. + Đảo nổi giữa vụng nước, bao quanh ngăn cách với bên ngoài là đai san hô

kiểu ám tiêu chắn bờ.

+ Bãi cạn san hô còn bị ngập nước, ở giữa các các vụng kiểu ám tiêu vòng. Ngoài ra ở đây còn các “hồ nước mặn” là các hồ nông được bao quanh bởi các ám tiêu san hô vòng. Các hồ này có diện tích không lớn lắm, có độ sâu từ 5 - 50m, không chịu tác động trực tiếp của sóng và dòng biển bên ngoài, chỉ có mực nước thay đổi theo nhịp điệu của thuỷ triều nên mặt hồ khá tĩnh lặng.

2.3. Các khu vực địa hình ở Việt Nam 2.3.1. Địa hình đồi núi 2.3.1.1. Khu vực núi Việt Bắc và Đông Bắc thuộc bờ trái sông Hồng Bao gồm một loạt các dãy núi chạy theo hướng cánh cung uốn quanh khối núi đá kết tinh cổ thượng nguồn sông Chảy. Các cánh cung này mở rộng về phía Bắc và quy tụ ở núi Tam Đảo, bao gồm các cánh cung Sông Gâm, cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Băc Sơn và cánh cung Đông Triều.

Do ảnh hưởng của hoạt động Tân kiến tạo khu vực này được nâng lên với cường độ trung bình và dốc từ Tây Bắc về Đông Nam. Đa số các núi thuộc loại thấp, từ độ cao 2000m xuống còn 1500m- 500m và thấp dần ra biển.

Ngoài các cánh cung núi còn có những dải sơn nguyên đá vôi, độ cao trung bình 1000m và chạy dọc biên giới Việt - Trung từ Lào Cai đến Cao Bằng. Đó là các sơn nguyên Mường Khương (772m), sơn nguyên Bắc Hà (974m), sơn nguyên Sinmacai, sơn nguyên Quản Bạ (870m), sơn nguyên Đồng Văn (1482m) và sơn nguyên Mèo Vạc (950m).

Trên nền các cao nguyên đá vôi có các khối núi cao trên dưới 2000m như:Tây Côn Lĩnh 2431m, Kiều Liêu Ty 2403m, Puthaca 2274m, Phia Ya 1979m và Phia Uăc 1931m.

2.3. 1.2. Khu vực bờ phải sông Hồng đến Hải Vân Khu vực này phát triển trong cấu trúc địa máng Đông Dương (Việt - Lào), với các nếp núi chạy song song theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Đây là khu vực núi cao nhất Việt Nam và Đông Dương. a. Khu vực núi Tây Bắc

15

Khu vực núi Tây Bắc có các đơn vị kiến trúc cơ bản là: - Hoàng Liên Sơn - Dãy núi biên giới Việt - Lào. - Sơn Nguyên đá vôi chạy từ Phong Thổ đến Mộc Châu. b. Khu vực Trường Sơn Bắc Khu vực Trường Sơn Bắc kéo dài từ phía Nam sông Cả đến núi Bạch Mã. Núi Trường Sơn được nâng lên với hai sườn không đối xứng. Sườn phía Tây (trên lãnh thổ Lào) rộng và thoải dần về thung lũng sông Mê Công, còn sườn phía Đông (ở Việt Nam) hẹp và dốc, núi lan ra sát biển.

Dãy núi Trường Sơn Bắc bao gồm một chuỗi các dãy núi cùng hướng Tây Bắc - Đông Nam, có đường chia nước chạy dọc biên giới Việt - Lào, phân chia 2 lưu vực giữa sông Mê Công và các sông ven biển miền Trung. Núi ở đây không cao lắm chỉ trên dưới 1000m song có chỗ nhô lên một vài đỉnh cao trên 2000m như Pu Lai Leng 2711m, Rào Cỏ 2235m. Đó cũng là những mảnh nền cổ còn sót lại được tân kiến tạo nâng lên hoặc các

khối macma xâm nhập lộ ra.

Nơi thấp nhất của các đường chia nước là các đèo. Các đường giao thông số 8, 9 và 124 vượt qua các đèo Keo Nưa (Hà Tĩnh), Mụ Giạ (Quảng Bình) và Lao Bảo (Quảng Trị) thông thương với Lào.

Đáng chú ý là ở khu vực núi này có khối đá vôi Kẻ Bàng cao 600 - 900m rất hoang vu, hiểm trở, có động Phong Nha kỳ vĩ nằm trong khu vực vườn Quốc gia Phong Nha đã được xếp hạng Di tích thiên nhiên của thế giới.

2.3.1.3. Khu vực từ Nam núi Bạch Mã đến khu Đông Nam Bộ Khu vực này phát triển trong phạm vi địa khối cổ Inđôxini và các địa máng ven rìa tuổi Đêvon, Cacbon - Pecmi có tên là Trường Sơn Nam. Địa hình ở đây cao hơn ở khu vực Trường Sơn Bắc. Khu vực tân kiến tạo được nâng lên mạnh nhưng có sự phân dị, chỉ mạnh ở hai đầu còn yếu ở giữa. Kèm theo sự nâng lên là sự phun trào mãnh liệt đá badan tạo nên một vùng cao nguyên đất đỏ rộng lớn.

Ở phía Bắc thị xã KonTum, có nhiều đỉnh núi cao trên 2000m như: Ngọc Linh 2598m, Ngọc Niay 2259m, Ngọc Pan 2252m, Ngọc Krinh 2052m đều là đá kết tinh cổ. Tuy vậy ở đây không có nhiều đá badan.

Ở khu vực giữa Tây Nguyên được nâng lên yếu, chỉ có địa hình đồi xen núi thấp, nhưng đặc biệt là có nhiều cao nguyên badan như: PlâyCu 772m, Buôn Ma Thuột 461m.

- Từ phía Nam Buôn Ma Thuột, do được nâng lên mạnh nên có nhiều núi cao trên 2000m, như các núi Vọng Phu 2051m, Chư Yang Sinh 2405m, LangBiang 2169, GiaRich 2014m, Bi Đúp 2287m.

Các cao nguyên có độ cao xấp xỉ 1000m như Mơ Nông, Bảo Lộc, Di Linh. Núi đá vôi trong khu vực Nam đèo Hải Vân hầu như không có, do khu vực nền không bị biển tiến và ngập sâu dưới biển. Đôi chỗ có đá hoa ở Đà Nẵng, Quảng Nam và Hà Tiên trong phức hệ đá biến chất tiền Cambri.

2.3.2. Địa hình đồng bằng Các châu thổ sông lớn được hình thành tại các vùng sụt võng quan trọng theo các đứt gẫy sâu vào cuối Đệ Tam, đầu Đệ Tứ (Plioxen - Pleistoxen) như châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Cửu Long.

Dải đồng bằng ven biển được hình thành tại các vũng biển hẹp được hình thành nên trong các giai đoạn biển tiến do băng hà thế giới tan hoặc do các dao động thăng trầm nhỏ của thềm lục địa. Phù sa các sông ở Bắc Trung Bộ bồi lấp các

16

vùng biển và đất đai mở rộng dần, bờ biển cũ cứ lùi sâu dần để lại di tích là các dải cồn, bãi sò hến.

Từ Bắc vào Nam lần lượt là các đồng bằng sau đây: a. Đồng bằng ven biển Quảng Ninh: Đồng bằng ven biển Quảng Ninh kéo dài từ Móng Cái đến Quảng Yên nhưng hẹp ngang, chỗ rộng nhất chưa đến 10 km phần lớn là phù sa cổ, có độ cao khoảng 10m với các bậc thêm. Nơi có sa mới được san thành ruộng lúa. Ở một số nơi đồi núi ra sát biển không còn chỗ cho đồng bằng phát triển và chỉ tồn tại một vài thung lũng.

b. Đồng bằng sông Hồng - sông Thái Bình: Đồng bằng sông Hồng - sông Thái Bình có dạng một tam giác cân, đáy là đoạn bờ biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình, đỉnh là Việt Trì ở độ cao 15m. Đồng bằng rộng 15000km2.

Nơi sụt võng mạnh giữa sông Hồng và sông Thái Bình có độ dày phù sa rất lớn: phù sa Đệ Tam dày hàng nghìn mét, còn phù sa Đệ Tứ cũng tới hàng trăm mét như ở Thường Tín (Hà Tây) đạt tới 392m. Hiện nay, quá trình sụt võng ở đây vẫn tiếp diễn, nhưng rất yếu. Sông Hồng vẫn tiếp tục bồi đắp phù sa cho châu thổ sông Hồng và hàng năm lấn ra biển hàng chục mét. Hai bên rìa đồng bằng là vùng đồi thấp có nguồn gốc là thềm phù sa cổ, bị

nâng lên nhẹ, lớp phù sa mới mỏng có nơi lộ cả đá gốc.

Ở đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình có trên 2000km đê lớn, nhỏ chia cắt đồng bằng thành từng ô trũng. Ở trũnglớn nhất là nằm ở vùng trong đê giữa sông Hồng và sông Đáy.

Phía bờ biển có các đê biển nhằm ngăn nước mặn, mở rộng diện tích canh tác, thau chua rửa mặn dần dần chuyển thành ruộng cói, ruộng lúa hoặc nuôi thả tôm, cua.

c. Đồng bằng Thanh Hoá Đồng bằng Thanh Hoá rộng khoảng 31.000 km2 do sông Mã và sông Chu bồi đắp. Đồng bằng này có tính chất chuyển tiếp từ kiểu tam giác châu sang đồng bằng ven biển chân núi. Trên bề mặt đồng bằng có nhiều đồi núi sót và cồn cát, nhiều bãi sò ốc ven biển.

d. Dải đồng bằng ven biển miền Trung có tổng diện tích 12.000km2 chạy từ Nghệ An tới Bình Thuận và bị phân cách bởi các nhánh núi đâm ngang, tạo thành các đồng bằng nhỏ: Nghệ An 1750km2, Hà Tĩnh 1660km2, Quảng Bình 640km2, Quảng Trị 610km2, Thừa Thiên 900km2, Quảng Nam 1450km2, Quảng Ngãi 1200km2, Bình Định 1700km2, Phú Yên 820km2, Khánh Hoà 400km2, Phan Rang 220km2, Phan Thiết 310km2.

Về mặt nguồn gốc dải đồng bằng này là những đầm phá, vũng vịnh, những thềm biển cũ được phù sa và cát biển bồi đắp. Trên bề mặt đồng bằng còn có nhiều cồn cát lớn và di động do gió.

Dải đồng bằng trên bị chia cắt bởi các núi chạy ngay ra biển thành những khu vực độc lập theo các lưu vực sông.

Từ Mũi Nạy đến Mũi Dinh, đồi núi lại ra sát biển, các sông rất ngắn, đồng bằng nhỏ hẹp. Nhưng bờ biển thật đẹp và nên thơ, nước biển xanh trong, khí hậu mát mẻ, sinh vật biển phong phú rất thuận lợi để phát triển du lịch biển.

đ. Đồng bằng Nam Bộ Đồng bằng Nam Bộ gồm 2 bộ phận:

17

- Đông Nam Bộ: Là đồng bằng bồi tụ, xâm thực, phù sa xám xen đất đỏ badan,

có độ cao từ 20 - 200m, và diện tích gần 28.000km2. - Tây Nam Bộ: Là đồng bằng thấp ngập nước, độ cao trung bình 2m, thường xuyên chịu ảnh hưởng thuỷ triều.

Diện tích toàn đồng bằng khoảng 40.000km2 trong đó 15.000km2 bị phèn, hơn 10.000km2 bị ngập nước lũ hàng năm. Nhiều nơi nước lũ ngập sâu tới 2 - 3m. Đất chỉ khô ráo từ tháng 1 đến tháng 4. Ở một số nơi như U Minh, Đồng Tháp Mười còn có quá trình đầm lầy, với các lớp

than bùn dày tới 2 - 6m.

Đồng bằng Nam Bộ là vựa lúa chính của cả nước song cũng có nhiều vấn đề cần phải đầu tư và giải quyết như việc chung sống với lũ, làm thuỷ lợi, cải tạo đất, trồng rừng, chọn giống cây trồng... để có thể khai thác có hiệu quả nhất những tiềm năng to lớn của nó theo hướng phát triển bền vững.

2.3.3. Địa hình đồi trung du 2.3.3.1. Vùng đồi trung du Bắc Bộ Đây là vùng đồi trung du rộng và điển hình nhất ở Việt Nam. Ở khu Đông Bắc cảnh quan đồi tạo nên một vùng trung du với rừng cọ, đồi chè hoặc thảm cỏ tranh, cây bụi điển hình. Vùng trung du Đông Bắc bị ngăn cách khỏi trung du Việt Bắc bởi dãy núi Tam Đảo. Vùng trung du Việt Bắc cũng không toả rộng mà len lỏi theo các thung lũng sông lớn như sông Thao, sông Lô.

2.3.3.2. Khu vực đồi phía Nam từ Thanh Hoá đến Bình Thuận Do núi sát ra tận bờ biển mà vùng đồi không rõ rệt, đồi xen kẽ với núi, với các

đồi thấp, hẹp, không liên tục. 2.3.4. Địa hình bờ biển 2.3.3.4.1. Bờ biển là khu vực địa hình phức tạp nhất Đây là nơi tiếp xúc giữa đất và biển. Bờ biển luôn biến động đoạn bồi, đoạn lở, khi bồi khi lở do chịu tác động đồng thời và sự tranh chấp giữa các quá trình bồi đắp, mài mòn bị chi phối bởi các yếu tố địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn, hải văn gây nên.

2.3.4.2. Bờ biển Việt Nam có nhiều đoạn với các hình thái khác nhau - Từ Móng Cái đến Yên Lập vốn là một khu vực đồi núi bị biển tràn ngập, tạo nên đoạn bờ biển nhiều đảo nhất Việt Nam. Bãi biển đẹp nhất ở đây là Trà Cổ. Còn vùng bờ Bãi Cháy ở thành phố Hạ

Long là bãi biển hẹp, sâu, giá trị của nó được tôn lên còn do phong cảnh Hạ Long.

- Từ Yên Lập đến Lạch Trường là đoạn bờ biển rất thấp, lầy bùn. Bãi biển Đồ Sơn (Hải Phòng) được khai thác làm bãi tắm nhưng nước biển vẫn đục vì hòa lẫn phù sa do các cửa sông lân cận đổ ra.

- Đoạn từ Lạch Trường đến Qui Nhơn là đoạn bờ biển khúc khuỷu, song được san bằng qua phương thức cồn - phá. Những mỏm núi nhô ra biển được nối liền với nhau bởi các cồn cát, bãi cát, lấp kín vũng biển làm thành các phá. Rồi phá bị lấp thành đồng bằng chân núi. Cũng vì thế đoạn này có nhiều bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Thuận An, Mỹ Khê, Non Nước, Sa Huỳnh.

- Đoạn từ Qui Nhơn - Mũi Dinh là đoạn bờ biển có dạng trẻ nhất và khúc khuỷu nhất với nhiều mũi đất,vách đá và vũng biển kín đáo. Đây cũng là đoạn bờ biển tuyệt đẹp, có sự hài hoà giữa núi và biển. Nổi tiếng nhất là vũng Cam Ranh, kín đáo, có độ sâu 20 - 30m, tàu biển có trọng tải 100.000 tấn có thể ra vào dễ dàng.

18

- Đoạn từ Mũi Dinh đến Vũng Tàu có địa hình bằng phẳng, có những đụn cát màu đỏ. Có 2 mũi đá là Kê Gà và Vũng Tàu che chắn cho vùng bờ biển từ Vũng Tàu đến Cần Giờ.

- Đoạn cuối cùng từ Vũng Tàu đến Hà Tiên là bờ biển tam giác châu thuộc đồng bằng Nam Bộ . Tuy vậy do ảnh hưởng thuỷ triều vào sâu, nên cảng Sài Gòn trên sông Sài Gòn thuộc hệ thống sông Đồng Nai mặc dù ở xa biển trên 80 km đã được xây dựng thành hải cảng lớn nhất Việt Nam với mức nước sâu có chỗ tới trên 18m, tàu trọng tải 20.000 tấn có thể ra vào dễ dàng.

- Dọc bờ biển ở khu vực bán đảo Cà Mau có rừng ngập mặn rất phát triển với diện tích trên 300.000 ha.

Từ Rạch Giá đến Hà Tiên có địa hình giống như ở bờ biển khu vực Quảng Ninh với nhiều đảo lớn nhỏ, trong đó có cả các đảo đá vôi tạo nên các cảnh quan đẹp như mũi Nai, Hòn Phụ Tử.... Thảo luận: Vai trò của địa hình đối với quân sự Việt Nam

Câu hỏi ôn tập chương 2: 1. Địa hình Việt Nam có những đặc điểm chung gì? Trình bày khái quát các đặc điểm đó. 2. Hãy trình bày hướng cấu trúc chủ yếu và tính chất phân bậc của địa hình

Việt Nam.

3. Phân tích mối liên hệ giữa cấu trúc địa chất và địa hình Việt Nam. Giải thích sự hình thành các hướng núi và thung lũng (hướng Tây Bắc - Đông Nam và hướng vòng cung). 4. Liên hệ giữa tính chất đất đá và các dạng địa hình tương xứng: Đá vôi, đá cát kết,đá granit, đá riôlit.

5. Vì sao nói địa hình Việt Nam là địa hình nhiệt đới ẩm? 6. Hãy trình bày một số kiểu địa hình đặc biệt ở Việt Nam.

19

Chương 3. KHÍ HẬU VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 3: - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về khí hậu Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Chuẩn đầu ra của chương 3: Sinh viên biết được khí hậu Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn đề về khí hậu Việt Nam như nguyên nhân hình thành, tác động của khí hậu đến tự nhiên, kinh tế - xã hội… Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

3.1. Đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam 3.1.1. Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa 3.1.1.1. Tính chất nhiệt đới Tính chất nhiệt đới thể hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ. Lượng bức xạ tổng cộng ở Việt Nam rất lớn, cán cân bức xạ quanh năm dương, đạt tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới và á xích đạo. Do độ cao của Mặt Trời trên mặt phẳng chân trời ở Việt Nam luôn luôn lớn (độ cao Mặt Trời thấp nhất lúc giữa trưa ở Đồng Văn là 430 12', ở vĩ độ 200B là 46046' và ở vĩ độ 100B lên tới 56046' nên lượng bức xạ tổng cộng hàng năm thường đạt trên 120 - 130 kcal/cm2 (ở thành phố Hồ Chí Minh là 136,4kcal/cm2) và ở miền Bắc vào khoảng trên dưới 120kcal/cm2 (ở Hà Nội là 111,5kcal/cm2, ởVĩnh Linh là 127,7 kcal/cm2). Cán cân bức xạ trên toàn lãnh thổ Việt Nam đều đạt trên 75 kcal/cm2/năm: ở Hà Nội là 85,8 kcal/cm2/năm, vượt chỉ tiêu cán cân bức xạ của khí hậu nhiệt đới (75 kcal/cm2/năm).

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở hầu hết mọi nơi trong cả nước cũng vượt quá chỉ tiêu 20-220C, ở Hà Nội trị số này là 23,50C và ở thành phố Hồ Chí Minh tới 27,10C. Cũng do Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ độ địa lý mà có sự khác nhau về biên độ nhiệt độ hàng năm. Biên độ nhiệt độ trung bình hàng năm ở thành phố Hồ Chí Minh là 3,10C, còn ở Huế là 9,40C, ở thủ đô Hà nội là 12,50C (trong đó có cả sự tham gia của gió mùa Đông Bắc).

Sự chênh lệch thời gian giữa ngày dài nhất, vào ngày hạ chí (22 tháng 6), và ngày ngắn nhất, vào ngày Đông chí (22/12) không lớn, chỉ từ một đến hai giờ rưỡi. Trên cao nguyên Đồng Văn chỉ chênh lệch 2 giờ 37 phút (giữa 13 giờ 23 phút và 10 giờ 46 phút) ở vĩ độ 200B trị số tương ứng là 2 giờ 26 phút (giữa 13 giờ 13 phút và 10 giờ 47 phút) còn ở vĩ độ 100B chỉ còn là 1 giờ 10 phút (giữa 12 giờ 35 phút và 11 giờ 25 phút).

Tính chất nhiệt đới của khí hậu Việt Nam còn được biểu hiện qua sự tham gia của gió tín phong thổi thường xuyên từ khu vực chí tuyến Bắc về xích đạo qua lãnh thổ Việt Nam. Ở tầng 500mb (ở độ cao khoảng 5000m), gió tín phong ổn định hướng và tính chất, còn ở các tầng thấp của khí quyển, tầng 850mb (ở độ cao khoảng 1500m) và tầng 700mb (ở độ cao khoảng 3000m) thì dải áp cao cận chí tuyến hoạt động trên bán đảo Đông Dương thường bị vùng áp cao Xibia (Nga) về mùa Đông và

20

vùng áp thấp Ấn Độ - Mianma về mùa hạ lấn át hoặc phá vỡ. Chính vì vậy, về mùa Đông, gió tín phong phụ thuộc vào vùng áp cao Xibia và cũng thổi theo hướng Đông Bắc từ vĩ tuyến 160B trở vào và nó chỉ khác với gió mùa Đông Bắc ở tính chất nóng và khô. Về mùa hạ, gió tín phong lại thổi theo hướng Đông và Đông Nam từ rìa áp cao Thái Bình Dương xen kẽ với gió mùa Tây Nam. Chỉ vào các thời kì chuyển tiếp giữa hai mùa Đông và mùa hạ (đặc biệt là vào thời kì mùa xuân) khi hai luồng gió mùa đến còn yếu thì gió tín phong mới có tính chất độc lập và thổi ổn định theo hướng Đông Nam trên cả nước. Xét về phương diện khối không khí thì gió tín phong có thể hoặc mang theo khối khí chí tuyến Thái Bình Dương (Tm) hoặc mang theo khối khí cực đới lục địa đã bị biến tính thành khối khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa (Tp) đem lại những ngày có thời tiết nóng trên 200C vào mùa Đông và trên 250C vào mùa hạ.

4.1.1.2. Tính chất gió mùa ẩm Tính chất gió mùa ẩm là sự biến đổi theo mùa của khí hậu Việt Nam, mà nguyên nhân chính là do sự luân phiên hoạt động của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam, khiến cho Việt Nam có những nét khác với những nơi có khí hậu nhiệt đới nhưng ít chịu ảnh hưởng của gió mùa.

Trên toàn lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng có hai mùa khô và mùa mưa xen kẽ với các mức độ khác nhau kể cả có sự lệch pha của mùa mưa và mùa khô của các địa phương so với cả nước.

Ở khu vực phía Bắc vĩ tuyến 160B, mùa khô đồng thời cũng là mùa lạnh, nghĩa là còn có thêm cả sự diễn biến theo mùa của chế độ nhiệt. Chính vì vậy, khi xét tính chất gió mùa ẩm cần phải nghiên cứu kĩ bản chất của hai loại gió mùa là gió mùa Đông và gió mùa hạ:

a. Gió mùa mùa Đông. Hệ thống gió mùa mùa Đông thường được gọi là gió mùa Đông Bắc hoạt động chủ yếu trong thời kì mùa Đông, mang đến Việt Nam các khối không khí lạnh ở vùng cực đới làm cho Việt Nam có một mùa Đông lạnh so với các vùng có cùng vĩ tuyến tương tự.

Bản chất của gió mùa Đông Bắc là sự di chuyển của khối không khí cực đới lục địa (NPc) từ vùng áp cao Xibia thổi về. Tại trung tâm áp cao này (ở khoảng hồ Bai Can) không khí rất lạnh và khô, nhiệt độ trung bình mùa Đông khoảng - 400C đến - 150C, độ ẩm tuyệt đối 1-2g/m3. Đây là vùng áp cao nhiệt lực mạnh nhất trên Trái Đất. Trị số áp suất ở đây lên tới 1040 - 1060mb, khiến cho trên bản đồ đẳng áp trung bình tháng 1 của Trái Đất vùng áp cao này chi phối sự phân bố khí áp trên toàn khu vực châu Á làm lu mờ cả hệ thống áp cao cận chí tuyến nơi phát sinh các dòng tín phong, khiến cho hệ thống này chỉ hiện ra như vùng rìa của nó. Thông thường vùng áp cao Xibia xuất hiện từ đầu tháng 9 và đạt đến cực đại vào tháng 1.

Vào thời kì mùa xuân và mùa thu còn xuất hiện thêm các dải áp cao phụ nằm ở khu vực sông Trường Giang (Trung Quốc) ở vào khoảng vĩ độ 300B. Do vậy hệ thống gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh ở Việt Nam gây rét đậm từ tháng 11 đến tháng 3 có nguồn gốc từ vùng áp cao Xibia, còn các đợt gió mùa Đông Bắc sớm và muộn, thường yếu và ít lạnh hơn thì xuất phát từ vùng áp cao phụ biển Đông Trung Hoa. Trong mọi trường hợp gió mùa Đông Bắc đều lạnh hơn gió tín phong và nhiệt độ xuống dưới 200C. Về mùa Đông ở Việt Nam có sự luân phiên hoạt động của các khối không khí sau đây:

- Khối không khí cực đới lục địa (NPc)

21

Từ khu vực áp cao cực đới lục địa không khí cực đới lục địa (NPc) thành từng đợt tràn về phía Nam với quãng đường dài hàng vạn kilômet theo hai đường: một đường từ lục địa đi thẳng xuống qua lục địa Trung Quốc, một đường dịch quá về phía Đông đi xuống qua biển Nhật Bản và biển Hoàng Hải. Trên chặng đường di chuyển này, các thuộc tính ban đầu của khối khí đã bị biến tính cả về nhiệt độ (građien tăng nhiệt độ khoảng 0,5 - 0,80C/10 vĩ tuyến), cả về tính chất ẩm. Tuỳ thuộc vào tính chất ẩm có thể chia thành hai kiểu không khí cực đới trong mùa Đông: không khí cực đới lục địa biến tính khô và không khí cực đới lục địa biến tính ẩm.

- Khối không khí cực đới lục địa địa biến tính khô (NPc đất). Đây là bộ phận không khí cực đới tràn đến Việt Nam theo đường lục địa Trung Quốc với đặc trưng là khối không khí lạnh nhất và khô nhất. Vào giữa mùa Đông, các thuộc tính nhiệt độ và độ ẩm riêng biến tính rõ rệt nhất. Nhiệt độ và độ ẩm tuyệt đối thấp nhất vào giữa mùa Đông, còn vào thời kì đầu và cuối mùa nhiệt độ có cao hơn. Cũng như mọi khối không khí, các tính chất của NPc đất có sự thay đổi theo thời gian và không gian. Tại Hà Nội vào các tháng 11 và tháng 3 nhiệt độ NPc đất khoảng 16-180C, độ ẩm tuyệt đối 10-12g/m3, độ ẩm tương đối 75%, còn trong các tháng từ tháng 12 đến tháng 2 các trị số tương ứng là 13-150C, 7-9g/m3 và 75%. So với Hà Nội , Lạng Sơn thường lạnh hơn 1-20C và khô hơn 1-2g/m3, trái lại Lai Châu thường nóng hơn 2-30C và ẩm hơn 1-1,5g/m3.

NPc đất là khối không khí ổn định, nên thời tiết đặc trưng là trời lạnh, khô, quang mây. Thời gian hoạt động mạnh nhất của NPc đất vào đầu và giữa mùa Đông (từ tháng 11 đến tháng 1). Từ tháng 2 trở đi không khí cực đới biến tính ẩm (NPc biển) ngày càng chiếm ưu thế. Phạm vi ảnh hưởng của không khí này chủ yếu ở phần lãnh thổ phía Bắc, đến vĩ độ 160B, và sự biến tính khá mạnh đã gần như xoá mờ hết tính chất cực đới. Vì vậy có thể coi đèo Hải Vân là giới hạn phía Nam của phạm vi tác động của gió mùa Đông

- Khối không khí cực đới biến tính ẩm (NPc biển). Vào thời kì nửa sau mùa Đông (từ tính 1 đến tháng 4) trung tâm của vùng áp cao lục địa châu Á chuyển dịch sang phía Đông khiến cho đường di chuyển của không khí cực đới vòng qua vùng biển trước khi tràn vào lãnh thổ Việt Nam.

So với NPc đất thì NPc biển ấm và ẩm hơn rõ rệt, đặc biệt là độ ẩm tương đối khá cao (90%). Kiểu thời tiết thịnh hành là trời lạnh, đầy mây, âm u, có mưa phùn và mưa nhỏ rải rác, rét buốt khó chịu. Càng tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tính nhiệt, ẩm của khối khí thay đổi càng rõ rệt. Thời kì cuối mùa Đông nhiệt độ đã tăng 50C và độ ẩm tuyệt đối tăng 4 - 5g/m3 so với giữa mùa Đông. Từ Bắc vào Nam cũng như từ đồng bằng Bắc Bộ lên Tây Bắc, sự tăng nhiệt độ tương đối rõ rệt, song sự thay đổi về độ ẩm lại không đáng kể. Vào giữa mùa Đông, tại Hà Nội NPc biển có nhiệt độ trung bình khoảng 15-170C, độ ẩm tuyệt đối 9-11g/m3, độ ẩm tương đối 90%. Vào cuối mùa Đông các trị số tương ứng là 18-200C, 12-14g/m3 và 90%. So với Hà Nội, Lạng Sơn lạnh hơn 1,10C và khô hơn 2,1g/m3. Riêng khu Tây Bắc, do hiệu ứng phơn nên nhiệt độ từ tăng 2-40C và độ ẩm giảm đi đáng kể nhất là độ ẩm tương đối. Do hình thành dưới chế độ áp cao nên NPc biển vẫn có tính chất ổn định không có mưa to, mưa do NPc biển cung cấp chỉ chiếm khoảng 25% trường hợp. Sở dĩ vào thời gian này có mưa là do hoạt động của frông cực (giữa NPc biển và NPc đất và giữa NPc biển và Tm).

Frông cực là loại frông lạnh hình thành giữa khối không khí cực mới đến và các khối không khí nóng hơn đang tồn tại ở Việt Nam. Mỗi khi frông cực tràn về

22

nhiệt độ giảm đi nhanh chóng, trung bình khoảng 3-50C/24 giờ, có khi đến 5- 100C/24 giờ. Tại các khu vực mà NPc biến tính ít nhất như ở khu Đông Bắc, nhiệt độ có thể giảm trên 100C/24 giờ. Sự biến thiên về độ ẩm và mưa mỗi khi frông cực tràn về có phần phức tạp hơn, rõ nét nhất là sự giảm sút về độ ẩm tuyệt đối. Tác động gây mưa của frông cực có thể chia ra làm hai thời kì: vào nửa đầu mùa Đông thường có mưa nhỏ rải rác, vào nửa sau mùa Đông có mưa nhỏ và mưa phùn, có khi kéo dài hàng tuần lễ, nhưng lượng mưa không đáng kể. Trong các thời kì chuyển tiếp, do các khối khí trước và sau frông nóng và ẩm hơn, ít ổn định nên mỗi khi frông về thường có mưa rào và mưa Đông với lượng mưa khá lớn, đặc biệt trong các tháng 10-11. Khi frông đến khu vực Bình - Trị - Thiên đã gây mưa rào lớn, có khi đến 100-200mm một đợt khiến cho mùa mưa ở đây đã lùi sang thời kỳ thu - Đông. Hàng năm, frông cực tràn đến Việt Nam trên 20 lần và không đồng đều về số lần ở các khu vực: nơi nhiều nhất là khu Đông Bắc (Lạng Sơn 22 lần) rồi đến đồng bằng Bắc Bộ (Hà Nội 20,6 lần) , từ phía Nam Thanh Hoá chỉ còn 14-15 lần. Tại khu Tây Bắc, do bị che khuất sau dãy Hoàng Liên Sơn, số lần frông cực xâm nhập ít hơn cả (Lai Châu 7,2 lần, Điện Biên 5,2 lần). Frông cực thường dừng lại ở phía Bắc vĩ tuyến 160B, cho nên từ sau đèo Hải Vân là phạm vi hoạt động của gió tín phong. Tuy nhiên, mỗi khi gió mùa Đông Bắc hoạt động rất mạnh thì frông cực cũng có thể tràn xuống các vĩ độ thấp hơn, nhưng không gây hậu quả lớn về thời tiết. - Khối không khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa (Tp). Không khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa có nguồn gốc là khối không khí cực đới Xibia đã được nhiệt đới hoá do tồn tại lâu ngày trên biển Đông Trung Hoa, nên có nhiệt độ và độ ẩm thấp hơn không khí nhiệt đới biển thuần tuý. Nhiệt độ trung bình của khối không khí này là 18-200C (thấp nhất 14-150C) và độ ẩm tương đối thay đổi phụ thuộc vào NPc đất hay NPc biển bị biến tính: khoảng 80-85% nếu là NPc đất và 90% nếu là NPc biển. Càng đi về phía Nam, nhiệt độ và độ ẩm không khí càng tăng, tạo nên sự chênh lệch về nhiệt độ tới 20C và độ ẩm tương đối tới 5% giữa Bắc Bộ và Nam Bộ.

Không khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa có ảnh hưởng tới lãnh thổ Việt Nam trong suốt thời kì mùa Đông. Ở phần lãnh thổ phía Bắc nó chiếm ưu thế vào thời kì đầu và cuối mùa Đông và bị lấn át vào thời kì giữa mùa Đông bởi không khí cực đới.

Ở phần lãnh thổ phía Nam, không khí này chiếm ưu thế và đồng thời nó là gió mùa mùa Đông có thuộc tính là ấm và ẩm khá ổn định với loại hình thời tiết nắng, nóng, ít mây, tạnh ráo.

Đặc biệt trong các tháng cuối mùa Đông, không khí nhiệt đới biển Đông Trung Hoa do tiếp xúc với bề mặt đất lạnh ở miền Bắc nên độ ẩm nhanh chóng đạt tới trạng thái bão hoà, tạo nên một kiểu thời tiết trời nồm: nhiệt độ thường cao hơn 200C, độ ẩm thường tới 95%, có mây thấp và mưa phùn. Mỗi khi xuất hiện nhiễu động trên cao đều có khả năng gây mưa vào thời kì này.

b. Gió mùa mùa hạ Ở Việt Nam gió mùa mùa hạ có nguồn gốc không đồng nhất. Gió mùa mùa hạ chính thức là gió tín phong bán cầu Nam (có hướng Đông Nam ở bán cầu Nam khi vượt xích đạo thì đổi hướng thành gió Tây Nam). Gió tín phong bán cầu Nam chỉ hoạt động mạnh vào các tháng 6, 7, 8 đối với lãnh thổ Việt Nam. Trong mùa hạ ở khu vực nội chí tuyến còn hình thành dải áp thấp nhiệt đới (nơi hội tụ giữa hai luồng gió tín phong của bán cầu Bắc và bán cầu Nam). Vào tháng 5, bộ phận phía Tây của dải áp thấp này di chuyển lên phía Bắc và xuất hiện ở Xrilanca (Ấn Độ

23

Dương) còn bộ phận phía Đông vẫn còn ở bán cầu Nam thuộc Thái Bình Dương. Từ tháng 6, gió từ bán cầu Nam mới vượt xích đạo và hoạt động mạnh ở Ấn Độ, bán đảo Đông Dương và Biển Đông trong các tháng mùa hạ (từ tháng 6 đến tháng 9). Đến tháng 10 nó lại trở lại vị trí của tháng 5 và sang tháng 11 gió từ bán cầu Nam không còn hoạt động ở bán cầu Bắc nữa.

Gió mùa Tây Nam từ bán cầu Nam thổi theo từng đợt, mỗi đợt đều có kèm theo sự hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới tạo nên các xoáy áp thấp. Khi tích luỹ được các điều kiện đầy đủ thì các xoáy áp thấp này phát triển lên thành các áp thấp nhiệt đới hoặc bão. Trong mùa hạ ngoài gió mùa Tây Nam chính thức kể trên còn có gió mùa Tây Nam có nguồn gốc từ vịnh Bengan (Bắc Ấn Độ Dương) thổi tới khu vực Đông Nam Á có một số đặc điểm khác với gió mùa Tây Nam chính thức. Như vậy, trong mùa hạ có thể phân biệt hai luồng gió mùa mùa hạ mang theo hai khối không khí là khối không khí nhiệt đới biển Bắc Ấn Độ Dương và khối không khí xích đạo.

- Khối không khí nhiệt đới biển Bắc Ấn Độ Dương (hay còn gọi là khối khí

chí tuyến vịnh Bengan - TBg).

Đây là dòng phía Tây của gió mùa mùa hạ ở Việt Nam, có nguồn gốc biển nên nóng và ẩm và phát triển suốt trong bề dầy từ mặt đất đến độ cao 4-5km. Khối không khí này có nhiệt độ trung bình 25-270C độ ẩm tuyệt đối 20g/m3 và độ ẩm tương đối khoảng 85%, thường mang đến những trận mưa dầu mùa hạ.

Ảnh hưởng của khối không khí này trên lãnh thổ Việt Nam có những điểm khác nhau đối với từng khu vực. Ở Nam Bộ và Tây Nguyên hay có mưa dông nhiệt. Càng lên phía Bắc và sang sườn Đông của dãy núi Trường Sơn, do chịu hiệu ứng phơn, khối không khí này đã mang lại thời tiết rất khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 370C và độ ẩm tương dối xuống thấp dưới 45%, mà vẫn thường được gọi là gió Lào hay gió Tây. Gió Tây tác động mạnh từ Nghệ An đến Quảng Trị và rải rác ở các khu vực phía Đông của các dãy núi chạy dọc biên giới Việt - Lào và dãy núi Trường Sơn (khu Tây Bắc, Bình Định, Phú Yên, và đôi khi có ảnh hưởng tới tận đồng bằng Bắc Bộ). Thời gian hoạt động của gió Tây vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 8. Gió Tây thường thổi từng đợt, đợt ngắn 2-3 ngày, đợt dài thì có thể tới 10-15 ngày với cường độ mạnh nhất vào buổi trưa đến buổi chiều (từ 11giờ đến 15 giờ).

- Khối không khí xích đạo biển (Em) Đây là dòng phía Nam của gió mùa mùa hạ ở Việt Nam. Khối không khí này được hình thành từ bán cầu Nam vượt qua xích đạo và thổi đến Việt Nam thành gió mùa Tây Nam chính thức. Đến lãnh thổ Việt Nam các thuộc tính về nhiệt và ẩm của khối không khí xích đạo tuy có sự biến tính ít nhiều nhưng vẫn giữ được bản chất là nóng và ẩm: nhiệt độ từ 260 - 300C, độ ẩm tương đối 85 - 95%. Khối khí này có tầng ẩm rất dày do tác dụng hội tụ và thăng lên của không khí trên dải hội tụ nhiệt đới.

Do những điều kiện đó, gió mùa Tây Nam ở Việt Nam rất không ổn định và thường hay gây mưa lớn, kéo dài làm cho không khí bớt nóng hơn so với khối khí nhiệt đới biển. Khối khí xích đạo hoạt động ở miền Nam Việt Nam nhiều hơn ở miền Bắc do thời gian dải hội tụ nhiệt đới nằm ở phía Nam dài hơn, từ tháng 6 đến tháng 10, còn ở đồng bằng Bắc Bộ thì chỉ mạnh nhất vào tháng 8, gây ra kiểu thời tiết mưa Ngâu

Qua phân tích trên cho thấy hệ thống gió mùa hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đã in đậm dấu ấn lên khí hậu nhiệt đới Việt Nam thông qua đặc tính và cơ chế hoạt động của các khối khí, các frông và dải hội tụ nhiệt đới.

24

Tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa là sự tổng hoà của các tác động tương hỗ giữa cơ chế gió mùa, tín phong và bối cảnh địa lí tự nhiên Việt Nam thể hiện rõ nét qua lớp vỏ phong hoá, thổ nhưỡng với các kiểu thực bì nguyên sinh. Gió mùa đã tác động rõ rệt lên chế độ ẩm nhiều hơn là chế độ nhiệt vì gió mùa Đông Bắc chỉ mang lại một mùa Đông lạnh ngắn và cũng chỉ trong một phạm vi lãnh thổ hạn chế. Hơn nữa, các đợt lạnh này cũng không diễn ra liên tục và ngay trong mùa Đông vẫn có những ngày nóng trên 200C. Quy luật đai cao do địa hình đồi núi cũng chỉ phát huy tác dụng mạnh trong khoảng 15% diện tích lãnh thổ. Do vậy, lớp phủ thổ nhưỡng - thực vật chủ yếu bao gồm các kiểu nhiệt đới. Thông thường khí hậu nhiệt đới thường thiên về tính chất khô hạn với thảm thực bì nguyên sinh mang tính chất bán hoang mạc, xa van hoặc rừng thưa. Song do các luồng gió mùa ẩm, do những nhiều động thời tiết, do ảnh hưởng của dải hội tụ nhiệt đới về mùa hạ và các frông về Đông nên đã mang lại cho Việt Nam một lượng mưa mùa hạ quá lớn, đồng thời trong mùa Đông vẫn có mưa khiến cho cán cân ẩm dư thừa rõ rệt để phát triển các kiểu thực bì nhiệt đới ẩm.

Chính tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu đã quyết định tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của các thành phần tự nhiên khác cũng như của tự nhiên Việt Nam nói chung.

3.1.2. Khí hậu Việt Nam phân hoá rất đa dạng 3.1.2.1. Sự phân hoá của chế độ nhiệt Sự phân hoá của chế độ nhiệt thể hiện qua 2 khu vực khí hậu: Ở phía Nam, tổng nhiệt độ đạt tiêu chuẩn của khí hậu á xích đạo và nhiệt đới. Ở phía Bắc, tổng nhiệt độ đạt tiêu chuẩn của khí hậu nhiệt đới. Ngoài ra do tác động của quy luật đai cao nên ở các vùng núi tổng nhiệt độ lại giảm và chỉ còn đạt tiêu chuẩn của khí hậu á nhiệt đới và khí hậu ôn đới. Tuy nhiên trong sự phân hoá khí hậu từ thấp lên cao thì tính chất nóng ẩm thể hiện ở các vùng thấp vẫn mang tính trội hơn vì tới 60% diện tích Việt Nam ở độ cao dưới 600m.

3.1.2.2. Sự phân hoá theo tương quan nhiệt ẩm Xét về tương quan nhiệt ẩm thì do vai trò của mặt đệm, đặc biệt là cấu trúc địa hình, đã khiến cho lượng mưa có sự phân bố rất không đồng đều theo không gian. Có nơi mưa rất nhiều như ở các vùng núi cao đón gió, có nơi mưa rất ít do bị khuất gió như ở các thung lũng. Vì vậy trong phạm vi Việt Nam có đến 5 tương

quan nhiệt ẩm với các giá trị của hệ số tương quan nhiệt ẩm K ( , ở đây R là

lượng mưa trung bình năm, t là tổng nhiệt độ trung bình năm) từ khô (K < 1,00) đến hơi khô (K = 1,00 - 1,50), hơi ẩm (K = 1,50 - 2,00), ẩm (K = 2,00 - 3,00) và ẩm ướt (K > 3,00).

3.1.2.3. Sự phân hoá thành các kiểu khí hậu Phối hợp các nền tảng nhiệt và tương quan nhiệt ẩm, Việt Nam có 11 kiểu khí hậu. Đó là:

- Kiểu khí hậu á xích đạo khô. - Kiểu khí hậu á xích đạo hơi khô. - Kiểu khí hậu á xích đạo hơi ẩm. - Kiểu khí hậu á xích đạo ẩm. - Kiểu khí hậu nhiệt đới khô. - Kiểu khí hậu nhiệt đới hơi khô. - Kiểu khí hậu nhiệt đới hơi ẩm. - Kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm.

25

- Kiểu khí hậu á nhiệt đới hơi ẩm ở các vùng núi thấp. - Kiểu khí hậu á nhiệt đới ẩm ở các vùng núi trung bình. - Kiểu khí hậu ôn đới ẩm ướt trên đỉnh các núi cao. 3.1.3. Khí hậu Việt Nam diễn biến thất thường 3.1.3.1. Tính thất thường của các mùa khí hậu Tính thất thường thể hiện trước hết qua diễn biến và đặc trưng của mùa khí hậu. Có năm gió mùa Đông Bắc hoạt động mạnh đem lại một mùa Đông rét và kéo dài, song có năm gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu, gây nên thời tiết nóng đến sớm bất thường. Gió mùa Tây Nam cũng có năm gây mưa nhiều và lũ lớn, có năm lại hoạt động yếu, thậm chí gây ra cả hạn hán trong mùa hạ. Hoạt động của bão cũng vậy, có năm có tới 9-10 con bão nhưng cũng có năm không có cơn bão nào. Ngoài ra sự thất thường này còn thể hiện ở sự dao động của ngày bắt đầu và kết thúc các mùa nóng và mùa lạnh. Sự dao động này có thể từ 12-29 ngày tại khu Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ. Tại Lạng Sơn, năm rét sớm nhất (năm 1928) mùa lạnh đến sớm hơn trung bình 18 ngày, năm rét muộn nhất (năm 1963) mùa lạnh đến chậm 14 ngày, năm mùa lạnh kết thúc sớm nhất (năm 1960) thì lệch 19 ngày, còn năm mùa lạnh kết thúc muộn nhất (năm 1929) thì lệch 12 ngày. Tại Hà Nội, năm 1948 mùa lạnh đến sớm 18 ngày, còn năm có mùa lạnh đến muộn nhất (năm 1957) thì chậm 17 ngày, năm 1946 mùa lạnh kết thúc sớm hơn tới 29 ngày và năm kết thúc muộn nhất (năm 1927) mùa lạnh kéo dài hơn bình thường 15 ngày. Tại khu vực Tây Bắc và Bình Trị Thiên phạm vi dao động mùa còn mạnh mẽ hơn, lớn nhất đối với thời kì bắt đầu của mùa là 39-40 ngày và đối với thời kì kết thúc mùa có thể tới 40-50 ngày.

3.1.3.2. Tính thất thường của chế độ nhiệt Tính chất thất thường trong chế độ nhiệt mà nguyên hân chính là do sự hoạt động của gió mùa Đông Bắc thể hiện ở sự dao động đáng kể về nhiệt độ trong các tháng mùa Đông ở miền Bắc. Nhiệt độ tháng 1 của bất kì một năm nào đó cũng có thể nóng hơn hoặc lạnh hơn so với nhiệt độ trung bình nhiều năm từ 3-50C. Tuy vậy ở khu vực Tây Bắc và Bắc Trung Bộ sự chênh lệch này thấp hơn, chỉ vào khoảng 1- 20C. Tính chất thất thường trong chế độ nhiệt của mùa lạnh có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc bố trí thời vụ gieo trồng. 3.1.3.3. Tính thất thường của chế độ mưa Sự biến động lượng mưa hàng năm thường được biểu thị bằng tỉ số của lượng mưa năm mưa nhiều nhất với lượng mưa của năm mưa ít nhất. Tỉ số này càng lớn thì mức độ thất thường càng cao. Tỉ số này cụ thể ở các khu vực và các địa phương ở Việt Nam như sau: ở Lạng Sơn là 2,38, ở Hà Nội là 2,14, Vinh 2,70, Huế 2,38, Nha trang 3,03, thành phố Hồ Chí Minh 1,75 và Rạch giá 2,70. Số năm có lượng mưa xấp xỉ trị số trung bình rất ít. Thông thường lượng mưa hàng năm thường cao hơn hoặc thấp hơn khoảng 1/3 so với lượng mưa trung bình. Tuy nhiên, số năm có lượng mưa rất lớn hoặc có lượng mưa rất nhỏ cũng chỉ chiếm khoảng 10% tổng số năm. Năm mưa nhiều, năm mưa ít hoặc xen kẽ nhau hoặc đi liền nhau, trung bình khoảng 3-5 năm, tối đa có thể đến 9-10 năm như ở Rạch Giá mưa nhiều đến 9 năm liền, còn ở Trà Vinh kéo dài đến 8 năm liền có lượng mưa thấp. Song cũng có trường hợp trong hai năm liền nhau, năm trước mưa thấp nhất, năm sau lại mưa cao nhất như ở Móng Cái năm 1925 lượng mưa thấp nhất là 1773mm đến năm 1926 lượng mưa đạt cao nhất là 4119m, hoặc như ở Thanh Hoá thì ngược lại, năm trước, năm 1929, mưa lớn đạt 2391mm nhưng năm sau, năm 1930, lại hạn nặng, lượng mưa chỉ có 1065mm. Trong sự thất thường này còn có thể gặp cả những

26

trường hợp giữa hai năm mưa lớn xe kẽ một năm mưa rất ít. Ví dụ như ở Huế, năm 1917 mưa 4269mm, năm 1918 mưa 1880mm đến năm 1919 lại mưa tới 4111mm.

Tính chất thất thường trong lượng mưa còn biểu hiện cả trong từng mùa. Mùa khô thường thiếu nước ở các mức độ khác nhau: tại đồng bằng Bắc Bộ, lượng mưa mùa khô dao động từ 92mm (năm 1915) đến 323mm (năm 1932). Trong mùa này ở đây thường có mưa phùn từ tháng 12 đến tháng 4, có thể tới 90 ngày như năm 1926, song cũng có năm chỉ có 36 ngày như năm 1923. Ở khu vực từ Vinh đến Thừa Thiên - Huế, mức độ khô hạn giảm sút dần. Tại các khu vực ở Nam Trung Bộ mùa khô gay gắt nhất, có nơi có tháng không có một giọt mưa nào. Trong mùa mưa, với lượng mưa chiếm tới 80-85% lượng mưa cả năm, thì tính biến động còn đáng lo ngại hơn nhiều. Trong mùa này, hạn hán hay xảy ra vào những tháng đầu và cuối mùa: ở Bắc Bộ vào tháng 5 và tháng 9, ở Thanh Hoá vào tháng 6 và tháng 8, ở Vinh vào tháng 6 và tháng 7, ở Huế vào tháng 8 và tháng 1, ở Nha Trang vào tháng 9 và tháng 12 và ở thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 10 và tháng 11. Tháng mưa nhiều thường xảy ra vào giữa mùa mưa như ở Bắc Bộ vào tháng 7, tháng 8 (ở Phù Liễn tháng 8 năm 1976 mưa tới 982mm) ở Nha Trang vào tháng 9, tháng 10, ở Nam Trung Bộ vào tháng 10, tháng 11 và ở Nam Bộ vào tháng 9, 10 (ở thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 1917 mưa tới 603mm so với lượng mưa trung bình 26mm). 3.2. Phân vùng khí hậu Việt Nam (Sơ đồ phân vùng khí hậu của Phạm Ngọc

Toàn và Phan Tất Đắc)

Trên quy mô toàn quốc sự phân hoá khí hậu có liên quan với hoạt động của các hệ thống hoàn lưu cỡ lớn (gió mùa, tín phong), trong sự tương tác với các hệ thống sơn văn lớn. Căn cứ vào những biểu hiện tổng hợp của khí hậu. Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc (1993) đã phân chia trên lãnh thổ Việt Nam thành 3 miền khí hậu lớn: miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu Đông Trường Sơn và miền khí hậu phía Nam. Ngoài ra còn có thêm một miền khí hậu phụ nữa là miền khí hậu Biển Đông. Trong phạm vi mỗi miền khí hậu, căn cứ vào tác động của những quy luật phân hoá khí hậu quy mô nhỏ hơn có thể phân chia thành các vùng khí hậu có những nét riêng trong khi vẫn giữ được những đặc điểm chung của miền khí hậu. Tiếp đó, các vùng khí hậu lại có thể phân chia ra thành một số khu vực có khí hậu mang sắc thái địa phương nhỏ hẹp hơn.

Có thể nói sơ đồ phân vùng khí hậu trên đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh nhưng cũng rất rõ ràng, chi tiết phản ánh trung thực các đặc điểm khí hậu các vùng khác nhau trên đất Việt Nam.

3.2.1. Miền khí hậu phía Bắc Miền khí hậu phía Bắc có phạm vi rộng lớn bao gồm toàn bộ phần phía Bắc

của lãnh thổ Việt Nam cho đến núi Hoàng Sơn. Miền khí hậu này thuộc một loại hình khí hậu đặc biệt là khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa Đông lạnh. Miền khí hậu phía Bắc có 3 đặc điểm nổi bật là: - Có sự hạ thấp đáng kể của nhiệt độ vào thời kì mùa Đông, thấp hơn tới 4 -

50C so với các trị số trung bình của các vùng có vùng vĩ độ. - Có sự phân hoá mùa rõ rệt không chỉ trong nhiệt độ mà còn biểu hiện trong tất cả các yếu tố khí hậu khác.

- Có tính bất ổn định rất cao trong diễn biến thời tiết, khí hậu. Căn cứ vào mức độ và phạm vi ảnh hưởng của gió mùa cực đới, có thể phân

chia miền khí hậu phía Bắc thành 5 vùng khí hậu sau: a. Vùng khí hậu khu vực núi Đông Bắc.

27

Vùng khí hậu khu vực núi Đông Bắc bao gồm vùng núi Đông Bắc từ dãy núi

Phia Biooc ở phía Tây cho đến dãy núi Đông Triều ở phía Đông Nam. Đặc điểm nổi bật nhất của miền khí hậu khu vực núi Đông Bắc là có mùa Đông lạnh nhất so với tất cả các vùng khí hậu khác trong cả nước.

Nơi đây về mùa Đông có độ hạ nhiệt lớn nhất nên rất lạnh và thời tiết hanh khô, dễ xảy ra sương muối. Toàn vùng có lượng mưa ít, lượng mưa trung bình hàng năm thường chỉ đạt 1400 - 1600mm và có sự tương phản lớn về lượng mưa giữa khu vực ven biển Quảng Ninh với các khu vực đồi núi thấp khuất sau dãy núi cánh cung Đông Triều.

b. Vùng khí hậu khu vực Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn (vùng núi phía Bắc). Vùng khí hậu khu vực núi Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn bao gồm vùng núi phía Bắc từ dãy núi cánh cung sông Gâm dến dãy núi Hoàng Liên Sơn và kéo dài về phía Nam đến vùng núi Hoà Bình.

Đặc điểm đặc sắc và nổi bật nhất của vùng khí hậu này là quanh năm có độ ẩm cao. Ở đây mùa Đông ít lạnh hơn so với vùng núi Đông Bắc, tuy vậy ở các khu vực núi cao cũng có sự giảm nhiệt lớn do địa hình. Vùng khí hậu này ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng lại hay có dông gây mưa to gió lớn, đôi khi cũng xảy ra mưa đá.

c. Vùng khí hậu khu vực núi Tây Bắc Vùng khí hậu khu vực núi Tây Bắc bao gồm toàn bộ vùng núi phía Tây Bắc Bộ, từ sườn phía Tây dãy núi Hoàng Liên Sơn đến các dãy núi biên giới Việt - Lào. Đặc điểm quan trọng nhất của khí hậu vùng này là có mùa Đông tương đối ấm và khô hanh rất điển hình cho chế dộ khí hậu nhiệt dới gió mùa. Ở đây vào thời kì mùa Đông thường có thời tiết quang mây và lặng gió làm cho biên độ nhiệt độ trong ngày khá lớn, thường đạt tới 12-140C và cũng thường hay xảy ra sương muối. Mùa hạ ở vùng khí hậu này cũng đến sớm hơn so với các vùng khí hậu khác với đặc trưng là có sự xuất hiện kiểu thời tiết gió Tây khô nóng, đặc biệt ở vùng thung lũng và khu vực phía sau của các sườn đón gió Tây. Vùng khí hậu này chưa bao giờ chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão nhưng hiện tượng mưa đá lại xảy ra nhiều nhất trong cả nước.

d. Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Bắc Bộ Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Bắc Bộ bao gồm toàn bộ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình và vùng đồi nước thấp trung du liền kề.

Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Bắc Bộ có đặc điểm là có nền nhiệt độ đồng đều và cao hơn so với các vùng khí hậu khác ở miền Bắc. Mặt khác khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng điều hoà, bớt khắc nghiệt hơn và ít phân hoá hơn: về mùa Đông có lượng ẩm cao hơn do có thời tiết nồm và mưa phùn, mùa hạ bớt khô nóng hơn so với vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ. Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Bắc Bộ chịu ảnh hưởng nhiều của bão trong thời kì từ tháng 7 đến tháng 10. Lượng mưa bão thường chiếm 25 - 30% tổng lượng mưa mùa hạ.

đ. Vùng khí hậu khu vực Bắc Trung Bộ Vùng khí hậu khu vực Bắc Trung Bộ gồm phần phía Bắc Trung Bộ từ Thanh Hoá đến núi Hoành Sơn.

Đặc trưng của vùng khí hậu này là có tính chất chuyển tiếp từ miền khí hậu phía Bắc sang miền khí hậu Đông Trường Sơn. Vùng khí hậu này có đặc điểm là về mùa Đông đã bớt lạnh hơn so với Bắc Bộ. Trung bình nhiệt độ mùa Đông ở Bắc Trung Bộ cao hơn ở Bắc Bộ khoảng 10C. Đồng thời, mùa Đông ở đây cũng ẩm ướt

28

hơn, với độ ẩm tương đối trung bình hàng tháng đều vượt trên 85% và tháng có lượng mưa thấp nhất cũng tới 30 - 40mm.

Đặc điểm quan trọng và nổi bật của vùng khí hậu này là sự xuất hiện của thời kì gió Tây khô nóng rất điển hình vào đầu mùa hạ. Hàng năm có tới 20-30 ngày có gió Tây hoạt động mạnh. Chính sự phát triển mạnh mẽ của thời tiết gió Tây đã làm cho mùa mưa ở đây chậm lại, lệch pha so với các vùng khí hậu phía Bắc. Vùng khí hậu khu vực Bắc Trung Bộ cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp nhiều nhất của bão. Tháng có nhiều bão nhất là tháng 9. Bão gây gió rất lớn và mưa to có khi chiếm tới 40 - 50% lượng mưa hàng tháng.

3.2.2. Miền khí hậu Đông Trường Sơn Miền khí hậu Đông Trường Sơn bao gồm toàn bộ sườn Đông của dãy núi Trường Sơn từ núi Hoành Sơn đến mũi Dinh (Ninh Thuận). Miền khí hậu Đông Trường Sơn rất độc đáo, cũng là khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng có sự phân hoá rất điển hình trong chế độ mưa ẩm do tác động của địa hình dãy núi Trường Sơn đối với hoàn lưu gió mùa.

Vào thời kì gió mùa mùa hạ, các khối không khí Tây Nam nóng ẩm mang lại lượng mưa ẩm rất lớn trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Chỉ riêng ở miền khí hậu này các khối không khí nóng ẩm từ phía Tây thổi tới gặp địa hình chắn của dãy Trường Sơn đã gây mưa lớn ở sườn Tây, sau đó lượng ẩm đã giảm đi rất nhiều nên khi vượt qua dãy Trường Sơn do chịu tác dụng của hiệu ứng phơn đã gây nên kiểu thời tiết gió Tây khô nóng. Kiểu thời tiết này thống trị trong thời kì nửa đầu mùa hạ trên khắp sườn Đông Trường Sơn cho đến các vùng đồng bằng ven biển. Vì thế ở đây có lượng mưa ít, rất khô, lượng mây nhỏ nhất trong năm. Bắt đầu từ tháng 8, khi gió mùa mùa hạ thổi từ hướng Nam lên dọc theo bờ biển và do tác động của dải hội tụ nhiệt đới cũng như ảnh hưởng của bão nên ở miền khí hậu này mới bước vào thời kì mùa mưa và có lượng mưa rất lớn vào hai tháng 10 và 11. Mùa mưa ở đây còn kéo dài tới tháng 12, tháng 1, khác hẳn với các miền khí hậu khác lúc này đang là thời kì khô hạn.

Tính chất chuyển tiếp của miền khí hậu Đông Trường Sơn giữa hai miền khí hậu phía Bắc và miền khí hậu phía Nam cũng đã được thể hiện rõ rệt qua chế độ nhiệt ở đây và nếu truy nguyên nguồn gốc thì lại một lần nữa xác nhận miền khí hậu vùng nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa các hệ thống hoàn lưu khác nhau: về mùa Đông những frông cực đới mạnh vẫn có thể tiến sâu qua đèo Hải Vân, thậm chí tới tận cực Nam Trung Bộ, còn về mùa hạ là sự di chuyển cắt ngang qua miền của dải hội tụ nhiệt đới. Miền khí hậu Đông Trường Sơn có sự phân hoá không gian khá rõ rệt thành 3 vùng khí hậu sau:

a. Vùng khí hậu khu vực Bình - Trị - Thiên Vùng khí hậu khu vực Bình - Trị - Thiên nằm trên vùng đất hẹp ngang nhất của lãnh thổ Việt Nam, từ phía Nam đèo Ngang đến phía Bắc đèo Hải Vân.

Vùng khí hậu khu vực Bình - Trị - Thiên có mùa Đông tương đối lạnh hơn so với các vùng khí hậu của miền khí hậu Đông Trường Sơn và vì thế biên độ nhiệt độ hàng năm ở đây vẫn còn cao, tới 9 - 100C. Vùng khí hậu này có nét đặc sắc là có lượng mưa lớn nhất trong miền khí hậu Đông Trường Sơn và là một trong những trung tâm mưa lớn nhất của Việt Nam. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây đạt 2500 - 3000mm. Độ ẩm của vùng này cũng rất cao, trị số trung bình hàng năm của độ ẩm tương đối đều vượt trên 85%.

Vùng khí hậu này cũng chịu sự tác động của thời tiết gió Tây khô nóng, đặc biệt ở Quảng Trị, và chịu ảnh hưởng của bão. Tính biến động khí hậu của vùng này

29

được thể hiện rất rõ nét trong chế độ nhiệt mùa Đông và trong chế độ mưa, bão vào mùa hạ.

b. Vùng khí hậu khu vực Trung Trung Bộ Vùng khí hậu khu vực Trung Trung Bộ nằm ở phần phía Đông của dãy núi Trường Sơn từ phía Nam đèo Hải Vân cho đến đèo Cả.

Vùng khí hậu khu vực Trung Trung Bộ có đặc điểm là mùa Đông đã ấm lên rõ rệt và hầu như không còn mùa Đông lạnh nữa, vì nhiệt độ tháng lạnh nhất cũng không xuống dưới 220C. Càng đi về phía Nam, nhiệt độ càng tăng lên nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất ở khu vực phía Nam của vùng đã cao hơn ở khu vực phía Bắc tới 20C. Trong khi đó ở khu vực phía Bắc có lượng mưa ẩm lớn hơn ở khu vực phía Nam khá nhiều. Lượng mưa trung bình ở khu vực phía Bắc tới 2000 - 2200mm ở đồng bằng, 2500 - 3000mm ở vùng núi; còn ở khu vực phía Nam lượng mưa trung bình chỉ đạt 1600 - 1700mm ở đồng bằng, 2000mm ở vùng núi. Ngoài ra vùng khí hậu này cũng có nhiều biến động chủ yếu do hoạt động của gió mùa Đông Bắc, bão và gió Tây gây nên.

c. Vùng khí hậu khu vực Nam Trung Bộ Vùng khí hậu khu vực Nam Trung Bộ nằm ở phía Đông của dãy núi Trường Sơn từ đèo Cả đến mũi Dinh. Vùng khí hậu khu vực Nam Trung Bộ có đặc điểm quan trọng nhất và rất độc đáo là có khí hậu khô hạn điển hình nhất trong cả nước. Ở khu vực Phan Rang, lượng mưa trung bình hàng năm chỉ khoảng 700mm, thời kì mùa mưa cũng chỉ kéo dài trong 3 - 4 tháng (từ tháng 9 đến tháng 11 hoặc tháng 12). Lượng ẩm ở đây cũng rất thấp, lượng mây ít và có số giờ nắng trung bình hàng năm tới 2300 - 2400 giờ, cao nhất trong cả nước. Vùng khí hậu này có tính chất khí hậu nhiệt đới điển hình, không còn khái niệm mùa Đông lạnh nữa, vì nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất trong năm cũng vượt quá 230C. Ở vùng này cũng vẫn thường chịu ảnh hưởng của bão, tuy rằng mùa bão ở đây có muộn hơn song cường độ và tác hại của bão giảm đi rất nhiều so với ở các khu vực phía Bắc.

3.2.3. Miền khí hậu phía Nam Miền khí hậu phía Nam có phạm vi khá rộng lớn bao gồm toàn bộ Tây

Nguyên và đồng bằng Nam Bộ.

Miền khí hậu phía Nam mang đầy đủ tính chất chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa mưa và mùa khô rất khác biệt. Miền khí hậu này hoàn toàn nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của gió mùa cực đới, chỉ chịu ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống hoàn lưu của vành đai nóng nội chí tuyến: mùa Đông chủ yếu là tín phong bán cầu Bắc, mùa hạ là gió mùa Tây Nam và tín phong Đông, Đông Nam. Miền khí hậu phía Nam có các đặc điểm cơ bản sau đây:

- Có nền nhiệt độ cao và hầu như không thay đổi trong năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đây đạt 26 - 270C, biên độ nhiệt độ hàng năm thường không quá 4 - 50C. Các trị số này hoàn toàn phù hợp với điều kiện trung bình của các vùng có cùng vĩ độ. Với nền nhiệt độ cao như vậy nên tổng nhiệt độ hàng năm ở miền khí hậu này thường đạt 7500 - 90000C, đạt tiêu chuẩn của vùng nhiệt đới và xích đạo. Một điều đáng chú ý ở miền khí hậu này là do ở gần xích đạo nên nhiều địa phương ở khu vực phía Nam của miền đã có dạng diễn biến của chế độ nhiệt tương tự như ở các địa phương ở vùng xích đạo.

- Có sự phân hoá rõ rệt trong chế độ mưa ẩm, tiêu biểu cho khí hậu gió mùa. Mùa mưa từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 9, tháng 10, tập trung tới 90% lượng mưa cả năm. Mùa khô thường ngắn hơn, chỉ khoảng 5 - 6 tháng và có lượng mưa chỉ bằng 10% tổng lượng nước mưa cả năm. Trong điều kiện không có sự phân hoá rõ rệt về

30

nhiệt độ thì chính sự phân hoá của chế độ mưa ẩm sẽ là chi tiêu quan trọng để phân chia mùa và phân vùng khí hậu. - Ít có biến động khí hậu hơn so với các miền khí hậu phía Bắc và miền khí hậu Đông Trường Sơn, và điều này được thể hiện rõ rệt nhất trong chế độ nhiệt.

Miền khí hậu phía Nam có thể phân chia thành hai vùng khí hậu sau: a. Vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên Vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên bao gồm toàn bộ vùng núi và cao nguyên thuộc phần phía Tây của dãy núi Trường Sơn thuộc Trung Bộ.

Vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên có đặc điểm là có sự hạ thấp nền nhiệt độ do địa hình núi và cao nguyên có độ cao khá lớn. Ở các độ cao từ 500 - 1000m, là độ cao trung bình của Tây Nguyên, nhiệt độ đã thấp hơn ở các vùng đồng bằng từ 3 - 60C. Ở độ cao 1500m, nhiệt độ trung bình đã giảm đi 8 - 90C. Tuy vậy ở vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên biên độ nhiệt độ trong năm cũng chỉ tới 4 - 50C. Do ở vĩ độ thấp hơn và quan trọng nhất là không chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên mùa Đông khí hậu ở Tây Nguyên vẫn ấm hơn so với vùng núi Bắc Bộ tới 7 - 80C.

Đặc điểm nổi bật của vùng khí hậu khu vực Tây Nguyên là có sự tương phản rất sâu sắc giữa mùa mưa và mùa khô. Đặc điểm này hoàn toàn do tác dụng chắn gió của địa hình dãy Trường Sơn quyết định. Về mùa Đông do hiệu ứng phơn, vùng Tây Nguyên bị khô hạn, lượng mưa trong suốt mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 3, chỉ chiếm 7 - 8% lượng mưa cả năm, có nhiều tháng không có mưa hoặc có lượng mưa không đáng kể, chỉ được 2 - 3 mm. Đây cũng là vùng có mùa khô điển hình nhất của Việt Nam. Về mùa hạ, ở đây có lượng mưa rất lớn, chiếm hơn 90% lượng nước mưa cả năm và làm cho lượng mưa trung bình hàng năm ở Tây Nguyên đạt khá cao, từ 1800 - 2800mm.

Ngoài ra đặc điểm địa hình của vùng Tây Nguyên khá phức tạp nên đã dẫn đến sự phân hoá khá sâu sắc của các yếu tố khí hậu trong nội bộ vùng, đặc biệt trong sự dao động của biên độ nhiệt độ ngày đêm, trong sự phân bố của lượng mưa.

b. Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Nam Bộ Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Nam Bộ bao gồm toàn bộ lãnh thổ vùng đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng ven biển cực Nam Trung Bộ. Vùng khí hậu khu vực đồng bằng Nam Bộ có đặc điểm là có nền nhiệt độ cao và đồng đều nhất trong cả nước, với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 26 - 270C và tổng nhiệt độ trung bình hàng năm vượt trên 95000C. Ở vùng khí hậu này, diễn biến hàng năm của một số yếu tố khí hậu chính như nhiệt độ và lượng mưa đã có dáng dấp của diễn biến theo chế độ xích đạo. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là tính ổn định, đồng nhất và tương đối điều hoà hơn cả so với các vùng khí hậu khác trên đất Việt Nam.

3.2.4. Miền khí hậu biển Đông Việt Nam có vùng biển rộng và có nhiều đảo lớn nhỏ ở gần và xa bờ. Các đảo ở gần bờ nhìn chung có những nét tương tự về khí hậu như ở trên đất liền. Miền khí hậu biển Đông của Việt Nam mang đặc điểm khí hậu của vùng biển nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm. Một đặc điểm rất quan trọng của khí hậu Biển Đông là ở đây thường xuyên hàng năm có sự xuất hiện và hoạt động của các cơn bão nhiệt đới vì Biển Đông cũng là một trong những trung tâm bão lớn trên thế giới. Miền khí hậu Biển Đông có thể phân chia thành hai vùng khí hậu sau: a. Vùng khí hậu khu vực phía Bắc biển Đông Vùng khí hậu khu vực phía Bắc biển Đông nằm ở khu vực phía Bắc của biển Đông cho đến hết khu vực quần đảo Hoàng Sa.

31

Vùng khí hậu khu vực phía Bắc Biển Đông có đặc điểm là có nhiệt độ khá cao, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất cũng đạt tới 23 - 24 0C, cao hơn ở trong đất liền có cùng vĩ độ tới 3 - 40C và có biên độ nhiệt độ hàng năm là 5 - 60C. Ở vùng biển này có nhiệt độ khá điều hoà, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm không lớn. Chế độ mưa ở đây cũng phù hợp với chế độ gió mùa. Mùa mưa là thời kì hoạt động của gió mùa hạ với lượng mưa khá lớn, tập trung vào nửa cuối mùa hạ, thường từ tháng 8 đến tháng 11, trong đó tháng 10 là tháng có lượng mưa lớn nhất. Mùa Đông là mùa ít mưa trùng hợp với thời kì hoạt động của gió mùa mùa Đông.

Điều đáng chú ý là ở khu vực phía Bắc Biển Đông lượng mưa trung bình hàng năm chỉ vào khoảng 1200mm nhưng có độ ẩm lớn quanh năm. Vùng khí hậu này luôn có gió lớn hơn ở trong đất liền. Tốc độ gió trung bình là 6 - 7m/s. Đặc biệt trong thời kì mùa hạ, từ tháng 6 đến tháng 9, có sự hoạt động của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới.

b. Vùng khí hậu khu vực phía Nam biển Đông Vùng khí hậu khu vực phía Nam biển Đông nằm ở khu vực phía Nam biển

Đông từ dưới khu vực quần đảo Hoàng Sa.

Vùng khí hậu khu vực phía Nam Biển Đông đã mang đặc điểm vùng khí hậu biển xích đạo gió mùa với các đặc trưng cơ bản là có nền nhiệt độ cao quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,5 - 27 0C, có lượng mưa tương đối lớn, hơn hẳn ở vùng khí hậu khu vực phía Bắc biển Đông. Lượng mưa trung bình hàng năm ở đây đạt khoảng 2000m và mùa mưa kéo dài tới 8 tháng, trong đó 3 tháng có lượng mưa cao nhất là các tháng 10, 11, 12.

Vùng khí hậu khu vực phía Nam biển Đông ít chịu ảnh hưởng của bão hơn so với vùng biển phía Bắc biển Đông. Trung bình mỗi năm có 1.3 cơn bão đi ngang qua vùng biển này.

Câu hỏi ôn tập chương 3: 1. Khí hậu Việt Nam có những đặc điểm chung nào? 2. Hãy trình bày đặc điểm nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu Việt Nam. 3. Chứng minh tính chất thất thường của khí hậu Việt Nam. 4. Hãy trình bày diễn biến của chế độ nhiệt, gió, mưa ở Việt Nam. 5. Những giá trị về mặt tự nhiên, kinh tế xã hội, đặc biệt là du lịch của các đặc điểm khí hậu Việt Nam, nêu các giải pháp sử dụng có hiệu quả các đặc điểm của khí hậu.

32

Chương 4. THUỶ VĂN VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 4: - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về thuỷ văn Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Chuẩn đầu ra của chương 4: Sinh viên biết được thuỷ văn Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn đề về thuỷ văn Việt Nam như nguyên nhân hình thành, tác động của thuỷ văn đến tự nhiên, kinh tế - xã hội… Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

4.1. Đặc điểm chung của sông ngòi Việt Nam 4.1.1. Mạng lưới sông ngòi phản ánh tác động tổng hợp giữa khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm và cấu trúc địa hình đồi núi già được tân kiến tạo làm trẻ lại

Việt Nam có tới 2360 sông suối lớn nhỏ có chiều dài từ 10km trở lên. Sông suối ở Việt Nam đã tạo nên một mạng lưới dày đặc trên khắp mọi miền đất nước. Mật độ bình quân của sông ngòi Việt Nam vào khoảng 0,66km/km2 và dao động khá lớn từ 0,1 - 4,0km/km2. Nơi có mật độ mạng lưới sông thấp là các vùng núi đá vôi (chủ yếu ở miền Bắc) và vùng có khí hậu khô hạn (ở cực Nam Trung Bộ) với mật độ nhỏ hơn 0,5km/km2. Còn nơi có mật độ sông suối lớn, trên 1,5km/km2, là ở các khu vực miền núi cao có sườn đón gió. Các vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng lưới sông đạt giá trị cao nhất, tới 2,0 - 4,0km/km2, do ngoài sông suối tự nhiên, nơi đây còn có hệ thống mương máng, kênh đào chằng chịt. Dọc bờ biển Việt Nam, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông. Tuy nhiên, do tính chất đồi núi bị cắt xẻ của lãnh thổ, nên phần lớn các sông ở Việt Nam chỉ là những sông nhỏ có diện tích lưu vực dưới 500km2 và chiều dài dòng chảy chưa đến 100km. Các sông thuộc loại này đa số nằm ở vùng biển, có tới 2170 sông, chiếm 92,5% tổng số sông suối của cả nước

Những hệ thống sông lớn với diện tích lưu vực rộng trên 10.000km2 chiều dài dòng chảy trên 500km hay những lưu vực sông trung bình với diện tích lưu vực khoảng 5000 - 10.000km2 và chiều dài dòng chảy khoảng 100 - 500km chiếm tỉ lệ nhỏ và thường bắt nguồn từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, chỉ có phần trung lưu và hạ lưu là chảy trên địa phận Việt Nam. Sông ngòi Việt Nam có lượng nước phong phú với tổng lưu lượng trung bình đạt 26.600m3/s tương đương vối tổng lượng nước là 839 tỉ m3/năm.

Trong tổng lượng nước này, phần nước được sản sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam là 323 tỉ m3/năm, chiếm 38,5%, còn phần từ nước ngoài chảy vào lãnh thổ Việt Nam là 516 tỉ m3/năm, chiếm 61,5%. Riêng lượng nước sông, suối từ Việt Nam chảy sang các nước xung quanh là 8,92 tỉ m3/năm, chiếm 1,1% tổng lượng nước.

Trong tổng lượng nước nói trên, phần dòng chảy mặt là 637 tỉ m3/năm, chiếm 76%, còn dòng chảy ngầm là 202 tỉ m3/năm, chiếm 24%. Trong dòng chảy mặt, phần nước được sản sinh ở Việt Nam là 226 tỉ m3/năm, chiếm 65,5%. Đối với dòng

33

chảy ngầm, lượng nước được sản sinh ở Việt Nam là 90 tỉ m3/năm, chiếm tỉ lệ thấp hơn, chỉ có 44,5%. Tuy vậy, lượng nước trên được phân bố rất không đồng đều giữa các hệ thống sông. Hệ thống sông Mê Kông chiếm tỉ lệ lớn nhất, 60,4%, hệ thống sông Hồng chiếm 15,1% và các hệ thống sông khác còn lại chiếm 24,5% (trong số này, hệ thống sông Đồng Nai chiếm 3,9%, hệ thống sông Cả 2,9%, hệ thống sông Thu Bồn 2,4%, hệ thống sông Mã 2,2%). Các đại lượng dòng chảy khác như môđun, hệ số dòng chảy cũng phản ánh khả năng cung cấp nước cho các dòng chảy và mức độ ẩm ướt của khu vực.

Theo mô đun dòng chảy, trị số trung bình của sông ngòi Việt Nam là 30 1/s/km2. Đây là một trị số cao, tương đương với nhiều nước có dòng chảy lớn ở châu Á và thế giới. Nhưng cũng giống như các đại lượng khác, mô đun dòng chảy ở Việt Nam phân bố không đều tại các khu vực. ở những vùng có lượng mưa lớn thì mô đun tăng cao, tới trên 75 l/s/km2 như trên lưu vực sông Thu Bồn, còn tại những nơi mưa ít thì mô đun lại có thể xuống dưới 10 l/s/km2 như trên lưu vực sông Cái ở Phan Thiết.

Hệ số dòng chảy của sông ngòi Việt Nam cũng rất lớn, trung bình là 0,50 (lớn nhất trên 0,70 và nhỏ nhất chỉ đạt dưới 0,20).

Do các đại lượng dòng chảy đạt trị số cao nên sông ngòi Việt Nam có sức xâm thực mạnh, mang theo một lượng phù sa rất lớn, bình quân đạt 226 tấn/km2/năm, tối đa tới 1168 tấn/km2/năm trong mùa mưa lũ tại Hoà Bình trên sông Đà, đã góp phần tạo điều kiện cho các đồng bằng mở rộng ra phía biển. Tổng lượng phù sa của sông ngòi Việt Nam là 200 triệu tấn/năm trong đó riêng sông Hồng là 120 triệu tấn/năm, chiếm 60%, sông Mê Công 70 triệu tấn/năm, chiếm 35%. Độ đục trung bình của sông ngòi Việt Nam là 223g/m3. Tại những khu vực không còn rừng che phủ, độ đục có thể lên tới 600-700g/m3, còn ở các khu vực núi đá vôi, độ đục giảm mạnh, chỉ còn vào khoảng 70g/m3. Độ đục cao nhất thuộc về hệ thống sông Hồng (tại Sơn Tây là 1010g/m3 và tại Hoà Bình khi chưa xây dựng hồ chứa là 1030g/m3)

Hướng sông ngòi nước Việt Nam là hướng Tây Bắc - Đông Nam và hướng vòng cung, đồng thời đổ ra biển Đông, theo hướng của cấu trúc địa chất- địa hình. Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ những hướng Đông Nam – Tây Bắc của sông Kỳ Cùng, Crông Knô, Nậm Muôi, Nậm Rạp.. Trên cùng một sông cũng có khúc già, khúc trẻ xen kẻ, điển hình nhất là các sông chảy trên cao nguyên xếp tầng như trường hợp sông Đa Đưng, Đa Nhim. ở trong các vùng núi phần lớn là các sông trẻ đang đào lòng dữ dội, thung lũng hẹp, có hẻm vực. Nhiều sông có khúc uốn đột ngột, gần như thẳng góc, bằng chức của sự cướp dòng, như khuỷ Thất Khê trên sông Kỳ Cùng, trên đoạn Xiềng Lâm – Cửa Rào sông Cả, khúc ngoặt Đa Crông trên sông Thạch Hãn hoặc khúc ngoặt trên sông Là Ngà khi chảy từ cao nguyên Di Linh xuống Đông Nam Bộ.

Do sự tương phản sâu sắc giữa địa hình đồi núi và đồng bằng mà có sự thay đổi đột ngột giữa vùng hạ lưu và vùng thượng lưu. Các sông ở vùng thượng lưu thường dốc, trắc diện dọc gần như thẳng đứng, nhưng xuống hạ lưu sông thường chảy êm đềm, có nhiều chi lưu, khúc uốn trước khi đổ nước ra biển.

4.1.2. Thủy chế sông ngòi Việt Nam thay đổi theo mùa và thất thường Do ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nên sông ngòi Việt Nam có chế độ nước đơn giản, trong năm thuỷ văn chỉ có một mùa lũ và một mùa cạn. Tuy nhiên các sông ngòi ở miền Trung lại có thêm một đỉnh lũ tiểu mãn, chủ yếu xảy ra vào các tháng 5 và tháng 6, do các trận mưa dông nhiệt đầu mùa hạ mang lại trong khi ở đây vẫn còn đang là các tháng mùa khô. Và như vậy, lũ tiểu mãn cùng

34

với chế độ mưa khác biệt với miền Bắc và miền Nam đã tạo ra một kiểu thuỷ chế riêng cho khu vực này.

Mùa lũ ở Việt Nam kéo dài từ 3 đến 6 tháng, trung bình là 4-5 tháng. Trong mùa lũ lượng nước sông ngòi chiếm từ 60% đến gần 90%, trung bình là 70-80% tổng lượng nước cả năm. Tháng lũ lớn nhất thường gọi là tháng đỉnh lũ, có lượng nước trung bình khoảng 25-30% tổng lượng nước cả năm. Phù hợp với chế độ mưa, mùa lũ của chế độ dòng chảy sông ngòi Việt Nam cũng có xu hướng chậm dần từ Bắc vào Nam, có liên đến thời gian hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới từ tháng 8 đến tháng 10 chuyển dịch dần từ đồng bằng Bắc Bộ vào đồng bằng Nam Bộ. Mùa lũ đến sớm nhất trên hệ thống sông Bằng Giang - Kì Cùng từ tháng 6 đến tháng 9, cực đại vào tháng 8. Đến khu vực Bắc Trung Bộ, mùa lũ kéo dài đến tháng 10 với cực đại vào tháng 9. Còn từ Bình Thuận trở vào, do mưa mùa hạ nên mùa lũ lại chuyển sớm lên, lũ cực đại rơi vào tháng 9. Do ảnh hưởng của cấu trúc địa hình, phần lớn sông ngòi Việt Nam đều mang đặc điểm của sông ngòi miền núi nên trong mùa lũ, có nước lớn và mực nước dâng cao nhanh, đồng thời tăng cường khả năng xâm thực và vận chuyển phù sa.

Mùa cạn trên các triền sông ở Việt Nam thường kéo dài hơn mùa lũ. Thời kì mùa cạn kéo dài trung bình là 7-8 tháng, với lượng nước nhỏ, chỉ chiếm từ 20-30% tổng lượng nước cả năm và tháng kiệt nhất lượng nước có thể chỉ bằng 1-2% tổng lượng nước cả năm. Thậm chí có sông không còn nước, để trơ ra lòng sông cạn, như một số sông ở cực Nam Trung Bộ. Sự chênh lệch lượng nước của tháng đỉnh lũ và tháng kiệt nhất tới 15-30 lần. Điều này đòi hỏi phải có sự điều tiết lượng nước sông bằng các hồ chứa và khôi phục lại rừng. Mùa cạn và tháng kiệt nhất cũng không diễn ra đồng thời trên toàn lãnh thổ và cũng chậm dần từ Bắc vào Nam. ở khu Đông Bắc mùa cạn đến sớm, từ tháng 10 đến tháng 5, kiệt nhất vào tháng 2. ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 5, kiệt nhất là vào tháng 3. Tại Quảng Bình, sông Gianh kiệt nhất vào tháng 4 là tháng kiệt phổ biến từ nmiền Trung Trung Bộ trở vào. Cá biệt, một vài sông có tháng kiệt nhất vào tháng 7, tháng 8 như sông Thu Bồn, sông Hinh là các tháng cuối cùng của mùa khô ở đây.

Trong mùa cạn, mực nước sông rất thấp, lòng sông thu hẹp, độ đục cũng đạt ở mức tối thiểu, tháng kiệt nhất có thể chỉ còn có 4-9g/m3, khiến cho nước sông rất trong. Mô đun trong mùa cạn cũng rất thấp, có lưu vực sông chỉ còn 1-5 l/s/km2 như ở Nam Trung Bộ.

4.1.3. Mạng lưới sông ngòi có sự phân hoá rõ rệt trong không gian Hai nhân tố chi phối mạng lưới sông ngòi Việt Nam là lượng mưa và cấu trúc địa hình, hai yếu tố này đều có sự phân hoá theo không gian.

- Về mật độ sông ngòi. Nơi có mật độ cao nhất là sông Hồng và sông Cửu Long, trên 4km/km2. Nơi thua nhất là những vùng núi đá vôi mật độ khoảng 0,3km/km2. Tuy nhiên đa số lãnh thổ Việt Nam có mật độ khoảng 0,5-1km/km2 suốt từ biên giới phía Bắc đến Đông Nam Bộ.

Các vùng có mật độ 1-1,5km/km2 phân bố ở dải Hoàng Liên Sơn từ Bát Xat đến Khuỷ Sông Đà, vùng cánh cung Việt Bắc- Đông Bắc, Đông Triều, Băc Hoành Sơn, Boả Lộc. Các vùng có mật độ 1,5-2km/km2 có ở khu vực Fansipan, Bắc Quang, Móng

Cái, Bạch Mã. Các vùng có mật độ dưới 0,5km/km2 tập trung ở Ninh – Bình Thuận, vùng núi đa vôi. - Về diện tích lưu vực và độ dài sông. chia làm 3 khu vực:

35

+ Khu vực từ sông Cả trở ra phía Bắc, nhất là Bắc Bộ. Các sông đều có lưu vực trên 10000 km2 và chiều dài trên 200km ( Bằng Giang – Kỳ Cùng 10902 km2, 243km, Thái Bình 12680 km2, 288km; sông Hồng 61400 km2, 556km....)

+ Khu vực sườn Đông dãy Trường Sơn từ Bắc đến Nam với các đồng bằng chân núi hẹp. Diện tích lưu vực khoảng 1000- 5000km, dài từ 70 – 170 km, đặc biệt có sông Thu Bồn có 10350 km2, dài 205 km, các sông còn lại đều rất nhỏ và ngắn. + Khu vực sườn Tây Trường Sơn bao gồm Tây Nguyên và Nam bộ có lưu vực tương đối lớn, có cả sông đổ về sông Mêkông.

4.1.4. Mạng lưới sông ngòi được sự dụng và cải tạo từ lâu đời Viếc sử dụng và cải tạo mạng lưới sông ngòi xuất phát từ như cầu phát triển cải tạo tự nhiên của con người và do tác động khắc nhiệt của tự nhiên đến đời sông con người. Theo Hậu Hán Thư quyển 113, từ năm 43 sau Công Nguyên ở đồng bằng đã có đê bảo vệ thành Thông Khê (nay ở Vĩnh Phúc). Thực ra thị trước đó, trong quá trình rời đồng bằng thềm cao xuống đồng bằng bãi bồi thấp phí nhiêu, nhân dân ta đã biết lợi dụng các gờ cao ven sông do nước lũ bồi đắp mà đắp lên thành các con đên nhân tạo bảo vệ làng mạc. Khi có đê lại xảy ra úng ngập, người dân lại đào kênh tiêu úng cho đồng ruộng. Việc đào kênh thoát nước hay đắp đê người dân đều dựa váo các kênh rạch tự nhiên hay các gờ sông, như Sông Đuống, sông Luộc. Mạng lưới kênh đào đảtở thành đường giao thông giao lưu giữa các khu vực. Con đường vận hà Bắc Nam vào thể kỷ thứ 9 nối liền Thanh Hoá- Vinh, đền thế kỷ 13 đã vào đến Thừa Thiên. Có ý kiến cho rừng kênh này đào từ thời Cao Bên, sau này được tư sửa vào đời nhà Lê, nên có tên là kênh nhà Lê.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 3000km đê sông, 1500km đên biển, và hơn 4000 km kênh rạch.

Trong thời gian gần đây việc trị thuỷ các con sông, xây dựng các công trình thuỷ địa kêt hợp thuỷ lợi, các hồ chứa đã được tiến hành ở hầu hết các con sông có khả năng. điều này giúp sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên nước, chủ động nguồn nước tưới phục vụ tưới tiêu trong sản xuất và đời sống. Tuy nhiên cũng là ảnh hưởng đến việc phát triển biến đổi theo quy luật tự nhiên của các con sông.

4.2. Một số hệ thống sông chính ở Việt Nam 4.2.1. Một số hệ thống sông chính ở miền Bắc 4.2.1.1. Hệ thống sông Hồng Hệ thống sông Hồng là hệ thống sông lớn nhất ở Việt Nam. Dòng chính sông Hồng dài 1126km, trong đó phần ở Việt Nam dài 556km. Diện tích lưu vực sông Hồng là 155000km2, riêng phần thuộc Việt Nam là 70700km2 chiếm 46,6% tổng diện tích lưu vực. Từ biên giới Việt-Trung, sông Hồng chảy vào Việt Nam theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ Lào Cai đến Việt Trì, qua thủ đô Hà Nội rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở cửa chính là cửa Ba Lạt thuộc hai tỉnh Thái Bình và Nam Định. Sông Hồng có độ dốc lòng sông nhỏ, đoạn từ Lào Cai đến Việt Trì (còn gọi là sông Thao) khoảng 20cm/km còn đoạn từ Việt Trì ra biển, dài khoảng 220km chỉ còn 3cm/km và hệ số uốn khúc tới 1,4 mặc dù đã bị hạn chế bởi hệ thống đê điều vững chắc.

Hệ thống sông Hồng có số lượng sông suối lớn với 614 phụ lưu phát triển tới cấp 6. Hai phụ lưu cấp 1 quan trọng nhất là sông Đà và sông Lô. Sông Đà có chiều dài tổng cộng 1010km, phần ở Việt Nam dài 570km với tổng diện tích lưu vực 52.900km2, trong đó thuộc lãnh thổ Việt Nam là 26.800km2. Sông Lô có chiều dài 470km, phần ở Việt Nam là 275km, diện tích lưu vực là 39.000km2, riêng phần ở Việt Nam là 22.600km2. Tất cả các phụ lưu cấp 1 và cấp 2 hợp với dòng chính sông Hồng tạo thành một mạng lưới sông hình nan quạt hội tụ tại Việt Trì. Chính dạng

36

mạng lưới sông này đã tổ hợp lũ các phụ lưu với lũ của dòng chính gây nên các trận lũ lớn ở phía hạ lưu thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

Hệ thống sông Hồng có lượng dòng chảy phong phú và lượng phù sa lớn, lưu lượng nước trung bình khoảng 3560m3/s tương đương với tổng lượng dòng chảy là 112 tỉ m3/năm và môđun dòng chảy là 24,8 l/s/km2. Lượng nước này chủ yếu được sản sinh ra ở Việt Nam, vì sông Hồng tại Lào Cai chỉ có lưu lượng trung bình 526m3/s, tương đương với lượng dòng chảy là 16 tỉ m3/năm, chiếm khoảng 15% tổng lượng nước ở Sơn Tây. Đây là điều đáng chú ý vì trong tổng lượng nước của sông Hồng tại Sơn Tây, lượng nước của sông Đà chiếm 47%, sông Lô chiếm 29% còn phần của chính sông Hồng (sông Thao) chỉ chiếm có 24%.

Chế độ nước của sông Hồng tương đối đơn giản, trong năm có một mùa lũ và một mùa cạn kế tiếp nhau. Mùa lũ dài 5 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10,chiếm tới 75% tổng lượng nước cả năm, riêng tháng 8 đã chiếm 21%. Mùa cạn dài 7 tháng, từ tháng 11 đến tháng 5, chiếm có 2,1%. Như vậy tháng 8 có lượng nước gần bằng cả mùa cạn và gấp tới 10 lần lượng nước của tháng kiệt. Mùa lũ của sông Hồng xảy ra đồng thời trên toàn lưu vực, có sự phối hợp lũ rất nguy hiểm giữa dòng chính sông Hồng là các phụ lưu, trong đó lượng nước sông Đà chiếm tỉ lệ 41-61%, sông Lô chiếm 20-34% và sông Thao 15-23%.

Theo các số liệu thống kê trong 70 năm (1902 - 1971) đã có sự kết hợp lũ như sau: lũ lớn do ba sông gặp nhau là 7 lần, đặc biệt là các trận lũ của các năm 1913, 1945 và 1971. Lũ của hai sông gặp nhau cũng rất lớn, như các trận lũ của hai sông Đà và sông Lô, sông Đà và sông Thao, rồi đến sông Thao và sông Lô. Do những đặc tính trên nên thời gian của một con lũ thường kéo dài trung bình là 6 ngày, có khi tới 18 ngày, lớn nhất là con lũ năm 1945 kéo dài tới 30 ngày. Lũ thường có biên độ lớn, tới 7-10m, đồng thời tốc độ truyền lũ rất nhanh, ở thượng lưu và trung lưu là 4-7m/s, ở hạ lưu là 3-5m/s và cường suất nước dâng lớn, ở trung và thượng lưu là 3 - 7m/ ngày, ở hạ lưu là 1 - 4m/ngày. Tuy nhiên, nhờ các sông nhánh các sông Đáy, sông Đuống và sông Luộc chia bớt nước lũ ở hạ lưu sông Hồng cũng được giảm nhanh chóng, song cũng chính vì vậy mà lũ sông Hồng lại có ảnh hưởng lớn tới lũ sông Thái Bình.

Lượng dòng chảy cát bùn của sông Hồng cũng rất phong phú. Sông Hồng ở Sơn Tây có độ đục trung bình là 1010g/m3 ứng với tổng lượng phù sa 120 triệu tấn/năm và trị số xâm thực 793 tấn/km2/năm. Dòng cát bùn ở thượng lưu sông Hồng lớn hơn hẳn ở trung và hạ lưu. ở Lào Cai, sông Hồng có độ đục trung bình là 2730g/m3, tức là gấp 2,7 lần độ đục ở Sơn Tây. Dòng chảy cát bùn cũng có sự phân chia thành hai mùa, nhưng sự tương phản giữa mùa lũ và mùa cạn về độ đục rất lớn, mùa lũ có thể chiếm tới 90% tổng lượng cả năm, riêng tháng 8 có độ đục lớn nhất đã chiếm tới 37% tổng lượng cả năm. 4.2.1.2. Hệ thống sông Mã Sông Mã có diện tích lưu vực rộng 28400km2 vời dòng chính dài 512km. Dòng sông Mã bắt nguồn từ dãy Pu Va thuộc Sơn La, chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua Sầm Nưa trên đất Lào rồi tiếp tục chảy qua Thanh Hoá và đổ ra biển ở ba cửa là cửa Lèn, cửa Lạch Trường và cửa Lạch Trào.

Hệ thống sông Mã có tới 90 phụ lưu ở 4 cấp khác nhau, trong đó có những phụ lưu cấp 1 tương đối lớn như Nậm Thi, Nậm La, sông Luồng, sông Bưởi và sông Chu.

Về dòng chảy, lưu lượng nước trung bình hàng năm của dòng chính sông Mã ở Cẩm Thuỷ là 330m3/s tương ứng với tổng lượng dòng chảy là 10,46 tỉ m3/năm;

37

song nếu tính cả cả phụ lưu thì lưu lượng trung bình hàng năm của hệ thống sông Mã lên tới 526m3/s, ứng với tổng lượng dòng chảy là 16,6 tỉ m3/năm. Trong đó phần của dòng chính là 68%, của sông Chu là 28% và của sông Bưởi là 4%.

Mô đun dòng chảy của lưu vực sông Mã tương đối nhỏ và phân bố khá đồng đều trên toàn khu vực, trên sông Mã tại Cẩm Thuỷ là 18,8 l/s/km2, trên sông Chu tại Xuân Khánh cũng là 18,8 l/s/km2.

Về dòng chảy cát bùn, hệ thống sông Mã có lượng phù sa khá lớn. Tại Cẩm Thuỷ độ đục trung bình hàng năm là 402g/m3, tương đương với tổng lượng phù sa là 4,35 triệu tấn/năm và trị số xâm thực là 248 tấn/năm/km2. Trên sông Chu lượng phù sa ít hơn nhiều: tại Xuân Khánh, độ đục trung bình hàng năm chỉ đạt 192g/m3 ứng với tổng lượng phù sa là 0,8 triệu tấn/năm và trị số xâm thực là 109 tấn/km2/năm.

Chế độ dòng chảy của hệ thống sông Mã cũng đơn giản với một mùa lũ dài 5 tháng (từ tháng 6 đến tháng 10) chiếm khoảng 75% tổng lượng nước cả năm và tháng có lượng nước lớn nhất là tháng 8, chiếm 21,8% tổng lượng nước cả năm. Trên sông Chu mùa lũ cũng xảy ra tương tự, song lượng nước tại Xuân Khánh trong mùa lũ có thể lên tới 88% và tháng có lưu lượng lớn nhất là tháng 9 chiếm tới 27,1% lượng nước cả năm. Mùa cạn kéo dài 7 tháng trên toàn bộ hệ thống sông Mã (từ tháng 11 đến tháng 5), chiếm 25% tổng lượng cả năm và kiệt nhất vào tháng 3, chỉ chiếm 2,4%. Trong đó trên sông Chu mùa cạn chỉ chiếm 12% tổng lượng nước và tháng 3 là tháng kiệt nhất chỉ chiếm có 0,8%. Trên toàn bộ hệ thống sông Mã chế độ dòng chảy có sự chênh lệch rất lớn, đặc biệt trên sông Chu. Chính vì vậy đập Bái Thượng trên sông Chu đã được xây dựng từ lâu để điều tiết nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.

4.2.2. Một số hệ thống sông chính ở miền Trung 4.2.2.1. Hệ thống sông Cả (sông Lam) Hệ thống sông Cả có diện tích lưu vực 27.200km2, trong đó có 9450km2 ở khu vực thượng lưu, chiếm 31% diện tích lưu vực, nằm trên lãnh thổ nước Lào. Dòng chính của hệ thống sông Cả tính từ Nậm Nón bắt nguồn từ dãy Pu Lôi (Lào) có chiều dài 531km. Trên lãnh thổ Việt Nam, theo dòng Nậm Mô, sông Cả chảy qua Cửa Rào, Đô Lương, thành phố Vinh và đổ ra vịnh Bắc Bộ ở Cửa Hội, có hướng chính là hướng Tây Bắc - Đông Nam dọc theo đứt gãy sông Cả.

Hệ thống sông Cả có tới 150 phụ lưu, tới phụ lưu cấp 3, trong có các phụ lưu quan trọng như sông Con bên tả ngạn, từ núi Phu Hoạt chảy xuống và các sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu bên hữu ngạn trên đất Hà Tĩnh từ sườn núi Bà Mụ và Rào Cỏ chảy về.

Hệ thống sông Cả có lượng nước khá lớn, tổng lượng nước trung bình hàng năm tới 24,7 tỉ m3.

Môđun dòng chảy của lưu vực sông Cả là 33 l/s/km2. Tuy vậy môđun dòng chảy phân bố không đều. Tại Mường Xén (trên sông Nậm Mô) môđun dòng chảy là 26,7 l/s/km2, tại Quỳ Châu (trên sông Hiếu) mô đun dòng chảy là 47,7 l/s/km2 tại Hoà Duyệt (trên sông Ngàn Sâu) môđun dòng chảy tới 64,9 l/s/km2.

Về dòng chảy cát bùn, hệ thống sông Cả có lượng phù sa không lớn lắm. Trên sông Cả, tại Yên Thượng, độ đục trung bình hàng năm là 206g/m3 tương đương tổng lượng phù sa là 3,5 triệu tấn/năm và trị số xâm thực là 148 tấn/năm/km2. Tuy vậy, tại Quỳ Châu độ đục trung bình hàng năm chỉ có 18g/m3 và tại Hoà Duyệt, độ đục thấp hơn cả, chỉ còn 114g/m3.

38

Chế độ dòng chảy của hệ thống sông Cả khá phức tạp và không đồng nhất tại các khu vực. Trên dòng chính sông Cả, tại Yên Thượng mùa lũ kéo dài 5 tháng (từ tháng 7 đến tháng 11) và tháng có lượng nước lớn nhất là tháng 9. Trên sông Hiếu mùa lũ đến sớm hơn, từ tháng 6 và kéo dài 6 tháng cho đến tháng 11. Trên sông Ngàn Sâu, chế độ dòng chảy đã mang tính chất của sông ngòi Trung Trung Bộ với sự xuất hiện của lũ tiểu mãn (tháng 5) và mùa lũ chính đã rút ngắn, chỉ còn 3 tháng và thường xảy ra muộn, từ tháng 9 đến tháng 11. 4.2.2.2. Hệ thống sông Ba (sông Đà Rằng) Hệ thống sông Ba là một hệ thống sông khá lớn và chảy hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Diện tích lưu vực sông Ba đạt 13.900km2 và chiều dài dòng chính 388km. Bắt nguồn từ sườn các núi Công Ca Kinh (1761m) và Công Plông (1376m), sông Ba chảy theo hướng Bắc - Nam, đến Cheo Reo là cửa phụ lưu Ay Dun, sông chuyển sang hướng Tây Bắc - Đông Nam và tới Cổ Sơn thì chảy theo hướng Tây - Đông để đổ ra biển ở cửa Đà Diệt (Tuy Hoà).

Hệ thống sông Ba cũng khá phát triển, có tới 105 phụ lưu thuộc 4 cấp, trong đó đáng kể là sôngAy Dun dài 175km với diện tích lưu vực 2950km2, sông Krông H'năng dài 130km với diện tích lưu vực 11840km2 và sông Hinh dài 88km với diện tích lưu vực 1040km2. Các trị số đặc trưng dòng chảy của hệ thống sông Ba không lớn lắm. Tại Củng Sơn, môđun dòng chảy là 23 l/s/km2 tương đương với tổng lượng nước 9,39 tỉ m3/năm, với lớp dòng chảy là 672mm/năm và hệ số dòng chảy 0,42. Tuy nhiên các phụ lưu của sông Ba có lượng nước lớn hơn như tại khu vực Cheo Reo trên sông Ay Dun môđun dòng chảy đạt 24 l/s/km2 và tại khu vực sông Hinh, môđun lên tới 63,8 l/s/km2. Sông Ba cũng không nhiều phù sa. Tại Củng Sơn độ đục trung bình hàng năm là 227g/m3 và trị số xâm thực cũng chỉ tới 158tấn/km2/năm.

Chế độ nước của hệ thống sông Ba khá phức tạp, mang tính chất của các sông miền Trung Trung Bộ tức là có thêm lũ tiểu mãn vào các tháng 6, tháng 7, còn mùa lũ chính thì lại ngắn và xảy ra muộn, thường vào tháng 9 đến tháng 12. Lượng nước mùa lũ chiếm hơn 70% lượng nước cả năm và riêng tháng có lưu lượng lớn nhất (tháng 11) đã chiếm tới 28,5%, tương đương với lượng nước của 8 tháng mùa cạn. Tháng kiệt nhất là tháng 4 có lượng nước chỉ chiếm 1,4% tổng lượng nước cả năm. Điều đó cũng nói lên tính chất khắc nghiệt của mùa khô ở đây. Vì vậy ngay từ năm 1928 đập Đồng Cam đã được xây dựng và hiện đang tiếp tục xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn như công trình thủy lợi sông Hinh để điều hoà mực nước và giữ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.

4.2.3. Một số hệ thống sông chính ở miền Nam 4.2.3.1. Hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ Đây là một hệ thống kép, vì hai sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ chỉ gặp nhau ở cửa Soi Rạp còn được nối với nhau bằng các kênh rạch. Đây là hệ thống ở cửa Soi Rạp còn được nối với nhau bằng các kênh rạch. Đây là hệ thống sông lớn thứ ba ở Việt Nam sau hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long. Chiều dài dòng chính sông Đồng Nai là 635km. Diện tích toàn lưu vực của hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ là 44.100km2, tập trung chủ yếu ở Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và một phần ở Tây Nam Bộ; ngoài ra còn có một phần nằm trên lãnh thổ Campuchia là khu vực thượng lưu của các sông Vàm Cỏ Đông và sông Sài Gòn (rộng khoảng 6700km2, chiếm 15% diện tích toàn lưu vực).

Toàn bộ hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ tới 265 phụ lưu, phát triển tới cấp 4, trong đó có các sông quan trọng như sông Đa Dung dài 91km với diện tích lưu

39

vực 1250km2, sông Đắc Nung dài 79km với diện tích lưu vực 1140km2, sông La Ngà dài 272km với diện tích lưu vực 4170km2, sông Bé dài 344km với diện tích lưu vực 7170km2, sông Sài Gòn dài 256km với diện tích lưu vực 5560km2 và sông Vàm Cỏ dài 218km với diện tích lưu vực 12800km2. ở khu vực hạ lưu sông Đồng Nai có 3 chi lưu đổ ra biển gồm hai chi lưu cấp 1 là sông Lòng Tàu và sông Soi Rạp và một chi lưu cấp hai là sông Đồng Thanh. Tuy vậy chỉ có cửa Lòng Tàu mới thực sự là dạng vịnh cửa sông có độ sâu tới 18m và khá rộng nên trung tâm thành phố Hồ Chí Minh mặc dù ở cách xa biển tới 80km vẫn có điều kiện thuận lợi để xây dựng cảng Sài Gòn thành một cảng lớn nhất Việt Nam hiện nay.

Lượng dòng chảy của hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ khá phong phú với tổng lượng nước vào khoảng 32,8 tỉ m3/năm, ứng với lớp dòng chảy 811mm/năm và hệ số dòng chảy 0,4. Trong tổng lượng nước này phần từ lãnh thổ Campuchia chảy vào sông Vàm Cỏ và sông Sài Gòn là 2,4 tỉ m3/năm, chiếm khoảng 7,4%.

Môđun dòng chảy trên toàn lưu vực hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ là 26,1 l/s/km2, tuy nhiên có sự phân bố không đều. Môđun dòng chảy tại Trị An trên dòng chính sông Đồng Nai là 39,9 l/s/km2, tại Đắc Nông trên sông Đắc Nung là 34,1 l/s/km2, tại Tà Pao trên sông La Ngà là 37,9 l/s/km2, tại Phước Hoà trên sông Bé là 37,2 l/s/km2, tại Cần Đăng trên sông Vàm Cỏ là 17,3 l/s/km2.

Lượng phù sa của hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ không nhiều, tổng lượng phù sa vào khoảng 3,36 triệu tấn/năm với độ đục trung bình khoảng 200g/m3 và trị số xâm thực là 227 tấn/km2/năm.

Chế độ nước của hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ cũng đơn giản, có một mùa lũ và một mùa cạn. Tại Trị An mùa lũ kéo dài 5 tháng (từ tháng 7 đến tháng 11) với lượng nước chiếm tới 82,8% tổng lượng nước cả năm. Tháng có lượng nước lớn nhất là tháng 8 chiếm 21% lượng nước cả năm. Mùa cạn kéo dài tới 7 tháng (từ tháng 12 đến tháng 6) nhưng lượng nước chỉ bằng 17,2% tổng lượng nước cả năm và tháng kiệt nhất là tháng 3 chỉ chiếm có 0,8% tổng lượng nước. Lũ trên hệ thống sông Đồng Nai - Vàm Cỏ không tập trung đột ngột do dạng lông chim của mạng lưới sông, do độ dốc lưu vực không lớn với lớp vỏ phong hoá dày và do độ che phủ rừng còn cao. Chỉ có ở khu vực hạ lưu, do cửa sông có dạng vịnh cửa sông nên thuỷ triều dã có tác động mạnh, nhất là trên các Sông Vàm Cỏ và sông Sài Gòn. Lên quá Biên Hoà 30km vẫn còn thấy tác động của thuỷ triều.

4.2.3.2. Hệ thống sông Cửu Long (sông Mê Kông) Hệ thống sông Mê Kông, là một trong những hệ thống sông lớn ở châu á và thế giới. Hệ thống sông Mê Công có diện tích lưu vực tới 810.000km2 trong đó 20,7% thuộc Trung Quốc, 2,6% thuộc Mianma; 32,4% thuộc Lào; 23,8% thuộc Thái Lan; 19% thuộc Campuchia và 1,5% thuộc Việt Nam. Chiều dài dòng chính của sông Mê Công tới 4500km, nhưng phần ở Việt Nam chỉ có 230km. Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (ở độ cao 5000m), chảy chủ yếu theo hướng Bắc - Nam trừ hai đoạn ngắn ở Thượng Lào theo hướng Tây - Đông. Về đến Phnôm Pênh sông Mê Kông chia làm 3 nhánh: nhánh Tông lê Sáp chảy vào Biển Hồ và hai nhánh chảy vào Việt Nam là sông Tiền và sông Hậu. Sông Mê Kông đổ ra Biển Đông qua 9 cửa là cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Định An, cửa Bát Xắc và cửa Tranh Đề. Và chính vì vậy mà sông Mê Công ở Việt Nam còn được mang tên là sông Cửu Long (9 con rồng tượng trưng cho 9 cửa sông).

Hệ thống sông Mê Công có rất nhiều phụ lưu, riêng ở Việt Nam có 286 phụ lưu từ cấp 1 đến cấp 6, trong đó có con sông lớn nhất là sông Xrêpốc dài 315km với

40

diện tích lưu vực là 30.384km2, môđun dòng chảy là 22,7 l/s/km2 và độ đục trung bình 52,5g/m3 (tại Bản Đôn).

Hai nhánh sông Tiền và sông Hậu ở Việt Nam là quan trọng nhất vì nó tiếp nhận nguồn nước của toàn bộ hệ thống sông Mê Kông với tổng lượng dòng chảy vô cùng phong phú, đạt 507 tỉ m3/năm, chiếm tới 60,4% tổng lượng nước tất cả các sông ngòi ở Việt Nam. Trong tổng lượng nước này phần nước từ các nước Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái Lan, Campuchia cung cấp chiếm 88,5% (457 tỉ m3/năm) còn phần sản sinh tại Việt Nam chỉ có 50 tỉ m3/năm chiếm 11,5%. Khi mới chảy vào Việt Nam lượng nước của sông Tiền tại Tân Châu chiếm 80%, còn của sông Hậu tại Châu Đốc chỉ có 20%. Chỉ đến khi sông Tiền chia nước cho sông Hậu qua sông Vàm Nao thì lượng nước của hai sông này mới tương đương nhau. Lượng nước của sông Tiền tại Mĩ Thuận còn 50,52% và của sông Hậu tại Cần Thơ là 49,48% tổng lượng nước của sông Cửu Long.

Tổng lượng phù sa của sông Cửu Long rất lớn tuy rằng độ đục trung bình của nó không cao chỉ vào khoảng 100-150g/m3 và trị số xâm thực đạt 76-100 tấn/km2/năm. Khối lượng phù sa đồ sộ này vẫn không ngừng bồi đắp cho vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long thêm màu mỡ và hàng năm tiến ra biển tới hàng trăm mét.

Chế độ nước của sông Cửu Long đơn giản và điều hoà. Mùa lũ dài khoảng 5 tháng, từ tháng 7 đến tháng 11, với lượng nước chiếm 75% tổng lượng nước cả năm. Lũ trên sông Cửu Long khi lên và khi rút đều diễn ra từ từ vì lưu vực sông dài có dạng lông chim, diện tích lớn, độ dốc bình quân nhỏ và chủ yếu là do tác dụng điều hoà của Biển Hồ tại Campuchia. ở đồng bằng sông Cửu Long đỉnh lũ thường xảy ra vào tháng 9 sau đó mức nước xuống thấp dần và kiệt nhất vào tháng 4. Điều đáng chú ý là vùng hạ lưu sông Cửu Long vì địa hình thấp và với hệ thống kênh rạch chằng chịt đã chịu tác động rất mạnh của chế độ thuỷ triều.

4.3. Hồ và nước ngầm 4.3.1. Hồ Các hồ tự nhiên có nhiều nguồn gốc hình thành khác nhau. Có hồ được hình thành trên khúc uốn của dòng sông cũ như hồ Tây ở Hà Nội. Có hồ được hình thành trên khu vực sụt lún của vùng núi đá vôi như hồ Ba Bể ở Bắc Cạn. Có những hồ được hình thành trên miệng của các núi lửa tự nhiên ở Việt Nam thường có diện tích không lớn lắm, nhưng có cảnh quan đẹp và nổi tiếng từ lâu đời.

Ngoài các hồ tự nhiên ở Việt Nam cũng đã xây dựng được hàng nghìn hồ chứa nước lớn nhỏ ở khắp mọi vùng đất nước, kể ở các vùng cao. Các hồ này trước hết là các công trình thuỷ lợi phục vụ cho việc tưới nước, điều hoà dòng chảy. Các hồ chứa lớn thường dược xây dựng các nhà máy thuỷ điện, phát triển giao thông đường thuỷ. Các hồ chứa lớn, nổi tiếng ở Việt Nam như hò Hoà Bình (Hoà Bình), hồ Thác Bà (Yên Bái), Hồ Cấm Sơn (Bắc Giang), hồ Núi Cốc (Thái Nguyên), hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô (Hà Tây), Hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Hồ Phú Ninh (Quảng Nam), hồ Trị An (Đồng Nai), hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh).

Nói chung các hồ ở Việt Nam là nơi chứa và dự trữ một lượng nước mặt quan trọng. Các hồ này có tác dụng làm điều hoà dòng chảy, phục vụ thuỷ lợi, nuôi trồng thủy sản, phát điện, giao thông đường thuỷ, đồng thời tạo nên các thắng cảnh kết hợp với khí hậu trong lành thường được khai thác phục vụ cho việc an dưỡng, nghỉ ngơi, du lịch.

4.3.2. Nước ngầm

41

Việt Nam có lượng nước ngầm khá phong phú. Nước ngầm là nguồn cung cấp nước cho các đô thị và khu Đông dân cư, cho sông ngòi và cây cối trong mùa khô. Nguồn nước ngầm ở Việt Nam được tích luỹ từ nước mưa trong suốt các thời kì mùa mưa.

Nước ngầm ở Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các khu vực. Nguồn nước ngầm phong phú ở các đồng bằng phù sa nhất là tại các bậc thềm phù sa cổ và các cồn cát duyên hải. Vùng đá vôi rất hiếm nước trên mặt nhưng số có lượng nước ngầm lớn do có nhiều khe nứt và hang động. Mực nước ngầm ở đây nằm ở rất sâu, thường trên 100m (có nơi túi nước ngầm ở độ sâu tới 1000m). ở các vùng núi, các cao nguyên badan cũng sẵn nguồn nước ngầm, thường ở độ sâu 10-150m với chất lượng tốt, phần lớn là nước ngọt và ở một số nơi còn có cả nước khoáng. Lượng nước ngầm giảm đi rõ rệt tại các bãi bồi phù sa mới, đất nhiều hạt mịn khó thấm nước, tại các vùng đá cuội kết, cát kết và tại các vùng đá biến chất. Mực nước ngầm dao động khá rõ rệt giữa hai mùa, lên cao về mùa mưa và hạ thấp về mùa khô.

Ngoài nguồn nước ngầm có nhiệt độ bình thường, ở Việt Nam còn có nhiều nguồn nước nóng và nước khoáng, nhất là tại những nơi có đứt gãy hay hoạt động macma. Nhiệt độ của loại nước này có thể đạt trên dưới 1000C như ở điểm lộ nước suối Bang ở Quảng Bình, suối Thăng Hải ở Kon Tum nóng 760C, suối Cổ Bi gần Huế nóng 710C, suối Nhân Già ở Tuyên Quang nóng 600C, suối Kênh Gà ở Ninh Bình nóng 520C. Xét theo thành phần hoá học, Việt Nam có các loại nước ngầm chứa bicacbonat- natri-canxi ở khu vực Đông Bắc, Tây Bắc, Trung Bộ, Tây Nguyên; chứa clorua natri ở đồng bằng Bắc Bộ; sunfát-natri-canxi, sunfát-canxi-magiê ở Tây Bắc; clorua- bicacbonat-natri ở Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ.

4.4. Đặc điểm hải văn 4.4.1. Đặc điểm chung hải văn Biển Đông Biển Đông là biển mới được hình thành trong giai doạn tân kiến tạo, là biển lớn thứ hai trong số các biển ở Thái Bình Dương và thứ ba trên thế giới. Biển Đông nằm giữa các vĩ độ 0-250B và các kinh độ 100 - 1210Đ, với chiều dài khoảng 3000km từ Xingapo đến Đài Loan và chiều rộng tới 1000km từ bờ biển Nam Bộ đến bờ biển đảo Kalimantan. Biển Đông có diện tích 3,447 triệu km2, độ sâu trung bình là 1140m với tổng lượng nước là 3,928 triệu km3. Biển Đông có vùng thềm lục địa vào loại rộng nhất thế giới, khoảng 1,5 triệu km2 trong đó tập trung nhiều nhất là vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan và vùng thềm lục địa từ Cà Mau đến Xingapo. Tuy Biển Đông là một biển ven lục địa và phụ thuộc vào Thái Bình Dương, nhưng nó vẫn thông cả sang ấn Độ Dương nên có vị trí rất quan trọng trong giao thông hàng hải quốc tế. Các eo biển chính thông với Thái Bình Dương là eo Đài Loan, eo Ba Si và thông với ấn Độ Dương là eo Malacca, eo Gaspa và eo Karimata.

Biển Đông nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên có khí hậu nóng và thay đổi theo mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình năm đạt trên 250C (Hoàng Sa 26,80C, Trường Sa 27,70C). Mùa Đông, nhiệt độ mặt nước biển ấm hơn nhiệt độ không khí 1-20C, mùa hè thì thấp hơn khoảng 10C. Từ vĩ tuyến 160B trở vào, nhiệt độ nóng quanh năm. Càng lên phía Bắc, do ảnh hưởng của không khí cực đới của dòng biển lạnh ven bờ, nhiệt độ không khí và nước biển càng thấp hơn. ở khu vực vịnh Bắc Bộ cho đến eo biển Đài Loan vào thời kì hoạt động mạnh của gió mùa Đông Bắ nhiệt độ nước biển có thể xuống dưới 150C.

Do thiếu những nhiễu động gây mưa, nên lượng mưa hàng năm trên Biển Đông không nhiều, trong bình chỉ vào khoảng 1100 - 1300mm (Bạch Long Vĩ 1127mm, Hoàng Sa 1227mm).

42

Tốc độ gió trung bình ở Biển Đông không lớn, khoảng 3,2m/s, mỗi khi có bão hay frông lạnh tràn về, tốc độ gió tăng lên đột ngột, thường là 10-15m/s có khi tới 30m/s. Gió mạnh thường có hướng Đông Bắc, còn gió Tây Nam có tốc độ nhỏ hơn nhiều.

4.4.2. Đặc điểm hải văn Việt Nam 4.4.2.1. Nhiệt độ Nhiệt độ nước biển trung bình hàng năm ở vùng biển Việt Nam thường trên 230C và có sự thay đổi theo mùa, theo khu vực và theo độ sâu. ở vùng biển Việt Nam có nhiệt độ nước biển tăng dần từ bờ biển ra ngoài khơi. Sự dao động theo mùa của nhiệt độ nước biển rất đáng kể. Tại khu vực phía Bắc của vịnh Bắc Bộ, nhất là vùng ven bờ về mùa Đông nhiệt độ có thể xuống dưới 150C, khiến cho biên độ nhiệt độ hàng năm lên tới 12-130C (ở Cửa Ông là 12,90C, ở Cô Tô là 140C). Trong thời kì mùa hạ, nhiệt độ trên khắp vùng biển Việt Nam tương đối đồng nhất và đạt khoảng 300C. Như vậy, sự chênh lệch lớn của nhiệt độ nước biển từ Bắc vào Nam cũng chỉ xảy ra vào thời kì mùa Đông, tương tự như đối với nhiệt độ không khí trên đất liền.

Nhiệt độ nước biển giảm theo độ sâu tuỳ thuộc vào độ sâu đáy biển và vị trí vùng biển. ở vùng biển nông nhiệt độ nước biển giảm dần và diễn ra từ từ, giữa tầng mặt và tầng đáy chỉ chênh nhau 1-20C. ở ngoài khơi, nhất là ở các vùng biển sâu sự giảm nhiệt độ diễn ra phức tạp hơn nhiều. Thoạt tiên trong khoảng độ sâu 100m đầu, sự giảm nhiệt độ diễn ra từ từ theo chiều sâu, nhưng sau đó trong khoảng độ sâu từ 100-400m có sự đột biến về građien nhiệt độ. Thí dụ như ở điểm có toạ độ 120B và 1130Đ nhiệt độ giảm 1,50C trong khoảng 100m đầu (nhiệt độ nước tầng mặt 27,80C, ở độ sâu 88m còn 26,30C) nhưng đến độ sâu 404m nhiệt độ chỉ còn khoảng 90C, građien đoạn nhiệt đạt tới trên 40C/100m. Sau đó, nhiệt độ lại tiếp tục giảm, nhưng giảm rất chậm. Xuống đến độ sâu 2500m, nhiệt độ là 1,940C và như vậy građien ở tầng mực nước sâu này rất nhỏ chỉ đạt 0,350C/100m.

4.4.2.2. Độ mặn Độ mặn trung bình ở vùng biển Việt Nam khoảng 32-33%0 song cũng có sự thay đổi theo thời gian và không gian. ở khu vực ven bờ, do ảnh hưởng của nước sông nên độ mặn giảm đi và có sự thay đổi theo mùa cũng như có sự khác nhau giữa các khu vực. ở ngoài khơi, nước biển có độ mặn cao và thường ổn định hơn. Sự biến động theo mùa của độ mặn có thể dao động từ dưới 20%0 trong mùa mưa đến trên 30-32%0 trong mùa khô khiến cho biên độ hàng năm của độ mặn cũng thay đổi theo từng khu vực. Tại Hòn Dấu là 17,5%0, tại Văn Lí là 9,3%0, tại Vũng Tàu là 5,8%0, tại Phú Quốc là 5,3%0. Còn ở ngoài khơi, do độ mặn ổn định nên có biên độ mặn thấp. ở Bạch Long Vĩ là 1,8%0, gần Hoàng Sa là 0,75%0, ở đảo Song Tử Tây là 1,3%0 và ở đảo Trường Sa là 1,7%0. Độ mặn của nước biển còn tăng theo độ sâu sự gia tăng này thể hiện tương đối rõ ở khu vực ven biển, còn ở ngoài khơi chỉ tăng hơn khoảng 1%0.

5.4.2.3. Thuỷ triều Chế độ thuỷ triều ven bờ biển Việt Nam có những nét riêng khác với các khu vực khác trên thế giới. Dọc bờ biển Việt Nam phổ biến là chế độ nhật triều (bao gồm nhật triều đều và nhật triều không đều), còn chế độ bán nhật triều (gồm bán nhật triều đều và bán nhật triều không đều) khá phổ biến trên thế giới thì lại kém phát triển ở Việt Nam. Các nhân tố tác động trực tiếp đến chế độ thủy triểu ở Việt Nam là địa hình và độ sâu của đáy biển, các vũng vịnh và hải

43

đảo, nhất là đảo Hải Nam. Chế độ thuỷ triều được xác định qua tỉ số đặc trưng thuỷ triều của A.I.Đuvamin (1960):

Trong đó: HK1: Độ cao sóng nhật triều của độ xích vĩ Mặt Trăng và Mặt Trời. HO1: Độ cao sóng nhật triều của Mặt Trăng. HM2: Độ cao sóng bán nhật triều của Mặt Trăng. Trị số K được sử dụng để xác định chế độ thuỷ triều, cụ thể là: 0 < K < 0,5 là chế độ bán nhật triều. 0,5 < K < 2,0 là chế độ bán nhật triều không đều 2,0 < K < 4,0 là chế độ nhật triều không đều. 4,0 < K là chế dộ nhật triều Ở ven biển Việt Nam chế độ thủy triều diễn ra như sau: - Chế độ nhật triều đều: xảy ra ở phía Bắc của vịnh Bắc Bộ như Thiên Môn (K = 8,30), Cẩm Phả (K = 10,70), Hòn Gai (K = 26,1), Hòn Dáu (K = 27,13), Bạch Long Vĩ (K = 14,90) và ở vịnh Thái Lan như Thổ Chu (K = 8,00). Các địa phương có chế độ nhật triều là trong một ngày có một lần nước lên và một lần nước xuống và với số ngày nhật triều chiếm tới 95% hàng tháng.

- Chế độ nhật triều không đều: xảy ra ở phía Nam vịnh Bắc Bộ; Hòn Niên (K = 3,58), Đồng Hới (K = 3,31); bờ biển Nam Trung Bộ: Quy Nhơn (K = 3, 55), Nha Trang (K = 3, 66), Cù Lao Thu (K = 3,05), La Gán (K = 3, 38) và ở Nam Bộ như Cà mau (K = 3, 87), Hòn Rái (K = 3,92), Hà Tiên (K = 3, 98). Tại các địa phương này trong ngày có một lần triều lên và một lần triều xuống nhưng cũng có ngày có hai lần triều lên và hai lần triều xuống nhưng tính chung cả tháng số ngày nhật triều vẫn chiếm đa số từ 50 - 70%.

- Chế dộ bán nhật triều: rất hiếm ở Việt Nam, chế độ này chỉ phát triển duy nhất trong phạm vi vài chục km ở khu vực cửa Thuận An, Huế (K = 0,28). ở đây trong một ngày có hai lần triều lên và hai lần triều xuống.

- Chế độ bán nhật triều không đều: cũng ít xảy ra ở Việt Nam và tập trung ở hai khu vực từ Cửa Tùng đến Quảng Ngãi (Đã Nẵng K = 1,38) và Vũng Tàu - Côn Đảo (Vùng Tàu K = 1,32). Tại các khu vực này cũng có những ngày có chế độ nhật triều vào thời kì nước cường và những ngày có chế độ bán nhật triều vào thời kỳ nước kém, nhưng số ngày có chế độ bán nhật triều vẫn lớn hơn. Độ lớn của triều được chia thành 4 cấp với các độ cao khác nhau: lớn (3m),khá lớn (2,9 - 2,1m), trung bình (2,0 - 1,1m) và nhỏ (1m). Tại vùng biển Việt Nam có thể chia ra 6 khu vực các độ lớn thuỷ triều như

sau:

Từ Móng Cái đến Thanh Hoá có thuỷ triều lớn với độ cao từ 3,3-3,9m. Từ Nghệ An đến Quảng Bình có thuỷ triều trung bình và khá lớn với độ cao từ

1,6 - 2,1m. Từ Quảng Trị đến thành phố Đà Nẵng có thuỷ triều trung bình với độ cao từ 1,2 - 1,6m. Từ thành phố Đà Nẵng đến Mũi Ba Kiệm có thuỷ triều trung bình và khá lớn

với độ cao từ 1,9 - 2,1m.

Từ mũi Ba Kiệm đến Cà Mau có thuỷ triều lớn với độ cao từ 3,5-4,2m. Từ Cà Mau đến Hà Tiên có thuỷ triều trung bình với độ cao từ 1,2-1,4m. 5.4.2.4. Sóng

44

ở vùng biển Việt Nam sóng không lớn lắm nhưng cũng khác nhau về kích thước, hướng truyền và dạng sóng do sự chi phối của chế độ gió và đặc điểm địa hình bờ biển. Sóng gió chịu tác động trực tiếp của gió mùa còn sóng lừng là loại dao động không chịu tác động trực tiếp của nhân tố tạo sóng mà được phát sinh do sự đổi hướng hay giảm tốc độ đột ngột của gió, nhất là do gió bão gây ra.

Trong mùa Đông tần suất hướng sóng Đông Bắc chiếm tới 75%, cao nhất trong tháng 1 và tháng 2 có thể lên tới 80-90% với số ngày sóng mạnh trên cấp 5 (2- 3,5m) chiếm trên 20-30%.

Trong gió mùa Tây Nam do tốc độ gió nhỏ nên số ngày lặng sóng lên đến 20% và số ngày sóng mạnh cấp 5 giảm xuống còn 10-20%. Hướng sóng Tây Nam trung bình chiếm khoảng 60% trong mùa hạ. Vào thời kì giữa mùa (tháng 7, 8) tần suất tối đa cũng chỉ tới 67%, song mỗi khi có bão thì sóng hướng Tây Nam lại lớn hơn hẳn sóng hướng Đông Bắc. Khi gió có tốc độ 200km/h thì sóng có thế cao tới 18m. Ngoài ra trong các mùa chuyển tiếp, số ngày lặng sóng tăng lên rõ rệt và những ngày sóng lớn chỉ chiếm dưới 10%.

Ở Việt Nam sóng gió và sóng lừng mạnh nhất ở khu vực bờ biển Trung Bộ đặc biệt là những nơi chịu tác động trực tiếp của gió Đông Bắc như ở các đảo Cồn Cỏ, Phú Quý có độ cao trung bình của sóng đạt cấp 4. Nơi ít sóng, đồng thời cũng là nơi sóng nhỏ nhất là vịnh Thái Lan, thường chỉ ở cấp 1 - cấp 2. Khu vực vịnh Bắc Bộ được che khuất bởi đảo Hải Nam nên sóng nhỏ, độ cao trung bình đạt cấp 2 - cấp 3. Tuy vậy, tại dây mỗi khi có gió mùa Đông Bắc tràn về, sóng vẫn có thể rất lớn. Độ cao lớn nhất của sóng ở Cô Tô là 6,1m, ở Bạch Long Vĩ là 7m, đạt cấp 6, cấp 7.

4.4.2.5. Dòng biển (hải lưu) Ngoài các dao động nước biển kể trên, còn có dạng chuyển dộng tịnh tiến của nước biển. Đó là các dòng biển.

Dòng biển chủ yếu trên Biển Đông là các dòng địa phương trong nội bộ Biển Đông do gió mùa và địa hình bờ biển chi phối. Ngoài ra cũng có các dòng biển bổ sung từ phía Bắc xuống hay từ Thái Bình Dương vào qua các eo biển của Biển Đông. Dòng biển trên vùng biển Việt Nam được hình thành bởi hai dòng chảy khác nhau tuỳ thuộc vào tác động của gió mùa.

Về mùa Đông, gió mùa Đông Bắc tạo nên một dòng biển chảy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam kết hợp với một bộ phận nước từ dòng biển lớn Kưrôsivô rẽ vào, với tốc độ khoảng 60-70cm/s (hơn 1 hải lí/h) đôi khi lên tới 100cm/s. Đặc biệt vào thời kì giữa mùa Đông (từ tháng 12 đến tháng 2) gió mùa Đông Bắc thổi ổn định và mạnh, tốc độ của dòng biển có thể đạt tới 2-3 hải lí/h.

Về mùa hạ, do ảnh hưởng của gió Tây Nam nên hình thành một dòng biển chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Dòng biển này chảy sát bờ biển Trung Bộ song càng lên phía Bắc càng mở rộng và càng lệch sang phía Đông rồi chảy vào dòng biển lớn Kưrôsivô, tốc độ trung bình chỉ đạt 30cm/s, lớn nhất tới 50-60cm/s. Trong thời gian dòng biển mùa hạ chảy, dòng biển mùa Đông không mất hẳn, mà có thể chìm sâu xuống, chảy ở độ sâu 80-140m.

Trong các tháng chuyển mùa, cả hai dòng biển trên đều yếu, nên đã hình thành dòng biển nhỏ chạy vòng tròn, ở phía Bắc xoáy nước tròn nằm ở giữa cửa vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa, còn ở phía Nam thì từ bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ đến Côn Đảo.

Ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan, hệ thống dòng biển cũng có sự thay đổi ngược nhau theo mùa. Tại vịnh Bắc Bộ vào mùa Đông có một dòng biển lạnh chạy

45

theo hướng Đông Bắc - Tây Nam ven theo đường bờ với tốc độ 25-30cm/s, đồng thời từ cửa vịnh theo hướng Tây Nam - Đông Bắc có một dòng biển nóng chảy theo bờ đảo Hải Nam. Cả hai dòng biển này đã tạo thành một vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ. Vào mùa hạ, từ cửa vịnh một dòng biển nóng khác chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc men theo bờ biển Bắc Bộ với tốc độ trung bình 15-20m/s rồi vòng về ven biển đảo Hải Nam hình thành một hệ thống vòng tròn chảy thuận chiều kim đồng hồ. Tại vịnh Thái Lan vào thời kì gió mùa Đông Bắc, dòng biển biển thành vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ nên ở khu vực bờ biển phía Tây Nam Bộ thuộc Kiên Giang và Cà Mau có dòng biển Đông Nam - Tây Bắc với tốc độ 15-20cm/s. Còn vào thời kì gió mùa Tây Nam thì dòng biển chảy thành vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ nên ở khu vực bờ biển phía Tây Nam Bộ lại có dòng Tây Bắc - Đông Nam với tốc độ 10-15cm/s. Điều đáng chú ý là ở khu vực giữa vịnh nước chuyển động với tốc độ rất nhỏ nên đã tạo điều kiện cho sự tập trung một lớp rong nổi, hình thành một biển Sa Gát nhỏ, giống như ở giữa Đaị Tây Dương.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 4: 1. Sông ngòi Việt Nam có những đặc điểm chung nào? Phân tích các khả năng khai thác các giá trị của mạng lưới sông Việt Nam. 2. Trình bày một vài hệ thống sông chính ở Việt Nam và so sánh chúng với nhau.

3. Phân tích tác dụng của hồ và nước ngầm ở Việt Nam. 4. Đặc điểm hải văn Việt Nam.

46

Chương 5. THỔ NHƯỠNG VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 5: - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về thổ nhưỡng Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Chuẩn đầu ra của chương 5: Sinh viên biết được thổ nhưỡng Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn đề về thổ nhưỡng Việt Nam như nguyên nhân hình thành, tác động của thuỷ văn đến tự nhiên, kinh tế - xã hội… Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

5.1. Đặc điểm chung của thổ nhưỡng Việt Nam 5.1.1. Thổ nhưỡng Việt Nam rất đa dạng, phức tạp 5.1.1.1. Đá mẹ và các quá trình phong hóa ở Việt Nam Đá mẹ tham gia vào quá trình hình thành thổ nhưỡng như là một thành phần vật chất, cung cấp chất vô cơ cho đất, quyết định cấu tạo, tính chất lý học và hóa học của đất.

Thành phần đá mẹ ở Việt Nam rất phong phú, tuy nhiên có thể gộp thành ba nhóm chính là đá axit, đá bazơ và phù sa bồi tích, mỗi nhóm có quá trình hình thành vỏ phong hoá riêng và những loại đất riêng.

a. Nhóm đá mẹ axít với sự hình thành vỏ phong hóa Feralit - Thuộc nhóm đá mẹ axít ở Việt Nam có đá granit, riôlit, pecmatid, porfia thạch anh, đá cát thạch anh, đá cát fenspat, đá phiến silic và biến chất quaczit. Đây là nhóm đá phổ biến nhất ở Việt Nam, chủ yếu ở vùng đồi núi phía Bắc

và cả ở vùng núi Hecxini thuộc dải Trường Sơn.

- Đặc trưng của vỏ phong hóa Feralit là giầu khoáng sét Kaolinit. Kaolinit là loại khoáng sét được hình thành trong môi trường chua, do đó nó là sản phẩm tất yếu của đá mẹ mang tính axit.

Thành phần khoáng chủ yếu trong đá mẹ axít là thạch anh (SiO2), Fenspat và mica. Thạch anh và Fensat là những khoáng vật khó phong hóa.Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, phong hóa hóa học chiếm ưu thế, trong đó quá trình thủy phân đóng vai trò quan trọng trong quá trình phong hóa đá mẹ. Quá trình Kaolinit hóa fenspat hay là quá trình hình thành khoáng sét Kaolinit từ các Aluminosilicat và là quá trình thủy phân điển hình của phong hóa nhiệt đới ẩm.

Như vậy, vỏ phong hóa chứa nhiều ôxýt nhôm tự do (vỏ phong hóa Alít) phát sinh trong điều kiện ẩm ướt thường xuyên, còn vỏ phong hóa chứa nhiều oxýt sắt tự do phát sinh trong điều kiện ẩm ướt theo mùa.

b. Nhóm đá mẹ bazơ với lớp vỏ phong hóa macgalit - Thuộc nhóm đá mẹ bazơ ở Việt Nam có các loại đá mácma xâm nhập như gabrô, mácma phun trào như điabaz, bazan, spilit, đá biến chất amfibol, đá phiến kết tinh (khoáng vật ogít), đá trầm tính hữu cơ, đá vôi, đôlômit và đá hoa, các đá macma siêu bazơ như đunit, pyroxênit, peridotid.

47

Các loại đá phun trào bazơ tập trung nhiều ở vùng đồi núi phía Nam. Đá bazan chiếm diện tích lớn ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, rải rác ở Như Xuân, Phủ Quỳ,Vĩnh Linh, Phú Yên. Các loại đá bazơ khác gặp ít hơn như gabrô ở núi Chúa (Bắc Thái), Kông Tum, Spilit ở Hòa Bình, dọc đường Lạng Sơn - Cao Bằng. Các loại đá siêu bazơ kể trên bị secpentin hóa. ở Việt Nam, gặp secpentinit rải rác từ Thanh Hóa lên Tây Bắc. Đá vôi tập trung nhiều ở vùng núi phía Bắc (Đông Bắc,Tây Bắc,Tây Quảng Bình).

- Thành phần khoáng vật của nhóm đá mẹ bazơ là các loại khoáng: Olivin(Mg, Fe)2 SiO4 ; Ogit: (Ca Na) (Mg, Fe, Al) [Si Al]2 O6 Plagioclaz: (Fenspat Ca.Na) hỗn hợp của 2 khoáng vật Anoctid và Anbit. - Thành phần khoáng vật chủ yếu của các đá mẹ trung tính là Fenspat kali (Octoclaz) và Fenspat natri (Anbít), ngoài ra còn có Hoocnơblen (Silicat thuộc nhóm Amfibol) Các loại đá này, tùy theo thành phần khoáng vật và mức độ phong hóa mà

hình thành vỏ phong hóa Feralit hoặc Macgalit - Feralit. c. Trầm tích phù sa với vỏ phong hóa Sialit Quá trình Sialit là quá trình sét hóa các khoáng nguyên sinh để tạo nên các loại khoáng sét chủ yếu như Mommorioit, Kaolint và Illit. Trong thành phần vỏ phong hóa sialit còn nhiều khoáng nguyên sinh như thạch anh, mica và cả canxít là những silicat Fe, Al so với đá mẹ giầu Silic và kiềm hơn.

Vỏ phong hóa Sialit phân bố ở vùng đất trẻ tại các vùng châu thổ sông và bãi bồi thấp ven biển hình thành vào Đệ tứ muộn và hiện đang tiếp tục. Đó là những vật liệu trầm tích sa bồi, lũ tích, sườn tích và các loại đá mẹ ven biển. Quá trình Sialit là giai đoạn đầu của quá trình Feralit. Dấu hiệu Feralit là sự xuất hiện màng sắt rõ trên các khoáng vật.Tại các vùng ven biển là vỏ phong hóa trầm tích Sialit mặn có chứa muối dễ tan như Sulfua, Clorua.

Như vậy là đá mẹ một thành phần vật chất hình thành đất, quyết định đặc tính khác nhau của các loại đất. Sự phong phú và phân bố phức tạp của đá mẹ Việt Nam đã tạo nên sự đa dạng, phức tạp của thổ nhưỡng Việt Nam.

Tuy nhiên trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam, thì sự khác nhau trong thành phần đá mẹ bị xóa mờ trong thành phần vỏ phong hóa và đất của nó bởi sự cải hóa của quá trình Feralit. Theo thành phần đá mẹ, đất Feralit có sự khác nhau chút ít về màu sắc và đặc

tính lý, hóa.

Đất Feralit trên đá mẹ axít có màu vàng đỏ, độ chua cao, phẫu diện thường phân lớp rõ, tạo thành tầng xung tích B chứa xeckioxyt Fe, Al. Đất Feralit phát triển đá mẹ trung tính và bazơ có màu đỏ thẫm ít chua, phẫu diễn tương đối đồng nhất, kiến trúc hạt bền, thấm nước và thông khí tốt. Trên thềm phù sa cổ phát triển loại đất Feralit nâu.

5.1.1.2. Địa hình với quá trình hình thành và phân bố thổ nhưỡng ở Việt Nam Vai trò của địa hình đối với quá trình hình thành thổ nhưỡng biểu hiện ở tác động phân phối lại các nguyên tố địa hoá trong lớp vỏ phong hoá và làm thay đổi điều kiện sinh- khí hậu, từ đó tác động tới cường độ và chiều hướng của quá trình hình thành đất. Có thể nói yếu tố địa hình và qua đó là điều kiện sinh - khí hậu là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự phong phú của đất Việt Nam.

a. Ảnh hưởng của đại địa hình tới sự phân bố đất theo đai cao ở Việt Nam Theo độ cao, sự hạ thấp nhiệt độ, sự tăng cường lượng ẩm đã dẫn tới sự thay thế đai rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh bằng các đai rừng á nhiệt đới lá rộng hỗn giao -

48

lá kim và trên nữa là đai rừng mưa mù cây thấp cảnh tiên. Đồng thời theo đó quá trình hình thành đất cũng thay đổi theo hướng: cường độ phong hóa đá mẹ giảm, tốc độ phân giải chất hữu cơ giảm và quá trình Feralit cũng yếu dần. Trên núi cao, ảnh hưởng của độ dốc làm tăng quá trình lưu thông của nước, tăng quá trình xói mòn, thêm vào đó cường độ phong hóa yếu làm cho chiều dày vỏ phong hóa kém, phẫu diện đất mỏng, có sự tích tụ mùn và chất hữu cơ. Tại Việt Nam, mà 3/4 diện tích đất đai là đồi núi thì quy luật đai cao chi phối rất lớn điều kiện hình thành và phân bố đất.

Quá trình feralit chỉ mạnh từ 150 m trở xuống, hình thành loại đất Feralit vàng đỏ phát triển trên vùng trung du. Địa hình là các đồi bằng, sườn thoải, phần lớn phủ thực vật đã bị tàn phá, tính chất phân mùa khí hậu biểu hiện rõ rệt.Trong điều kiện đó, quá trình Feralit được đẩy mạnh.Tuỳ theo đá mẹ và mức độ feralit mà chia ra các loại đất sau:

- Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá mẹ chứa nhiều muscovit và octoclaz là những khoáng tương đối bên về mặt hóa học, làm tăng khả năng hấp phụ và phản ứng axít giảm đi, ít chua.

- Đất Feralit điển hình: quá trình Feralit đang ở giai đoạn đầu, sự biến hóa căn bản về các thành phần của chúng diễn ra từ từ, có sự giảm đi tương đối của silic, cation, sự tích lũy của các xexckioxyt, tuy nhiên phẫu diễn còn tương đối đồng nhất, sự phân lớp chưa rõ. Loại đất này mang những đặc điểm điển hình của quá trình Feralit, đất còn tốt.

- Đất Feralit có phẫu diện phân dị. Quá trình hình thành đất đã sang giai đoạn hai, biểu hiện ở sự phân lớp trong phẫu diện đất với sự xuất hiện tầng xung tích B rõ rệt. Tùy theo mức độ kết von và mức độ kết von chuyển sang đá ong càng nhiều thì đất càng xấu. Trong điều kiện thoát nước kém, hình thành loại đất xám có glây. Đất có thành

phần cơ giới nặng, đất bí, đôi khi tầng đá ong rất dày, phát triển ở chân đồi.

Tại vùng đồi núi thấp từ 150 m đến 600 -700 m, địa hình có sườn dốc hơn, không đọng nước, xói mòn mạnh, nhiệt độ thấp hơn và ẩm hơn thường có lớp phủ thực vật. Những điều kiện đó làm cho đất có phẫu diện mỏng hơn, mùn nhiều hơn (2 -5 %), đất chua hơn (pH: 4 - 4,5), nhưng cũng hạn chế quá trình hình thành kết von và đá ong. Tùy theo đá mẹ hình thành hai nhóm đất chính sau:

- Đất xám Feralit trên núi phát triển trên đá mẹ axít. - Đất Feralit nâu đỏ (nâu tím, nâu vàng) phát triển trên đá mẹ trung tính và bazơ.

Ngoài ra còn có các loại đất: Đất feralit nâu đỏ trên đá sét và đá biến chất, đất xám feralit trên đá cát, đất feralit xám bạc màu nâu trên phù sa cổ, đất đỏ nâu trên đá vôi.

Lên độ cao từ 600 -700 m đến 1700- 1800 m là phạm vi đai rừng á nhiệt đới phát triển trên đất Feralit có mùn trên núi. Tại độ cao này, tính chất nhiệt đới đã giảm mạnh, nhiệt độ hạ thấp, mưa nhiều, phần lớn còn rừng che phủ, các quá trình phong hóa và phân giải đều giảm sút. Mùn tăng là đặc điểm chủ yếu để phân biệt với đất Feralit vùng đồi, hàm lượng mùn 5 - 8 %, tầng A mầu xám, có tầng Ao (tầng vật chất rơi rụng bán phân giải), tầng dưới màu nâu nhiều hơn đỏ.Tầng đất mỏng, quá trình feralit yếu. Phẫu diện tương đối đồng nhất. Theo đá mẹ cũng chia ra các loại đất có màu sắc và tính chất khác nhau, nhưng đều mang đặc tính chung là có mùn.

49

Trên 1700 - 1800 m là độ cao xuất hiện đai rừng á nhiệt mưa mù phát triển trên đất mùn alit núi cao. Tại độ cao này, mọi quá trình phong hóa, phân giải Feralit đều kém, dẫn tới đất có phẫu diện rất mỏng, vài chục cm đã gặp tầng C (tầng mãu chất). Tầng Aoo, Ao (tầng vật chất hữu cơ, bán phân giải), có khi tới 10 cm, tầng mùn khá dầy nhiều khi không xuất hiện tầng B. Từ tầng A có màu đen, xám nhạt chuyển xuống tầng C màu trắng, hàm lượng mùn cao 8 -12%, đất chua mạnh, độ pH < 4. Các loại đất Feralit phát triển trên vùng đồi núi nêu trên, xét về nguồn gốc

hình thành được xếp vào loại đất địa thành.

Tại các thềm phù sa cũ hình thành loại đất xám có nguồn gốc bán thủy thành, đất còn tốt, có màu xám sáng hay đen, tầng đất dày, tới xốp, thành phần cơ giới nhẹ, ít chua. Khi bị canh tác quá mạnh, đất thoái hóa thành đất bạc màu, nghèo phì liệu, bạc trắng, tầng dưới có kết von, đá ong với cấu tượng hạt thô. Tại các đồng bằng thung lũng hình thành các loại đất có nguồn gốc thủy thành như đất phù sa, đất mặn, đất chua mặn (đất phèn), đất lầy - đất than bùn, đất cát

b. Ảnh hưởng của trung và tiểu đia hình đối với quá trình hình thành đất Sự thay đổi địa hình âm dương, vị trí địa thế đỉnh, sườn, chân, độ dốc của sườn, hướng sườn của một quả đồi, ngọn núi đều ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất. Tại đỉnh diễn ra quá trình tàn tích, lớp đất mỏng có sự tích tụ tuyệt đối của oxít Al, Fe theo dòng nước di chuyển lên xuống. Độ dốc và hướng phơi của sườn ảnh hưởng đến quá trình sườn tích.Sườn dốc, hướng phơi nắng, quá trình sườn tích diễn ra mạnh, tầng đất mỏng, tầng kết von gần sát mặt, sườn thoải tầng đất dày hơn.Tại chân sườn có quá trình bồi tụ vật liệu rửa trôi, nhưng ở đây có thể diễn ra quá trình tích tụ tương đối oxit Fe, Al tạo thành tầng kết von dầy, do sự di chuyển của các vật chất này theo dòng nước ngầm, chảy trôi trên mặt đất.

Tại địa hình trũng, úng thuỷ hình thành loại đất lầy (đất glây). Còn ở đồng bằng, sự chênh lệch rất ít về độ cao địa hình cũng tạo cho đất có sự khác nhau rõ rệt về tính chất và thành phần cơ giới: đất ruộng cao nghèo phì liệu, thành phần cơ giới nhẹ, nhiều cát, đất ruộng thấp tích tụ nhiều phần tử sét, hạt mịn và giầu phì liệu hơn.

5.1.1.3. Khí hậu với quá trình hình thành đất ở Việt Nam Khí hậu được coi là nhân tố quan trọng nhất, vì chính khí hậu quyết định chiều hướng và cường độ diễn biến của quá trình hình thành lớp vỏ phong hoá và thổ nhưỡng. Hai yếu tố khí hậu là nhiệt và nước chi phối mọi qúa trình lý hóa, sinh diễn ra trong quá trình hình thành đất. Khí hậu không những ảnh hưởng trực tiếp mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến đất qua giới sinh vật- mà sinh vật là thành phần chủ đạo trong vòng tiểu tuần hoàn sinh học của quá trình hình thành đất.Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, quá trình hình thành đất có những nét đặc trưng riêng. Đó là quá trình phong hóa đá mẹ diễn ra mạnh mẽ, chủ yếu là phong hóa hóa học hình thành lớp vỏ phong hoá dày, cường độ tuần hoàn sinh học cao, quá trình phân giải chất hữu cơ nhanh, quá trình rửa trôi mạnh, hình thành loại đất điển hình của vùng nhiệt đới nóng ẩm là đất Feralit. Các quá trình trên đã dẫn đến đặc điểm của đất này là nghèo mùn, chua, có sự tích tụ oxýt Fe, Al.

Tính chất phân mùa của khí hậu Việt Nam với sự xen kẽ giữa hai mùa khô, ẩm, đặc biệt tại vùng thấp, nơi lớp phủ thực vật bị tàn phá, sự phân hóa hai mùa càng rõ rệt đã xúc tiến quá trình tích tụ tuyệt đối oxýt Fe, Al tạo thành tầng kết von dầy, gần trồi mặt. 5.1.1.4. Vai trò của thuỷ văn đối với quá trình hình thành đất ở Việt Nam

50

Mạng lưới sông ngòi ở Việt Nam với đặc điểm dày đặc, khi chảy qua miền đồi núi độ dốc lòng sông lớn, xâm thực mạnh và trước khi đổ vào đồng bằng các sông thường hợp lưu tạo thành dòng chảy lớn có lưu tốc mạnh mang theo nhiều vật liệu bồi đắp nên các đồng bằng đất phù sa hạ lưu sông. Tính chất nham thạch và thành phần lớp vỏ phong hoá mà các dòng sông chảy qua ảnh hưởng rõ rệt đến đặc tính đất phù sa bồi tụ, nhất là vật liệu phù sa bồi tụ từ dòng chảy các con sông nhỏ ngắn, dốc.Như đặc tính đất chua, nghèo phì liệu của phần lớn đồng bằng duyên hải miền Trung là sản phẩm bồi tụ từ các loại đá mẹ giàu axit của dải Trường Sơn. Đất hình thành từ phù sa các sông lớn thường hạt mịn và chứa nhiều phì liệu hơn, bởi bề mặt lưu vực lớn và có quá trình lắng đọng dần vật liệu trong sông, như phù sa của các hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long.

Ảnh hưởng của thuỷ văn đến quá trình hình thành đất biểu hiện rõ rệt nhất ở những nơi địa hình trũng, đóng kín. Tại đó hình thành đất lầy thụt, glây. Nơi nước ngầm chứa nhiều oxit Fe, khi chảy trồi lên mặt tạo thành lớp đá ong dày. Vùng ven biển , ảnh hưởng của nước biển mặn, nước ngầm mặn hình thành các loại đất mặn, đất phèn. 5.1.1.5. Vai trò của thực - động vật trong quá trình hình thành đất ở Việt Nam

Thực vật là nguồn cung cấp vật chất hữu cơ, cải biến vỏ phong hoá thành đất. Quá trình hình thành đất ở Việt Nam diễn ra với cường độ mạnh, chính là do sự phong phú của giới thảm thực vật. Với kiểu rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh ưu thế tốc độ sinh trưởng nhanh, vật chất được huy động vào vòng tuần hoàn sinh vật diễn ra trong một chu trình ngắn và cường độ mạnh. Chính vì thế khó giải thích nổi tại sao trên một lớp đất mỏng, nghèo mùn vậy lại có thể sản sinh một rừng cây cao to, dầy đặc và xanh tươi nếu không tính đến lượng mùn luôn trong trạng thái động của nó.

Cùng với sự đa dạng của kiểu rừng là sự đa dạng của các loại đất ở Việt Nam.Theo đai cao có sự thay thế theo quy luật của các kiểu rừng và tương ứng là sự thay thế có quy luật của các loại đất. Mỗi kiểu rừng, mỗi loại cây có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình hình thành đất và đặc tính của đất. Đất dưới rừng ẩm, lá rộng thường xanh có tầng đất dày, ẩm, mùn khá nhiều và phì liệu cũng cao. Đất dưới rừng thưa, có tầng đất mỏng, khô, ít mùn, nghèo phì liệu, quá trình tích tụ xeckioxit sắt, nhôm được xúc tiến.

Có loài cây cung cấp đạm làm tốt đất như các loài cây họ Đậu, vài loại hòa thảo. Đất dưới rừng thông, bạch đàn, các loại cây lá kim thường nghèo và chua. Vi sinh vật trong đất tham gia vòng tuần hoàn sinh vật làm nhiệm vụ mùn hóa, khoáng hóa các vật chất hữu cơ và chuyển hóa các hợp chất vô cơ được giải phóng. Một số vi sinh vật có thể chuyển hóa đạm và lân từ dạng hữu cơ thành dạng vô cơ, một số loài khác có khả năng cố định đạm. Ngoài ra còn nhiều loại động vật khác trong đất tham gia vào quá trình hình thành đất thông qua sự di chuyển, sự bài tiết, sự thối rữa xác chết. Giới vi sinh vật, động vật sống trong đất Việt Nam cũng rất đa dạng, sinh sản nhanh, góp phần xúc tiến cường độ của tiểu tuần hoàn sinh vật hình thành đất.

5.1.1.6. Tuổi hình thành đất ở Việt Nam Tuổi là thời gian mà các yếu tố trên tham gia vào quá trình hình thành đất dài hay ngắn.Tuổi tuyệt đối của đất đồi núi ở Việt Nam nói chung là rất già với bằng chứng di tích thực vật Cổ sinh đã tìm thấy ở thung lũng sông Đa Dung. Đến đại Trung sinh thì giới thực vật đã rất phong phú với sự xuất hiện của rừng hiển hoa khỏa tử. Sự bồi tụ trầm tích J, K lục nguyên màu đỏ là sản phẩm của lớp vỏ phong

51

hoá Feralit. Tuổi tuyệt đối của đất tại các đồng bằng phù sa châu thổ và thung lũng sông còn rất trẻ, vì tuổi địa chất của các đồng bằng này mới từ Đệ tứ và tuổi của quá trình hình thành đất chỉ mới sơ khai.

Về tuổi tương đối của quá trình hình thành đất cũng chưa có quan niệm thống nhất và cũng chưa được giải quyết đối với đất nhiệt đới. Nhưng nếu quan niệm đá ong chặt là giai đoạn cuối cùng của quá trình feralit (cuối cùng tương đối theo Hans Pagel) thì những nơi đất đai có đã ong chặt là đất cằn cỗi, đất này tập trung nhiều nhất ở vùng đồi núi mất lớp phủ và tại các thềm phù sa cổ.

5.1.1.7. Vai trò của con người Đất đai ở Việt Nam đã được con người khai thác từ lâu đời, cho nên ở Việt Nam, ảnh hưởng của con người đến đất cũng rất lớn. Ảnh hưởng của con người thể hiện rõ nhất trong tập quán độc canh cấy lúa đốt nương, làm rẫy. Đất lúa nước chính là sản phẩm của lao động nông nghiệp.Trong việc mở mang diện tích đất nông nghiệp, người Việt Nam đã tiến hành nhiều biện pháp cải tạo đất tích cực như thay chua, rửa mặn, lấn biển, bón phân cải tạo đất bạc mầu, tạo các công trình thủy lợi, chủ động tưới tiêu, dẫn nước ruộng cao, tiêu nước ruộng trũng để thâm canh, tăng vụ... Những hoạt động tiêu cực cũng không nhỏ, nặng nề nhất là việc phá rừng làm nương rẫy, đến nay vẫn chưa hẳn chấm dứt. Hậu quả để lại hàng triệu ha đồi núi trọc, xói mòn, rửa trôi mạnh trở nên rất xấu.

Ngày nay, ở Việt Nam nhiều công trình thủy điện và thủy lợi đang được xây dựng làm cải biến địa hình, thay đổi điều kiện và quá trình hình thành đất trên cả một vùng lớn. Việc đánh giá hệ quả của những tác động này, đảm bảo lớp phủ rừng đầu nguồn của các lưu vực hồ chứa, đảm bảo cần bằng nước và cân bằng sinh thái là những điều hệ trọng trong tác động của con người đối với việc cải tạo đất đai ở Việt Nam. Các nhân tố hình thành đất trên thể hiện tác động của các quy luật địa lí tự

nhiên địa đới và phi địa đới đối với điều kiện hình thành và phân bố các loại đất.

Ảnh hưởng của các nhân tố hình thành thổ nhưỡng được phân tích riêng và lần lượt như trên, nhưng thực ra chúng tác động đồng thời và tương hỗ, vai trò chủ yếu của nhân tố này hay nhân tố khác chỉ là tương đối trong một bối cảnh nhất định. Tuy nhiên, nếu xét trên diện rộng và theo những tính chất chung nhất, thì vai trò của khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm là nền tảng, còn tính chất cụ thể của mỗi loại đất lại có sự tham gia quan trọng của một nhân tố nào đó, khi là nham thạch, khi là địa hình, khi do sinh vật, khi do con người, mà chúng ta sẽ thấy biểu hiện rõ trong phần trình bày các loại đất chính ở Việt Nam.

Sự phức tạp và tác động tổng hợp của các nhân tố hình thành đất nêu trên đã tạo nên sự phân hoá đa dạng và phức tạp của thổ nhưỡng Việt Nam. Theo kết quả điều tra phân loại đất (Hội Khoa học đất Việt Nam, 1996), thì thổ nhưỡng Việt Nam có 14 nhóm đất với 54 loại đất, phân bố rất phức tạp, trong đó có nhóm, loại đất rất phổ biến, tập trung trên diện tích lớn, song có những loại đất chỉ mang tính chất địa phương, chiếm diện tích nhỏ. Các nhóm đất có diện tích lớn và giữ vai trò quan trọng đối với sản xuất lâm, nông nghiệp là nhóm đất xám với 20 triệu ha, chiếm 60% diện tích tự nhiên, nhóm đất phù sa có diện tích hơn 3,4 triệu ha, chiếm trên 10% và nhóm đất đỏ với diện tích trên 3 triệu ha cũng chiếm gần 10% diện tích tự nhiên cả nước. 5.1.2. Thổ nhưỡng của vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa với quá trình hình thành

đất Feralit là chủ yếu

Quá trình Feralit với các sản phẩm của nó là các loại đất feralit chiếm chủ yếu là đặc điểm quan trọng thứ hai của thổ nhưỡng Việt Nam. Đặc điểm này thể hiện

52

tính địa đới của quá trình hình thành đất ở vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa trên nền địa hình đồi núi thấp chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ. Thật vậy, loại trừ vùng đồng bằng trẻ mới bồi, vùng đất thấp trũng, còn đâu đâu trên khắp đất nước, chúng ta đều gặp các loại đất feralit phát triển trên các loại đá mẹ khác nhau.

5.1.2.1. Điều kiện và quá trình hình thành đất Feralit Trong môi trường nhiệt ẩm cao, quá trình phong hoá đá mẹ hình thành đất mang một số đặc điểm sau: - Quá trình phong hóa diễn ra mạnh mẽ, gấp 10 lần ôn đới.Phong hóa học là

chủ yếu, tạo nên vỏ phong hóa sâu dày có tới vài mét đến vài chục mét.

- Tốc độ phân giải vật chất rơi rụng cao gấp 5 lần ôn đới, do đó lượng mùn tích lũy trong đất ít. Trong một năm, rừng nhiệt đới ẩm phân giải tới 70 - 80% tổng lượng vật chất rơi rụng.

- Quá trình Feralit được xúc tiến trong môi trường axit, ngoài đặc điểm của đá mẹ axit còn có sự tham gia của axit nitơ trong nước mưa và axit hữu cơ của lớp mùn. Nước mưa và nước trong đất chứa axit làm rửa trôi các chất bazơ và axít hóa vỏ phong hóa, vì thế, đất feralit có độ chua rất cao, pH: 4,5 - 5,5. Vỏ phong hoá feralit thường dày do trong môi trường chua, vi sinh vật hoạt động mạnh làm tăng cường quá trình Feralit ở dưới sâu.

- Sự phong hóa triệt để của các khoáng sơ sinh fenspat, mica cũng như các khoáng thứ sinh Aluminosilicat và Ferosilicat giải phóng ra SiO2, Al2O3Fe2O3, trong điều kiện mưa nhiều không chỉ làm di chuyển, rửa trôi các cation kiềm, kiềm thổ mà cả SiO2, và có sự tích tụ cao độ khoáng kaolinit và các xeckioxyt Fe Al (R2O3).

5.1.2.2. Các giai đoạn của quá trình hình thành đất Feralit Dựa vào sự tiến triển của quá trình và dấu hiệu phân lớp trong phẫu diện, có thể chia quá trình Feralit làm 3 giai đoạn sau:

- Giai đoạn đầu là lúc quá trình này đang tiến triển, các cation được giải phóng ra từ các Silicat (Ca2+,Mg2+,Na+, K+) còn nhiều, do đó phản ứng đất có thể trung tính hoặc hơi kiềm. Các xeckioxyt phân phối đều dưới dạng keo ở khắp nơi trong phẫu diện, nghĩa là trong phẫu diện chưa có sự bất đồng hóa, chưa chia thành lớp. Ở giai đoạn này đất phì nhiêu, cả lý tính và hóa tính đều tốt.

- Giai đoạn thứ hai xẩy ra khi các chất bazơ bị rửa trôi mạnh, đất trở nên chua, các xeckioxýt Fe, Al di động tập trung lại thành tầng xung tích B, nằm dưới tầng rửa trôi A. Dưới tầng B cũng là tầng nghèo xeckioxýt Fe, Al do hiện tượng mạo dẫn chuyển lên tầng rửa trôi B. Phẫu diện phân làm ba lớp và có sự thay đổi màu sắc rõ rệt.Tầng A thường có màu nhạt do giảm Fe, giảm sét; tầng B có màu đỏ vàng hoặc đỏ thẫm do chứa nhiều xeckioxýt Fe; tầng C thường có màu sặc sỡ. Ở giai đoạn này đất đã xấu đi, nghèo các cation, sét, giàu xeckioxýt Fe, Al, đất chua. Đất càng xấu khi sự phân lớp giữa tầng A, B càng rõ rệt, tầng A mỏng đi, độ dày tầng B tăng lên. Nói tóm lại, đất đang bị thoái hóa theo chiều hướng xấu.

- Giai đoạn cuối cùng là lúc các xeckioxýt Fe ở tầng B kết lại thành một lớp rắn chắc, gọi là đá ong. Đất xấu và càng xấu nếu tầng đá ong càng lộ trên mặt.Đá ong là giai đoạn cuối cùng, nhưng không phải là giai đoạn tất yếu của quá trình Feralit. Đá ong được coi là sản phẩm cuối cùng nhưng tương đối của quá trình Feralit, nghĩa là một sản phẩm có điều kiện.

Các loại kết von ở Việt Nam. Có thể phân biệt rõ 3 loại kết von sau: - Dạng tổ ong: kết von tổ ong là một khối sét nhiều màu hợp thành (trắng, vàng đỏ). Phần đỏ của sét chứa nhiều sắt, khi lộ ra ngoài thì rắn chắc lại và tạo

53

thành hoặc là các hạt kết von rời rạc hoặc là cả khối kết von kết liền nhau dạng đá ong tổ ong. Đặc điểm về thành phần của kết von tổ ong là sắt ít hơn và nhiều Silic. Dạng kết von này gặp ở thêm phù sa cũ, vùng đồi trung du. Bề dầy lớp đá ong có thể vài m. Đá ong Việt trì dày tới 6 m.

- Dạng kết von tròn (kết von hạt đậu). Loại này có hình tròn hoặc gần tròn (hình hạt đậu), kích thước thông thường từ 1 - 2 đến 8 - 10 mm. Lượng oxýt Fe chứa càng nhiều thì độ cứng càng tăng, chuyển từ màu nâu sang đỏ nâu, màu đen và ánh đen. Kết cấu hạt kết von căn bản là đồng nhất, có nhân vòng đồng tâm. Thành phần chủ yếu của kết von tròn là oxýt Fe chiếm hơn 2/3 cả khối, rất ít kiềm kiềm thổ, nhất là Magiê. Sự gắn kết các hạt kết von tròn tạo thành đá ong hạt đậu.

- Dạng kết von giả. Loại này có hình dạng và kích thước rất khác nhau. Đó là những mảnh khoáng nguyên vun đã mòn cạnh, thường là đá chưa phong hóa, bị bao bên ngoài một màng sắt mỏng. Màng sắt này có màu thẫm gần như đen, ánh, làm cho kết von giả đôi khi rất giống kết von thật. Loại kết von giả này chỉ được phân biệt khi đập ra xem kết cấu bên trong của nó.

Thường có sự xen lẫn giữa hai loại kết von này trong phẫu diện. Gặp nhiều hơn kết von thật ở đỉnh đổi bằng, nơi mất lớp phủ thực vật có hai mùa khô, ẩm khắc nghiệt tạo thuận lợi cho sự tích tụ và di chuyển Ôxýt Fe trên xuống và dưới lên trong mùa hanh khô (Lacroix, Harresourts, Mohr). Ôxýt Fe di chuyển từ các tầng trên xuống (Fendellton và các nhà tự nhiên Úc). Sự di chuyển và tích tụ oxýt Fe theo dòng nước di chuyển từ trên xuống và từ dưới lên được gọi là quá trình tích tụ xeckioxýt Fe tuyệt đối.

- Do mạch nước ngầm di chuyển sắt từ nơi này đến nơi khác, gọi là quá trình tích tụ xeckioxýt Fe tương đối. Quá trình này thường tạo thành lớp dày. Sự liên quan giữa hai quá trình Feralit và đá ong hóa thể hiện ở chỗ: quá trình Feralit giải phóng ra các xeckioxit Fe, Al. Sự tích tụ cao độ của vật chất này tạo thành đá ong.Quá trình đá ong hóa diễn ra trong điều kiện mất lớp phủ, làm tăng cường sự rửa trôi và bốc hơi, sự di chuyển theo dòng nước đi lên và đi xuống dẫn tới sự tích tụ của xeckioxýt.

Tùy theo mức độ ngậm nước mà tầng xung tích có màu đỏ và vàng khác nhau. Fe2O3 không ngậm nước (hematid) có màu đỏ, ngậm nước ít Fe2O3H2O (gơtid), Al(OH)3 (hydraglit) có màu đỏ gạch, Fe2O33H2O (limonit) có màu vàng.

5.1.2.3. Những đặc tính chung của đất Feralit Các đặc tính của đất Feralit phản ánh điều kiện và đặc điểm của quá trình hình thành lớp vỏ phong hoá. Các đặc tính đó là: - Do phong hóa mạnh đặc biệt phong hóa hóa học là chủ yếu nên thành phần

khoáng vật sơ cấp rất ít (ngoài thạch anh, còn một số khoáng bền khác như rutin).

- Bazơ, silic bị rửa trôi mạnh, nghèo Ca2+ , Mg2+ giàu xeckioxýt Fe, Al (R2O3). Tỷ lệ SiO2 / R2O3 < 2 (trong phần sét không chứa thạch anh). Đất có mầu đỏ và vàng.

- Thành phần khoáng nhiều Kaolinit do đó đất có khả năng hấp phụ kém, thành phần cơ giới nặng, nhiều phần từ mịn. - Đất chua, nhiều axit fulvonic trong thành phần mùn.Tầng mùn mỏng.

Thành phần của axit fulvonic như sau: H: 5 - 6%, C: 47 - 48 %, 02: 43 - 49 %, N: 1,5 - 3 %. Axit humic chứa trong mùn của đất đen macgalit. Thành phần hóa học của axit humic theo thứ tự tương đương: H: 2,8 - 5,8%, C: 52 - 60%, O2: 30 - 35% , N: 2 - 5 %. Như vậy so với axít humic, thì fulvonic có tỷ lệ H+ cao hơn, chua nhiều hơn, C và N đều kém hơn. Axit fulvonic kết hợp với Ca, Fe hòa tan trong nước và

54

bị rửa trôi, nghĩa là dễ kết hợp với kiềm và dễ bị rửa trôi. Trong khi đó axit humic kết hợp với Ca2+, Fe2+ tạo thành humat Ca và humat Fe không hòa tan trong nước, ít bị rửa trôi. Axit humic làm thành hệ keo mùn với hydroxyt Fe, Al, tạo thành phức hệ Al- mùn và Fe- mùn có thể bị rửa trôi ở lớp đất mặt, hạn chế sự tích tụ của oxýt Fe, Al.

- Hiện tượng đồng qui về thành phần hóa học. Hiện tượng đồng qui về thành phần hóa học của sản phẩm phong hóa thể hiện quá trình phong hóa làm biến đổi sâu sắc đá mẹ ban đầu.

Các số liệu về thành phần hóa học của các loại đá mẹ ở miền Bắc Việt Nam và các sản phẩm phong hóa tàn dư của chúng, cho ta ấn tượng rất rõ về sự đồng qui của thành phần hóa học.

Trong hình đồ giải thể hiện thành phần hóa học của các loại đá mẹ rất khác nhau: granit, đá vôi, đá bazan và các sản phẩm phong hóa của chúng. Các đá mẹ nguyên thể nằm rất xa nhau, nhưng các sản phẩm phong hóa của chúng lại rất gần nhau

Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, hiện tượng đồng qui biểu hiện rất rõ. Điều đó

chứng tỏ sản phẩm phong hóa mang tính địa dới. Hiện tượng này là bằng chứng cho luận thuyết về tính phân đới các sản phong hóa của V. V. Docusaev (1899). 5.1.3. Thổ nhưỡng Việt Nam dễ bị thoái hoá nếu sử dụng không hợp lý Thổ nhưỡng Việt Nam mang đặc điểm chung của cảnh quan thiên nhiên Việt Nam - thiên nhiên của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa có cân bằng sinh thái mỏng manh dễ bị phá vỡ.Trong mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên để tạo nên sự cân bằng sinh thái môi trường thì mối quan hệ gữa đất và cây đóng vai trò chủ yếu nhất, vì chính sự chuyển hoá vật chất và năng lượng giữa giới vô cơ và giới hữu cơ trong thiên nhiên thông qua hai thành phần biểu hiện trên bề mặt này của cảnh quan.Trong sự chuyển hoá đó, lớp phủ thực vật luôn tích luỹ một khối lượng vật chất và năng lượng lớn của cảnh quan trong trạng thái động. Con người khi tác động huỷ bỏ lớp phủ, chặt phá rừng cây, nhất là làm suy thoái hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm thường xanh- một quần lạc cao đỉnh về năng suất sinh khối, về đa dạng sinh học và tính ổn định cân bằng sinh thái- tức là con người đã lấy đi phần vật chất và năng lượng tích luỹ trong lớp phủ thực vật, làm mất cân bằng chu trình sinh học của tự nhiên, ngăn cản quá trình phát sinh và phát triển của thổ nhưỡng. Hơn thế nữa,với đặc điểm địa hình lãnh thổ nhiều đồi núi thì tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa của khí hậu càng tác động mạnh mẽ tới quá trình hình thành cũng như bào mòn, phá huỷ lớp phủ thổ nhưỡng ở Việt Nam.

Như trên đã phân tích, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, tại vùng đồi núi, dù đất phát sinh trên đá mẹ nào thì cũng hình thành loại đất Feralit hoặc bị Feralit hóa - một loại đất có cấu trúc kém bền vững, nghèo phì liệu, chua, dễ bị thoái hoá và rửa trôi. Đặc biệt, khi lớp phủ thực vật bị hủy bỏ, làm tăng cường sự phân hóa hai mùa khô, ẩm đã thúc đẩy quá trình Feralit tiến tới giai đoạn cuối cùng của nó là quá trình đá ong hóa.Hiện tại cả Việt Nam đã có tới trên 10 triệu ha, một diện tích rất lớn chiếm gần 1/3 diện tích lãnh thổ là đồi hoang, núi trọc, đất đai cằn cỗi cần phải cải tạo.Vì thế, đất Feralit đồi núi chiếm ưu thế trong thành phần thổ nhưỡng và chịu quá trình thoái hóa nhanh chóng khi lớp phủ thực vật bị hủy bỏ đã trở thành một đặc điểm quan trọng có ý nghĩa thiết thực trong vấn đề sử dụng bảo vệ và cải tạo đất Việt Nam.

Không chỉ đất đồi núi mà cả đất đồng bằng phù sa bồi tụ cũng đã và đang diễn biến theo chiều hướng xấu do hoạt động canh tác bất hợp lý của con người. Bằng

55

chứng là những vùng thềm phù sa cổ rìa các đồng bằng châu thổ bị cằn cỗi, đá ong hoá, những thửa ruộng cao bị thoái hoá bạc màu và những đồng chiêm trũng bị glây mạnh.

Nhiều thế kỷ qua, nhân dân ta cũng đã tiến hành nhiều công cuộc cải tạo, mở mang đất đai như quai đê lấn biển, thau chua rửa mặn, bón phân cải tạo đất, tưới tiêu nước cải tạo đồng ruộng, san đồi đắp đất làm ruộng bậc thang, trồng rừng chắn gió, chắn cát ven biển, trồng cây gây rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Tuy nhiên, những tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp làm thoái hoá đất vẫn là phổ biến và nghiêm trọng. Nếu hai đặc điểm đầu là hệ quả của đặc điểm chung tự nhiên Việt Nam, thì đặc điểm thổ nhưỡng Việt Nam dễ bị thoái hoá do sử dụng không hợp lý lại thể hiện đặc tính của tự nhiên chịu sự chi phối, kiểm soát của con người. Nhấn mạnh đặc điểm này của thổ nhưỡng Việt Nam để thấy vai trò của con người, một nhân tố tham gia vào quá trình hình thành đất, càng trở nên đặc biệt quan trọng trong hoàn cảnh tự nhiên Việt Nam. Thực hiện chủ trương trồng 5 triệu ha rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, giao quyền làm chủ cho người dân trồng rừng, chăm sóc quản lý rừng, tiến hành các biện pháp cải tạo đất cát, đất mặn, đất phèn, lầy, bạc màu là những việc làm thiết thực, cấp bách nhằm xúc tiến quá trình phục hồi thổ nhưỡng, làm giàu tài nguyên đất của Việt Nam.

5.2. Các loại đất chính ở Việt Nam Các loại đất chính được giới thiệu ở đây dựa trên kết quả nghiên cứu mới đây nhất do Hội khoa học đất Việt Nam tiến hành, công bố trong công trình " Đất Việt Nam (bản chú giải bản đồ đất tỷ lệ 1/1.000.000), 1996".Bảng phân loại được xây dựng theo phương pháp định lượng FAO- UNESCO, kết hợp nguyên tắc phát sinh với hệ thống phân vị 3 cấp: nhóm (cấp 1), đơn vị (cấp 2) và đơn vị phụ (cấp 3), xác định ở Việt Nam có 19 nhóm đất với 54 loại đất. Sau đây là tính chất, diện tích và phân bố của một số loại đất chính ở Việt Nam có ý nghĩa lớn trong khai thác, sử dụng và yêu cầu cần cải tạo.

5.2.1. Nhóm đất cát biển (Arenosols- AR) Nhóm đất cát biển ở Việt Nam có khoảng trên 530.000 ha. Đặc tính chung của đất cát biển là thành phần cơ giới nhẹ, bờ rời, hàm lượng Si cao, lượng limon thấp (0 - 6%), có chỗ lẫn vỏ sò, vệt đỏ, loang lổ có kết von. Lượng hữu cơ thấp, pH: 4 - 6, N, P, K kiềm thổ đều thấp.

Đất cát phân bố dọc ven biển Việt Nam từ Bắc tới Nam, nhiều nhất ở Trung bộ. Theo thành phần sét, cát, màu sắc và tuổi hình thành mà phân chia ra 3 loại đất cát sau:

- Đất cồn cát trắng vàng: có diện tích trên 220.000 ha, tập trung ở ven biển miền Trung từ Nghệ An, Hà Tĩnh tới Phan Thiết, làm thành những cồn cát rất cao. Quảng Bình, Vĩnh Linh có cồn cát cao tới 200- 300 m. Các cồn cát thường có sườn dốc đứng về phía đất liền, lâu ngày rửa trôi hết phần tử sét, chỉ còn lại mầu trắng của silic. Nơi ẩm hơn cát ngả màu vàng. Không có lớp phủ thực vật, các cồn cát thường di động tràn lấp nhà cửa, ruộng vườn. Cần trồng rừng để chống cồn cát di động.

- Đất cồn cát đỏ: diện tích gần 77.000 ha, tập trung chủ yếu ở ven biển tỉnh Bình Thuận. Mầu đỏ của cát liên quan tới điều kiện khí hậu nhiệt đới khô của vùng này. Cồn cát đỏ thường có tỷ lệ sét và limông cao hơn cồn cát trắng và vàng nên có thể tận dụng trồng hoa mầu. Các cồn cát này thường ổn định, tập trung thành dải cao, có khi tới 200 m.

56

- Đất cát biển có diện tích gần 235.000, phân bố dọc ven biển, tập trung nhất từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Loại đất cát này hình thành ở nơi có địa hình bằng phẳng, do sự bồi lắng phù sa sông và sự tham gia của quá trình lấn biển. Đất có thành phần cơ giới từ cát đền cát pha, thoáng khi, ít chua, nghèo dinh dưỡng, nghèo mùn. Cải tạo bằng biện pháp thủy lợi, bón phân, đặc biệt phân hữu cơ, có thể biến vùng đất cát biển thành vùng trồng trọt được.

5.2.2. Nhóm đất mặn (Salic Fluvisols - FLs) Vùng ven biển Việt Nam, do ảnh hưởng của nước biển mặn theo thuỷ triều tràn vào hình thành một loại đất đặc biệt, gọi là đất mặn, với tổng diện tích: 970.000 ha. Đất mặn phân bố dọc ven biển từ Bắc chí Nam, ở đồng bằng Bắc Bộ, nhiều nhất là vùng ven biển Hà Nam, Ninh Bình. Đất mặn nặng tập trung nhất ở đồng bằng Nam Bộ tại các tỉnh Hậu Giang,Tiền Giang, Minh Hải do nước triều ngập sâu trong mùa khô. Quá trình mặn hoá do nước ngầm hạn chế vì Việt Nam lượng mưa nhiều hơn bốc hơi. Tuy nhiên, ở những vùng khô hạn nặng, có sự hình thành đất mặn do nước mạch mặn tích lũy lâu ngày trong đất theo mao quản leo lên tạo thành một lớp muối trên mặt đất, như ở vùng Phan Rang, Ninh Thuận- mà người dân ở đấy gọi là đất "Cà giang". Đất chứa nhiều muối Na2C03 và NaHC03, pH khá cao, thường 9. Đặc tính cơ bản phân biệt đất mặn với các đất khác là nồng độ muối, chủ yếu là muối Cl, trừ tầng tích tụ xác sú vẹt do lưu huỳnh nhiều nên sulfat có thể chiếm ưu thế. Trị số pH của đất mặn thay đối trong khoảng 6,0 - 7,5 và tỷ lệ thuận với nồng độ muối. Tùy theo nồng độ muối và nồng độ Cl trong đất mà xác định mặn nhiều hoặc

ít

Độ mặn Tỷ lệ muối hòa tan (%) Nồng độ Cl (%) Rất mặn > 1,0 > 0,25 Mặn nhiều 0,5 - 1,0 0,15 - 0,25 Mặn trung bình 0,25 - 0,5 0,05 - 0,25 Mặn ít < 0,25 < 0,05 Cũng vì bị mặn do nước biển, nên càng xa biển độ mặn càng giảm. Những nơi mặn ít, quá trình rửa mặn tiến hành dễ dàng, chỉ cần đắp đê ngăn nước biển tràn vào, qua 2 năm nhờ nước mưa đủ để rửa trôi lượng muối thừa và đất đai ở đó có thể sử dụng được. Một loại đất mặn đặc biệt gọi là đất mặn có sú vẹt. Tại giải đất ven biển ngập nước, hoặc chịu ảnh hưởng của thủy triều hàng ngày, có mọc loài cây chịu được nước mặn. Sự thay thế nhau của các loài cây chịu ngập theo mức độ giảm dần độ mặn: Mấm - Vẹt - Đước - Cóc - Giá - Sú Bần - Chà là - Dừa nước đã làm tích lũy dần chất hữu cơ, nhạt dần độ mặn, chắc dần đất đi đến cố định đất. Cứ thế đất mặn tiến dần ra biển để lại sau nó đất đai chắc thêm và có nhiều mùn cho các loài cây sau rừng nước mặn. Nhóm đất mặn gồm các loại sau: đất mặn sú vẹt đước, đất mặn nhiều và đất mặn trung bình và ít.

- Đất mặn sú vẹt đước: diện tích trên 100.000 ha. Đây là loại đất mặn dưới rừng cây ngập mặn, tập trung quá nửa diện tích ở đồng bằng sông Cửu Long, ít hơn ở đồng bằng sông Hồng, còn lại rải rác ở các vùng đồng bằng khác.

Tuỳ đặc tính đất đai, khí hậu từng vùng mà tập đoàn cây ngập mặn khác nhau: ở Nam Bộ thường gặp rừng đước, vẹt, bần, dừa nước.., còn ở ven biển miền Bắc và miền Trung là các loài cây sú, vẹt, đâng, trang.

57

Vùng đất mặn này thường ngập nước triều nên bão hoà Cl, tầng mặt nhiều hữu

cơ, giầu lân và kali dễ tiêu, lượng đạm khá, đất trung tính hoặc kiềm yếu. Cần giữ rừng ngập mặn để bảo vệ tính đa dạng sinh học, đặc biệt dối với dải rừng ngập mặn ở đồng bằng Nam Bộ, kết hợp nuôi trồng thuỷ sản.

- Đất mặn nhiều: diện tích khoảng trên 130.000 ha. Nơi địa hình ven biển thấp, mùa khô hạn kéo dài, nước triều ngập lâu, thấm sâu làm cho nước mạch cũng bị ngấm mặn muối NaCl của nước biển hình thành loại đất mặn nhiều với tỷ lệ muối hoà tan > 1% và nồng độ Cl > 0,25%. Chính vì thế đất mặn nhiều tập trung nhất ở đồng bằng sông Cửu Long tới trên 100.000 ha.

Đất mặn nhiều thường chứa nhiều chất dinh dưỡng, nhiều sét hoặc thịt pha sét, nên thành phần cơ giới nặng và sâu. Với loại đất mặn này biện pháp thau chua rửa mặn chi phí cao lại kém hiệu quả. Thường nông dân các vùng này vượt đất cao để tạo thành các ô trũng nuôi tôm, cua, thả cá.

Đất mặn trung bình và ít: diện tích trên 730.000 ha. Dải đất này lùi vào trong hơn, giáp vùng đất phù sa, địa hình cao hơn nhưng vẫn thường xuyên chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. 80% diện tích loại đất mặn này tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nồng độ muối Cl thấp , không có thực vật ngập mặn nên đất có phản ứng trung tính, ít chua, lượng mùn, đạm, lân trung bình.

Những vùng đất này hiện tại vẫn được sử dụng trồng hai vụ lúa. Hướng sử dụng các vùng này là không nên ngọt hoá mà lợi dụng nước thuỷ triều vào nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ ưu thế hơn so với vùng nội đồng.

5.2.3. Nhóm đất phèn (chua mặn - Thionic Fluvisols - FLt) Tổng diện tích đất phèn của cả nước hơn 1,85 triệu ha, tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông cửu Long, tại các vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, Cà Mau.Trên đồng bằng Bắc bộ, đất phèn(gọi là đất chua mặn) tập trung ở Hải phòng, Nam Hà. Đất phèn được hình thành ở những vùng đất mặn khó thoát nước có tích tụ xác hữu cơ thực vật. Đất phèn là loại đất chua mặn, chứa nhiều Sulfat kép Fe, AL.

Các gốc muối Sulfat có nhiều trong nước biển và S trong xác hữu cơ của rừng ngập mặn, qua hoạt động của vi sinh vật yếm khí khử S04 tạo thành H2S, gặp Fe chuyển sang dạng FeS2, sự tích tụ disulfua sắt kết tinh tức khoáng pyrit (FeS2). Khi hàm lượng pyrit còn ít thì phèn còn tiềm tàng.Trong quá trình cố định đất của rừng ngập mặn, pyrit được tích lũy, đất càng nâng cao dần, thoát khỏi ảnh hưởng triều, quá trình oxy hóa thay thế quá trình khử oxy, pyrit bị oxy hóa tạo thành muối Sulfat sắt hai và axít Sulfuarit. Quá trình oxy hóa tiếp tục biến Fe2+thành Fe3+ ,thường trong đất thiếu CaC03 để trung hòa độ chua do H2S04 sinh ra, phản ứng oxy hóa diễn ra không hoàn toàn và đã hình thành loại khoáng jarosite [KFe3(S04) 2OH)6], một loại khoáng đặc trưng cho đất phèn khi đất có phản ứng chua. Khi độ pH < 5 ,thì keo sét chứa Al bị phá hủy và hàm lượng ion Al trong đất

được tăng cao tạo thành các Sulfat Al(chất phèn).Đó là quá trình phèn hóa biến những vùng đất mặn sú vẹt thành đất chua mặn, xuất hiện trong điều kiện những dải đất này đã thoát khỏi ảnh hưởng ngập triều, quá trình oxy hóa thay thế quá trình khử.

Trong điều kiện nước tù, Sulfat Fe bị thuỷ phân diễn ra có phản ứng: Fe2 (S04)3 + 6 H20 -> 2 Fe (0H)3 + 3H2S04 làm thành lớp vàng dỉ sắt trên mặt. Tầng mùn và tầng than bùn có tác dụng giữ chặt các ion Al trong đất phèn,

hạn chế quá trình phèn hóa, hạn chế phản ứng chua trong đất, giữ ẩm cho đất trong

58

những tháng khô, tầng pyrit luôn nằm trong tình trạng khử oxy giữ ở phèn tiềm tàng. Đất phèn có độ chua rất cao (pH: 3 -3,5), do độ độc của Al nên nơi phèn nặng chỉ có các loại cỏ cói, cỏ lác mọc. Phân tích nước đất phèn, bao giờ cũng thấy nồng độ ion Sulfat nhiều hơn nồng độ ion Cl. Tùy theo nồng độ hai loại này mà xác định mức độ chua và mức độ mặn. Người ta chia đất phèn ra chua mặn (chua nhiều hơn) khi nồng độ ion Sulfat nhiều hơn ion Cl và mặn chua (mặn nhiều hơn) nếu nồng độ ion Sulfat và ion Cl xấp xỉ bằng nhau. Đất nhiều nhôm (phèn nhôm), đất nhiều sắt (phèn sắt). Đất phèn sắt có váng

nâu đỏ hoặc nâu vàng trên mặt, mà ở miền Nam thường gọi là "đất cứt chuột". Thuộc nhóm đất phèn có 3 loại đất: Đất phù sa phèn, đất glây phèn và đất than bùn phèn.

Đất phèn được xác định bởi sự có mặt trong phẫu diện đất 2 loại tầng chẩn đoán chính là tầng sinh phèn và tầng phèn. Tầng sinh phèn là tầng tích luỹ vật liệu chứa phèn, thường ở trạng thái yếm khí do là tầng sét hoặc hữu cơ ngập nước có chứa SO3. Trong điều kiện diễn ra quá trình oxi hoá hình thành khoáng Jarosite dưới dạng đốm, vệt vàng rơm, là chất chỉ thị cho tầng phèn hoạt động. Như vậy tầng phèn (phèn hoạt động) là dạng tầng B xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của đất phèn từ đất phèn tiềm tàng, đặc trưng bởi sự tích tụ của khoáng Jarosite.

Theo số liệu tổng kết điều tra của Hội Khoa học Đất thì ở đồng bằng sông Cửu Long, đất phèn tiềm tàng thường phân bố ở dưới rừng ngập mặn và ở các vùng trũng, chứa tỷ lệ hữu cơ cao, glây mạnh chiếm 26% diện tích đất phèn của vùng, trong đó có 10% chịu ảnh hưởng mặn và 40% có tầng phèn sâu và dày. Đất phèn hoạt động chiếm đại bộ phận diện tích tới 74%, trong đó có 38% bị ảnh hưởng mặn và có đến 74% diện tích có tầng phèn sâu.

Tính chất chung của đất phèn là có tỷ lệ hữu cơ cao, mức độ phân giải thấp, đạm tổng só khá , lân tổng số trung bình và nghèo, kali tổng số thường giàu, lân dễ tiêu rất nghèo, đất rất chua, Al 3 + di động cao, SO4 2- cao, thành phần cơ giới đại bộ phận là sét, nhiều nơi chưa đạt mức thuần thục (nhất là đất phèn tiềm tàng).

Đất phèn chiếm tới 1/5 diện tích đồng bằng của cả nước, cần cải tạo đất phèn để trồng lúa và nhân dân ta cũng đẫ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm cải tạo đất phèn.

Các biện pháp thuỷ lợi cải tạo đất có hiệu quả đã được áp dụng như thoát phèn, ém phèn, thau chua, rửa mặn kết hợp các biện pháp về giống và kỹ thuật canh tác.

5.2.4. Nhóm đất Glây (Gleysols - GL) Đất glây phân bố tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ, tại các vùng chiêm trũng như Hà Nam, Ninh Bình, ở đồng bằng ven biển miền Trung trong các dải đất trũng nằm giữa vùng gò đồi chân núi và dải cồn cát ven biển, rải rác ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, và ven biển Nam Trung Bộ.

Diện tích đất glây ở Việt Nam có khoảng gần 452.500 ha. Đất glây có 2 loại đất glây chua và đất lầy. Quá trình hình thành đất glây xảy ra ở những nơi trũng, không thoát nước, như

vậy, ở đây ảnh hưởng của địa hình là chính.

- Đất glây chua: có diện tích trên 350.500 ha. Đất có phản ứng rất chua(pHkcl= 3,2-4,0), hàm ượng mùn trung bình (khoảng 2,5 %), lân và các chất dễ tiêu đều nghèo, khả năng trao đổi cation thấp.

59

Đất phù sa glây thường có thời gian ngập úng trên 6 tháng, nên chỉ trồng được 1 vụ lúa, năng suất thấp và bấp bênh. Để nâng cao hiệu quả kinh tế một số vùng chiêm trũng đã chuyển hướng sản xuất đa canh cấy lúa, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nuôi vịt đã có kết quả tốt.

- Đất lầy: chỉ chiếm diện tích trên 43.000 ha, tập trung nhiều nhất vùng Thanh - Nghệ Tĩnh. Đặc điểm của đất lầy là giầu chất hữu cơ, tỷ lệ mùn 3- 4%, giầu đạm nghèo lân. Đất chua, glây mạnh, chứa nhiều H2S và FeO mầu xám, kết quả của quá trình sinh hóa học diễn ra trong môi trường thiếu oxy.

Thực vật tự nhiên của đất lầy là lau, sậy, cói. Muốn cải tạo trước hết phải rút nước, sau đó tùy theo tính chất đất mà bón phân.

5.2.5. Nhóm đất than bùn (Histosols - HS) Tại những vùng đầm lầy, sự tích lũy chất hữu cơ lâu ngày hình thành đất

than bùn. Diện tích đất than bùn chiếm gần 25.000ha.

Đất than bùn vùng rừng U minh Nam Bộ rộng 22.000 ha, lớp than bùn dầy 1-2 m, rất giầu N (0,7%). Lớp than bùn này có tác dụng giữ nước ngọt, đẩy mặn ra xa, đồng thời cũng hãm sự đi lên của phèn tiềm tàng bên dưới. Nếu bóc lớp than bùn này đi, đất cũng dễ thành chua mặn và mặn, bởi vậy cần bảo vệ lớp than bùn và sử dụng hợp lí hệ sinh thái rừng trên than bùn.

5.2.6. Nhóm đất phù sa (Fluvisols - FL) Tổng diện tích đất phù sa là 3,4 triệu ha, tập trung nhất ở đồng bằng Sông Cửu Long, rồi đến đồng bằng sông Hồng, còn lại là đồng bằng khác. - Đất phù sa sông Hồng: Tầng đất dày mầu nâu, thành phần cơ giới cát pha,

thịt trung bình, giàu limon, cấu tượng viên, hạt, nhiều hữu cơ, đất trung tính, pH: 7 - 7,5, chất lượng phù sa tốt, giàu N, P, K, Ca, Mg. Đất ngoài đê được bồi hàng năm luôn trẻ và màu mỡ. Vùng trong đê, nơi cao bị rửa trôi thì lớp đất mặt chua và nghèo đi. Nơi trũng bị glây, tích tụ mùn theo quá trình hình thành đất lầy.

- Đất phù sa sông Cửu Long: Do thủy chế sông Cửu Long điều hòa, hàm lượng phù sa ít hơn sông Hồng, quá trình bồi lắng diễn ra từ từ nên thành phần cơ giới nặng hơn sông Hồng, thường là thịt đến sét ở nơi ngập nhiều. Phù sa chỉ còn ở những đai đất cao, các giồng ven sông thoát nước. Phần lớn đồng bằng bị ngập nên nền đất bị nhiễm mặn hoặc phèn. Đất phù sa sông Cửu Long cũng là loại đất tốt. Phản ứng từ trung tính đến chua, mùn và đạm trung bình, lân tương đối thấp, nghèo các cation kiềm.

- Đất phù sa sông ngòi miền Trung: Đất phù sa sông ở đây chịu ảnh hưởng nhiều của biển. Thành phần cơ giới là cát, cát pha, nói chung nhẹ hơn phù sa sông Hồng và sông Cửu Long. Đất nghèo chất dinh dưỡng có màu nhạt hoặc xám.

Theo tính chất đất, nhóm đất phù sa được chia làm 5 loại: Đất phù sa chua, đất phù sa trung tính ít chua, đất phù sa glây, đất phù sa mùn, đất phù sa có tầng đốm gỉ.

- Đất phù sa chua: Trong 5 loại đó thì đất phù sa chua chiếm diện tích lớn nhất, gần nửa tổng diện tích đất phù sa (gần 1,7 triệu ha). Loại đất này phân bố ở khắp các đồng bằng phù sa từ Bắc vào Nam, thường bao quanh đất phù sa trung tính ít chua ở 2 đồng bằng châu thổ lớn đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, tập trung ở phần rìa đồng bằng vùng trung du và chiếm đại bộ phận diện tích các đồng bằng ven biển miền Trung.

Đất phù sa chua có độ bão hoà bazơ thấp, nhỏ hơn 50%, độ pH từ 4-5, tỷ lệ chất hữu cơ trung bình, đạm và kali trung bình, lân từ trung bình đến nghèo nên cần

60

có biện pháp cải tạo tăng độ phì cho đất và chủ động tưới tiêu để trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày.

- Đất phù sa trung tính ít chua: có diện tích nhỏ hơn nhiều, trên 225.000 ha, phân bố chủ yếu ở phần trung tâm của hai tam giác chau sông Hồng và sông Cửu Long. Đây là loại đất phù sa trẻ mới bồi, đất có màu nâu tươi, phẫu diện chưa có sự phân hoá rõ rệt. Đất có dung tích hấp phụ và độ no bão hoà bazơ cao, khá giàu chất dinh dưỡng, có phản ứng trung tính (ở đồng bằng sông Hồng) hoặc ít chua (ở đồng bằng sông Cửu Long).

- Đất phù sa glây, đất phù sa mùn, đất phù sa có tầng đốm gỉ. Các loại đất phù sa này đều là những loại đất có mặt hạn chế cần cải tạo. - Quá trình hình thành đất lúa nước Trong nhóm đất phù sa đồng bằng phải kể đến loại đất lúa nước mà con người

đóng vai trò chính trong quá trình hình thành.

Đất lúa nước mà tác nhân chính là hoạt động cấy lúa nước của con người, tuy có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau, kể cả trên đất Feralit, nhưng phổ biến nhất vẫn là trên đất phù sa.

Tại các vùng đồng bằng và thung lũng và ngay cả trên các loại đất Feralit vùng đồi, vùng thềm phù sa cũ, con người đã tiến hành một quá trình canh tác lâu dài để hình thành loại đất có những đặc trưng riêng gọi là đất lúa nước. Xem xét quá trình hình thành và những đặc điểm của đất lúa nước để thấy vai trò tác động của con người trong việc cải biến đất đai ở Việt Nam.

Quá trình hình thành đất lúa nước là quá trình quan trọng thứ hai của đất Việt Nam. Trên các loại đất khác nhau, quá trình trồng lúa nước đòi hỏi những điều kiện chung là:

- San bằng, giữ ngập nước cả năm hoặc nửa năm. - Cầy đến một độ sâu nhất định nên hình thành tầng chân đế cày bị nén chặt, tạo nên ở đó tầng nước mạch treo bị glây hóa mạnh, nước ngầm thường dâng cao do mạch nước nông. - Cây lúa làm cho đất tầng trên bị biến đổi mạnh, do làm đất, bón phân, do ảnh

hưởng của rễ cây.

Do những điều kiện hình thành nêu trên, đất lúa nước có một số đặc điểm chung là có cấu tượng kém, thành phần có giới nặng, mùn bị phá hoại, đất bí, bị glây nặng. Nói chung, phẫu diện đất chia 3 tầng rõ rệt.Tầng trên cùng là tầng canh tác, mầu nâu nhạt, khi ngập nước không có cấu tượng, khi khô có cấu tượng, tầng giữa mầu nâu sẫm vì có sự tích tụ hạt sét từ trên xuống, thành phần cơ giới nặng, Fe203 trầm lắng hoặc bao phủ hạt đất và có mầu nâu đỏ. Tầng dưới cùng do ngập nước lâu dài nên bị glây hóa. Quá trình glây hóa là quá trình Fe203 bị khử oxy thành FeO có màu xanh xám. Tùy theo loại đất ban đầu bị biến đổi để trồng lúa nước mà có mấy chiều hướng làm xấu đất như sau:

- Khi sử dụng đất đồi để trồng lúa nước, con người đã làm biến đổi địa hình tầng đất và nhiều tính chất khác của đất, mà hình thành đất Feralit bạc màu do trồng lúa. Đất bạc màu do chế độ tưới nước lâu ngày làm rửa tràn trên mặt, nước cuốn đi các hạt sét mịn và limon, tầng đất cầy hầu như thành tầng cát thạch anh. Đất càng có nhiều thạch anh càng bạc màu nhanh. - Quá trình xấu đất cũng có thể từ chỗ phá vỡ cấu tượng đất, giảm mùn trong đất, rửa trôi các cation, tích tụ kết von.

61

- Ở những địa hình trũng đóng kín, đất ruộng chiêm gây hiện tương lầy thụt,

glây hóa mạnh, thành phần cơ giới nặng là do tầng nhận các phần tử sét bị rửa trôi xuống. Đất bị glây yếm khi, FeO glây độc cho cây trồng.

5.2.7. Nhóm đất xám (Acrisols - AC) Nhóm đất xám chiếm diện tích lớn nhất: gần 20 triệu ha, phân bố rộng khắp

các vùng trung du miền núi và một phần ở đồng bằng. Đặc tính chung của đất xám là có tầng B tích sét, khả năng trao đổi cation và độ no bazơ thấp, đất có phản ứng chua.

Nhóm đất xám có 5 loại: đất xám Feralit, đất xám mùn trên núi, đất xám bạc màu, đất xám có tầng loang lổ, đất xám glây. Trong 5 loại đó thì đất xám Feralit chiếm đại bộ phận diện tích, gần 14,8 triệu ha, sau đến đất xám mùn trên núi chiếm hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu có diện tích gần 1,8 triệu ha, hai loại còn lại chỉ chiếm vài nghìn ha.

- Đất xám Feralit: Loại đất này có diện tích lớn nhất(14,8 triệu ha) và phân bố rộng khắp ở Việt Nam. Phần lớn diện tích là đất xám Feralit phát triển trên đá phiến sét (6,8 triệu ha), đất xám Feralit phát triển trên macma axit (4,6 triệu ha), đất xám Feralit phát triển trên đá cát (2,6 triệu ha), đất xám Feralit phát triển trên đất phù sa cổ (0,5 triệu ha), đất xám Feralit phát triển do biến đổi trồng lúa (160.000 ha).

+ Đất xám Feralit phát triển trên đá sét và đá biến chất Loại đất này phát triển trên đá mẹ giàu sét (philit, paragơnai, đá phiến sét, đá phiến mica nghèo thạch anh) nên có thành phần cơ giới nặng, kém tới xốp. Đất có độ dày trung bình, trên đá phiến mica độ dày tầng đất có thể tới 2 m. Phẫu diện phân tầng rõ. Khi mất lớp phủ, đất dễ bị rửa trôi, bào mòn lớp mặt trong mùa mưa. Nếu không có biện pháp chống xói mòn, đất nghèo xấu đi nhanh chóng. Đất này chiếm trên 6,8 triệu ha, tập trung vùng Cao- Lạng, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang, vùng Tây Bắc từ Hòa Bình lên Lai Châu.

+ Đất xám Feralít phát triển trên đá macma axit Địa hình đá mẹ axit thường có sườn dốc, đá mẹ giàu thạch anh, khó phong hóa

nên tầng đất thường mỏng, thành phần cơ giới trung bình, lớp đất mặt có thể nhẹ. Do rửa trôi mạnh, đất thường nghèo mùn, lân, chua. Sườn dốc nên xói mòn mạnh, tầng đất vốn đã mỏng bị thoái hóa nhanh chóng. Loại đất này trên vùng đồi núi Việt Nam hầu hết đã bị xói mòn nghiêm trọng, cần có biện pháp bảo vệ. Diện tích khoảng 4,6 triệu ha.

+ Đất xám Feralít phát triển trên đá cát Thuộc loại đá cát là các loại đá chứa nhiều thạch anh (cát kết,quaczit, đá phiến silic).Tỷ lệ Si cao hơn so với đá mẹ axit, nên khó phong hóa hơn, tầng đất rất mỏng, thành phần cơ giới là cát, cát pha. Đất bị rửa trôi mạnh, nên đất chua, khô, rất nghèo dinh dưỡng. Diện tích chiếm tới 2,6 triệu ha.

+ Đất xám Feralít phát triển trên phù sa cổ Trên những dải phù sa cổ địa hình cao 25- 30 m, dạng đồi lượn sóng rìa đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hóa đã hình thành loại đất có đầy đủ đặc trưng đất Feralit, nên được xếp vào nhóm đất Feralit. Đất chua nơi khai thác lâu bị xói mòn và đá ong hóa mạnh. Nơi đất còn dày có thể trồng cà phê, cam. Diện tích chiếm trên 500 nghìn ha.

- Đất xám mùn trên núi Loại đất này phân bố ở độ cao trên 700m, phân bố nhiều ở vùng núi phía Bắc. Diện tích loại đất này khá lớn , trên 3 triệu ha, trong đó đất xám mùn trên núi phát triển trên phiến sét (diện tích1,3 triệu ha), đất xám mùn trên núi phát triển trên

62

macma axit (trên 1,2 triệu ha), đất xám mùn trên núi phát triển trên philit (trên 0,5 triệu ha).

Đặc tính chung của đất xám mùn trên núi là có hàm lượng chất hữu cơ cao từ 4-10%. Do địa hình cao, độ ẩm khá lớn nên khả năng phục hồi rừng nhanh, lượng mùn tầng mặt ở một số nơi còn khá giàu. Những nơi độ dốc lớn, xói mòn mạnh, phần lớn tầng mùn đã bị rửa trôi. Hướng canh tác mô hình nông- lâm kết hợp, làm ruộng bậc thang, phát triển nghề vườn và chăn nuôi đã đem lại hiệu quả cao trên loại đất này.

- Đất xám bạc màu: phát triển chủ yếu trên phù sa cổ và trên sản phẩm phá huỷ của đá macma axit và đá cát. Loại đất này có diện tích 1,8 triệu ha, phân bố tập trung ở Đông Nam Bộ, Trung du Bắc Bộ và Tây Nguyên.

Tính chất chung của đất xám bạc màu là chua và rất chua, pHkcl từ 3,0-4,5, nghèo các cation kiềm, hàm lượng mùn trên mặt cũng rất nghèo, các chất dễ tiêu đều nghèo.

+ Đất xám bạc màu trên phù sa cổ: Tại các thềm phù sa cổ, do địa hình cao chừng 15 - 20 m, quanh năm không ngập nước, quá trình rửa trôi lâu ngày làm mất đi các chất màu của đất, đất trở nên nghèo. Đất có màu trắng, trắng xám, xám tro, tỷ lệ mùn thấp (9 %). Độ chua 4,5 - 5, nghèo đạm, lân, ka ki - thành phần cơ giới cát, cát pha, thịt nhẹ. Đất xám bạc màu phù sa cổ chiếm diện tích lớn nhất ở Đông Nam bộ (trên 900 nghìn ha), trung du Bắc bộ (Hà Bắc, Vĩnh Phúc, Hà Tây), duyên hải Nam Trung Bộ, đồng bằng Nam Bộ. Tổng cộng cả nước có trên 1,2 triệu ha. Tuy có nhược điểm là đất chua, nghèo, khô hạn nhưng đất tơi xốp thoáng khí, thoát nước, địa hình bằng phẳng thích hợp cho việc trồng các cây ăn quả, cây công nghiệp. Nếu có biện pháp cải tạo tốt, làm giàu đất bằng phân hữu cơ, có thể trồng cây hoa màu, lương thực.

+ Đất xám bạc màu trên sản phẩm phá hủy của đá mác ma axít và đá cát: Quá trình hình thành giống như đất xám trên phù sa cổ, nhưng trên sản phẩm

phong hóa của đá mẹ axít, đá cát nên hạt thường thô hơn, chua hơn, nghèo, khô hơn cả loại trên. Thực vật là những loài cây chịu hạn cỏ tranh, rừng khộp. Loại đất này tập trung nhiều nhất ở Tây Nguyên, lẻ tẻ dọc ven biển miền Trung. - Đất xám có tầng loang lổ: diện tích không lớn, trên 220.000ha, tập trung chủ yếu ở vùng trung du Bắc Bộ.

Đây là loại đất đang bị thoái hoá. Do địa hình đồi trung du, điều kiện cung cấp nước hạn chế, thường cấy 1vụ lúa,1 vụ màu hợc 2 vụ màu. Đất bị rửa trôi sét tầng mặt nên thành phần cơ giới nhẹ, nghèo mùn và chất dinh dưỡng. Thường gặp trong phẫu diện tầng B bị nén chặt, tỷ lệ sét tăng đột ngột, ở độ sâu nhất định có thể gặp tầng đá ong. - Đất xám Glây: chỉ chiếm diện tích trên 100.000 ha, phân bố tập trung ở Trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

Đất xám glây hình thành ở vùng trũng, khó thoát nước, nên đất chua, độ pH từ 3,5 đến 4,5. Cùng là đất xám glây, nhưng ở địa phương khác nhau, tính chất của đất có khác nhau chút ít. Đất xám glây ở Trung du Bắc Bộ nghèo chất hữu cơ, nghèo đạm, ở Tây Nguyên đất có màu xám xanh, nhiều mùn, giàu đạm, nhưng nghèo lân và kali, còn ở Đông Nam Bộ đất rất giàu đạm và chất hữu cơ vẫn còn nhiều tới độ sâu 40cm. Phần lớn ở vùng đất xám glây chỉ trồng được một vụ lúa. Nhiều nơi đã cải tạo đất này bằng đào kênh, vượt đất để trồng cây ăn quả.

5.2.8. Nhóm đất đỏ: (Ferrasols)

63

Nhóm đất đỏ thường còn gọi là đất Feralit đỏ vàng, chiếm diện tích khá lớn, hơn 3 triệu ha, gần 10% diện tích Việt Nam, phân bố rộng khắp vùng đồi núi, phổ biến ở địa hình có độ cao từ 50 đến 900 -1000m. Nhóm đất này mang những đặc điểm điển hình của đất Ferralit - sản phẩm của khí hậu nhiệt đới ẩm, đó là chua, độ no bazơ thấp , khả năng hấp thụ không cao, khoáng sét phổ biến là kaolinit, axit mùn chủ yếu là Fulvic, chất dễ hoà tan bị rửa trôi, có quá trình tích luỹ Fe, Al tương đối và tuyệt đối, hạt kết tương đối bền.

Theo đặc điểm phát sinh trên đá mẹ và điều kiện sinh khí hậu, nhóm đất đỏ được phân chia làm 3 loại: Đất nâu đỏ trên đá bazan, đất nâu vàng trên trên đá macma bazơ và trung tính, đá vôi và đất mùn vàng đỏ trên núi.

- Đất nâu đỏ: Loại đất này có diện tích trên 2,4 triệu ha, chiếm 7,7% diện tích tự nhiên cả nước, phân bố tập trung ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La. Đất nâu đỏ phát triển trên các loại đá mẹ bazơ như đá bazan và đá vôi nên phong hoá mạnh, thường có tầng đất dày, tỷ lệ sét cao (trên 50%), thành phần cơ giới nặng nhưng kết cấu tốt nên vẫn tơi xốp, thoáng khí.

Đất nâu đỏ trên đá mẹ bazan có màu đỏ thẫm, tầng đất dày, tầng mặt giàu mùn và các cation Ca, Mg, tầng B tích luỹ Fe, Al, lượng mùn còn khá, đất có độ xốp cao. Vì vậy loại đất này rất thích hợp với các loài cây công nghiệp và cây ăn quả có rễ ăn sâu như cà phê, cao su, chè, sầu riêng, chôm chôm. Hiện nay phần lớn đất nâu đỏ Feralit có hàm lượng cation trao đổi kiềm thấp, độ no bazơ thấp, đất có phản ứng chua. Khi khai thác các vùng đất này cần có biện pháp bảo vệ đất như chống xói mòn, giữ ẩm cho đất, bón lân, kali và đạm nếu cần thiết.

Đất nâu đỏ trên đá vôi có lượng mùn khá, cấu trúc tốt, ít chua.Tùy vị trí địa thế mà đất này có màu khác nhau. Nơi dốc, thoát nước đất có mầu đỏ nâu, nơi ẩm hơn có mầu vàng, nơi khô giàu mùn thành đất nâu, thung lũng thấp đất có mầu đen. Loại đất này phân bố ở vùng núi đá vôi Hà Tuyên, Cao Lạng - dải núi đá Phong Thổ - Mộc Châu, Kẻ Bàng - Khe Ngang. Diện tích khoảng gần 300 ngàn ha.

Đất nâu đỏ trên đá vôi rất tốt, thích hợp với các loài cây ngô, đậu tương..., song khi trồng trọt cần giữ ẩm cho đất và chống xói mòn.

- Đất nâu vàng Loại đất này có diện tích trên 420.000 ha, tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây

Bắc, Khu IV cũ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

Đất nâu vàng chủ yếu phát triển trên sản phẩm phong hoá của đá macma bazơ và trung tính, như anđêzit, điôrit...Loại đất này hình thành trong điều kiện khí hậu ẩm hơn, nên đất có mầu nâu vàng. Đất nâu vàng có đầy đủ các tính chất tốt như đất nâu đỏ nhưng ẩm hơn nên thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và cả cây lương thực. Diện tích đất nâu vàng nhỏ chỉ khoảng 420 nghìn ha, tập trung nhất ở cao nguyên Blao, nơi có độ cao 800 - 900 m, lượng mưa tới 2800 ly.

Nhiều nơi đất nâu vàng bị thoái hoá, trong phãu diện đất xuất hiện lớp đá ong hoá hoặc loang lổ đỏ vàng, nên khi sử dụng cần coi trọng biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất.

- Đất Feralít mùn vàng đỏ trên núi Loại đất này phân bố ở vùng núi từ độ cao 700-900 đến 2000m, phát triển chủ yếu trên đá mẹ macma bazơ trung tính và đá vôi. Đất được hình thành trong điều kiện khí hậu lạnh, ẩm, thảm thực vật còn tốt hơn vùng dưới thấp nên tầng A có mầu xám đen, tơi xốp, giàu mùn (>5%), không có kết von, đá ong. Đất có phản ứng chua vừa

64

đến ít chua, khả năng trao đổi cation thấp. Do địa hình cao, dốc nên bị xói mòn mạnh. Nơi nào mất lớp phủ cần trồng rừng. Nơi bằng phẳng có thể trồng các loại rau quả ôn đới hoặc làm đồng cỏ nuôi gia súc.

5.2.9. Nhóm đất nâu vùng bán khô hạn (Lixsols - LX) Nhóm đất này chỉ chiếm diện tích nhỏ, hẹp, trên 42.000 ha, được hình thành trên đá mẹ thành phần cát là chủ yếu (đất cát biển, phù sa cổ, sản phẩm của đá mácma axít), trong điều kiện khí hậu khô hạn khắc nghiệt.Vì thế loại đất này chủ yếu tập trung ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.

Đất có thành phần cơ giới nhẹ, ít bị rửa trôi, tích lũy bazơ nên ít chua. Khí hậu khô nên điều kiện hình thành mùn kém. Do đó mùn và các chất dinh dưỡng khác cũng ít. Biện pháp cải tạo chủ yếu là thủy lợi.

Nhóm đất này có 2 loại: Đất nâu vùng bán khô hạn phát triển trên đá mẹ giàu thạch anh hay mẫu chất phù sa cổ. Loại này chiếm phần lớn diện tích (trên 40.000ha). Còn loại đất đỏ vùng bán khô hạn được hình thành trên đá anđêzit- macma trung tính, có sự tích tụ Fe, Al cao hơn nên đất có màu đỏ. Loại đất này chiếm diện tích không đáng kể, chỉ có hơn 2000 ha.

5.2.10. Nhóm đất đen (Luvisols - LV) Loại đất macgalit thuần túy này ở Việt Nam rất ít, chỉ chiếm trên 110.000 ha. Đất đen được hình thành ở địa hình cao, trong điều kiện có quá trình tích luỹ chất mùn và tích luỹ sản phẩm phong hoá đá mẹ giàu kiềm như đá vôi, đá bazơ và siêu bazơ. Nhiều nhất là loại đất đen đá bọt bazan ở Tây Nguyên. Các loại đất đen trên đá mẹ bazơ khác chiếm diện tích nhỏ. Đất đen trên sản phẩm đá vôi gặp trong các lũng thấp ở các tỉnh phía Bắc như Cao Bằng, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu.

5.2.11. Đất mùn alit núi cao (Alisols - AL) Loại đất này chiếm diện tích không đáng kể, trên 280.000 ha, phân bố ở độ cao trên 2.000m, trên các đỉnh núi cao như Hoàng Liên Sơn, Ngọc Linh, Ngọc Áng, Chử Yang Sin. Đá phong hoá yếu, tầng đất mỏng lẫn nhiều mảnh đá vụn nguyên sinh. Quá trình hình thành mùn là chủ yếu tạo nên lớp mùn thô hay than bùn trên núi. Đây là vùng đầu nguồn nên cần bảo vệ rừng.

5.2.12. Đất xói mòn trơ sỏi đá (Leptosols - LP) Loại đất này chiếm tới 500.000 ha trong số gần 10 triệu đất trống đồi núi trọc ở Việt Nam. Diện tích đất xói mòn trơ sỏi đá tập trung ở Tây Nguyên(hơn 170 nghìn ha), Khu IV cũ (gần 200 nghìn ha) với diện tích ít hơn ở ven biển Nam Trung Bộ, ở Trung du và Miền núi phía Bắc.

Đất xói mòn trơ sỏi đá có độ dày tầng đất dưới 30cm, giới hạn bởi tầng đá cứng hoặc tầng kết von, đá ong, nhiều nơi thực vật mọc thưa thớt, sỏi đá lộ trên mặt. Phục hồi lớp phủ là biện pháp cấp bách để hạn chế quá trình xói mòn thoái hoá đất tiếp diễn ở những nơi này.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 5: 1- Thổ nhưỡng Việt Nam có những đặc điểm gì? 2- Đặc điểm thổ nhưỡng Việt Nam phân hoá đa dạng, phức tạp chịu sự tác động của các nhân tố nào? Vai trò của mỗi nhân tố đối với sự hình thành đặc điểm đó.

3- Chứng minh thổ nhưỡng Việt Nam rất phong phú và đa dạng. 4- Tại sao nói đất Feralit là sản phẩm chủ yếu của quá trình hình thành đất ở Việt Nam?

5- Các giai đoạn của quá trình hình thành đất Feralit. 6 - Đặc điểm chủ yếu của đất Feralit.

65

7- Tác động của con người đối với tình trạng thoái hoá đất và các loại đất cần

cải tạo đất ở Việt Nam.

66

Chương 6. SINH VẬT VIỆT NAM

Mục tiêu của chương 6 - Cung cấp cho sinh viên kiến thức về sinh vật Việt Nam - Cung cấp kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng

thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Chuẩn đầu ra của chương 6 Sinh viên biết được sinh vật Việt Nam, vận dụng giải thích các vấn đề về sinh vật Việt Nam như nguyên nhân hình thành, tác động của sinh vật đến tự nhiên, kinh tế - xã hội… Thực hành được kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng tra cứu tài liệu, đọc bản đồ.

Làm việc độc lập, tự nghiên cứu về những kiến thức liên quan đến địa lí Việt Nam; Có trách nhiệm với nhóm và kết quả học tập, phản biện và bảo vệ những kết quả nghiên cứu của bản thân.

6.1. Đặc điểm chung của giới sinh vật tự nhiên Việt Nam 6.1.1. Giới sinh vật tự nhiên Việt Nam rất phong phú và đa dạng Tính chất phong phú và đa dạng của giới sinh vật tự nhiên Việt Nam thể hiện ở số lượng phong phú về thành phần loài thực, động vât và đa dạng về các kiểu hệ sinh thái. Riêng trong giới thực vật tự nhiên, Việt Nam đã có tới 14.624 loài thuộc gần 300 họ, trong đó có 9949 loài sống ở đai rừng nhiệt đới và 4675 loài sống tại các đai rừng á nhiệt đới và ôn đới trên núi. Còn về động vật, thì Việt Nam có tới 11.217 loài và phân loài, trong đó có trên 1000 loài và phân loài chim, khoảng 250 loài thú, trên 350 loài bò sát lưỡng cư, 5000 loài côn trùng, 2000 loài cá biển và gần 500 loài các nước ngọt và hàng ngàn loài tôm cua, nhuyễn thể và thuỷ sinh vật khác. Các kiểu hệ sinh thái thì rất đa dạng với các điều kiện sinh thái, cấu trúc sinh quần và thành phần loài động, thực vật rất khác nhau. Không kể các hệ sinh thái dưới nước, trên bề mặt đất nổi của đất nước, khắp nơi chúng ta vẫn thấy một màu xanh của cảnh quan rừng bao phủ với 15 kiểu hệ sinh thái rừng thay thế nhau từ kiểu rừng nhiệt đới ngập mặn ven biển lên kiểu rừng ôn đới núi cao, từ kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh tới các kiểu rừng nhiệt đới khô rụng lá, xa van, truông cỏ và nhiều kiểu đặc trưng các điều kiện sinh khí hậu, thổ nhưỡng đặc biệt khác.

6.1.2. Giới sinh vật Việt Nam tiêu biểu cho sinh vật của vùng nhiệt đới gió mùa

Mặc dù trong thành phần loài của giới sinh vật có sự pha trộn các loài động, thực vật á nhiệt đới và ôn đới của luồng di cư phương Bắc, song thành phần loài nhiệt đới vẫn chiếm ưu thế, đa phần trong số loài động vật và tới gần 70% tổng số loài thực vật tự nhiên. Tính địa đới của giới sinh vật còn thể hiện ở số lượng Đông đảo và đa dạng các loài, ở khả năng tăng trưởng, sinh sản và năng suất sinh học cao của các quần xã động, thực vật. Tính chất gió mùa biểu hiện rõ nhất ở giới thực bì tự nhiên.

Nhịp điệu mùa trong chế độ mưa trên toàn quốc là tác nhân chính tạo nên tính chất phân mùa của thảm thực bì tự nhiên, hình thành một kiểu rừng chung thống nhất, đó là kiểu rừng nhiệt đới gió mùa hay còn gọi là rừng nhiệt đới mưa mùa. Kiểu thực bì này là hệ quả của nền khí hậu nhiệt đới gió mùa và phản ánh đặc trưng cơ bản nhất, bao trùm nhất của cảnh quan tự nhiên Việt Nam là cảnh quan nhiệt đới

67

ẩm gió mùa. Ở miền Bắc, nhịp điệu mùa trong chế độ mưa phối hợp với nhịp điệu mùa trong chế độ nhiệt tạo nên kiểu rừng gió mùa chí tuyến với sự có mặt của các loài cây á nhiệt đới trong thành phần rừng, còn ở miền Nam là kiểu rừng gió mùa á xích đạo với sự có mặt của các loài cây nhiệt đới rụng lá.

Kiểu rừng nhiệt đới mưa ẩm lá rộng thường xanh chỉ có ở một số nơi thuộc vùng núi thấp Trường Sơn Bắc, vùng núi Kông tum thượng và khu vực núi Cực Nam Trung Bộ. Còn phần lớn lãnh thổ là kiểu rừng nhiệt đới gió mùa với độ dài mùa khô dài, ngắn quy định tỷ lệ thành phần loài cây rụng lá nhiều, ít khác nhau. Nơi có mùa khô ngắn là kiểu rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh với thành phần loài cây thường xanh chiếm ưu thế, nơi có mùa khô đủ đài 3- 4 tháng hình thành kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá, nếu mùa khô kéo dài tới 4-5 tháng thì rừng hoàn toàn rụng lá trong mùa khô là kiểu rừng thưa nhiệt đới khô rụng lá, nơi mùa khô kéo dài tới 6-9 tháng thì thực bì không còn là rừng mà là các xa van, truông bụi. Trong điều kiện khí hậu không chuẩn mà xuất hiện kiểu rừng gió mùa, thì đó là thực bì thứ sinh từ kiểu rừng mưa ẩm thường xanh bị thoái hoá do tác động của con người đã làm cho đất bị xói mòn, không giữ ẩm tốt, làm tăng độ khô hạn của khí hậu. Diễn thế thoái hóa ban đầu của kiểu rừng mưa ẩm lá rộng thường xanh là kiểu rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh thứ sinh với các loài mỡ, gội, ràng ràng, lim xanh, ngát...thay thế các loài táu, vên vên, sến, sao, gụ, huỹnh...Kiểu rừng này có thành phần loài rất phức tạp, nhiều cây thấp nhỏ, rừng có cấu trúc rậm rạp, tầng thứ không rõ, số lượng loài cây rụng lá không nhiều nên rừng vẫn mang cảnh sắc thường xanh, nhưng có trữ lượng thấp. Khi rừng bị khai thác mạnh hơn, những loài cây ưa sáng, rụng lá thay thế các loài cây ưa bóng thường xanh hình thành các kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá và rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá. Các kiểu rừng này có cấu trúc tầng thứ đơn giản, loài cây ưu thế rõ. Thành phần loài cây tạo nên kiểu rừng gió mùa, ở miền Bắc là các loài cây rụng lá do khí hậu lạnh khô như dẻ lá nhọn, dẻ răng cưa, chẹo, sau sau, xoan, sâng, bồ đề, hoàng linh...; còn ở miền Nam là các loài rụng lá do khí hậu nóng khô như dầu chai, dầu lông, săng lẻ, chiêu liêu, cẩm xe, cẩm lai, thung, trắc...Phần lớn diện tích rừng ở Việt Nam hiện nay là rừng thứ sinh, nhưng ngay cả rừng nguyên sinh khí hậu thì kiểu rừng nhiệt đới gió mùa vẫn là kiểu rừng phổ biến nhất, đặc trưng cho cảnh quan tự nhiên của đất nước. 6.1.3. Rừng nguyên sinh và động vật hoang dã ở Việt Nam bị giảm sút nghiêm trọng

Trong các thành phần tự nhiên Việt Nam, thì giới sinh vật bị con người tác động mạnh nhất, suy giảm nghiêm trọng nhất và hậu quả của nó đến môi trường tự nhiên cũng hết sức nặng nề. Biểu hiện rõ nhất ở tác động của con người đến giới thực vật tự nhiên, rừng nguyên sinh bị phá hoại gần hết, hiện nay chỉ thấy những thực bì thứ sinh diễn thế ở mức độ khác nhau. Do nạn phá rừng lấy đất làm nông nghiệp, phổ biến tập quán du canh, đốt rừng làm nương rẫy, do khai thác rừng quá mức lặp đi lặp lại nhiều lần, do chiến tranh và cháy rừng đã làm tài nguyên rừng bị suy giảm nhanh chóng.

Năm 1943, theo số liệu thống kê của Mô răng, tỷ lệ che phủ rừng của cả nước là 43,8%, riêng ở Bắc Bộ tới 60%, thì đến năm 1983, chỉ còn 23,6 %, nghĩa là sau nửa thế kỷ diện tích rừng đã bị thu hẹp gần một nửa. Đây cũng là thời điểm tài nguyên rừng bị kiệt quệ nhất, diện tích đất hoang, đồi trọc lên tới 14 triệu ha (chiếm hơn 2/5 diện tích lãnh thổ).Sau 15 năm, với mọi nỗ lực nhằm phục hồi rừng, thực hiện dự án trồng rừng PAM (chương trình lương thực, thực phẩm thế giới), tỷ lệ che phủ rừng đã được nâng dần, năm 1990 là 27,7%, năm 1999 đạt được 33,2% do diện

68

tích rừng trồng tăng lên đáng kể. Theo số liệu kiểm kê rừng năm 1999, thì trên toàn quốc có hơn 10,9 triệu ha rừng, rừng tự nhiên chiếm hơn 9,4 triệu ha, rừng trồng đạt gần 1,5 triệu ha (gần gấp 4 lần so với diện tích rừng trồng năm 1983). Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên đã giảm rất mạnh, đặc biệt tình trạng suy giảm chất lượng rừng.

Năm 1943, cả nước có trên 14 triệu ha rừng, thì loại rừng có trữ lượng trên 150 m3/ha chiếm gần 10 triệu ha, trong đó rừng tốt có trữ lượng trên 300 m3/ha chiếm 2,5 triệu ha, thế mà theo thống kê năm 1990, diện tích rừng có trữ lượng trên 150 m3/ha cả nước chỉ còn hơn nửa triệu (613 nghìn ha), thống kê gần đây nhất cho biết, năm1999, rừng có trữ lượng tốt chỉ còn gần 200 nghìn ha. Chỉ còn hiếm hoi những cánh rừng nguyên sinh giầu có với quang cảnh rừng già âm u mà quang đãng. Dưới tán rừng dường như khép kín, mặt đất ẩm ướt bao phủ một lớp thảm tươi mà vẫn đi lại dễ dàng, trên cao vượt lên trên tán rừng là những cây đại thụ làm bằng chứng cho sự tồn tại của rừng nguyên sinh. Thảm rừng tự nhiên của chúng ta đang có những dấu hiệu phục hồi làm tăng tỷ lệ che phủ, tuy nhiên vẫn chỉ là những kiểu thực bì thứ sinh kém chất lượng. Tác động của con người nhanh chóng biến những khu rừng giàu có thành nghèo kiệt. Điều kiện khí hậu nhiệt ẩm cao đã tạo thuận lợi cho sự phục hồi lớp phủ thực vật, mặc dù vậy thời gian để quá trình diễn thế ngược trở lại từ rừng nghèo thành rừng giàu phải tính bằng hàng trăm năm, thậm chí không có thể. Hiện chúng ta còn gần 10 triệu ha đất hoang, đồi trọc cần được cải tạo trồng rừng che phủ. Là một nước nhiều đồi núi, mà diện tích rừng theo đầu người rất thấp, trung bình chỉ có 0,14 ha (cao nhất ở Tây Nguyên là 1,33 ha, thấp nhất ở Đông Nam bộ còn 0,07 ha) thấp hơn cả trị số trung bình của Châu Á (0,4 ha) và của thế giới (1,6 ha), kém xa so với Châu Đại Dương (6,7 ha) và Mỹ la tinh (5,2 ha).

Song song với hoạt động phá rừng làm mất nơi cư trú và nguồn thực ăn của giới động vật, cùng với việc săn bắt quá mức các loài chim thú đã làm suy giảm đáng kể số lượng các loài động vật hoang dã và nguồn gen thực, động vật quý hiếm. Đã bước đầu xác định được ở Việt Nam có gần 500 loài hoặc nhóm loài thực vật, 85 loài thú, 63 loài chim, 40 loài bò sát, lưỡng cư đang bị mất dần, trong đó số loài thực, động vật quý hiếm đang có nguy cơ bị tiêu diệt lên tới 100 loài thực vật, 54 loài thú và 60 loài chim. Trong "Sách đỏ Việt Nam" đã thống kê, phân loại 360 loài thực vật và 350 loài động vật thuộc loài quý hiếm theo mức độ nguy cấp cần được bảo vệ khỏi nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều loài cây gỗ quý đang có nguy cơ cạn kiệt như Đinh, Lim, Sến Táu, Hoàng đàn, Dáng hương, Cẩm lai, Trắc, Mun, Gụ. Nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng đã gây được sự chú ý của các tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới. Liên hiệp quốc tế bảo vệ thiên nhiên (IUCN) đã đưa vào danh sách các loài cần được bảo vệ ở Việt Nam gồm các loài Voi,Vẹc ngũ sắc,Vượn đen, Hổ, Nai Cà tong, Bò xám, Bò tót, Trâu rừng và xếp loài Bò xám (Bos sauveli) là loài thứ 2 trong danh sách 12 loài động, thực vật trên giới cần được bảo vệ. Việt Nam có 4 loài trong số 8 loài trâu bò hoang dã của vùng Đông Nam Á là Bò xám, Bò rừng Ban teng, Bò tót và Trâu rừng. Sau chiến tranh Đông Dương, các nhà khoa học cho rằng, loài Bò xám đã bị tiêu diệt, nhưng sau giải phóng miền Nam đã phát hiện còn vài chục con ở sát vùng biên giới. Cũng phát hiện được loài Tê giác một sừng ở vùng Bù gia mập, ở đây, dự kiến chỉ 10 - 15 con còn sót lại. Các loài chim Trĩ, Sếu cổ trụi, Trĩ sao, Gà lam mào trắng, Gà lam mào đen, Gà lam đuôi trắng đã được Tổ chức bảo vệ chim trĩ quốc tế và Hiệp hội bảo vệ chim quốc tế chấp nhận hỗ trợ từng bước trong chương trình bảo vệ.

69

Không chỉ trên đất liền mà nguồn tài nguyên sinh vật dưới nước, đặc biệt nguồn hải sản của chúng ta cũng bị giảm sút rõ rệt. Nguồn lợi cá nổi (cá trích, cá nục, cá lầm..) ở ven biển vịnh Bắc Bộ đang có chiều hướng giảm dần.Vùng biển Tây Nam, nơi có nguồn lợi hải sản rất lớn thì sản lượng đánh bắt cá, tôm cũng giảm sút đáng kể. Nhiều loài có nguy cơ tuyệt chủng như cá mòi, cá cháy..., nhiều loài đang giảm mức độ tập trung như cá chim, cá gúng, cá hồng. Đó là hậu quả của sự khai thác đánh bắt quá mức và tình trạng gia tăng ô nhiễm môi trường nước, nhất là ở các vùng cửa sông, ven biển. Sự suy giảm tính đa dạng, giàu có của nguồn tài nguyên sinh vật tự nhiên đã trở thành một đặc điểm của giới sinh vật Việt Nam hiện tại. Do vậy, cần đặc biệt chú ý đặc điểm này trong khai thác, sử dụng tài nguyên sinh vật.

6.2. Các kiểu hệ sinh thái rừng ở Việt Nam Phần trên chúng ta đã xem xét nguyên nhân của sự đa dạng, phong phú của giới sinh vật tự nhiên Việt Nam. Sự đa dạng, phong phú không chỉ biểu hiện ở thành phần loài mà còn ở các kiểu hệ sinh thái. Phù hợp với mỗi kiểu sinh cảnh là một kiểu hệ sinh quần thực, động vật với đặc trưng riêng về hình thái, cấu trúc và thành phần loài.

67.2.1. Nhóm kiểu hệ sinh thái thực bì nhiệt đới núi thấp 6.2.1.1. Kiểu hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh Đây là kiểu rừng khí hậu nguyên sinh ở Việt Nam, tuy nhiên, hiện nay rừng nguyên sinh chỉ còn sót lại ở đôi nơi do được bảo vệ hoặc do vị trí hiểm trở khó khai thác (Cúc Phương- Ninh Bình, sườn Đông dải Trường Sơn Bắc từ Nghệ An đến Quảng Ngãi, vùng núi thấp Kông Tum, Nam Trung Bộ).

Điều kiện thích hợp cho kiểu rừng này là nhiệt ẩm cao, nhiệt độ trung bình năm trên 200C, không có tháng lạnh dưới 180C, lượng mưa trên 2000 mm, không quá 3 tháng khô, với lượng mưa dưới 50 mm(p < 2t). Điều kiện như vậy chỉ có ở vùng núi thấp Trung Bộ, sườn Đông dải Trường Sơn, lên quá phía Bắc đã có mùa Đông, xuống quá phía Nam mùa khô lại sâu sắc. Kiểu rừng này còn có thể tồn tại ở những thung lũng ẩm ướt hoặc ở những nơi có thổ nhưỡng sâu dầy, có khả năng giữ nước cao.

Về thành phần loài, các nhà địa thực vật học và lâm học thế giới đều coi phạm vi phân bố của cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) là giới hạn của rừng mưa nhiệt đới ở Châu Á. P.W. Richard cũng có nhận xét là "trong đại bộ phận của rừng mưa (chủ yếu có thành phần hỗn hợp), từ Xây Lan đến Đông Dương và Boocnêô, tính ưu thế của họ Dầu thật nổi rõ và trên một diện tích bất kỳ nào đó, một số loài cây thuộc mấy giống trong họ này thường thường có mặt trong hàng ngũ những loài có số lượng nhiều nhất". Điều đó cũng đúng với rừng mưa ở Việt Nam. Ở miền Bắc, điển hình cho họ Dipterocarpaceae là hai giống Vatica (Táu) phân bố từ Hà Tĩnh trở ra và Anisopterea (Vên vên) ở Quảng Bình. Ngoài ra còn có các giống Dipterocarpus (Dầu) Hopea (Sao), Parashorea (Chò) với số lượng ít hơn. Giống Vatica là thành phần chủ yếu trong các kiểu rừng nhiệt đới ẩm, lá rộng thường xanh ở miền Bắc với 3 loài: Vatica tonkinensis (Táu mật),Vatica fleuryana (Táu muối) và ở Hà Tĩnh thêm loài Vatica astrochicha (Táu mặt qủi), có loài chiếm tới 70 - 80 % lượng quần thể. Ở miền Nam, các loài cây họ Dầu còn mọc tập trung hơn. Có nơi thành những quần thụ cùng loài Vên vên (Anisoptera), Dầu rái (Dipterocarpus alatus Roxb), Sao đen (Hopea odorata Roxb), Kiền kiền (Hopea pierrei Hance), Chò chỉ (Parashorea stellata), Chò nâu (Dipterrrocarpus tonkinensis). Các loài cây đi kèm với cây họ Dầu, trong kiểu rừng này ở miền Bắc thường gặp các loài Sến (Sapotaceae), Trường

70

(Ulmaceae), Re (Lauraceae), Dẻ (Fagaceae), Trám

(Sapindaceae), Ngát (Burseracece), Ràng ràng (Fabaceae)

Đặc điểm sinh thái, hình thái chung của kiểu rừng này là trạng thái xanh tươi của rừng, với các dấu hiệu thích nghi khí hậu ẩm của các loài cây như lá thường có phiến rộng, cỡ lá nhỏ đến vừa, đôi khi lá to, mép lá nguyên hay có răng cưa, đầu lá nhọn, lá nhẵn bóng, cứng, dai.

Tuỳ theo tác giả, kiểu rừng này có tên gọi khác nhau như rừng nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh (Trần ngũ Phương), rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (Thái văn Trừng), rừng mưa nhiệt đới (P.W. Richard, A.F.W Schimper), rừng mưa núi thấp (J.S. Beard). Ở trạng thái nguyên sinh các quần lạc cao đỉnh khí hậu của kiểu rừng này có ba tầng cây gỗ ổn định với sức sống mãnh liệt.

- Tầng vượt tán A1 của rừng cao tới 40 - 50 m, gồm các loài cây họ Dầu. - Tầng A2 và A3 của rừng hầu hết là các loài cây nhiệt đới thường xanh thuộc các họ Trám (Burseraceae), Dâu tằm (Moraceae), Xoan (Meliaceae), Đậu (Legumimosaceeae). Tầng A2 là tầng tán khép kín, liên tục và thường xanh được gọi là tầng ưu thế sinh thái hay tầng lập quần, cao chừng trên dưới 30 m. Tầng A3 là tầng dưới tán rừng, cây thấp nhỏ hơn khoảng 15 - 20 m. - Tầng B là tầng cây bụi, thấp dưới 7- 8 m, gồm những cây thuộc họ Trúc đào

(Apocynaceae), họ Cam (Rutaceae).

- Tầng C là tầng thảm cỏ rậm rạp, gồm những loài cây chịu bóng, ưa ẩm. Đặc điểm kết cấu của rừng là có sự phần tầng rõ ràng. Sự phân tầng này là kết quả của quá trình cạnh tranh giữa các loài có tập tính di truyền khác nhau để giành lấy ánh sáng và không gian sống, đã đi đến một sự ổn định về mặt sinh thái tạo nên trật tự trong kết cấu của rừng. Cây gỗ phân cành cao, dưới tán rừng quang đãng, nổi bật những cây to như những cột trụ đứng song hàng. Rừng ít dây leo bụi râm. Chính vì vậy, kiểu rừng này cho trữ lượng sinh khối lớn nhất trong các loại rừng ở Việt Nam, thường đạt 200 m3/ha, nơi tốt nhất có thể tới 300 m3/ha, tương đương rừng mưa nhiệt đới ở Xumatra (200 m3/ha). Ngoài ra, trong rừng mưa nhiệt đới, trên thân cây, cành cây có vô số những thực vật phụ sinh ký sinh, nhiều loài cây có hoa mọc thân, cây có bạnh vè là những nét độc đáo đặc trưng cho kiểu rừng này.

Đất dưới rừng thường ẩm, tầng đất dày, mầu vàng, vàng nâu, không có màu đỏ trong phẫu diện, hầu như không có kết von, chứng tỏ quá trình tích tụ oxýt Fe3 +, Al3+ bị ngăn cản.

Kiểu hệ sinh thái rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh có quần xã động vật đa dạng nhất. Chiếm đa số là các loài sống trên cây. Các loài leo trèo giỏi thuộc bộ linh trưởng, nhiều nhất là các loài khỉ (khỉ mốc, khỉ vàng, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi dài), ngoài ra còn các loài vẹc (còn gọi là vọoc), loài vượn đen và vài giống cu li. Các loài bay nhảy, truyền cành như các loài sóc bay, nhưng phong phú nhất là các loài chim. Nhiều loài chim có bộ lông đẹp như phượng hoàng, vàng anh, vẹt, công, gà lôi, gà sao, trĩ sao, trĩ đỏ..., có nhiều loài hót hay như khướu, bách thanh, sơn ca, hoạ mi đã làm sôi động những cánh rừng rậm nhiệt đới tưởng như âm u, huyền bí. Trong rừng còn Đông đảo các loài động vật gậm nhấm, các loài thú ăn thịt nhỏ như mèo chồn, cầy...,các loài bò sát và côn trùng, sâu bọ. Chỉ ở bìa rừng và ven các sông suối mới có thể gặp các loài thú ăn thịt lớn như báo, hổ, beo.

Khi kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm là rộng thường xanh bị tác động mạnh, các loài cây họ Dầu không có điều kiện tái sinh, rừng này sẽ chuyển thành rừng nhiệt

71

đới gió mùa thứ sinh. Trong thực tế, khó phân biệt các loại hình thứ sinh của kiểu rừng này với kiểu rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh và loạt diễn thế của nó.

Tùy theo lượng mưa, mức độ khô hạn của khí hậu, kết hợp với thổ nhưỡng mà cảnh sắc của rừng thay đổi từ thường xanh ưu thế xen đốm nhỏ lỗ chỗ của loài rụng lá đến tỷ lệ rụng lá nhiều hơn hoặc gần như rụng lá hoàn toàn.Về hình thái thường dấu hiệu ưa khô xuất hiện như lá cứng dòn, đầu là tròn, lá bé hoặc choắt, nhiều khi biến vẩy hoặc có lông để tiết kiệm thoát nước. Điều kiện khô hạn khắc nghiệt hơn thì xuất hiện những loài cây rụng là hoàn toàn trong mùa khô.

Tùy theo mức độ khô hạn và tỷ lệ rụng lá, nhóm kiểu rừng nhiệt đới gió mùa được phân ra các kiểu rừng thường xanh, nửa rụng lá và rụng lá.

Điều kiện khí hậu chung của nhóm kiểu rừng này là chế độ khí hậu có mùa khô rõ rệt, ít nhất là 3 tháng khô (tháng có p < 2t) lượng mưa dưới 2000 ly. Trong trạng thái khí hậu nguyên sinh thì kiểu rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh có tính chất phổ biến, còn hai kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá và rụng lá chỉ có tính chất địa phương, nơi có mùa khô khắc nghiệt. Các loài cây rụng lá trong hai kiểu rừng này phần lớn thuộc luồng di cư Ấn Độ- Mianma như họ Tử vi (Lythraceae), họ Bàng (Combretaceae) họ Gạo (Bombacece). Ở miền Nam là những loài cây rung lá thuộc họ Dầu. Ở miền Bắc, các loài thuộc khu hệ bản địa như họ Xoan (Meliaceae), Họ Vang (Caesalpiniaceae), các loài rụng lá giống Quercus (họ Sồi Dẻ - Fagacece), họ Sau sau (Hamamelidaceae) là thành phần rừng thứ sinh theo sau gió mùa cực.

6.2.1.2. Kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa lá rộng thường xanh Kiểu rừng này có thể là rừng nguyên sinh khí hậu hoặc rừng thứ sinh dưới dạng rừng khí hậu phục hồi. Nó được phân biệt với các kiểu rừng khác ở thành phần loài cây và trạng thái thường xanh của rừng với tỷ lệ cây rụng lá dưới 25%.

Điều kiện sinh thái của rừng là chế độ mưa mùa rõ rệt, có mùa khô dài 3 tháng, lượng mưa thấp hơn, khoảng 1500- 1800mm, chịu được mùa lạnh dưới 18 0 C.

Về thành phần loài cây, chiếm ưu thế là các họ cây thuộc bộ Đậu (Leguminosales), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Du (Ulmaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) đều là những họ cây nhiệt đới thường xanh. Khác với kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm là ở miền Bắc trong kiểu rừng này, tỷ lệ các loài cây á nhiệt đới như Dẻ (Fagaceae), Long não (Lauraceae), Mộc lan (Magnoliaceae) chiếm nhiều hơn, ở miền Nam mọc xen các loài cây rụng lá họ Dầu, họ Tử vi, họ Gạo... Đặc trưng cho rừng nhiệt đới ẩm gió mùa thường xanh ở miền Bắc là loại hình rừng Lim xanh (Erythrophleum fordii Oliver), miền Nam từ Quảng Bình trở vào tới Nam Trung Bộ là loại hình Gụ (Sindora cochichinensis) thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae) và Huỳnh (Tarrieta cochichinenis) thuộc họ Trôm (Sterculiaceae).

Trong điều kiện khí hậu, kiểu rừng này còn có kết cấu tầng thứ rõ ràng, thường có hai tầng cây gỗ, đôi khi có ba tầng cây, không có tầng vượt tán như rừng nhiệt đới ẩm.Tầng ưu thế sinh thái khép tán phần lớn là loài cây thường xanh, nhưng có chiều cao thấp hơn tầng A2 của rừng nhiệt đới ẩm.

Phổ biến hiện nay ở Việt Nam là kiểu rừng nhiệt đới gió mùa thường xanh thứ sinh. Điểm khác cơ bản với rừng khí hậu là kiểu rừng thứ sinh này không có sự phân tầng trong kết cấu, dây leo bụi rậm phát triển tạo nên trạng thái um tùm, phức tạp của rừng. Nhưng thực chất là rừng nghèo, trữ lượng thấp dưới 150 m3/ha, hầu

72

hết là cây thấp, nhỏ, cong queo, phân cành thấp, lác đác vài thân cây to, sâu bệnh phát triển.

Giới động vật trong rừng về thành phần loài không khác mấy so với động vật trong rừng nhiệt đới ẩm thường xanh, tuy nhiên tính đa dạng loài và số lượng cá thể kém phong phú hơn, nhất là các loài ưa ẩm như các loài bò sát trăn, rắn, kỳ đà, rùa đất, các loài vắt, rết, bò cạp.

6.2.1.3. Các kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá và rụng lá Đây là hai kiểu rừng khí hậu, với điều kiện sinh khí hậu là lượng mưa thấp dưới 1500 mm, mùa khô kéo dài trên 3 tháng, có nơi 4- 6 tháng. Cũng có thể gặp hai kiểu rừng này dưới dạng thứ sinh trên đất thoái hóa.

Tùy theo tỷ lệ số cây rụng lá mà thuộc loại rừng nửa rụng lá hoặc rụng lá. Theo chỉ tiêu của Thái Văn Trừng thì kiểu rừng nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá có tỷ lệ số cá thể rụng lá từ 25%- 75%, còn kiểu rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá có tỷ lệ trên 75 %, theo Beard là có trên 2/3 số cây tầng trên rụng lá (có tính chất bắt buộc). Vùng phân bố của các kiểu rừng này ở miền Bắc là Hữu Lũng (Lạng Sơn), Sơn Động, An Châu (Hà Bắc), Đình Lập, Đông Triều (Quảng Ninh), Mộc Châu, Yên Châu (Sơn La), Quỳ Châu, Tây Hiếu, Mường Xén (Nghệ An). Ở miền Nam là khu Về thành phần loài, ở miền Bắc, loài đặc trưng cho hai kiểu rừng này là Sau sau (Liquidambar formosana, họ Hamamelidacece), có đặc tính chịu rét, chịu hạn giỏi. Sau sau là loài cây diễn thế sau Lim, dạng rừng thứ sinh trong điều kiện khí hậu khô lạnh vùng Hữu Lũng - Lạng Sơn, Yên Thế, Sơn Động - Hà Bắc. Trong thành phần rừng còn gặp hàng loạt các loài cây rụng lá khác như Bồ đề (Styrax tonkinensis), Thành ngạnh (Cratoxylon ligustrium BL,Thẩu tấu (Aporosa mirocalyx Hassk), Xoan (Melia azdarach), Lim xẹt (Peltophorum ferrrugineum), Ba bét (Mallotus cochinchinensis). Đó là những cây tiên phong chịu hạn trên đất rừng sau khai thác hoặc sau nương rẫy. Trong họ Dẻ, thường gặp các loài cây rụng lá giống Quercus như Dẻ lá nhọn,Dẻ răng cưa. Ở Nghệ An thường gặp các loài cây Săng lẻ (Lagertroemia tonmentosa), họ Lythraceae. Săng lẻ là loài cây đặc trưng loại hình rừng khí hậu của kiểu rừng nhiệt đới gió mùa rụng lá ở nơi khô nóng.

Ở miền Nam, cùng với săng lẻ là những loài cây rụng là thuộc họ Dầu như Dầu lông (Dipterocarpus kerrii king), Dầu chai (D. intricatus Dyer), Dầu trà beng (D.obtusfolius Teysm).

Cấu trúc hai kiểu rừng này khá đơn giản, thường có hai tầng cây gỗ, đôi khi chỉ có một tầng.Trong rừng, ít dây leo bụi rậm, mặt đất khô, phủ đầy cành khô lá rụng. Đất dưới các loài rừng sau sau, săng lẻ thường có màu vàng đỏ, nhiều hạt kết von. Tầng đất thường mỏng, hơi ẩm. Do có thời kỳ khô trong năm, quá trình tích tụ oxýt Fe 3+ , Al3+ tăng cường. Rừng có trữ lượng gỗ thấp, trung bình chỉ 120 m3/ha, nơi đất xấu chỉ 60 - 70 m3/ha.

Giới động vật trong rừng thì kém đa dạng và phong phú hơn so với rừng thường xanh, nhất là các loài chim, bò sát và các loài côn trùng, động vật ưa ẩm. Trong điều kiện rừng ít rậm rạp, đi lại dễ dàng, nhiều ánh sáng nên thường gặp các loài thú lớn như voi, trâu rừng, bò rừng và xưa kia còn gặp cả các loài tê giác, bò tót. Các loài thú lớn bị tiêu diệt gần hết, chỉ còn voi vì là loài có vùng phân bố rất rộng. Voi sống dọc biên giới phía Tây, từ Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Kông Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Phước đến Tây Ninh. Các loài thú nhỏ có hoẵng, nai, sóc, thỏ rừng. Thú lớn ăn thịt ven sông suối có hổ cũng phân bố trên phạm vi rộng từ Lai Châu đến Tây Ninh, còn báo, beo chỉ gặp ở Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, song đến nay hầu như đã hết.

73

6.2.1.4. Các kiểu hệ sinh thái rừng thưa nhiệt đới khô lá rộng và lá kim Các kiểu rừng thưa này trong điều kiện khí hậu nguyên sinh có diện tích phân bố rất hẹp, chỉ ở những nơi có lượng mưa rất thấp, dưới 1200 mm, mùa khô kéo dài và khắc nghiệt (4-6 tháng khô, 1-2 tháng hạn, 1 tháng kiệt). Ở miền Bắc ít thấy kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá rộng nguyên sinh khí hậu, phần lớn là rừng thứ sinh trên đất nông, nhiều sỏi đá, có tầng đá ong hoặc ở những nơi thường xuyên bị nạn cháy rừng. Nếu tiếp tục phá hoại, rừng thưa thoái hóa thành xa van, truông cỏ. Miền Nam, trên Tây Nguyên nơi có mùa khô khắc nghiệt, chúng ta gặp rừng thưa lá rộng họ Dầu gồm những loài cây chịu lửa như các loài Dầu lông, Dầu chai, Dầu trà beng, ngoài ra còn có Cẩm liên (Pentacme siamensis), Cà chắc (Shorea Obtusa), Chiêu liêu (Terminalia tomentosa).

Đặc trưng của kiểu rừng này là trạng thái thưa thớt của cây gỗ lớn, khoảng cách cây 10 - 12 m, cây mọc thấp (dưới 20 m), cong queo, thân cây nhỏ.Thường rừng chỉ có một tầng cây, họa hoằn mới có hai tầng. Dưới rừng không có cây cối nào khác, chỉ toàn cỏ tranh bao phủ. Mùa khô hanh, rừng rụng lá, trơ cành khô héo, lá vàng phủ kín mặt đất. Mùa mưa cây cối đâm chồi trở lại xanh tươi.

Kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim mà đại diện là loài Thông hai lá (Pinus merkusii), hiếm hơn là loài Thông đuôi ngựa (P. massoniana), tập trung nhiều ở miền Nam. Ở miền Bắc gặp kiểu rừng thưa lá kim Thông hai lá ở Quảng Yên (Quảng Ninh), Hoàng Mai (Nghệ an), Bố Trạch (Quảng Bình). Thường đây là những khu rừng thông thuần loại, hoặc đi kèm là các loài chịu khí hậu khô lạnh như Chẹo (Engeldhartia), Sồi đá (Lithocarpus balansae). Dưới tán rừng không rậm lắm, gồm có một vài cây nhỡ, cây bụi, tầng cỏ ưa khô, nhiều nhất là cỏ tranh, cỏ guột. Ở miền Nam, kiểu rừng này có ở Đắc Lắc, Di Linh. Xen với Thông hai lá là một số loài cây họ Dầu như Dầu trà beng. Tầng dưới là những loài cây chịu hạn (Hình 37). Do rừng thưa khô nghèo thức ăn nên quần xã động vật có số lượng ít và kém đa dạng. Thích nghi với điều kiện sống rừng thưa là các loài thú nhỏ có móng guốc như Nai, Hoẵng, Cheo cheo, Hươu (Hươu vàng ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Hươu cà tong ở Đắk Lắc, Lâm Đồng, Hươu sao chỉ thấy ở Hà Tĩnh). Trong rừng còn gặp một số loài thú nhỏ khác như nhím, sóc, chuột, đôi khi gặp thú lớn như lợn rừng, các loài chim thì có gà rừng, chim cu, rẽ. Rừng thưa khô lá kim thì còn nghèo chim thú hơn nữa, chỉ gặp vài loài thú nhỏ ăn quả như nhím, sóc, chuột. 6.2.1.5. Các kiểu hệ sinh thái xa van, truông nhiệt đới khô hạn Xa van hay còn gọi là trảng cỏ chỉ kiểu thực bì nhiệt đới có tầng ưu thế sinh thái là thảm cỏ. Trên nền thảm cỏ đó, lác đác những trảng cây to (xa van cây to), hoặc những trảng cây bụi (xa van cây bụi).Tầng cỏ là thành phần chủ yếu mọc dầy liên tục. Các cây to, cây nhỡ, cây bụi rất thưa thớt, chỉ là những yếu tố phụ trong cảnh quan thực vật và biểu thị những mức độ thoái hóa khác nhau.

Điều kiện khí hậu của kiểu thực bì này là lượng mưa ít, dưới 1000 mm, mùa khô kéo dài và khắc nghiệt, trong năm có tới 7 - 9 tháng khô hạn với 2- 4 tháng hạn và có thể có tháng kiệt (lượng mưa xấp xỉ 0). Trong điều kiện khí hậu đó, sự phát sinh thổ nhưỡng bị cản trở. Tầng đất mỏng, trơ sỏi đá, có cả đá ong chặt hoặc là loại đá cát nứt nẻ trong mùa khô. Sự khắc nghiệt về khí hậu và đất đai như vậy đã hạn chế sự phát triển của các loài cây gỗ mà chỉ rất ít một số loài thích nghi được điều kiện khô hạn mọc được nhờ rụng lá, lá cứng có lông, có gai nhọn. Tầng cỏ cũng là cây chịu hạn như cỏ tranh, cỏ lông lợn, chè vè, cây bụi là sim, mua, chổi sể, gạc hươu, thẩu tẩu, thành ngạnh. Miền Nam có các loài tre gai, găng, xương rồng.

74

Xa van nguyên sinh ở Việt Nam chỉ phát sinh trên vùng đất Ninh Thuận, Bình Thuận là nơi có mùa khô dữ dội, lượng mưa thấp nhất so với toàn quốc chỉ 600 -700 mm, còn lại phần lớn là xa van thứ sinh từ xa van trảng cây to, xa van cây bụi, xa van trảng cỏ. Ở miền Bắc, xa van thứ sinh tập trung tại các trung tâm khô hạn như An Châu (Lạng Sơn), Yên Châu, Cò Nòi (Sơn La), Mường Xén (Nghệ An). Ở miền Nam, ngoài Ninh Thuận, Bình Thuận còn có ở Tây Nguyên, trên cao nguyên Mơ Nông - vùng Ba biên giới

Từ các trung tâm khô hạn, xa van thứ sinh lan rộng ra nhiều vùng khác. Do hoạt động phá rừng bừa bãi, đặc biệt nạn đốt rừng làm rẫy và do các vụ cháy rừng đã nhanh chóng thiêu huỷ nhiều khu rừng, biến chúng thành các xa van, trảng cỏ và các truông gai khô hạn.

Truông nhiệt đới khô hạn là kiểu thực bì đặc trưng ở những nơi có điều kiện khí hậu cực kỳ khắc nghiệt (6- 10 tháng khô, trong đó có tới 4 - 6 tháng hạn, 1- 3 tháng kiệt) kết hợp với bề mặt thổ nhưỡng khô cằn, nông cạn, nhiều đá lộ khiến cho cây cỏ không mọc được. Khác với xa van là tại các truông, mặt đất không bị cỏ, cây bụi mọc phủ kín, đất nhiều chỗ trơ ra từng mảng lớn và không có cây gỗ to, mà chỉ là những cây thấp, khẳng khiu, cong queo, các loài cỏ, cây bụi chịu hạn.

Điển hình cho kiểu truông nhiệt đới khô hạn ở Việt Nam là thảm thực bì truông bụi có gai vùng Ninh Thuận, Bình Thuận. Đó là cả một vùng đất khô cằn cháy nắng vào mùa khô, các bụi tre chỉ còn trơ những cành khẳng khiu, nắng táp vàng lá. Có thể gặp các truông khô hạn này ở một số vùng khác, trên đất quá khô cằn không giữ được nước như truông nhà Hồ (Hồ Xá- Vĩnh Linh), trên các đụn cát Các cây bụi là các loài cây chịu hạn có gai thuộc họ các họ Cà phê (Rubiaceae),Trinh nữ (Mimosaceae), Bàng (Combretaceae), Dâu tằm (Moraceae). Các loài cỏ lông chông, cỏ quăn xanh, cỏ quăn đỏ, cỏ quyển bá.

Thú lớn hoang dã ở các xa van, truông bụi nguyên sinh không còn, động vật thường trú hiện tại chỉ là vài loài thú nhỏ ăn cỏ, rễ, lá cây và ăn hạt như chuột, thỏ, sóc, vài loài chim nhỏ như cun cút, chèo bẻo. Đặc biệt, ở vùng xa van khô gặp nhiều loài rắn, một vài loài bò sát khác như thằn lằn, kỳ nhông.

6.2.1.6. Kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên đất đá vôi Đây là kiểu rừng lá rộng xanh quanh năm phát triển trên núi đá vôi, ở độ cao dưới 600 - 700 m, một loại rừng thổ nhưỡng, tập trung tại miền Bắc, ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Giang.Trên đất mỏng, xương xẩu của sườn núi đá vôi, cây sinh trưởng rất chậm đường kính hàng năm tăng 1 mm, cây sống hàng trăm năm, thậm chí tới nghìn năm cũng chỉ cao 20 - 30 m. Rừng có kết cấu đơn giản, độ một, hai tầng cây gỗ, làm thành tầng tán không liên tục, cây thấp cao chừng 15 - 20 m. Đặc trưng cho rừng đá vôi là các loài Nghiến (Pentace tonkinesis),Trai (Garcinia fragraeoides), nên rừng nhiệt đới trên đất đá vôi thường được gọi là rừng Nghiến- Trai. Cùng mọc với Nghiến, Trai là những loài cây gỗ khác như Đinh, Vàng kiêng, đôi khi gặp các loài cây rụng lá như Sau sau, Sâng, Sấu, Trôm. Tầng thứ hai dưới tán rừng là các loài thuộc họ Dâu tằm (Moraceae) như Mạy tèo (Dimerocarpur balansae), Ô rô núi Taxotrophis), Đa (Ficus), Teo nông (Teonongia tonkinensís) và các loài cây họ Gai (Urticaceae) như cây lá han (Laportea anNamica). Trong rừng núi đá vôi còn nhiều loài cây tầm gửi, phong lan. Rừng cây gỗ trên núi đá vôi hầu như đã bị khai thác hết, chỉ còn sót lại ở nơi hiểm trở, sườn dốc, khó đi lại. Hiện nay, ở miền Bắc bao phủ núi đá vôi phần lớn là rừng cây bụi và một số loài cỏ Quyết ưa đá vôi. Nhiều nơi rừng bị tàn phá chỉ còn là những khối đá vôi trơ trụi như ở Phủ Lí, Ninh Bình, Bắc Sơn, Hà Giang và trên dải

75

cao-sơn nguyên đá vôi Tây Bắc. Cần có biện pháp bảo vệ loại rừng này vì chúng có nhiều loài gỗ quý, bền chắc và một khi bị tàn phá thì rất khó phục hồi do cây mọc rất chậm .

Trong rừng núi đá vôi có các loài leo trèo giỏi như Sơn dương, ở Cao Bằng có Hươu xạ, trên cây có các loài Khỉ, Vẹc và các loài động vật gậm nhấm như Đon, Sóc, các loài chim như Cắt, Sáo, Khướu. Bò sát thì có Tắc kè. Trong hang động thì rất nhiều loài Dơi (Hình 39).

6.2.1.7. Kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới ngập mặn Kiểu rừng này phát triển ở vùng cửa sông ven biển Việt Nam, trên đất mặn ngập triều và cũng là kiẻu rừng thổ nhưỡng. Điều kiện sinh thái của rừng cây ngập mặn là khí hậu nhiệt đới, đất mặn, ngập nước quanh năm, đất bị glây hóa, không thoáng khí, đất lầy chưa vững chắc. Các loại cây mọc trên đó có đặc điểm sinh thái riêng là ưa mặn, rễ khổng làm thành cái nơm nổi trên mặt đất, lá cứng dầy, mọng nước, có cấu tạo chịu hạn. Rừng ngập mặn ven biển Bắc Bộ và Trung Bộ là rừng cây bụi thấp, nhỏ, cao chừng 3 - 4 m. Rừng ngập mặn tập trung ở Nam Bộ và là những rừng cây gỗ lớn, rừng Đước ở mũi Cà Mau cao tới 20- 30 m. Sự khác nhau đó được giải thích là do độ dầy tầng đất Nam Bộ sâu hơn hẳn (20 m) so với lớp bùn nông ở Bắc Bộ (1m) (theo Thái Văn Trừng).

Số loài cây trong rừng ngập mặn không nhiều khoảng 20 loài. Phần lớn là cây bụi, rậm rạp, xanh quanh năm. Các họ cây quan trọng nhất là họ Đước (Rhizophoraceae), họ Mấm (Verbenaceae),họ Sú (Meliaceae), họ Bần (Lythraceae), họ Đơn nem (Myrrinaceae).Tùy theo trạng thái của đất, mỗi nơi có một số loài ưu thế. Ngoài cùng, trên đất còn nhiều nước (bùn lỏng), Mấm đen (Avicennia marina) là loài cây tiên phong, mọc gần như thuần loại tạo thành quần lạc cao chừng 2 - 3 m. Trong quần lạc, thỉnh thoảng có xen loài cây Đước và đôi cây Đâng chừng 3 - 4 m, vươn cao trên quần lạc Mấm đen. Sự cố định đất dần của loài cây này đã làm cho chúng bị đào thải, thay thế bằng các loài cây mọc trên đất bùn khô như Đước (Rhizophora mucronata), Đâng (R.Conjugata),Vẹt (Brugniera gymmorhiza), Bần (Sonnerata acida) và Sú (Aegiceras majus).

Ở miền Bắc thì phổ biến là loài cây Sú và cây Trang (Kandelia rheedii). Còn ở miền Nam thì phổ biến các loài Đước, Đâng, Dừa nước (Nipa frutescens), Chà là (Phoenix paludosa), Dà vôi (Ceriops tagal) mà hầu như không thấy ở miền Bắc. Trong cùng, trên đất cứng khô thường gặp các loài cây Giá (Excoecaria agallocha). Ở miền Nam, mọc xen Giá còn có các loài Cóc trắng (Lumnitera racemosa), Cóc đỏ (Lumniteza cocciena). Dọc bờ kênh rạch nước lợ, gặp các loài Bần, quá trong nơi nước lợ nhạt dần là hàng Dừa nước mọc xen lẫn với Ô rô (Acanthus ilicifolius).

Quá trình diễn thế tự nhiên trên rừng ngập mặn ven biển là quá trình tự đào thải của loài cây này nhường chỗ cho loài cây khác trong điều kiện chính bản thân nó tham gia vào quá trình làm biến đổi đất đai.

Quần xã động vật trong rừng ngập mặn rất phong phú, nhất là các loài thân mềm, nhiều loài có giá trị kinh tế cao như Hầu, Sò, Ngao, Ngán, Vọp, Don, các loài giáp xác như Tôm, Cua bể, Ghẹ và các loài cá đáy ăn thực vật. Tại rừng ngập mặn Quảng Ninh còn có loài Vẹm xanh và các bãi Sá sùng. Sống trên cây, trong đất còn các loài ăn quả, hạt, lá cây, mật hoa như Khỉ, Sóc, Lợn rừng, Chuột, Ong và các loài ăn côn trùng, ăn thịt, ăn tạp như Rái cá, Trăn, Rắn, Kỳ đà, Cá sấu, Dơi, nhiều nhất là các loài chim như Cò, Hạc,Ngỗng, Sếu, Cốc, Bồ nông, Mòng biển tập trung Đông đảo thành các "sân chim" Đầm Dơi, Cái Nước ở Cà Mau

76

Việt Nam có diện tích rừng ngập mặn khá rộng 450.000 ha, đứng hàng thứ hai trên thế giới sau rừng ngập mặn Amazôn ở Nam Mĩ. Rừng ngập mặn Nam Bộ rộng nhất trên 300.000 ha (riêng Cà Mau chiếm gần một nửa diện tích) và cũng là vùng rừng ngập mặn điển hình nhất, giàu có nhất. Hệ sinh thái rừng ngập mặn có năng suất sinh học cao, đặc biệt là sinh khối động vật nước lợ ở vùng cửa sông ven biển, nơi có nguồn thức ăn và đa dạng sinh học phong phú nhất.

Diện tích và sự giàu có, đa dạng sinh học của rừng ngập mặn ở Việt Nam đã bị suy giảm đáng kể, nhất là rừng ngập mặn Nam Bộ. Việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản vùng rừng ngập mặn không hợp lí, việc biến rừng ngập mặn thành đồng ruộng, vuông tôm đã không sử dụng được hết nguồn lợi tài nguyên sinh học của môi trường và tình trạng gia tăng ô nhiễm vùng cửa sông, ven biển là những vấn đề cần quan tâm trong sử dụng và bảo vệ rừng ngập mặn. Nhiều loài chim quý của rừng ngập mặn như Sếu cổ trụi, Cốc biển bụng trắng, Cò quăm cánh xanh, các loài bò sát, lưỡng cư như Cá sấu xiêm, vài loài Trăn, Rắn, Kỳ đà là những loài đã được ghi trong Sách đỏ Việt Nam cần phải được quan tâm bảo vệ.

6.2.1.8. Kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên đất phèn (rừng tràm) Trên đất phèn (chua mặn), thực vật tiêu biểu là cây Tràm (Melaleuca lecadendron) thuộc họ Sim (Myrtaceae), một loài cây chịu hạn lá cứng, xanh quanh năm mọc thành rừng nên rừng này còn được gọi là rừng Tràm. Đây là loại rừng sau rừng ngập mặn, chuyển tiếp lên rừng trên đất liền. Ở miền Nam, rừng Tràm là những quần thụ thuần loại, cây cao trên 10 m mọc trên đất bùn lầy, úng phèn. Rừng Tràm U Minh có diện tích rộng nhất 120.000 ha và phát triển rất mạnh, cây cao tới 20 m, thân thẳng, vỏ nhẵn, gỗ có thể dùng làm cột nhà, xẻ ván, lá dùng cất tinh dầu. Trong rừng Tràm có thể gặp các loài mọc xen như Mật cất (Livistonia chinensis), Sắng, Sậy, Nang, Mốp, có nơi mọc lẫn loại Cỏ quyết như Choại, một loại cây thân bò dùng làm dây buộc rất tốt. Nơi rừng Tràm úng ngập còn có các loài trên mặt nước như Sen, Súng. Ra phía Bắc, rừng Tràm chỉ là những cây nhỏ, thân vặn vẹo, khẳng khiu, như rừng Tràm ở Quảng Bình, Quảng Trị cao không quá 3- 4 m, mọc thành bụi nhỏ ít giá trị.

Quần xã động vật trong rừng Tràm gồm cả sinh vật trên cạn và dưới nước, đặc trưng là những sân chim. Vùng Tràm Chim ở huyện Tam Nông thuộc tỉnh Đồng Tháp đã được khoanh với diện tích 5200 ha để bảo vệ loài Sếu cổ trụi (Grus antigone). Ngoài chim Sếu, trên rừng Tràm ở U Minh và Đồng Tháp Mười còn Đông đảo các loài chim như các loài Vịt, Cốc, Cò, Diệc, Diều. Hệ động vật dưới nước rất phong phú, nhất là ở vùng Đồng Tháp Mười. Đã ghi nhận được 159 loài cá thuộc 39 họ, trong đó có 51 loài có giá trị kinh tế cao. Đông đảo là các loài cá nước ngọt thuộc họ cá Chép, họ cá Bống, họ cá Ngạnh, họ cá Nheo, một số loài cá biển thuộc họ cá Chích, họ cá Đối, họ cá Bơn. Ngoài các loài chim, cá phong phú, trong rừng Tràm còn gặp nhiều loài bò sát như các loài Rắn, Nhông, Thằn lằn, Kỳ đà,Trăn, Rùa, có cả Cá Sấu nước ngọt, các loài thú như Sóc, Khỉ, Rái cá, Dơi, Chuột. Nguồn tài nguyên động vật trong rừng Tràm rất giàu có và đa dạng. Việc khai thác hợp lí và nhất là bảo vệ rừng tràm mọc trên lớp than bùn dày không chỉ có ý nghĩa bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật mà còn là bảo vệ tầng trữ nước ngọt, giữ cho đất khỏi bị phèn hoá từ dạng tiềm tàng thành phèn hoạt động.

6.2.2 Nhóm kiểu hệ sinh thái thực bì á nhiệt đới và ôn đới trên núi. 6.2.2.1. Kiểu hệ sinh thái rừng á nhiệt đới là rộng thường xanh trên núi Kiểu rừng này phát triển trên núi từ độ cao 600- 700 m đến 1600- 1700 m, trong điều kiện khí hậu đã mang tính chất á nhiệt đới ẩm với nhiệt độ trung bình

77

năm từ 15-20 0 C, lượng mưa trên 2000 mm, không có tháng khô, ẩm ướt quanh năm. Ở dạng rừng khí hậu, dấu hiệu nhận biết chuyển tiếp sang kiểu rừng á nhiệt đới là sự tập trung của các loài cây thuộc họ Dẻ (Fagaceaee). Các tác giả của các công trình nghiên cứu hiện tượng thành đai theo độ cao vùng núi miền nhiệt đới đều nhận thấy sự phân bố của rừng cây họ Dẻ trên rừng cây họ Dầu. Cùng mọc với Dẻ là các loài cây thuộc họ Long não, Mộc lan, Chè, Cắng lò, Kim mai, Hồ đào, Bồ đề. Đó cũng là những họ cây phổ biến ở Hoa Nam, thuộc khu hệ Việt Bắc- Hoa Nam, những họ cây đặc trưng cho rừng á nhiệt đới. Ở vùng núi Tây Bắc, trong kiểu rừng này còn gặp loại hình rừng khí hậu Tô hạp (Altiggia taktajanii), họ Dẻ có giống Quercus, ngoài ra còn có các loài trong họ Thích (Aceraceae), Hồi (Illiciaceae) đều thuộc khu hệ Himalaya - Vân Quý. Nhường chỗ cho sự ưu thế của các loài cây á nhiệt đới, số loài cây nhiệt đới trong rừng ít hơn hẳn, chỉ còn hay gặp một vài loài dễ tính có biên độ sinh thái rộng như Ngát, Trám, Sến, Xoan đào.

Kết cấu rừng đơn giản, thường chỉ có một tầng cây gỗ, đôi khi mới có hai tầng, không thấy tầng vượt tán, những hiện tượng dây leo to mập, hoa mọc thân, bạnh vè hầu như không còn. Làm thành tán rừng tầng trên là các loài cây họ Dẻ và các loài thuộc họ cây á nhiệt đới. Các loài cây nhiệt đới thường hợp thành tầng hai của rừng. Cây rừng thấp, chỉ khoảng 15-20 m, số lượng giống, loài ít, mật độ cây thưa, đơn ưu của một vài loài khá rõ, đặc biệt là các loài Dẻ trong rừng khí hậu. Khi rừng bị chặt phá, thì rừng thứ sinh thường là các loại hình rừng Sau sau, Cắng lò, Mắc niễng, Chẹo, Bồ đề, Kháo, Vối thuốc.

Đất dưới rừng á nhiệt đới lá rộng thường nhiều mùn (7- 8%), cao gấp đôi so với lượng mùn trong rừng nhiệt đới, tỷ lệ C / N cao (10-15), do đất ẩm quá trình tích tụ oxyt Fe, Al bị ngưng trệ, phẫu diện đất có màu xám và được gọi là loại đất xám mùn trên núi.

Quần xã động vật trong rừng á nhiệt đới kém phong phú và đa dạng hơn hẳn so với rừng nhiệt đới chân núi. Vắng bóng hoặc rất hiếm các loài động vật nhiệt đới như voi, trâu rừng, bò rừng, cả các loài thú nhỏ như nai hoẵng, các loài linh trưởng. Nhưng có mặt ở đây các loài động vật thuộc khu hệ Vân Nam- Tây Tạng- Himalaiya, các loài thú có bộ lông dày như Sóc đen lớn, Chồn vàng, Rái cá, Triết nâu. Các loài gấu như Gấu ngựa, Gấu chó xưa kia đã từng thấy ở vùng núi phía Bắc, ngày nay không gặp nữa.

6.2.2.2. Kiểu hệ sinh thái rừng á nhiệt đới lá kim trên núi Kiểu rừng này chiếm ở độ cao trên kiểu rừng á nhiệt đới lá rộng. Rừng á nhiệt đới lá kim phổ biến ở Tây Bắc hơn các vùng khác. Ở Sơn La, trên 700 m gặp loại hình rừng Vân sam (Keepeleria Davidiana) đặc trưng khí hậu lạnh, khô, loại hình rừng Pơ mu (Fokiena Hodginsii) ở độ cao trên 1000 m tại Văn Bàn Yên Bái, đặc trưng khí hậu lạnh, ẩm. Ở Lai Châu, tại độ cao 1500 m, Pơ mu- Hồi núi mọc cùng các loài cây lá kim khác trong ngành phụ hạt trần (Gymnospermae) như Thông nàng (Podocarpus imbricatus),Thông tre lá lớn (Podocarpus macrophyllus). Rừng cây lá kim á nhiệt đới tập trung nhất ở Tây Bắc, giảm dần ở vùng núi thấp ẩm Trường Sơn Bắc để rồi lại thấy xuất hiện tập trung trong đai rừng á nhiệt đới Nam Trung Bộ (rừng Thông ba lá trên cao nguyên Lang Biang), còn ở vùng núi Đông Bắc hầu như không có. Kết cấu rừng thường đơn giản, gồm hai tầng cây, tầng dưới tán thường gặp loài tre sặt, cỏ tranh và loài quyết. Đặc điểm của đất rừng cây lá kim là lượng mùn thấp (4 %), tỷ lệ C/N thấp hơn

kiểu rừng trên, trung bình là 7 - 8.

78

Động vật trong rừng á nhiệt đới lá kim còn nghèo nàn hơn trong rừng á nhiệt đới lá rộng vì nguồn thức ăn nghèo nàn. Chỉ có các loài sóc ăn hạt thông, một vài loài động vật gậm nhấm và loài ăn sâu bọ như chuột, dơi, gõ kiến.

6.2.2.3. Kiểu hệ sinh thái rừng á nhiệt đới hỗn giao cây lá kim và lá rộng Ở độ cao chuyển tiếp từ đai á nhiệt đới lên ôn đới, nhiệt độ trung bình năm đã giảm xuống dưới 15 0 C, mùa Đông dưới 10 0 C, khí hậu ẩm ướt, trong rừng thường gặp các loài cây lá kim mọc xen với các loài cây á nhiệt đới lá rộng Hoa Nam thuộc các họ Dẻ, Mộc lan, Hồ đào, Long não, Chè, Thích.Thường trong rừng, cây lá kim mọc tốt, thân cao to và thẳng, gồm các loài Thông, Pơ mu, Lãnh sam, Thiết sam. Cây lá rộng không cao lắm, dưới 20 m. Tầng dưới có trúc núi, nứa, chuối rừng, tầng thảm tươi có sẹ, quyết. Khí hậu lạnh ẩm quanh năm, thân cây thường có rong rêu che phủ.

6.2.2.4. Kiểu hệ sinh thái rừng á nhiệt đới mưa mù núi cao Từ độ cao trên 1600- 1700 m, lớp thực bì có sự thay đổi về kết cấu, ngoại mạo với dấu hiệu chung là thích nghi với khí hậu lạnh ẩm, gió mạnh hơn, cường độ ánh sáng yếu hơn. Do mưa nhiều ẩm ướt quanh năm, tầng đất mỏng, cây sinh trưởng kém hình thành rừng cây thấp, thực vật phụ sinh phủ kín diện tích thân, cành cây. Phổ biến là các loài Dương xỉ lớn, Phong lan, Tổ điều, giống Lichens nên có người gọi là rừng rêu. Tầng cây gỗ không quá 20 m, là các loài cây thuộc luồng di cư Himalaya- Vân Quý. Các họ cây chủ yếu là Hồi (Illiaceae), họ Chua nem giống Vaccinium, họ Đỗ quyên (Ericaeae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Cúc (Compositae).

Dưới kiểu rừng này, đất có màu đen, xám tro tầng đất mỏng, ẩm, thảm mục phủ kín mặt, lượng mùn rất cao 40 - 50 %, có tên gọi đất mùn alit núi cao.

7.2.2.5. Kiểu quần hệ khô lạnh núi cao Đây là kiểu quần hệ thưc vật ở độ cao trên 2600 m, thường chỉ gặp trên các đỉnh núi cao như đỉnh Phan Si Păng, Tả Phình, Tây Côn Lĩnh ở miền Bắc và Ngọc Áng, Bi Đúp, Chử Yang Sin ở miền Nam. Trong điều kiện khô khan, giá rét, gió mạnh, dốc lớn, đất đai xương xẩu, cây mọc thấp, cong queo, thưa thớt, hình thành kiểu rừng lùn giá rét núi cao hoặc quần hệ khô lạnh núi cao. Thực vật vẫn là các loài thường gặp trên núi cao thuộc họ Chua nem, Hoa hồng, Thạch Nam, Cúc, cây cao 1-2 m, thảm cỏ nhiều nhất là loài Trúc núi cao chừng 20- 30 cm, thỉnh thoảng xen một số cây thuộc họ Cói.

6.2.3. Nhóm kiểu hệ sinh thái nông nghiệp Góp phần vào sự phong phú, đa dạng của giới sinh vật Việt Nam hiện tại còn phải kể đến các hệ sinh thái do hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của con người tạo nên. Trong nông nghiệp, chúng ta đã tuyển chọn được 200 loài cây trồng. Hệ sinh thái nông nghiệp có diện tích hơn 8,4 triệu ha, chiếm chừng 1/4 diện tích lãnh thổ, trong đó hơn nửa là diện tích đất trồng lúa. Hệ sinh thái đồng ruộng rất đa dạng, tuỳ chân ruộng cao, thấp, mức độ ngập nước mà có sự kết hợp giữa các vụ lúa, vụ màu, vụ nuôi trồng thuỷ sản khác nhau. Mỗi kiểu hệ sinh thái ruộng cao, ruộng trung bình và ruộng trũng đều có những đặc trưng riêng về điều kiện sinh thái, về cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi và các loài động, thực vật tự nhiên chỉ thị môi trường. Ngoài hệ sinh thái đồng ruộng, chúng ta đang phát triển các kiểu hệ sinh thái vườn làng và vườn đồi sử dụng đất hoang, xanh hoá đất trống đồi trọc. Tổng diện tích đất trồng màu, đất trồng các cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp dài ngày khoảng 6 triệu ha. Trong các kiểu hệ sinh thái này, các mô hình nông lâm kết hợp đa dạng hoá cây trồng , tạo nên các hệ sinh thái có kết cấu nhiều

79

tầng mô phỏng kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường xanh đang được coi là hình thức sản xuất nông lâm nghiệp phát triển kinh tế -sinh thái bền vững có hiệu quả ở Việt Nam. Hệ sinh thái nuôi trồng thuỷ sản chiếm diện tích hơn 400 nghìn ha mặt nước cũng rất phong phú đa dạng về các loài sinh vật nước ngọt, nước lợ và cả các loài sống ở biển. So với các hệ sinh thái tự nhiên, thì các hệ sinh thái nông nghiệp kém bền vững hơn, dễ bị thiên tai, sâu bệnh phá hoại, hơn nữa để duy trì năng suất thu hoạch cần sự đầu tư, chăm sóc thường xuyên của con người.

Trong nhiệm vụ bảo vệ giới sinh vật Việt Nam, ngoài việc bảo vệ rừng và đa dạng sinh học của giới sinh vật tự nhiên thì việc bảo vệ sự bền vững của các hệ sinh thái nông nghiệp về các mặt hiệu quả kinh tế, đa dạng sinh học, gen di truyền và về mặt sinh thái môi trường như chống xói mòn rửa trôi đất dốc, chống ô nhiễm môi trường nước và đất đang là những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.

Câu hỏi ôn tập chương 6: 1. Giới sinh vật Việt Nam có những đặc điểm chung gì? 2. Vì sao giới sinh vật Việt Nam có sự phong phú và đa dạng? 3. Chứng minh tính phong phú và đa dạng của giới sinh vật Việt Nam. 4. Vì sao nói sinh vật Việt Nam tiêu biểu cho sinh vật của vùng nhiệt đới gió mùa ẩm?

5. Giới sinh vật nguyên sinh ở Việt Nam đã bị suy giảm như thế nào? 6. Nêu các nhóm và các kiểu thảm thực vật tự nhiên ở Việt Nam. 7. Phân tích khả năng khai thác các tài nguyên sinh vật Việt Nam.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách Vũ Tự Lập. (1978). Địa lí tự nhiên (tập I, III), NXB Giáo dục, Hà Nội. Vũ Tự Lập. (1999). Địa lí tự nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội. Lê Bá Thảo. (1998) Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lí, NXB Thế giới, Hà Nội.

Bài giảng Huỳnh Thanh Siêng. (2024), Bài giảng Địa lý tự nhiên Việt Nam, Đại học Quảng

Nam.

Trưởng khoa Quảng Nam, ngày 15 tháng 01 năm 2024 Giảng viên

Nguyễn Thị Vĩnh Linh Huỳnh Thanh Siêng

81