BÀI GIẢNG DỊCH TỄ HỌC THÚ Y
Trương Hà Thái
Mục lục
CHƯƠNG 1: MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU CỦA DỊCH TỄ HỌC III. PHẠM VI CỦA DỊCH TỄ HỌC IV. VAI TRÒ CỦA DỊCH TỄ HỌC V. NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC VII. NỘI DUNG CỦA MÔN DỊCH TỄ HỌC VIII. CHU TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ
CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC
I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT TRIỂN III. ĐỊNH ĐỀ KOCK IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH V. MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG VI. THUẬT NGỮ DÙNG TRONG BỆNH TRUYỀN NHIỄM VII. THUẬT NGỮ ĐỐI VỚI BỆNH KHÔNG TRUYỀN NHIỄM
CHƯƠNG 3: DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. QUÁ TRÌNH NHIỄM TRÙNG II. SỰ THÍCH ỨNG BẢO VỆ TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ III. QUÁ TRÌNH TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH IV. CÁC THỂ BỆNH NHIỄM TRÙNG V. BÀI MẦM BỆNH VI. QUÁ TRÌNH TRUYỀN LÂY VII. CÁC DẠNG HÌNH THÁI, MỨC ĐỘ DỊCH
CHƯƠNG 4: BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. NGUYÊN LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH II. CÔNG TÁC ĐIỀU TRA DỊCH TỄ HỌC III. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI NGUỒN BỆNH IV. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI YẾU TỐ TRUYỀN LÂY V. BIỆN PHÁP BẢO VỆ ĐỘNG VẬT THỤ CẢM VI. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRONG Ổ DỊCH VII. CÔNG TÁC KHỐNG CHẾ VÀ THANH TOÁN DỊCH BỆNH CHƯƠNG 5: CÁC THÔNG SỐ ĐO LƯỜNG DỊCH TỄ HỌC
I. KHÁI NIỆM VỀ SỐ LIỆU VÀ BẢNG SỐ LIỆU II. KHÁI NIỆM VỀ TỶ SỐ, TỶ LỆ, TỶ SUẤT III. CÁC THÔNG SỐ ĐO LƯỜNG DỊCH TỄ HỌC
CHƯƠNG 6: DỊCH TỄ HỌC MÔ TẢ
I. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔ TẢ II. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔ TẢ III. NGHIÊN CỨU MÔ TẢ TRONG THÚ Y IV. GIẢ THUYẾT NHÂN QUẢ TRONG DỊCH TỄ HỌC VI. TÌNH HUỐNG CHO VIỆC HÌNH THÀNH GIẢ THUYẾT
CHƯƠNG 7: DỊCH TỄ HỌC PHÂN TÍCH PHẦN 1: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU BỆNH CHỨNG
I. ĐỊNH NGHĨA II. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU BỆNH - CHỨNG III. PHÂN TÍCH NGHIÊN CỨU BỆNH - CHỨNG IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP
I. ĐỊNH NGHĨA II. CÁC LOẠI NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP III. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP IV. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU V. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VI. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU THUẦN TẬP
1 3 3 4 4 5 6 7 9 9 12 13 16 18 18 20 25 28 30 31 31 41 45 45 49 51 52 54 54 57 58 61 68 68 70 71 71 76 76 76 78 82 84 84 84 85 88 92 93
CHƯƠNG 8: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
I. ĐỊNH NGHĨA II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM III. CÁC LOẠI NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM IV. NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM IV. THIẾT KẾ VÀ THỰC HIỆN THỬ NGHIỆM THỰC NGHIỆM V. VẤN ĐỀ KẾT THÚC SỚM THỬ NGHIỆM VI. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
CHƯƠNG 9: PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU VÀ TÍNH SỐ MẪU NGHIÊN CỨU
I. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA II. CÁC KỸ THUẬT CHỌN MẪU CƠ BẢN III. SỐ LƯỢNG MẪU NGHIÊN CỨU IV. PHÂN TÍCH CHẨN ĐOÁN QUA XÉT NGHIỆM
94 94 94 95 96 99 101 102 102 105 110 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHƯƠNG 1
MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
I. MỘT VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ DỊCH TỄ HỌC
Trong vài thập kỷ gần đây với những thành tựu của y học, thú y học và các ngành khoa học cơ
bản khác nhiều quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp dịch tễ học đã có những thay đổi khá
sâu sắc và phát triển mạnh mẽ. Dịch tễ học đã trở thành một ngành khoa học của tư duy khách quan cả về
phương pháp nghiên cứu và thực hành.
Dịch tễ học phát triển với một quan niệm bao trùm cơ bản là mọi bệnh trạng của con người và
động vật không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên vô cớ mà tất cả các bệnh trạng đều có những yếu tố quy
định nhất định. Những yếu tố này đều có thể xác định được nhờ sự tìm tòi nghiên cứu một cách có hệ
thống với các phương pháp dịch tễ học.
Dịch tễ học nghiên cứu mọi hiện tượng về sức khỏe và những tác động qua lại giữa cơ thể với những
yếu tố nội, ngoại sinh có thể liên quan đến sức khỏe.
Sự tác động qua lại đó sẽ đưa đến kết quả là trong những điều kiện nhất định cơ thể sẽ thắng
(khỏe mạnh, khỏi bệnh) hoặc bị bại (bị bệnh, chết)
Sự phát triển của dịch tễ học ngày càng được hoàn thiện nên mỗi một thời kỳ có những định
nghĩa về dịch tễ học khác nhau, điều đó nói lên sự phát triển của môn học qua từng thời gian.
1. Sơ lược lịch sử phát triển của dịch tễ học
1.1. Dịch tễ học y học
Là môn khoa học học có từ lâu đời, Hipocrat là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học
này. Ông quan niệm “Sự phát triển bệnh tật của con người và động vật có thể liên quan đến những yếu tố của
môi trường bên ngoài”
Lịch sử của dịch tễ học phát triển qua nhiều thời kỳ, nhưng nổi bật nhất là 3 cột mốc đánh dấu
những giai đoạn phát triển đặc biệt:
- John Graunt (1662): người đầu tiên định lượng các hiện tượng sức khoẻ, bắt đầu chú ý tới tần
số mắc, chết ở các lứa tuổi, giới tính khác nhau, ông cũng nhận thấy dịch xảy ra khác nhau ở những năm
khác nhau, nêu lên được đặc điểm của các năm có dịch xảy ra.
- William Farr 1983: đã có đóng góp rất nhiều cho việc hình thành về phương pháp nghiên cứu
dịch tễ học hiện đại như: Định nghĩa quần thể có nguy cơ, phương pháp so sánh giữa các đối tượng khác
nhau, chọn nhóm so sánh, rất coi trọng đến các yếu tố có thể ảnh hưởng đến bệnh hoặc chết theo nhóm
tuổi, thời gian tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, theo tình trạng sức khoẻ chung.
- John Snow khoảng những năm 40 –50 của thế kỷ 19: là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về
một yếu tố bên ngoài có liên quan chặt chẽ đối với một bệnh (tuy giả thuyết này khoảng 30 năm sau mới
được kiểm chứng).
Như vậy John Snow là người đầu tiên, là cha đẻ của ngành dịch tễ học, ông đã nêu đầy đủ các
1
thành phần của định nghĩa dịch tễ học và quan niệm đúng đắn về một đề cập dịch tễ học.
1.2. Dịch tễ học thú y
Có nhiều tài liệu cổ của Ai-cập, Hy Lạp, Trung Quốc, ấn Độ… đề cập đến các bệnh truyền
nhiễm của động vật: Dại, Uốn ván, Tỵ thư…
Cũng từ lâu con người đã biết phòng chống bệnh tật cho mình và cho gia súc: hạn chế tiếp xúc
với chuột để giảm bệnh dịch hạch, cách ly người hủi, lấy vẩy đậu mùa sấy khô để phòng bệnh…
Một số nhà học giả nổi tiếng như: Hipocrat, Xidenham, Rracatoro… đã có học thuyết “mầm
truyền nhiễm do tiếp xúc” hoặc “hạt nhỏ gây bệnh” và đề ra biện pháp chống dịch.
Sau này có thêm một số nhà khoa học khác: Jenner, Xamoilovic, Kock, Pasteur và nhiều nhà
bác học khác đã góp công lớn trong việc nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm và môn dịch tễ học.
Như vậy có thể thấy dịch tễ học đã có từ rất lâu, nhưng để giải thích đầy đủ thì dịch tễ học là
môn khoa học còn tương đối non trẻ.
1.3. Ở nước ta
Tài liệu cổ chỉ bắt đầu từ thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần… đã có những tài liệu ghi chép về bệnh
dịch gia súc.
- Từ thời Hậu Lê đã có những quy định về biện pháp cần thi hành để phòng chống dịch khi có
gia súc chết.
- Đến thế kỷ 18: Tuệ Tĩnh, Nguyễn Gia Phan đã có những tài liệu chữa bệnh cho gia súc.
Sau này trải qua gần 100 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp tuy ngành thú y đã bước
đầu được hình thành và ở giai đoạn này mặc dù đã có áp dụng một số biện pháp phòng trừ dịch bệnh
nhưng dịch bệnh của gia súc vẫn thường xuyên xảy ra.
Chỉ sau Cách mạng tháng Tám ngành thú y nước ta mới thực sự được xây dựng, củng cố và
phát triển, các hoạt động phòng chống dịch bệnh cho gia súc được đẩy mạnh, nghiên cứu khoa học phòng
chống dịch được tăng cường, các nghiên cứu điều tra dịch tễ học đã là cơ sở cho công tác phòng trừ dịch
bệnh.
2. Một vài định nghĩa cơ bản
Nguyễn Lương (1978): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu về tần số xuất hiện của các bệnh
trong các quần thể động vật, theo dõi diễn biến của các bệnh đó, đề xuất ra các giả thuyết về nguyên nhân
bệnh học và phòng chống bệnh đó
Martin (1987): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu về tính thường xuyên, sự phân bố cùng các
yếu tố quyết định đến sức khỏe và bệnh tật trong một quần thể động vật.
Dương Đình Thiện (1997): Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần số mắc hoặc
tần số chết đối với các bệnh trạng cùng với những yếu tố quy định sự phân bố của các yếu tố đó.
Có thể nhận thấy Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần số mắc hoặc chết đối với
các bệnh trạng cùng với những yếu tố quy định sự phân bố của các yếu tố đó.
3. Thành phần cơ bản của định nghĩa
Trong các định nghĩa trên đều có 2 thành phần liên quan chặt chẽ với nhau đó là sự phân bố tần
2
số mắc bệnh hoặc chết và các yếu tố quy định sự phân bố các bệnh trạng.
- Sự phân bố tần số mắc bệnh hoặc chết đối với một bệnh trạng nhất định được nhìn dưới 3 góc
độ của dịch tễ học (Cơ thể động vật - Không gian - Thời gian), để có thể giải đáp một bệnh trạng nào đó:
Phân bố như thế nào? Có mắc hay không? Mắc nhiều hay ít? Xảy ra trên loại động vật như thế nào: loài,
giống, lứa tuổi, tính biệt…? Mắc ở vùng nào? Thời gian cụ thể ra sao?
- Các yếu tố quy định sự phân bố các bệnh trạng gồm:
+ Mọi yếu tố nội, ngoại sinh thuộc nhiều lĩnh vực, bản chất khác nhau có ảnh hưởng tới sự mất
cân bằng sinh học đối với một cơ thể, khiến cơ thể đó không duy trì được tình trạng sức khỏe bình
thường.
+ Chúng ta phải tiến hành nghiên cứu các yếu tố quy định sự phân bố để từ đó giải thích các
nguyên nhân, các yếu tố nghi ngờ và đưa ra biện pháp phòng ngừa đối với từng bệnh.
Qua đây ta thấy cả hai thành phần của định nghĩa về dịch tễ học đều có liên quan chặt chẽ tới
tần số mắc và tần số chết. Do đó phải định lượng các hiện tượng sức khoẻ của quần thể đó dưới các dạng
số tuyệt đối bằng đo đếm chính xác và dưới các dạng tỷ số để có thể đem so sánh được.
Nhìn chung định nghĩa về dịch tễ học có 2 nội dung chính đó là điều tra về nguyên nhân gây
bệnh và có biện pháp, có hành động hiệu quả để chặn đứng sự lây lan của bệnh. Do đó, khi nghiên cứu
dịch tễ học thì cần nắm vững 2 thành phần liên quan chặt chẽ trong dịch tễ học để tiến hành bước tiếp
theo là lập luận dịch tễ học.
4. Quá trình lập luận dịch tễ học
Thường bắt đầu bằng sự nghi ngờ về những ảnh hưởng có thể có của một nguyên nhân đặc thù
nào đó dẫn đến sự xuất hiện bệnh, diễn biến bệnh hay suy tàn bệnh.
- Sự nghi ngờ này nảy sinh từ những phát hiện lâm sàng hoặc qua xét nghiệm, qua báo cáo về
tình hình các ca bệnh từ những nghiên cứu mô tả dịch tễ học… Từ đó có thể phác thảo nên những giả
thuyết về nguyên nhân nghi ngờ của bệnh hoặc giả thuyết về quan hệ nhân quả.
+ Giả thuyết nhân – quả này sẽ được kiểm định bằng các nghiên cứu dịch tễ học trên quần thể
với một nhóm thí nghiệm và một nhóm đối chứng để so sánh.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC TIÊU CỦA DỊCH TỄ HỌC
1. Đối tượng
Dịch tễ học nghiên cứu các quy luật phát sinh, phát triển, kết thúc quá trình dịch của động vật
trong quần thể và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đó.
2. Mục tiêu
Có ba mục tiêu chính sau:
- Xác định sự phân bố các hiện tượng bệnh tật
- Làm bộc lộ các nguy cơ và các yếu tố nguy cơ
- Đề ra các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát, hạn chế, ngăn chặn sự lây lan, tiến tới thanh toán
các bệnh hoặc nhóm bệnh đó với chi phí kinh tế ít nhất nhưng lại có hiệu quả cao nhất.
III. PHẠM VI CỦA DỊCH TỄ HỌC
3
Các biện pháp kỹ thuật của dịch tễ học đều được áp dụng vào tất cả các lĩnh vực thú y bao gồm:
1. Sử dụng dịch tễ học
Dịch tễ học được sử dụng với những mục đích:
- Xác định nguyên nhân, nguồn gốc khi có dịch xảy ra
- Giải thích sự phân bố tần số mắc, tần số chết của bệnh
- Đề ra những biện pháp khống chế có hiệu quả nhất khi có dịch xảy ra trước khi hoàn tất việc
chẩn đoán
- Lập kế hoạch mang tính chiến lược để khống chế, thanh toán bệnh, tính toán được hậu quả
kinh tế khi dịch bệnh xảy ra
2. Hoạt động dịch tễ học
Đặc tính của dịch tễ học là quan tâm đến tổng đàn gia súc hơn là đối với một cá thể động vật
ốm, chết. Mục đích chính là phòng bệnh hơn chữa bệnh.
Hoạt động của dịch tễ học bao gồm các lĩnh vực sau:
- Nghiên cứu về dịch tễ học: Dịch tễ học mô tả, dịch tễ học phân tích, dịch tễ học thực nghiệm
- Giám sát về dịch tễ học: quan sát, phát hiện sớm
- Những đánh giá về dịch tễ học: sức khỏe và bệnh tật
IV. VAI TRÒ CỦA DỊCH TỄ HỌC
Dịch tễ học có vai trò quan trọng trong các công tác sau:
- Duy trì, bảo vệ sức khỏe, phát triển chăn nuôi, nâng cao sản lượng, chất lượng đàn gia súc - gia
cầm của một cơ sở, một xí nghiệp chăn nuôi hoặc của một huyện, một tỉnh, một quốc gia.
- Là căn cứ khoa học để xây dựng các chủ trương, chính sách của nhà nước đối với ngành thú y.
- Phương pháp dịch tễ học được coi là cơ sở pháp lý của công tác quản lý hành chính của ngành
thú y của một huyện, tỉnh, quốc gia.
- Là cơ sở của phương pháp nghiên cứu đo lường mức độ tác động của dịch bệnh, đồng thời
cũng là phương pháp để đánh giá các biện pháp can thiệp về mặt thú y.
V. NHIỆM VỤ CỦA DỊCH TỄ HỌC
Dịch tễ học có 3 nhiệm vụ chính như sau:
- Nghiên cứu các quy luật của sự phát sinh và diễn biến của các hiện tượng bệnh lý khác nhau
xảy ra trong quần thể động vật trên những quy mô nhất định.
- Nghiên cứu sự phát sinh (xuất hiện, tái diễn) và diễn biến (gia tăng, thu hẹp, ngừng tắt, kết
thúc) của bệnh.
- Mọi hiện tượng bệnh lý đều có nguyên nhân nhất định, khi nghiên cứu các bệnh đó phải chú ý
tới tác động qua lại chặt chẽ của những yếu tố bên trong và bên ngoài.
Hay nói cách khác nhiệm vụ của dịch tễ học thú y là:
- Nghiên cứu các quy luật phân bố của các bệnh, xác định căn nguyên của các hiện tượng bệnh
lý xảy ra trên mỗi cơ thể và quần thể động vật.
- Tìm ra những yếu tố nguy cơ đặc thù cùng với những yếu tố nguy cơ nghi ngờ chi phối sự phát
4
sinh và diến biến của bệnh trong những điều kiện nhất định theo không gian, thời gian.
- Đề xuất ra các biện pháp đúng đắn, hữu hiệu nhằm hạn chế, thu hẹp dần sự phân bố tần số của
các bệnh, tiến tới thanh toán các bệnh đó trong quần thể.
Chú ý: Khi nghiên cứu sự phân bố các tần số cùng với các căn nguyên của bệnh là không tĩnh
tại mà luôn thay đổi theo thời gian, không gian, theo các yếu tố bên trong là các phản ứng của cơ thể và
yếu tố bên ngoài là môi trường xung quanh mà các cá thể đó đang sống trong mối tương tác: Thời gian -
Không gian - Quần thể động vật đó.
Tuy nhiên để thực hiện các nhiệm vụ của dịch tễ học ta cần tiến hành các công việc sau:
- Giám sát dịch tễ học: Bằng cách thu thập các thông tin một cách liên tục, thường xuyên,
nhanh chóng và có hệ thống. Sử dụng các thông tin đó để dự báo sự xuất hiện của một vấn đề nào đó liên
quan đến dịch bệnh hoặc xác định các yếu tố có liên quan đến sự tiến triển của vấn đề đó.
- Điều tra dịch tễ học: Nhiệm vụ này bổ sung cho nhiệm vụ thứ nhất bằng cách thực hiện các
cuộc điều tra dịch tễ học nhằm nghiên cứu thực tế các hoàn cảnh xuất hiện của một vấn đề có liên quan
tới sức khỏe và dịch bệnh đồng thời phân tích các yếu tố quyết định vấn đề đó từ đó rút ra các kết luận và
đưa ra các khuyến nghị nhằm kiểm soát và dự phòng vấn đề đặt ra.
- Đánh giá dịch tễ học: Sử dụng các phương tiện kỹ thuật tham gia vào việc đánh giá các
chương trình dự phòng dịch bệnh cũng như các chiến lược phòng chống dịch bệnh và mọi sự can thiệp
nhằm giảm bớt bệnh và tỷ lệ ốm, tỷ lệ chết.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC
Thông thường chúng ta thường sử dụng các phương pháp nghiên cứu dịch tễ học sau:
1. Dịch tễ học mô tả
Là phương pháp nghiên cứu mô tả bệnh và sự phân bố tần số của chúng dưới 3 góc độ Cơ thể động
vật - Không gian - Thời gian trong mối quan hệ tương tác thường xuyên của cơ thể đó cùng các yếu tố nội,
ngoại sinh để làm bộc lộ ra những yếu tố mang tính căn nguyên của các bệnh trong quần thể từ đó phác thảo,
hình thành nên những giả thuyết giữa yếu tố nguy cơ và bệnh.
2. Dịch tễ học phân tích
Là phương pháp nghiên cứu phân tích các dữ liệu thu thập được từ dịch tễ học mô tả, đồng thời
tìm cách giải thích những yếu tố căn nguyên của bệnh và tiến hành các phân tích, thống kê những thông
tin thu được để xác định căn nguyên đặc thù.
Nói một cách khác là kiểm định những giả thuyết được hình thành từ dịch tễ học mô tả, từ đó
đề ra những biện pháp thích hợp để hạn chế ngăn ngừa bệnh.
3. Dịch tễ học can thiệp
Là các phương pháp nghiên cứu can thiệp được đặt ra với các biện pháp tác động vào yếu tố
nguy cơ nhằm làm giảm khả năng mắc hoặc chết với bệnh đó.
4. Dịch tễ học thực nghiệm
Là các phương pháp nghiên cứu thử nghiệm được tiến hành để lập lại mô hình tương tác giữa
bệnh và căn nguyên của chúng để đối chiếu, so sánh, kiểm định lại một cách chắc chắn và xác nhận tính
5
đúng đắn của giả thuyết đã hình thành.
5. Kinh tế dịch tễ học
Là phương pháp nghiên cứu những thiệt hại do bệnh gây nên, nghiên cứu những phương pháp
tác động sao cho với những chi phí tốn kém ít nhất, nhưng lại có hiệu quả nhất cho việc phòng chống
dịch bệnh gia súc, gia cầm để khôi phục và phát triển chăn nuôi.
6. Dịch tễ học lý thuyết khái quát
Là phương pháp nghiên cứu xây dựng các mô hình lý thuyết của bệnh đã được nghiên cứu, trên
cơ sở đó khái quát sự phân bố của bệnh cùng với những mối tương tác có căn nguyên của chúng, giúp
cho việc hạn chế, ngăn ngừa khả năng phát triển, xu hướng gia tăng và sự phân bố rộng rãi của bệnh
trong những quần thể tương tự khác.
Các định nghĩa tổng quát trên là những phương hướng chiến lược của dịch tễ học, chúng quy
định những phương pháp của dịch tễ học tương ứng mà chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu với những nội
dung cụ thể của nó trong các phương pháp điều tra, quan sát, mô tả, phân tích, thực nghiệm
VII. NỘI DUNG CỦA MÔN DỊCH TỄ HỌC
Là môn khoa học nghiên cứu về tần số xuất hiện của các bệnh trong các quần thể động vật, theo
dõi diễn biến của các bệnh đó, đề xuất ra các giả thuyết về nguyên nhân bệnh học và phòng chống các
bệnh đó.
Tuy nhiên, trong ngành Thú y cho đến nay môn học này mới chỉ nghiên cứu về các bệnh truyền
nhiễm, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
Mỗi bệnh truyền nhiễm có những quá trình phát sinh, phát triển và ngừng tắt của nó, các quá trình
đó tuân theo những quy luật nhất định, có những quy luật riêng cho từng bệnh, nhưng có những quy luật
chung cho mọi bệnh.
Nghiên cứu những quy luật chung và đề ra những biện pháp chung để phòng chống dịch là
nhiệm vụ và nội dung của môn dịch tễ học đại cương, còn nghiên cứu những quy luật riêng, biện pháp
riêng sẽ được nghiên cứu trong phần dịch tễ của mỗi bệnh.
1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - ngoại cảnh
Mối quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - ngoại cảnh là nguyên nhân của sự ổn định, không ổn
định của sức khỏe dẫn đến phát sinh bệnh, nó bao gồm: Khả năng nhiễm và gây bệnh của mầm bệnh,
tính thụ cảm, sức chống đỡ và khả năng đáp ứng miễn dịch của cơ thể, các yếu tố ngoại cảnh
Như vậy, dịch tễ học nghiên cứu mối quan hệ giữa mầm bệnh và ngoại cảnh, sự tồn tại của
mầm bệnh, các điều kiện làm cho vi sinh vật trở thành mầm bệnh, ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh
tới mầm bệnh.
2. Nghiên cứu các cơ chế phát sinh bệnh truyền nhiễm
Dịch tễ học cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa mầm bệnh và động vật bị bệnh trong những điều
kiện nhất định, những vấn đề về lý thuyết nhiễm trùng như đường xâm nhập, đường bài xuất của mầm
6
bệnh... Nên cũng có thể gọi dịch tễ học là khoa học về các cơ chế phát sinh bệnh truyền nhiễm.
3. Nghiên cứu nguyên nhân làm nổ ra và lây lan dịch
Dịch tễ học còn nghiên cứu các nguyên nhân làm nổ ra và tồn tại của các dịch lớn, như vậy dịch
tễ học là khoa học về sự lây lan.
Dịch tễ học cũng nghiên cứu về sự phát triển bệnh giữa các loài động vật với nhau, giữa động
vật với con người, nên dịch tễ học là khoa học về các quy luật phát sinh, lây lan trong xã hội và các biện
pháp phòng bệnh.
4. Kết luận
Dịch tễ học là khoa học nghiên cứu sự phân bố tần của bệnh, của hiện tượng dịch và các yếu tố
quyết định sự phân bố đó trong khoảng thời gian và không gian nhất định.
+ Hiện tượng dịch: là một hiện tượng có tần số xuất hiện bệnh cao hơn bình thường.
VIII. CHU TRÌNH NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ
Có thể khẳng định rằng dịch tễ học mô tả là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu dịch tễ khác, do
vậy khi nghiên cứu về nó cần chú trọng 3 yếu tố cơ bản:
- Đặc điểm của cơ thể bị bệnh: loài, giống, tuổi, tính biệt...
- Đặc điểm về thời gian: tháng, năm, mùa vụ, thời gian nung bệnh, bệnh trình, diễn biến bệnh...
- Đặc điểm về không gian: vùng, tính chất vùng, tính chất của bệnh trong vùng...
Đây là 3 chìa khóa của dịch tễ học, các yếu tố này cung cấp tài liệu cho dịch tễ học phân tích để
đi sâu tìm ra các yếu tố gây bệnh, phân biệt nguyên nhân và các điều kiện làm bệnh phát sinh, lây lan
hoặc tồn tại.
Chính vì vậy nghiên cứu dịch tễ học được bắt đầu bằng nghiên cứu mô tả sự phân bố của bệnh
trong những nhóm, đàn, quần thể động vật cùng với các yếu tố nguy cơ quy định sự phân bố đó dưới 3
góc nhìn của dịch tễ học: Cơ thể động vật – Không gian – Thời gian.
Như vậy, dịch tễ học mô tả là bước khởi đầu cung cấp những thông tin, dữ kiện về sức khoẻ,
bệnh tật của quần thể động vật mà chúng ta đang nghiên cứu.
Dịch tễ học mô tả cũng còn là bước khởi đầu trong việc làm sáng tỏ phần nào các nguyên nhân
của bệnh, vì đã nêu ra được các nhóm động vật có tỷ lệ mắc cao hay thấp đối với một bệnh nhất định nên
người nghiên cứu sẽ đặt câu hỏi là tại sao lại có những tỷ lệ mắc khác nhau đó? Do vậy lập nên những
giả thuyết về nguyên nhân mà những nghiên cứu dịch tễ học tiếp theo có thể xác nhận hoặc bác bỏ.
Các nghiên cứu dịch tễ học nhằm kiểm định lại những giả thuyết từ dịch tễ học mô tả được gọi
là dịch tễ học phân tích.
Dịch tễ học phân tích có nhiệm vụ xác nhận hoặc loại bỏ những giả thuyết đã nêu của dịch tễ
mô tả, là tiền đề cho những nghiên cứu mô tả khác để dẫn tới những giả thuyết mới sát hơn, cao hơn, chi
tiết hơn. Những giả thuyết mới này lại được kiểm định bằng những nghiên cứu phân tích mới và cứ tiếp
tục chu trình nghiên cứu như vậy cho đến khi kết hợp nhân - quả được xác lập đúng đắn nhất.
Sau khi giả thuyết hình thành từ nghiên cứu mô tả được kiểm định là đúng bởi các nghiên cứu
phân tích dịch tễ học thì các nghiên cứu can thiệp được đặt ra với các biện pháp tác động vào yếu tố nguy
7
cơ nhằm làm giảm khả năng mắc hoặc chết đối với bệnh.
Nếu các biện pháp can thiệp là không hoàn toàn vô hại, thì trước khi áp dụng cho cả quần thể
cần phải qua nghiên cứu thực nghiệm (vacxin, thuốc điều trị mới) để xem các biện pháp can thiệp có hiệu
quả hay không, người ta phải tiến hành các cuộc điều tra đánh giá.
Bằng các bước như trên, nếu chân lý được tiếp cận, cuối cùng có thể xây dựng được mô hình
dịch tễ của các bệnh trạng đã nghiên cứu.
Sơ đồ chu trình nghiên cứu dịch tễ
Hình thành giả thuyết
Nghiên cứu phân tích
Nghiên cứu mô tả
Kiểm định giả thuyết
Nghiên cứu can thiệp Nghiên cứu thực nghiệm
Đánh giá
Xây dựng mô hình dịch tễ
8
CHƯƠNG 2
KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ DÙNG TRONG DỊCH TỄ HỌC
I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH
Bất kỳ một bệnh nào cũng có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe
mạnh, rồi sau đó khỏi hoặc để lại di chứng hoặc chết.
Trong cùng một loại bệnh có thể khác nhau về mức độ, nhưng nhìn chung mỗi loại bệnh đều có
một quá trình diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng trong một thời gian nhất định.
Quá trình đó được gọi là quá trình tự nhiên của bệnh, nghĩa là quá trình diễn biến của bệnh
không có sự can thiệp điều trị.
1. Giai đoạn cảm nhiễm
Định nghĩa: là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu có tiếp xúc và cảm thụ với
yếu tố nguy cơ, làm cho cơ thể có thể xuất hiện bệnh.
Trong giai đoạn này có những yếu tố không thay đổi: tuổi, tính biệt, loài, giống... và những yếu
tố có thể thay đổi: vệ sinh, khí độc, sức khỏe, thức ăn, nước uống, các bệnh khác... Chính những yếu tố
này có thể làm tăng hoặc giảm nguy cơ phát bệnh.
Như vậy, nếu xác định được các yếu tố nguy cơ thì sẽ làm giảm hoặc không phát bệnh. Tuy
nhiên không phải tất cả mọi cá thể có cảm thụ với các yếu tố nguy cơ đó đều phát bệnh, cũng không đảm
bảo rằng tất cả mọi cơ thể không cảm thụ với yếu tố nguy cơ đó đều sẽ không phát bệnh. Do mỗi bệnh
đều có những mối nguy cơ riêng không thể phát hiện được hết và không có dấu hiệu nào để phát hiện
một cơ thể động vật đang ở giai đoạn này.
Nên để hạn chế khả năng phát bệnh cần: chăm sóc tốt, làm giảm hoàn toàn tính cảm thụ với
bệnh, làm giảm các yếu tố nguy cơ.
2. Giai đoạn tiền lâm sàng
Cơ thể chưa có triệu chứng của bệnh nhưng bắt đầu có những thay đổi bệnh lý do tác động qua
lại giữa cơ thể và các yếu tố nguy cơ tuy nhiên những thay đổi này ở dưới mức bệnh lý
3. Giai đoạn lâm sàng
Cơ thể đã có những thay đổi về chức năng các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của bệnh đã
thể hiện ra bên ngoài. Do vậy có thể chẩn đoán bệnh qua những biểu hiện lâm sàng
4. Giai đoạn sau lâm sàng
Nhiều bệnh có thể khỏi hoàn toàn do tự khỏi hoặc do điều trị. Một số bệnh để lại di chứng nhất
thời (Newcastle, Tụ huyết trùng, Lao…) hoặc vĩnh viễn (Brucellosis, Đậu mùa...).
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH PHÁT TRIỂN
1. Quan niệm về nguyên nhân đa yếu tố
Trong quan niệm và phương pháp dịch tễ học hiện đại người ta không nhấn mạnh về một yếu tố
nào trong các điều kiện để bệnh phát triển. Bất kỳ một bệnh nào đó nảy sinh không chỉ liên quan đến một
9
yếu tố đơn thuần mà liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau. Cho nên, trong quá trình phân tích dịch tễ học
của bất kỳ bệnh nào phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, đó phải bao gồm một chuỗi những yếu tố tác
động phối hợp qua lại lẫn nhau.
Như vậy, sự phát sinh và phát triển của một bệnh nào đó liên quan đến nhiều yếu tố căn nguyên
khác nhau và sự tác động qua lại của các yếu tố đó, gọi đó là nguyên nhân đa yếu tố.
Do đó: “Một nguyên nhân đầy đủ” có thể được xem như một tập hợp những hiện tượng, những
điều kiện, những đặc tính tối thiểu không thể tránh khỏi để gây nên bệnh.
Tối thiểu: có nghĩa là không thể bỏ qua bất cứ hiện tượng nào, điều kiện nào, đặc tính nào.
2. Những yếu tố cần thiết và cơ bản để bệnh phát sinh
- Yếu tố gây bệnh hay tác nhân gây bệnh gồm: các yếu tố sinh học, lý học, hóa học...
+ Là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để gây nên bệnh vì nó còn cần phải có các điều kiện hỗ
trợ của yếu tố bên trong là vật chủ và yếu tố bên ngoài là môi trường ngoại cảnh thì bệnh mới phát sinh.
Nhưng là một yếu tố bắt buộc phải có, là điều kiện cần thiết để bệnh phát sinh, phát triển.
- Yếu tố bên trong (vật chủ):
+ Là cơ thể động vật với những đặc trưng của chúng như loài, giống, tuổi, giới tính, đặc tính di
truyền, trạng thái sinh lý, trạng thái bệnh lý...
- Yếu tố bên ngoài (môi trường ngoại cảnh):
+ Yếu tố tự nhiên: khí hậu, thời tiết, địa lý, địa hình, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, độ ẩm...
+ Các yếu tố do con người tạo ra: chuồng trại, vệ sinh, chăm sóc, dụng cụ nuôi dưỡng...
3. Các dạng liên kết của các yếu tố (nhân tố)
Mục tiêu của nghiên cứu các dạng liên kết này nhằm xác định tác nhân liên quan tới sự phát
sinh bệnh. Sau khi tác nhân đã được xác định ta có thể đánh giá tác nhân đó gây bệnh như thế nào? Nếu
thấy có sự phối hợp nguyên nhân giữa tác nhân và bệnh đang tồn tại, thì tác nhân đó được gọi là yếu tố
quyết định.
Như vậy, sự liên kết giữa các yếu tố có thể được hiểu nếu mức độ phối hợp của các tác nhân
càng cao thì dịch bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong quần thể. Ngược lại nếu chúng ta loại trừ chính
xác sự phối hợp của các tác nhân gây bệnh đó thì dịch bệnh sẽ giảm hoặc không xảy ra.
Sự liên kết giữa tác nhân gây bệnh và bệnh có thể nhận thức ở 3 mức độ của sự phối hợp: phối
hợp bên ngoài, sự phối hợp thống kê (hay phối hợp bên trong) và phối hợp nguyên nhân.
Sự phối hợp bên ngoài
Bất kỳ một bệnh nào cũng có một sự phối hợp giữa tác nhân gây bệnh, loài gia súc và dịch
bệnh, sự phối hợp này có thể biểu diễn:
Tác nhân Bên ngoài Dịch bệnh
Những yếu tố phối hợp này thường được rút ra từ những nghiên cứu Dịch tễ học mô tả hay là
quan sát dịch tễ về tính lưu hành của bệnh. Khi nghiên cứu ta có thể nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh trong một
quần thể hay tiểu quần thể này có thể cao hoặc thấp hơn so với một quần thể hay tiểu quần thể khác,
được đặt trong cùng một điều kiện tương tự.
10
Vấn đề đặt ra là vì sao và những tác nhân gây bệnh nào có thể giải thích được cho vấn đề trên?
Như vậy, để trả lời cho cầu hỏi trên phải tiếp tục nghiên cứu để xác định một số giả thuyết khác
có liên quan và bắt đầu tìm hiểu, thu thập những dữ liệu của các tác nhân này ở trong quần thể tương ứng
Sự phối hợp thống kê
Một khi đã đặt ra giả thuyết về những yếu tố phối hợp bên ngoài thì phải tính đến các yếu tố
phối hợp đó có ý nghĩa thống kê hay không?
Tác nhân Ý nghĩa thống kê Dịch bệnh
Để biết ý nghĩa thống kê thực sự cần thiết trong nghiên cứu, ta phải nêu một số giả thuyết làm
cơ sở khoa học cho việc đánh giá sự phối hợp của các yếu tố này. Mỗi một giả thuyết thống kê là một sự
xác nhận hay một sự phỏng đoán có liên quan tới một hay một số quần thể.
Những giả thuyết được đặt ra là để so sánh, đánh giá và mong muốn có được một giả thuyết xác
thực, đồng thời loại trừ những giả thuyết vô giá trị. Muốn vậy phải căn cứ vào sự khác biệt giữa hai hay
nhiều nhóm khi lấy mẫu thực nghiệm, bằng kiểm tra ý nghĩa thống kê và giá trị thống kê của các nhóm
này.
Sự chính xác hay không chính xác của một giả thuyết được đánh giá bằng độ tin cậy P. Độ tin
cậy P là trị số thống kê được tính toán từ những kết quả khi kiểm tra giả thuyết, hay nói cách khác độ tin
cậy P là xác suất từ những dữ liệu ta quan sát, tính toán được từ những giả thuyết đặt ra. Độ tin cậy P có
phạm vi từ 0 đến 1, thường ta xác định giá trị 5% là tiêu chuẩn được chọn để đánh giá độ tin cậy và chỉ
số này được dùng để xếp loại giả thuyết có ý nghĩa hay không có ý nghĩa, nếu P>0,05 thì giả thuyết được
coi là có giá trị và có độ tin cậy.
Cần lưu ý khi nhận định về ý nghĩa thống kê như thế nào cho đúng ở một ngưỡng xác suất nhất
định nào đó, bởi vì ý nghĩa thống kê chỉ là một định hướng cho hành động, do đó trước một kết quả
nghiên cứu được đánh giá:
+ Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là các kết quả nghiên cứu của chúng ta đã loại trừ hoàn
toàn các yếu tố may rủi.
+ Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là các yếu tố may rủi hoàn toàn chi phối các
kết quả nghiên cứu, mà chỉ có ý nghĩa là các yếu tố may rủi chưa bị loại trừ ra khỏi kết quả.
Trong các kết quả nghiên cứu về kết hợp giữa yếu tố nguy cơ và dịch bệnh, ý nghĩa thống kê
không phản ánh gì về quan hệ nhân quả trong kết hợp đó, vì vậy trong các trường hợp này:
+ Có ý nghĩa thống kê: không có nghĩa là xác nhận bản thân yếu tố nguy cơ là nguyên nhân
chính gây ra hậu quả đó.
+ Không có ý nghĩa thống kê: cũng không có nghĩa là kết hợp đó không phải là một kết hợp
nhân quả.
Ý nghĩa thống kê của các nhân tố phối hợp cũng có thể dẫn tới những sai lầm (Bias) trong bố trí
thí nghiệm.
+ Bias là một thuật ngữ để chỉ bất cứ một sai lầm nào có tính thiên lệch trong bố trí nghiên cứu
11
thí nghiệm, trong phân tích kết quả. Dù chỉ một hoặc hai trường hợp bị đánh giá thiên lệch cũng có thể
làm sai lệch các thông số, làm thay đổi tính chính xác và khách quan của kết quả nghiên cứu. Do vậy,
cần phải kiểm tra và khống chế Bias thì giá trị thống kê mới có ý nghĩa khoa học.
Sự phối hợp nguyên nhân
Dạng phối hợp này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải xác định được nguyên nhân gây nên dịch bệnh
là nhân tố trực tiếp hay nhân tố gián tiếp. Không những phải xác định về tính chất mà còn xác định cả về
số lượng.
Tác nhân Nguyên nhân trực tiếp Dịch bệnh
Sự phối hợp nguyên nhân trực tiếp chỉ là tượng đối, nó phụ thuộc vào khả năng phát hiện của
nhà nghiên cứu về sự phối hợp trực tiếp này để từ đó có thể tác động làm thay đổi nguyên nhân theo
hướng có lợi.
Tác nhân NN gián tiếp Dịch bệnh
Có nhiều nghiên cứu bố trí thí nghiệm để phát hiện nguyên nhân phối hợp gián tiếp hay các yếu
tố trung gian giữa tác nhân và dịch bệnh.
4. Nguyên nhân tối thiểu
Dịch tễ học quan niệm bất cứ một bệnh nào cũng không phải xảy ra một cách ngẫu nhiên, vô cớ
mà phải có những nguyên nhân nhất định của chúng, những nguyên nhân này có thể xác định được.
Một thuật ngữ được đề cầp đến đó là “nguyên nhân tối thiểu vừa đủ” khái niệm này đã có từ
lâu, thí dụ như: LD50, ID50, CPE50, TCID50, EID50...
+ Nguyên nhân tối thiểu vừa đủ: vừa mang ý nghĩa của liều đáp ứng, vừa mang ý nghĩa của thời
gian đáp ứng, nghĩa là mỗi liều đáp ứng tối thiểu đều ứng với một thời gian đáp ứng tối thiểu nhất định.
+ Hay nói cách khác sự xuất hiện của một bệnh nào đó là do lượng nguyên nhân quá ngưỡng
tác động trong một thời gian nhất định, liều càng cao thì thời gian tác động càng ngắn và ngược lại.
III. ĐỊNH ĐỀ KOCK
Với quan niệm mới về nguyên nhân đa yếu tố thì khái niệm về bệnh tật chỉ do một tác nhân đơn
lẻ gây nên là hoàn toàn không đúng. Chúng ta hãy trở lại một nguyên tắc xác định tác nhân gây bệnh
được biết đến là định đề Kock.
1. Định đề Kock
Bao gồm 4 điểm sau:
- Tác nhân phải được tìm thấy trong các trường hợp bệnh.
- Tác nhân này phải không được tìm thấy ở những trường hợp bệnh khác.
- Tác nhân này phải có thể gây lại bệnh khi tiêm truyền qua động vật thí nghiệm.
- Tác nhân này phải tìm lại được từ vật chủ đã được gây bệnh thí nghiệm
2. Nhận xét
Định đề Kock cho thấy một tác nhân đơn lẻ có thể gây ra một bệnh riêng. Tuy nhiên với quan
niệm mới về bệnh tật, thì định đề Kock chưa đủ và chưa chính xác vì:
- Có nhiều bệnh truyền nhiễm chúng ta có thể tìm thấy nhiều tác nhân gây bệnh (Tiêu chảy,
12
DTL, CRD, Viêm teo mũi lợn truyền nhiễm...)
- Có nhiều bệnh mà tác nhân gây bệnh có thể tìm thấy ở những động vật khỏe mạnh
(Pasteurella, VK ĐDL, Tụ cầu khuẩn, Liên cầu khuẩn...) tại sao những vi khuẩn này lại không gây bệnh?
- Định đề Kock không chú ý tới ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.
- Định đề Kock quá nhấn mạnh biện pháp kỹ thuật trong thực nghiệm để xác định nguyên nhân,
nhưng lại chưa quan tâm đầy đủ tới môi trường thực nghiệm có phù hợp hay không?
3. Một số điểm bổ sung cho định đề Kock
Định đề Kock tuy có giá trị trong việc xác định những nguyên nhân làm lây lan bệnh ở từng cá
thể nhưng chưa đầy đủ khi đề cập tới những bệnh xảy ra trong quần thể, vì vậy nó cần được bổ sung. Một
khuynh hướng mới với một tư duy mới về nguyên nhân gây bệnh được thiết lập đó là:
- Bệnh phải gắn với sự việc đã xảy ra, sự kết hợp này phải được giải thích bằng những hiện
tượng sinh học với những kiến thức về lâm sàng và bệnh lý học.
- Bệnh phải ổn định và được lập lại, sự kết hợp này phải được mô phỏng lại dưới những điều
kiện khác nhau, tức là phải được bố trí nghiên cứu song song với các nhóm đối chứng khác nhau.
- Bệnh phải có sự nối tiếp về thời gian, tức là tác nhân gây bệnh phải được bộc lộ trước khi
bệnh khởi phát.
- Bệnh phải mang tính đặc thù, nghĩa là một nguyên nhân sẽ dẫn tới một kết quả riêng, chứ
không phải nhiều kết quả (trong thực tế những hiện tượng riêng đôi khi cho nhiều kết quả).
- Cường độ của sự kết hợp giữa tác nhân và bệnh có thể được tính bằng tỷ số của nguy cơ
tương đối (Relative Risk=RR) trong quần thể, nếu tỷ số RR này lớn hơn 1 thì có sự kết hợp giữa tác nhân
gây và bệnh.
- Sự quan hệ về liều đáp ứng: khi có sự thay đổi về tác nhân gây bệnh sẽ dẫn tới sự thay đổi
tương ứng về tỷ lệ phát bệnh. Tức là khi tác nhân nhiều thì bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn và khi tác
nhân ít thì bệnh sẽ xảy ra ít hơn, tác nhân là yếu tố cơ bản để xác định bệnh.
Rõ ràng 6 quan điểm trên đây là sự kết hợp của các yếu tố tiêu chuẩn để xác định nguyên nhân.
Tuy nhiên cũng còn có những điểm chưa thật phù hợp như tính đặc thù, tính liên kết cần được bổ sung,
chỉnh lý tùy theo từng trường hợp cụ thể và theo mốc thời gian. Bởi vì mọi công trình khoa học đều có
khả năng bị bác bỏ hay được sửa đổi bổ sung do những tiến bộ về kiến thức khoa học của loài người. Do
đó quan hệ nhân quả chưa bao giờ được chứng minh một cách tuyệt đối, mà chỉ là dự đoán dựa trên
những chứng cứ quan trọng thu thập được.
IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH
1. Mô hình sinh thái học
Mô hình sinh thái học chính là sự tương tác của tất cả các yếu tố với nhau cùng tác động lên cơ
thể vật chủ. Mô hình này được thiết lập nhằm tìm ra cơ chế, hậu quả của tất cả những tác động đó đối với
việc hình thành, xuất hiện bệnh như thế nào? Tìm ra được nguyên nhân nào là chủ yếu ảnh hưởng tới tình
trạng sức khỏe của quần thể đàn gia súc hay của một cá thể ở một thời điểm nhất định để điều chỉnh kịp
13
thời và giữ thăng bằng cho cơ thể.
Có những yếu tố trong hệ sinh thái thay đổi, nhưng không gây ảnh hưởng tới sức khỏe quần thể
đàn gia súc, thì không cần phải điều chỉnh, vì có các yếu tố khác trong hệ sinh thái đó có khả năng tự bù
đắp tự điều chỉnh lại những ảnh hưởng đó. Ngược lại có những thay đổi dù nhỏ nhưng lại ảnh hưởng tới
Môi trường
sức khỏe của quần thể đàn gia súc, dẫn tới bệnh tật thì phải điều chỉnh ngay.
Dịch bệnh
1
b
a
G
Tác nhân
c
Vật chủ
Hình 2: Sơ đồ mô hình bánh xe
Hình 1: Sơ đồ mô hình tam giác
Mô hình tam giác
Gồm 3 thành phần: Tác nhân – Vật chủ – Môi trường
Mô hình này cho rằng trong bất cứ dịch bệnh nào cũng phải phân tích đầy đủ 3 thành phần trên,
nếu có bất kỳ một thành phần nào thay đổi sẽ kéo theo sự gia tăng hoặc giảm thấp tần số của bệnh.
Tuy nhiên với quan niệm về các yếu tố bên trong và bên ngoài, ứng với tính cảm thụ của cơ thể
và khả năng phơi nhiễm đối với các yếu tố của môi trường bên ngoài thì thành phần “tác nhân” chỉ là
một trong các yếu tố của môi trường bên ngoài.
Khi nghiên cứu dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm thì việc tách riêng các VSV gây bệnh ra
khỏi các yếu tố của môi trường thành loại tác nhân là chính xác, nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân chính
gây ra bệnh. Nhưng với quan niệm và phương pháp nghiên cứu dịch tễ học hiện nay áp dụng cho mọi
loại bệnh, người ta sẽ không nhấn mạnh vào yếu tố đặc thù nào, ngay cả đối với các bệnh đã biết được
“tác nhân” gây bệnh.
Mô hình sinh thái học được hình thành, không nhấn mạnh đến “tác nhân” mà quan tâm đến các
tác động qua lại giữa vật chủ và môi trường, nghĩa là quan tâm đến tác động giữa yếu tố bên trong và bên
ngoài.
Mô hình bánh xe
Mô hình bánh xe là mô hình được đề cập để phát hiện những mối quan hệ giữa cơ thể và môi
trường, đó là các vòng tròn lớn, nhỏ khác nhau được lồng vào nhau. Ở giữa là một vòng tròn biểu thị cho
cơ thể vật (1) chủ với hệ thống thông tin di truyền của nó (G). Xung quanh là môi trường, chia thành 3
mảnh, biểu thị cho các loại môi trường: môi trường sinh học (a), môi trường lý học (b) và môi trường xã
hội (c).
Độ lớn của từng thành phần của “bánh xe” phụ thuộc vào từng bệnh cụ thể: bệnh do di truyền,
bệnh truyền nhiễm, bệnh không truyền nhiễm
Mô hình này xác định được nhiều yếu tố căn nguyên của bệnh mà không cần nhấn mạnh đến
14
tác nhân.
VD: trong bệnh Dại không cần nhấn mạnh đến virus Dại, mà phải nhấn mạnh đến gia súc mắc
bệnh là ổ chứa virus đó và môi trường.
Sự phân chia ra các yếu tố của vật chủ và các yếu tố của môi trường rất có lợi trong phân tích
dịch tễ học.
2. Mô hình Reed Frost
Mô hình phát triển của dịch bệnh có thể được sử dụng để đánh giá, để dự đoán và đề ra những
chiến lược không chế, ngăn chặn sự phát triển của các dịch bệnh khác nhau.
Mô hình Reed Frost là một trong những mô hình đơn giản nhất, nhưng lại rất hữu ích trong dịch
tễ học, mô hình Reed Frost nhận xét:
- Sự nhiễm bệnh trực tiếp từ cá thể bị nhiễm sang cá thể mẫn cảm bằng một loạt các tiếp xúc
nhất định được gọi là “tiếp xúc đầy đủ”.
- Bất cứ cá thể nào chưa được miễn dịch hoặc chưa mẫn cảm trong nhóm, đàn, quần thể tiếp
xúc với một cá thể mắc bệnh bệnh truyền nhiễm trong một giai đoạn nhất định sẽ phát triển thành bệnh
và có khả năng lây lan cho các cá thể khác trong nhóm, đàn, quần thể và trong giai đoạn tiếp theo, sau đó
sẽ có khả năng hoàn toàn miễn dịch.
- Mỗi một cá thể có một xác suất cố định để “tiếp xúc đầy đủ” và hoàn toàn ngẫu nhiên với cá
thể đặc biệt khác trong nhóm, đàn, quần thể trong một khoảng thời gian nhất định, xác suất này cũng
tương ứng cho mỗi thành viên trong nhóm, đàn, quần thể khác.
- Những cá thể đã bị nhiễm “được coi như tách khỏi” những cá thể trong nhóm, đàn, quần thể.
- Khoảng cách thời gian cho giai đoạn nhiễm bệnh bằng bình quân độ dài của khoảng cách tiền
phát.
* Mô hình Reed Frost mô tả dịch bệnh bằng phương trình sau:
) ct C (t+1) = St (1- Q
Trong đó:
+ t là giai đoạn thời gian xác định bởi thời kỳ nung bệnh của tác nhân (được đo bằng đơn vị
giờ, ngày, tháng).
+ C(t+1) là số trường hợp bệnh bị nhiễm trong thời gian t
+ St là số động vật dễ phơi nhiễm trong thời gian t
+ Q là khả năng của một cá thể không được tiếp xúc đầy đủ trong một giai đoạn thời gian. Giá
trị của Q được xác định bằng 1 - P, mà P là khả năng của một cá thể được tiếp xúc đầy đủ, nên: Q = 1 - P
+ Khả năng tiếp xúc đầy đủ P có thể được xác định bằng K/(N – 1)
+ K là số lượng tiếp xúc có hiệu quả của một cá thể trong một giai đoạn xác định, còn N là quy
mô của quần thể.
Mô hình Reed Frost có thể xác định được số động vật mới bị nhiễm trong giai đoạn về sau nếu
biết được số lượng hiện tại những động vật dễ nhiễm, số lượng các ca bệnh hiện tại và khả năng tiếp xúc
15
có hiệu quả.
Mô hình Reed Frost nghiên cứu dịch tễ học hiện hành, chứng minh rằng dịch bệnh sẽ tàn lụi
hay kết thúc khi sự tiếp xúc đầy đủ (P) ở mức độ thấp và khi số lượng động vật dễ nhiễm (S) giảm:
+ Khi mà P x S > 1 thì dịch bệnh có thể xảy ra
+ Ngược lại khi P x S < 1 thì dịch bệnh sẽ không xảy ra hoặc kết thúc
+ Còn nếu như dịch bệnh không mất hết, có thể là do có sự thay đổi về độc lực của VSV gây
bệnh.
Mô hình Reed Frost cho biết nếu số động vật dễ nhiễm trong quần thể giảm do tăng tỷ lệ động
vật được miễn dịch thì mức độ của dịch bệnh và thời gian của dịch bệnh có thể sẽ giảm nhiều. Điều này
nêu lên khái niệm về “miễn dịch đàn”.
- “Miễn dịch đàn” được coi như sự bảo vệ của quần thể khỏi nhiễm dịch bệnh bằng miễn dịch
của các cá thể trong quần thể. Nếu như tỷ lệ động vật được miễn dịch trong quần thể giảm dưới mức quy
định, thì dịch bệnh sẽ tăng cao đó là điều tất yếu.
Do vậy tiêm vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc là phương pháp tạo và duy trì những động vật
có miễn dịch trong quần thể, bảo vệ từng cá thể gia súc khỏi mắc phải dịch bệnh, đem lại lợi ích cho
cộng đồng, đem lại lợi ích cho cá nhân. Đây chính là những lý do tại sao chúng ta phải tiêm các loại
vacxin phòng bệnh cho đàn gia súc.
V. MỘT SỐ THUẬT NGỮ THƯỜNG DÙNG
1. Nguy cơ, yếu tố nguy cơ
Trong các bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây bệnh là do các VSV gây nên. Tuy nhiên ngày nay
khái niệm này được mở rộng nó bao gồm tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng
đến việc hình thành, diễn biến của bệnh trong một quần thể. Chúng đều được nhìn nhận là những yếu tố
nguy cơ của bệnh nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào kết quả xác định đó là yếu tố nguy cơ nghi
ngờ hay yếu tố nguy cơ căn nguyên.
Nguy cơ: Là khả năng mắc một bệnh nào đó
Nguy cơ được định nghĩa là xác suất xuất hiện một biến cố không có lợi đối với sức khỏe của
mỗi cá thể hoặc của một quần thể. Có thể nhận thấy khái niệm nguy cơ là một khái niệm xác suất trìu
tượng có thể xảy ra và cũng có thể không xảy ra.
Yếu tố nguy cơ: Bất kỳ một yếu tố nào, dù có bản chất nào (vật lý, hóa học, sinh học...) góp
phần làm cho một cơ thể đang khỏe mạnh mà mắc bệnh thì yếu tố đó được gọi là yếu tố nguy cơ.
Như vậy, khác hẳn với nguy cơ, yếu tố nguy cơ là một khái niệm vật chất cụ thể. Nên khi nói
đến nguy cơ chúng ta bao giờ cũng phải gắn liền với yếu tố nguy cơ nếu không sẽ không có ý nghĩa gì về
mặt dịch tễ học và cũng sẽ không mang lại một lợi ích gì khi muốn can thiệp để bảo vệ cá thể hoặc quần
thể đó.
Nếu không khắc phục được yếu tố nguy cơ thì hậu quả tất nhiên là dịch bệnh sẽ xảy ra.
2. Tương tác quan hệ nhân quả
Một bệnh xảy ra là hậu quả do tác động của nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau, trong dịch tễ
16
học, người ta gọi các hiện tượng đó là “lưới nguyên nhân”. Bởi vì một bệnh có thể được hình thành do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngược lại, một yếu tố nguyên nhân cũng có thể gây tác động hình thành
nhiều hậu quả khác nhau, người ta gọi đó là “lưới hậu quả”.
Vì vậy, trong các giả thuyết nhân quả không chỉ quan sát những “diễn biến” của bệnh mà phải
nắm được “chất tác động” lên “diễn biến” đó cũng như biểu hiện của các “diễn biến” đó.
Trong mối tương tác quan hệ nhân quả, một vấn đề không thể bỏ qua được đó là các quan hệ về
liều đáp ứng và thời gian đáp ứng.
3. Quần thể
Quần thể: được hiểu một cách khái quát là tập hợp nhiều cá thể trong một phạm trù nhất định,
là tổng số cá thể trong một phạm trù xảy ra bệnh hoặc các cá thể có phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ của
bệnh cần nghiên cứu.
Có thể chia ra các loại quần thể sau:
- Quần thể toàn bộ: là một tập hợp các cá thể có chung những đặc điểm, tính chất nhất định
trong một thời gian và không gian nhất định.
- Quần thể định danh: là một tập hợp những cá thể có chung những tính chất nhất định, hình
thành một xác suất mắc tương tự đối với một bệnh nào đó trước những yếu tố nguy cơ nhất định. Tức là
các cá thể đó phải đồng nhất với nhau về nhiều tính chất và đồng nhất tối đa về nguy cơ mắc bệnh.
Trong quần thể định danh có thể chia ra:
+ Quần thể dễ nhiễm còn gọi là quần thể mục tiêu
+ Quần thể có nguy cơ
+ Quần thể bị đe dọa
Chúng ta có thể chọn bất kỳ quần thể nào tùy theo mục đích nghiên cứu, nhưng phải xác định
được số cá thể có trong quần thể đó hoặc số cá thể có trong thời điểm nghiên cứu (nghiên cứu ngắn) hoặc
phải xác định được số cá thể trung bình có trong thời gian nghiên cứu hoặc giai đoạn nghiên cứu (nghiên
cứu dài). Vì các cá thể này sẽ được dùng làm mẫu số cho tính toán các tỷ lệ sau này.
Đối với một quần thể lớn (nghiên cứu trong phạm vi rộng và thời gian dài) thì không nên tính
tổng số cá thể, vì sẽ không chính xác. Trong trường hợp này nên lấy số thống kê tổng đàn gia súc có
trong khu vực ở giữa thời kỳ nghiên cứu.
Đối với các quần thể nhỏ, mà quan sát lại được tiến hành trong phạm vi hẹp và thời gian ngắn
thì tử số của các tỷ lệ cần phải là số chính xác của các trường hợp gia súc mắc bệnh, gia súc chết còn
mẫu số là tổng đàn gia súc có trong thời gian ngắn đó.
4. Thời điểm phát bệnh
Xác định thời điểm phát bệnh là rất cần thiết, trong việc thiết lập các tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết
và đặc biệt là tỷ lệ mới mắc.
Có bệnh có thể xác định được thời điểm phát bệnh một cách dễ dàng và chính xác. Có bệnh thì
khó xác định hơn hoặc nhiều khi không xác định được chính xác. Trong trường hợp này ta có thể coi thời
điểm phát hiện những triệu chứng đầu tiên sớm nhất hoặc là lúc có chẩn đoán chính xác là thời điểm phát
17
bệnh.
5. Thời kỳ quan sát
Khi xác định các tỷ lệ luôn luôn phải bao phủ một khoảng thời gian nhất định, thường là: 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm... hoặc có thể bao gồm một khoảng thời gian dài ngắn bất kỳ nào. Nói
chung khoảng thời gian đó phải đủ dài để có thể đảm bảo được sự ổn định của tử số khi tính các tỷ lệ.
Thời kỳ quan sát là khoảng thời gian được tính từ ngày phát bệnh đến ngày có con vật mắc
bệnh cuối cùng trong một vụ dịch.
VI. THUẬT NGỮ DÙNG TRONG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
1. Thời kỳ nung bệnh (incubation period)
Là khoảng cách thời gian giữa khả năng bị lây từ một tác nhân truyền nhiễm và sự xuất hiện
những triệu chứng đầu tiên của một bệnh nghi vấn.
2. Thời kỳ tiền phát (prepatent period)
Là khoảng thời gian giữa sự nhiễm tới khi bài xuất mầm bệnh truyền nhiễm.
3. Động vật mang trùng (carier)
Là động vật bị nhiễm chứa một tác nhân gây nhiễm đặc biệt mà không có triệu chứng lâm sàng
rõ rệt nhưng là nguồn dịch cho các động vật khác.
Trạng thái mang trùng có thể là không rõ rệt trong suốt quá trình bị nhiễm hay có thể xảy ra
trong thời kỳ nung bệnh hoặc trong thời kỳ hồi phục.
4. Động vật nhiễm bệnh
Là động vật chưa có những triệu chứng điển hình của bệnh đó, nhưng có những biểu hiện tương
tự như động vật mắc bệnh.
5. Động vật nghi nhiễm bệnh
Là động vật dễ nhiễm đã tiếp xúc hoặc ở gần động vật mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh.
6. Nguồn dịch (reservoir)
Là vi sinh vật sống ký sinh trên cơ thể động vật hay trong môi trường ngoại cảnh (đất, nước,
không khí…) mà ở đó chúng có khả năng tồn tại, duy trì sự sống, nhân lên, chúng có thể gây bệnh làm
lây lan bệnh.
7. Sự nhiễm (infection)
Là tác nhân truyền nhiễm có khả năng xâm nhập, phát triển và nhân lên trong cơ thể động vật
sống.
8. Sự ô nhiễm (contamination)
Là sự có mặt của các tác nhân gây nhiễm trong môi trường với một số lượng vượt quá chỉ tiêu
cho phép.
9. Tính cường độc (virulence)
Là khả năng của một tác nhân có thể gây bệnh nặng cho động vật.
VII. THUẬT NGỮ ĐỐI VỚI BỆNH KHÔNG TRUYỀN NHIỄM
18
1. Giai đoạn cảm ứng
Là thời gian từ lúc tiếp xúc với tác nhân đến khi xuất hiện bệnh (giống như thời thời kỳ nung
bệnh trong bệnh truyền nhiễm)
2. Sự ô nhiễm
Là sự có mặt của các chất độc, các khí thải có hại cho sức khoẻ của con người và động vật với
19
một số lượng vượt quá các chỉ tiêu cho phép ở trong một môi trường ngoại cảnh nhất định.
CHƯƠNG 3
DỊCH TỄ HỌC BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. QUÁ TRÌNH NHIỄM TRÙNG
1. Hiện tượng nhiễm trùng
Nhiễm trùng là hiện tượng xảy ra khi mầm bệnh là vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể động vật
trong những điều kiện nhất định của ngoại cảnh.
- Theo Metsnhicop: “Nhiễm trùng là một cuộc đấu tranh giữa hai sinh thể”.
- Theo Paplop: “Nhiễm trùng là một quá trình sinh vật học phức tạp bắt đầu bằng cuộc đấu
tranh giữa mầm bệnh và cơ thể bị xâm nhiễm”.
Như vậy nhiễm trùng là một trạng thái đặc biệt của cơ thể, là kết quả xảy ra khi mầm bệnh xâm
nhập vào cơ thể, gặp những điều kiện thích hợp cho sự phát triển, sinh sôi nẩy nở và phát huy tác hại của
nó. Nhưng đồng thời cũng kích thích cơ thể phản ứng lại, bằng cách huy động mọi cơ năng bảo vệ để
chống đỡ.
Hiện tượng đấu tranh giữa hai sinh thể này (cơ thể và mầm bệnh) diễn ra trong những điều kiện
nhất định của ngoại cảnh nên nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. Ảnh hưởng của các loại yếu
tố đó dẫn đến kết quả là xảy ra hiện tượng nhiễm trùng. Đây là một khái niệm cơ bản quán triệt mọi mặt
của công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm cho gia súc.
2. Điều kiện để mầm bệnh gây được nhiễm trùng
2.1.Tính gây bệnh
Một trong những tính chất cơ bản của mầm bệnh thể hiện qua tính gây bệnh của chúng. Đây là
điều kiện đầu tiên, cơ bản nhất để mầm bệnh gây được nhiễm trùng.
Mầm bệnh thu được khả năng này qua quá trình tiến hoá thích nghi của nó trên cơ thể. Khả năng
này gắn liền với đặc tính ký sinh của mầm bệnh và có tính chất chuyên biệt: một loại mầm bệnh chỉ gây được
một bệnh nhất định.
Mầm bệnh trong thiên nhiên có nhiều loại:
+ Loại hoại sinh
+ Loại tuỳ tiện (vừa sống ký sinh vừa hoại sinh)
+ Loại ký sinh bắt buộc (chỉ sống và phát triển trong cơ thể và gây tác hại đối với cơ thể).
Nghiên cứu đời sống VSV người ta thấy nhiều loại vi khuẩn sống ở môi trường dần dần thích
ứng trên cơ thể sinh vật, ban đầu là loại ký sinh không thường xuyên sau thành ký sinh bắt buộc và cơ
thể trở thành môi trường sống thuận lợi duy nhất đối với chúng.
Sự thích nghi của mầm bệnh dần dần tạo cho chúng những kiểu trao đổi chất khác nhau, có
hình thái và đặc điểm sinh lý đặc trưng cho từng loài, đặc tính này được truyền từ đời này qua đời khác.
Trong quá trình tiến hoá thích nghi với cơ thể động vật nhiều loại mầm bệnh ký sinh thường
20
hướng về các mô bào nhất là Ricketsia và Virut.
Mầm bệnh cũng có xu hướng cư trú và sinh sản ở những tổ chức nhất định hoặc với mỗi loại
động vật nhất định: virut LMLM, vi khuẩn Tỵ thư hoặc gây bệnh cho tất cả các loài như virut Dại, vi
khuẩn Nhiệt thán…
2.2. Độc lực
Mầm bệnh tuy đã có tính gây bệnh nhưng muốn gây được nhiễm trùng cần phải có độc lực.
Độc lực biểu hiện mức độ cụ thể của tính gây bệnh. Nhưng khái niệm độc lực không chỉ nói về
đặc tính của mầm bệnh, mà còn nói lên sự chống đỡ của cơ thể, vì một mầm bệnh có thể có độc lực đối
với cá thể này, loài này nhưng lại không có độc lực đối với cá thể khác, loài khác.
Một mầm bệnh có độc lực là do nó có khả năng xâm nhập và phát triển trong cơ thể, trong quá
trình đó nó tiết ra những chất độc, những chất ngăn cản cơ năng bảo vệ của cơ thể hoặc phá huỷ tổ chức
của cơ thể.
Độc lực của mầm bệnh không cố định mà rất dễ bị biến đổi do tác động của cơ thể và ngoại
cảnh. Độc lực của mầm bệnh cũng có thể được làm tăng hoặc giảm hoặc mất hoàn toàn bằng phương
pháp nhân tạo hoặc bị biến đổi trong tự nhiên. Người ta đã lợi dụng tính chất này trong việc phòng chống
bệnh như tiêu độc, chế các loại vacxin…
Trong phòng thí nhiệm người ta có quy ước để tính độc lực của mầm bệnh, đó là liều gây chết
ít nhất (DLM), tức là dùng số lượng mầm bệnh ít nhất nuôi trong những điều kiện nhất định về môi
trường, nhiệt độ, thời gian có thể giết chết một động vật nhất định trong những điều kiện nhất định hoặc
xác định liều gây chết 50% động vật thí nghiệm (LD50%).
2.3. Số lượng
Muốn gây được bệnh thì mầm bệnh phải có số lượng nhất định. Độc lực đi đôi với số lượng
mầm bệnh nhiễm vào cơ thể, số lượng càng nhiều bệnh thể hiện càng nặng.
Tuy nhiên có loại mầm bệnh chỉ cần số lượng rất ít cũng đủ để gây bệnh (Virus Dịch tả lợn, vi
khuẩn Pasteurela multocida) nhưng có loại phải cần số lượng nhiều mới gây được bệnh (Virus Loét da
quăn tai, vi khuẩn Nhiệt thán, Brucella).
Để xác định tính chất này chính xác hơn người ta quy định các liều: LD50, EID50, CPE50,
TCID50
2.4. Đường xâm nhập
Súc vật thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh chứa mầm bệnh, nên có nhiều điều
kiện và nhiều cách để mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể. Những đường xâm nhập đó được xác lập qua quá
trình tiến hoá lâu dài của chúng để thích nghi với đời sống ký sinh, tạo điều kiện thích hợp nhất để chúng
gây bệnh và bảo tồn nòi giống.
Vì vậy, mỗi loại mầm bệnh đã chọn lọc một con đường thích hợp nhất để vào cơ thể. Những
loại mầm bệnh khác nhau có những đường xâm nhập khác nhau. Tuy nhiên một loại mầm bệnh có thể có
một hoặc nhiều đường xâm nhập, nhưng trong đó vẫn có một đường xâm nhập chính.
21
Đường xâm nhập có ý nghĩa quan trọng trong hiện tượng nhiễm trùng:
- Nếu đường xâm nhập thích hợp thì mầm bệnh dễ dàng gây bệnh và bệnh thể hiện điển hình.
- Nếu đường xâm nhập không thích hợp thì có thể không gây bệnh hoặc gây bệnh nhẹ và cho
miễn dịch hoặc cần số lượng nhiều gấp nhiều lần mới gây được bệnh.
- Ngoài ra, cùng một đường xâm nhập nhưng ở những vị trí khác nhau trên cơ thể thì có thể gây
nên những hiện tượng bệnh lý khác nhau.
Những đường xâm nhập chủ yếu là: đường tiêu hoá, đường hô hấp, đường qua da, niêm mạc,
sinh dục tiết niệu và đường máu.
2.5. Kết luận
Khả năng xâm nhập vào cơ thể, sinh sôi nảy nở trong cơ thể, khả năng chịu đựng trong điều
kiện ngoại cảnh hợp lại tạo thành khả năng xâm nhiễm của mầm bệnh. Khả năng này làm cho mỗi bệnh
truyền nhiễm có tính chất dịch tễ học riêng biệt. Những điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác
phòng chống bệnh truyền nhiễm.
3. Phương thức tác động của mầm bệnh
Phương thức tác động của mầm bệnh đối với cơ thể động vật chủ yếu gồm hai phương thức
chính:
- Thứ nhất là sinh sản cực nhanh chiếm đoạt vật chất của cơ thể ký chủ để phát triển. VD: như
vi khuẩn gây bệnh Nhiệt thán (B. anthracis)
- Thứ hai tác động bằng những chất tiết ra như: độc tố, giáp mô, yếu tố lan truyền hay khuyếch
tán, công kích tố, các loại men… VD: vi khuẩn gây bệnh Uốn ván (Clostridium tetani)
3.1. Độc tố
Độc tố của vi khuẩn có 2 loại:
- Ngoại độc tố: do vi khuẩn gây bệnh tiết ra môi trường xung quanh, các mô bào của cơ thể hút
vào và gây nên triệu chứng ngộ độc.
Ngoại độc tố rất độc, tác động với một lượng rất ít, thường có đặc tính hướng thần kinh. VD:
độc tố của vi khuẩn Uốn ván lan truyền vào thần kinh trung ương gây kích thích trung tâm vận động làm
bắp thịt bị co giật.
- Nội độc tố: là sản phẩm của nhiều loại vi khuẩn (chủ yếu là vk Gram âm).
Nội độc tố gắn liền với tế bào vi khuẩn, khi vi khuẩn bị dung giải nội độc tố mới được giải
phóng. Khác với ngoại độc tố, nội độc tố gây các hiện tượng bệnh lý chung cho động vật như: ủ rũ, sốt,
bỏ ăn, gầy còm…
3.2. Giáp mô
Giáp mô là yếu tố độc lực của vi khuẩn, có tác dụng giúp vi khuẩn chống lại thực bào.
Một số vi khuẩn có khả năng sinh giáp mô trong cơ thể gia súc: trực khuẩn và cầu khuẩn.
Những vi khuẩn này nếu không sinh giáp mô thì không còn độc lực. Hiện tượng này được ứng dụng để
22
chế vacxin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm.
3.3. Công kích tố
Nhiều loại vi khuẩn có khả năng ức chế sức đề kháng của cơ thể, đặc biệt là ức chế thực bào
nhờ một chất được tạo ra trong quá trình sinh sống của chúng, gọi là công kích tố.
Trong khi ức chế sự tự vệ của cơ thể, công kích tố tạo nên bức màn che cho vi khuẩn sinh sản
lan tràn khắp cơ thể. Công kích tố có thể tách riêng được từ nước thẩm xuất ổ viêm hoặc từ nước lọc
canh trùng vi khuẩn gây bệnh.
Nếu cho công kích tố vào canh trùng có độc lực yếu thì độc lực của canh trùng đó được tăng
lên.
3.4. Yếu tố lan truyền hay khuyếch tán
Tính chất ký sinh của mầm bệnh có liên quan đến khả năng xuyên vào mô bào của cơ thể, tính
chất này phụ thuộc vào mức độ độc lực của mầm bệnh và khả năng ngăn cản sự xâm nhập của chúng vào
mô bào của cơ thể.
Như vậy yếu tố lan truyền hay khuyếch tán là chất có khả năng làm tăng sức thẩm thấu của mô
bào, làm tăng sức gây bệnh của nhiều loại mầm bệnh: VK Uốn ván, liên cầu khuẩn, phế cầu khuẩn…
Trong các mô liên kết của cơ thể có axit Hyaluronic có khả năng ngăn chặn các vật lạ và mầm
bệnh lan tràn trong mô bào.
Bản chất tác động của yếu tố lan truyền là do mầm bệnh có khả năng sản sinh men
Hyaluronidaza phân huỷ axit Hialuronic, làm tăng sức thẩm thấu của mầm bệnh và độc tố của chúng vào
mô bào.
Ngoài yếu tố trên nhiều loại vi khuẩn gây bệnh nhờ có lông nên dễ xâm nhập và cư trú tại các
mô bào.
3.5. Men
Ngoài các yếu tố trên mầm bệnh còn tác động bằng hệ thống men do chúng sinh ra. Liều tác
động rất nhỏ có tác dụng như một chất xúc tác.
Nhiều loại vi khuẩn có khả năng sản sinh ra các men:
- Coagulaza và muxinaza phá huỷ mô liên kết,
- Haemolyzinaza làn tan vỡ hồng cầu, leucocidinaza phá huỷ bạch cầu
- Proteinaza có tác dụng phân huỷ protein
- Fibrinnolyzin có tác dụng làm tan tơ huyết
- Hyaluronidaza có tác dụng phân huỷ axit hyaluronic làm tăng tính thẩm thấu của mô bào
- Penixilinaza làm cho penixilin mất tác dụng…
3.6. Kết luận
Như vậy, sau khi vào cơ thể mầm bệnh có thể gây tác hại tại chỗ: viêm, thủy thũng, hoại tử
ngay chỗ xâm nhập.
Sau đó có loại mầm bệnh không phát triển xa hơn mà chỉ nằm tại chỗ những vẫn có tác hại đến
toàn thân do chất tiết của nó được dẫn đi khắp cơ thể thông qua cơ chế phản xạ. Có loại cùng với chất tiết
23
của nó đi khắp cơ thể theo phương thức lan dần do tiếp xúc hoặc theo mạch máu, mạch lâm ba gây nên
những trạng thái nghiêm trọng như bại huyết, nhiễm trùng huyết… Hoặc theo đường thần kinh gây nên
những rối loạn toàn thân phá hoại hoạt động bình thường của cơ thể.
Ngoài những rối loạn toàn thân bằng những kích thích liên tiếp mầm bệnh còn gây nên những
tổn thương cục bộ ở xa chỗ xâm nhập. Bằng cơ chế phản xạ, mầm bệnh phá hoại những hoạt động phản
xạ bình thường của cơ thể, đồng thời cũng dẫn đến sự bồi đắp của cơ thể để tạo ra hoạt động bảo vệ cơ
thể.
Những tổn thương cục bộ còn thể sinh ra do tính hướng tổ chức đặc biệt của mầm bệnh bởi
nhiều loại mầm bệnh có xu hướng khu trú và phát triển chủ yếu ở những loại tổ chức nhất định, tính chất
này đặc biệt rõ ở một số loài virus và ngay trong cùng một loài virus có thể có những chủng hướng tổ
chức khác nhau. Tính hướng tổ chức này là kết quả của quá trình tiến hoá và thích nghi lâu dài của mầm
bệnh và cũng là kết quả của sự chống đỡ của cơ thể.
Do có nhiều phương thức tác động khác nhau nên mầm bệnh có thể gây ra hiện tượng rối loạn
toàn thân và rối loạn cục bộ.
- Triệu chứng toàn thân: sốt, ủ rũ, bỏ ăn, ỉa chảy… là triệu chứng chung của nhiều bệnh truyền
nhiễm.
- Triệu chứng cục bộ do tính phản ứng của cơ thể quyết định và có ảnh hưởng đến toàn thân.
+ Có thể là tiên phát nếu bệnh phát ra ở cơ thể khoẻ mạnh hoặc thứ phát khi bệnh đang giảm.
Những triệu chứng này điển hình riêng cho từng bệnh (bệnh THT lợn có hiện tượng sưng hầu họng, bệnh
ĐDL có những đám đỏ hình vuông, tròn, bầu dục ở trên da...)
Nhiễm trùng không nhất thiết phải có triệu chứng biểu hiện ra bên ngoài, có những ca bệnh
không có triệu chứng chiếm một tỷ lệ khá cao, gây khó khăn trong điều tra dịch tễ học.
Trong khái niệm nhiễm khuẩn người ta chia ra làm ba mức độ: “sống nhờ”, “chung sống”, “gây
bệnh”. Những cơ thể nhiễm khuẩn trên là nguồn bệnh tiềm ẩn cho người và động vật khác dù ở tình trạng
mang khuẩn không biểu hiện triệu chứng, tình trạng mang khuẩn sớm hoặc tình trạng sau khi khỏi, ở thời
kỳ hồi phục (nếu tình trạng này kéo dài người ta gọi là hiện tượng mang khuẩn mạn tính).
4. Các loại nhiễm trùng
* Nhiễm trùng từ ngoài: khi cơ thể động vật khoẻ mạnh bị nhiễm trùng từ bên ngoài và mắc
bệnh.
* Nhiễm trùng từ trong: mầm bệnh có sẵn trong cơ thể động vật, mầm bệnh và cơ thể ở trạng
thái cân bằng (mầm bệnh không thể hiện tính gây bệnh cơ thể cũng không bài trừ được mầm bệnh)
nhưng khi cơ thể suy yếu, mầm bệnh biến đổi, tính gây bệnh được tăng cường nên có khả năng gây bệnh
cho cơ thể.
* Nhiễm trùng đơn thuần: là nhiễm trùng do một loại mầm bệnh gây nên.
* Nhiễm trùng kết hợp hay nhiễm trùng kép: là do nhiễm hai hay nhiều loại mầm bệnh cùng
24
một lúc.
Trong trường hợp này quá trình tiến triển của bệnh rất nặng và phức tạp do mầm bệnh này có
thể làm tăng cường độc lực cho mầm bệnh kia, cơ thể có triệu chứng và bệnh tích của nhiều bệnh, gây
khó khăn cho chẩn đoán và điều trị.
* Nhiễm trùng kế phát hay nhiễm trùng tiếp sức: khi cơ thể đã bị nhiễm trùng và mầm bệnh
này tạo điều kiện cho mầm bệnh kia xâm nhập.
Điều kiện để xuất hiện loại nhiễm trùng này chủ yếu là do sức đề kháng của cơ thể suy yếu nên
tạo điều kiện cho mầm bệnh thứ hai nổi lên hoặc đột nhập vào cơ thể gây bệnh, làm cho bệnh nặng thêm.
* Bội nhiễm: khi một mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể đang bị nhiễm bệnh đó.
* Tái nhiễm: khi cơ thể đã khỏi bệnh mà mắc lại bệnh đó (tức là cơ thể bị nhiễm bệnh lần thứ 2
với cùng loại mầm bệnh trước sau khi cơ thể đã hoàn toàn bài trừ mầm bệnh lần thứ nhất).
* Tái phát: là bệnh xuất hiện lần thứ 2 mặc dù không bị nhiễm trùng lần thứ hai.
* Nhiễm trùng huyết: là khi mầm bệnh sinh sản và phát triển một thời gian dài trong máu trong
quá trình nhiễm trùng.
* Nhiễm trùng qua máu: mầm bệnh không sinh sản trong máu, chúng chỉ làm nhiệm vụ
chuyên chở mầm bệnh đến nơi khu trú thích hợp.
* Nhiễm mủ huyết: khi mầm bệnh lan tràn bằng đường lâm ba và đường máu, có thể gây
những thương tổn ở những cơ quan và tổ chức khác nhau, do các loại vi khuẩn sinh mủ gây nên.
* Nhiễm trùng huyết sinh mủ: khi hiện tượng nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng mủ huyết xảy
ra cùng lúc.
* Nhiễm độc huyết: có những loại mầm bệnh sinh sản và hình thành độc tố trong cơ thể nhưng
không lan tràn xa tổ chức cư trú, chúng tiết chất độc vào máu và đầu độc cơ thể bằng độc tố.
II. SỰ THÍCH ỨNG BẢO VỆ TỰ NHIÊN CỦA CƠ THỂ
Mầm bệnh là nguyên nhân trực tiếp và đặc hiệu gây nên bệnh truyền nhiễm. Không có chúng
thì không có bệnh tuy nhiên chỉ có mầm thì không thể làm bệnh phát sinh và lây lan. Vai trò của cơ thể,
của ngoại cảnh, trong đó cơ thể có chứa mầm bệnh sống là những yếu tố quyết định việc phát sinh và làm
lây lan bệnh.
Tuy mầm bệnh có rất nhiều trong thiên nhiên, có nhiều cơ hội xâm nhập vào cơ thể nhưng
không phải lúc nào mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể là có thể gây bệnh. Đó là vì cơ thể có khả năng
chống lại tác hại của mầm bệnh trong một mức độ nhất định đây gọi là sức đề kháng hay miễn dịch của
cơ thể.
- Miễn dịch là khả năng của cơ thể không cảm thụ với một tác nhân có hại nào đó cho cơ thể ở một
mức độ nhất định. Tính miễn dịch là do toàn bộ cơ cấu thích ứng của cơ thể tạo thành dưới sự điều khiển của
thần kinh trung ương.
Những yếu tố bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng bao gồm nhiều yếu tố:
- Có những yếu tố không đặc hiệu như da, niêm mạc, gan lách, thận, dịch tiết các tuyến…
- Có những yếu tố đặc hiệu như kháng thể đặc hiệu
25
- Có những yếu tố vừa đặc hiệu vừa không đặc hiệu như hệ lâm ba
- Có những yếu tố đặc hiệu không triệt để như thực bào, gồm có đại thực bào và tiểu thực bào
Hoạt động bảo vệ của tất cả các yếu tố đó đều nhịp nhàng thống nhất dưới sự điều tiết của thần
kinh trung ương và tạo nên miễn dịch cho cơ thể.
1. Da
Có nhiều chức năng quan trọng như đảm bảo sự liên kết qua lại của cơ thể với bên ngoài, giữ
cho các bộ phận bên trong khỏi bị tác động của các yếu tố bên ngoài, tham gia vào quá trình điều tiết
nhiệt, làm nhiệm vụ hô hấp, ngăn chăn sự xâm nhập của mầm bệnh.
Da lành lặn ngăn chặn và tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn nhờ chất tiết mồ hôi, chất nhờn, lớp sừng
có phản ứng toan có tác dụng tiêu diệt nhiều loại mầm bệnh, tế bào thượng bì luôn bong ra kéo theo mầm
bệnh.
Như vậy, da đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của cơ thể và ảnh hưởng rõ rệt đến
trạng thái của toàn bộ cơ thể. Khi chức phận của da bị rối loạn thì ảnh hưởng đến hoạt động của cả cơ
thể. Do vậy phải tăng cường chăm sóc giữ vệ sinh cho da để tăng sức đề kháng của da.
2. Niêm mạc
So với da thì niêm mạc (mồm, mũi, ruột, sinh dục) dễ thích ứng với mầm bệnh hơn, nhiều loại
mầm bệnh dễ phát triển trên niêm mạc và xuyên vào cơ thể do khả năng thấm hút của niêm mạc cao, do
có các nếp nhăn, độ ẩm, bóng tối, nhiệt độ của niêm mạc thích ứng với nhiều loại vi khuẩn.
Nhưng niêm mạc lành lặn của động vật khoẻ mạnh có thể ngăn chặn được nhiều loại mầm
bệnh.
- Niêm mạc đường hô hấp có lông và chất nhầy có tác dụng giữ lại các vật lạ và tống chúng ra
ngoài qua các phản xạ: ho, hắt hơi…
- Ngoài tác dụng cơ giới niêm mạc còn tiết ra niêm dịch làm rửa trôi và tiêu diệt mầm bệnh: Dịch
mũi có tác dụng làm tan vi khuẩn, virus; nước mắt, nước mũi, nước bọt, sữa, máu có chất Lisozim làm tan
nhiều loại mầm bệnh
Khả năng tự vệ của niêm mạc phụ thuộc vào: sức khoẻ, tuổi, thời tiết, chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng…
3. Dịch tiết các tuyến
Khi qua đường tiêu hoá mầm bệnh bị các chất dịch ở đường tiêu hoá tiêu diệt.
- Dịch vị dạ dầy có khả năng tiêu diệt nhiều loại VK, tuy vậy vẫn có một số loại VK không bị tiêu
diệt như VK Lao và các loại vi khuẩn có nha bào.
- Ngoài ra dịch mật, dịch tá tràng, chất bài tiết đường sinh dục, chất lactinin trong sữa, parotin
trong nước bọt cũng có tác dụng làm tăng sinh niêm mạc, tăng cường sức bảo vệ của niêm mạc.
4. Gan, lách, thận
* Gan đảm nhiệm nhiều chức năng sinh lý quan trọng của cơ thể. Là một khí quan đắc lực
chống mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể.
Paplop đã xem gan là một “vệ sĩ” đáng tin cậy của cơ thể do Gan có chức năng giải độc, ngăn
26
chặn mầm bệnh do tế bào Kupfer của gan có khả năng thực bào.
* Lách là khí quan quan trọng nhất trong hệ thống đáp ứng miễn dịch:
Đây chính là cơ quan ngăn chặn sự xâm nhập của mầm bệnh. Hơn 80% VK được giữ lại ở gan
và lách, chứng tỏ khả năng hấp thụ VK của hai cơ quan này rất lớn.
Khi chống lại bệnh lượng máu trong lách cao, vô số bạch cầu đa nhân thẩm xuất, tế bào mạng
lưới nội bì tăng sinh do vậy hoạt động thực bào được tăng cường.
* Thận cũng là cơ quan bảo vệ cơ thể, nhiều mầm bệnh hoặc độc tố của chúng, những chất thải
của cơ thể được đưa về thận để giải độc và bài tiết ra ngoài.
5. Hệ lâm ba
Là một hàng rào phòng ngự của cơ thể, hạch lâm ba vừa bảo vệ chống nhiễm trùng nói chung
(MDKĐH), vừa tham gia sản xuất kháng thể (MDĐH). Trong nhiều bệnh truyền nhiễm hạch lâm ba
thường sưng to đó chính là do phản ứng phòng vệ của cơ thể.
Mầm bệnh đi qua hạch lâm ba, bị giữ lại trong các xoang, bị các tế bào mạng lưới nội mô thực
bào, bị chất lisozim của hạch tiêu diệt.
Tuy nhiên hạch lâm ba ít có tác dụng đối với virus. Có ý kiến cho rằng là do virus có thể sản
sinh ngay trong hạch lâm ba. Một số loại VK khác như Lao, nấm men có thể phát triển ở hạch.
6. Viêm
Khi bị một kích thích, cơ thể thường phát sinh phản ứng viêm. Trong một mức độ nhất định
phản ứng này có tác dụng bảo vệ cơ thể.
- Quá trình viêm giữ mầm bệnh và độc tố trong khu vực bị viêm không cho chúng lan rộng vào
máu và các bộ phận khác trong cơ thể do tế bào nơi ổ viêm tăng sinh tạo thành một hàng rào ngăn cản.
- Viêm còn làm giãn nở và làm tăng tính thẩm lậu của mao quản, làm cho bạch cầu đa nhân dễ
xuyên mạch để làm nhiệm vụ thực bào.
- Các chất dịch nơi ổ viêm có thể làm ngưng kết mầm bệnh, lôi cuốn mầm bệnh, làm suy yếu
hoặc tiêu diệt mầm bệnh.
Tuy nhiên, không phải lúc nào viêm cũng có lợi cho cơ thể, một số VK có thế phát triển trong ổ
viêm, những chất độc sinh ra tại ổ viêm có thể tác động đến cơ thể, làm suy yếu sức chống đỡ của cơ thể.
7. Thực bào
Là một hiện tượng đề kháng tự nhiên của cơ thể chống nhiễm trùng có tính chất hoàn toàn tế
bào và là một yếu tố đề kháng không đặc hiệu của cơ thể. Thực bào là giai đoạn đầu tiên của phản ứng
miễn dịch, của sự hình thành kháng thể đặc hiệu vì sự vây bắt mầm bệnh là tiền đề cho việc hình thành
phản ứng tế bào đặc hiệu, các tế bào thực bào nhận và truyền thông tin đến các tế bào chuyên biệt có
nhiệm vụ sản xuất kháng thể.
Có 2 loại thực bào:
- Tiểu thực bào: chủ yếu là bạch cầu đa nhân, nhất là bạch cầu đa nhân trung tính.
- Đại thực bào: gồm chủ yếu các loại tế bào của hệ thống lưới nội mô và một số cơ quan nội
27
tạng của cơ thể như: tế bào Kupfer, tổ chức bào, tế bào sợi, bạch cầu đơn nhân.
Trong quá trình thực bào có khi mầm bệnh không bị tiêu diệt mà lại được thực bào mang đi
khắp cơ thể. Thực bào ít có tác dụng đối với virus và một số VK có sức đề kháng cao.
8. Kháng thể
Trong máu và một số chất dịch của cơ thể có kháng thể tự nhiên không đặc hiệu và kháng thể
đặc hiệu.
* Kháng thể tự nhiên không đặc hiệu:
+ Trong máu và một số chất dịch của cơ thể có chứa loại kháng thể này trước khi tiếp xúc với
mầm bệnh, có tác dụng với mọi mầm bệnh nhưng không đặc hiệu.
+ Trong máu có chất bổ thể (anpha lizin) có tác dụng diệt nhiều loại mầm bệnh.
+ Trong huyết thanh còn có beta lizin có tác dụng ức chế các loại VK gram dương.
+ Propecdin: là yếu tố miễn dịch tự nhiên của cơ thể, có trong huyết thanh, là một globulin to hoạt
động giống kháng thể đối với nhiều loại VK gram âm. Tuy nhiên, propecdin muốn hoạt động cần có sự
tham gia của bổ thể và sự có mặt của ion magiê tạo thành hệ thống bổ thể - propecdin - magiê.
+ Trong huyết thanh, trong bào tương của bạch cầu, trong sữa và trong các chất tiết khác của
mũi, họng, nước mắt, nước bọt, chất nhầy ở ruột còn có chất Lysozim có tác dụng đến lớp vỏ của vi
khuẩn và làm tan hoặc ức chế nhiều loại vi khuẩn.
* Kháng thể đặc hiệu:
+ Kháng thể đặc hiệu là những globulin của huyết tương do kháng nguyên kích thích cơ thể sản
sinh ra và có phản ứng đặc hiệu với kháng nguyên ấy.
+ Kháng thể đặc hiệu được sản sinh nhiều ở loài có vú và loài chim, loài bò sát thì ít hơn.
+ Kháng thể có ở trong máu, sữa… là thành phần của protein huyết thanh. Kháng thể không có
trong albumin mà chỉ có trong globulin, nhất là gamma globulin.
+ Kháng thể đặc hiệu có nguồn gốc từ: tế bào plastmocyte, tế bào limphocyte, tế bào mạng lưới
nội bì.
III. QUÁ TRÌNH TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH
Bệnh truyền nhiễm là một quá trình đấu tranh giữa mầm bệnh và cơ thể trong điều kiện ngoại
cảnh nhất định. Cho nên khác với những bệnh không truyền nhiễm, bệnh truyền nhiễm nào cũng thường
tiến triển qua những giai đoạn nhất định.
Nói chung, quá trình tiến triển này được phân chia thành 4 thời kỳ: thời kỳ nung bệnh, thời kỳ
khởi phát, thời kỳ toàn phát, thời kỳ cuối của bệnh.
1. Thời kỳ nung bệnh
Là khoảng thời gian từ lúc mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể cho tới khi xuất hiện triệu chứng
đầu tiên của bệnh.
Trong thời kỳ này mầm bệnh bắt đầu sinh sản và những chất độc được tích luỹ trong cơ thể, cơ thể
cũng đã có những phản ứng chống lại mầm bệnh. Thời kỳ nung bệnh của từng bệnh rất khác nhau, có thể dài
28
hoặc ngắn tuỳ bệnh.
Trong cùng một loài thì thời kỳ nung bệnh của mỗi cá thể cũng khác nhau, tuy nhiên mỗi bệnh
đều có thời gian nung bệnh trung bình.
Thời kỳ nung bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng, độc lực, đường xâm nhập, trạng thái
cơ thể…
Thời kỳ này tuy không thấy triệu chứng lâm sàng nhưng có thể phát hiện bệnh bằng các
phương pháp chẩn đoán dị ứng hay huyết thanh.
Thời kỳ nung bệnh có ý nghĩa dịch tễ rất quan trọng vì ở nhiều bệnh trong thời kỳ này súc vật
đã bài mầm bệnh và có khả năng làm lây lan bệnh ngay trong thời kỳ này.
Do vậy, biết được thời kỳ nung bệnh ta có thể đề ra các biện pháp phòng chống bệnh có cơ sở
khoa học như: định thời gian nhốt riêng, thời gian cách ly con vật ốm, thời gian công bố hết dịch, chẩn
đoán bệnh…
2. Thời kỳ khởi phát
Thời kỳ nung bệnh chuyển dần sang thời kỳ khởi phát. Thời kỳ này các cơ năng đã bị biến đổi
và rối loạn, con vật đã thể hiện những triệu chứng nhiễm trùng, nhiễm độc như: thân nhiệt tăng, ủ rũ, mệt
mỏi, kém ăn… Đó là những triệu chứng đầu tiên có thể thấy ở đại đa số các bệnh truyền nhiễm.
Thời kỳ này có thể kéo dài từ vài giờ đến 1 – 2 ngày tuỳ loại bệnh rồi chuyển sang thời kỳ sau.
3. Thời kỳ toàn phát
Sang thời kỳ này, do mầm bệnh đột nhập và tác động đến các cơ quan nội tạng nhất định, do
tính hướng tổ chức của từng loại mầm bệnh, con vật sẽ xuất hiện đầy đủ những triệu chứng điển hình của
bệnh. Bên cạnh những triệu chứng chung ngày càng nặng thấy xuất hiện những triệu chứng, bệnh tích
đặc hiệu của bệnh, giúp cho việc chẩn đoán được dễ dàng
Tuy nhiên cần chú ý đến các triệu chứng toàn thân, triệu chứng cục bộ, triệu chứng chính, triệu
chứng phụ để chẩn đoán và phân biệt với các bệnh khác.
4. Thời kỳ cuối (thời kỳ kết thúc) của bệnh
Tuỳ theo sức đề kháng khác nhau của cơ thể, một bệnh truyền nhiễm có thể kết thúc theo nhiều
khả năng:
- Con vật ốm bị chết, mầm bệnh tồn tại một thời gian trong xác chết rồi bị phá huỷ.
- Mầm bệnh và cơ thể không bên nào thắng bên nào:
+ Có thể các triệu chứng bệnh giảm dần, bệnh kéo dài, biến thành mạn tính, con vật vẫn bài
mầm bệnh trong một thời gian dài.
+ Có thể con vật lành hẳn triệu chứng, biến thành con vật lành bệnh mang trùng, nhưng mang
và bài mầm bệnh một thời gian dài, có hoặc không có miễn dịch.
- Khả năng cuối cùng là con vật khỏi bệnh hoàn toàn, các phản ứng miễn dịch của cơ thể bắt
đầu chiếm ưu thế, các rối loạn cơ năng dần biến mất và tổn thương bắt đầu được hồi phục, thế cân bằng
của cơ thể với ngoại cảnh dần ổn định, mầm bệnh dần bị tiêu diệt và thải trừ ra khỏi cơ thể.
Theo quan điểm của dịch tễ học: một con vật được coi là khỏi bệnh truyền nhiễm, có thể nhập
29
đàn trở lại phải là con vật lành bệnh hoàn toàn tức là khỏi cả về 3 mặt: hết triệu chứng, hết bệnh tích; hết
rối loạn cơ năng; hết mầm bệnh và không bài mầm bệnh ra bên ngoài. Chỉ những con vật lành bệnh hoàn
toàn như vậy mới không còn nguy hiểm về mặt dịch tễ học.
5. Kết luận
Ở mỗi thời kỳ của nhiễm trùng, bệnh thể hiện có tính chất khác nhau đối với con vật. Nhưng
xét về mặt dịch tễ học thì ở bất cứ thời kỳ nào con vật cũng đều nguy hiểm, vì chúng đều bài tiết mầm
bệnh và là nguồn gây bệnh. Đặc biệt nguy hiểm là con vật ở thời kỳ nung bệnh, lành bệnh mang trùng và
lành bệnh hoàn toàn nhưng chưa bài tiết hết mầm bệnh.
IV. CÁC THỂ BỆNH NHIỄM TRÙNG
Các thể bệnh có thể xảy ra trong quá trình mắc bệnh thể hiện sự đấu tranh giữa cơ thể và mầm
bệnh. Tuỳ theo tính chất và thời gian kéo dài của các thể bệnh mà chia ra làm các thể sau: thể quá cấp
tính, thể cấp tính, thể á cấp tính, thể mạn tính, thể ẩn, thể không điển hình, thể khoẻ mang trùng.
1. Thể quá cấp tính
Còn gọi là thể ác tính, bệnh diễn biến rất nhanh. Con vật chết ngay sau khi vừa xuất hiện triệu
chứng hoặc không kịp xuất hiện triệu chứng.
Thể này thường ở đầu ổ dịch, con vật mắc bệnh dễ chết, triệu chứng bệnh không điển hình.
2. Thể cấp tính
Thể này bệnh tiến triển dài hơn so với thể quá cấp tính, kéo dài từ vài ngày đến vài tuần. Tỷ lệ
chết cao, triệu chứng, bệnh tích rõ, dễ chẩn đoán.
3. Thể á cấp tính
Bệnh diễn biến dài hơn so với thể thể cấp tính, có thể trong vài ba tuần. Triệu chứng nhẹ, không
rõ rệt, thường xảy ra giữa vụ dịch, tỷ lệ chết không cao.
4. Thể mạn tính
Thể này bệnh tiến triển rất chậm, kéo dài hàng tháng có khi hàng năm. Triệu chứng không rõ
rệt hoặc không biểu hiện, tỷ lệ chết thấp, khó chẩn đoán, thường phải dùng các phương pháp chẩn đoán
trong phòng thí nghiệm mới xác định được.
Động vật mắc bệnh ở thể này tỷ lệ chết không cao, nhưng do thời gian tồn tại lâu trong đàn,
mầm bệnh vẫn được bài ra môi trường xung quanh, nên rất nguy hiểm về mặt dịch tễ học.
5. Thể ẩn
Thể này con vật không có triệu chứng bệnh nhưng trong phủ tạng có bệnh tích và có bài mầm
bệnh. Động vật mang mầm bệnh lâu, thường xuyên bài ra ngoại cảnh nên đây chính là nguồn bệnh nguy
hiểm.
Bệnh ở thể này có khi tạo miễn dịch cho con vật, it gây chết, nhưng chẩn đoán khó khăn.
6. Thể không điển hình
Thể này triệu chứng và bệnh tích khác với triệu chứng bệnh tích điển hình của bệnh. Nên gây
30
khó khăn cho việc chẩn đoán, điều trị…
7. Thể khoẻ mang trùng
Thể này con vật vẫn khoẻ mạnh bình thường, không có triệu chứng bệnh tích, nhưng có mang
và bài tiết mầm bệnh ra bên ngoài.
Đây cũng chính là nguồn bệnh nguy hiểm về mặt dịch tễ học vì rất khó phát hiện những con ở
thể này.
8. Kết luận
Gia súc mắc bệnh từ thể này có thể chuyển sang thể kia trên cùng một con vật hoặc trong một
đàn gia súc trong quá trình xảy ra dịch.
Các thể quá cấp tính, cấp tính làm chết nhiều gia súc, nhưng về mặt dịch tễ học các thể này
không nguy hiểm bằng thể nhẹ hoặc thể khoẻ mang trùng vì các thể này dễ nhận biết, gia súc ít có khả
năng truyền bệnh rộng rãi và các biện pháp cách ly, tiêu diệt dễ thi hành hơn.
V. BÀI MẦM BỆNH
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm. Phần lớn các
động vật khi mắc bệnh truyền nhiễm đều có thể bài mầm bệnh ra bên ngoài sớm hay muộn, dài hay ngắn,
nhiều hay ít, điều này phụ thuộc vào loại bệnh, loài mắc bệnh, thể bệnh, thời kỳ của bệnh.
- Có bệnh mầm bệnh chỉ thải ra ngoài theo một đường: Xoắn khuẩn, Dại…
- Có bệnh mầm bệnh thải ra theo nhiều đường: Newcastle, Tụ huyết trùng, Nhiệt thán…
- Có khi động vật chỉ bài mầm bệnh một thời gian ngắn (thể nặng), hoặc suốt đời (thể mạn tính,
khoẻ mang trùng…)
- Có bệnh mầm bệnh chỉ được bài theo từng lúc: khi sốt, khi mầm bệnh có trong máu…
Mầm bệnh được bài thải rộng rãi ở các thể nhẹ do con vật có thể đi lại, còn ở thể nặng con vật ít
vận động nên phạm vi bài mầm bệnh hẹp hơn.
VI. QUÁ TRÌNH TRUYỀN LÂY
1. Ý nghĩa của quá trình truyền lây
Mầm bệnh là một sinh vật ký sinh tự nó không tạo được điều kiện sống cho nó mà phải sống
nhờ vào sinh vật khác. Ở đó nó sinh sản và nhân lên để duy trì nòi giống và đồng thời gây bệnh.
Động vật mắc bệnh có thể khỏi bệnh hoặc chết, trong cả 2 trường hợp mầm bệnh đều bị tiêu
diệt.
- Trong một số trường hợp mầm bệnh có thể tồn tại nhưng không duy trì được bản chất gây
bệnh ban đầu nên nó phải tìm mọi cách xâm nhập vào một cơ thể khác, một sinh vật khác. Ở đó nó lại
nhân lên và được bài xuất ra bên ngoài rồi lại xâm nhập vào cơ thể khác để duy trì nòi giống và tăng
cường khả năng gây bệnh.
Như vậy, bệnh truyền nhiễm là một chuỗi dài không dứt của những ca bệnh liên tục tạo ra một
quá trình dịch tễ. Trong quá trình đó, không nhất thiết phải qua những thể bệnh rõ rệt mà có cả những
mắt xích không rõ rệt.
Phương thức phát triển của mầm bệnh là phải thực hiện cho được quá trình truyền lây. Cho nên
31
muốn dập tắt dịch, muốn tiêu diệt mầm bệnh phải chống lại quá trình truyền lây.
Có thể thấy, quá trình truyền lây từ động vật bệnh sang động vật khoẻ là điều kiện bắt buộc để
duy trì được mầm bệnh (trừ trường hợp mầm bệnh chưa hoàn toàn biến thành ký sinh). Quá trình truyền
lây xảy ra khi mầm bệnh được truyền từ gia súc bệnh sang gia súc khoẻ.
Trong suốt thời gian mắc bệnh gia súc bệnh luôn bài mầm bệnh ra khỏi cơ thể. Mầm bệnh có
thể được truyền trực tiếp hoặc ra ngoại cảnh rồi mới vào gia súc khoẻ.
* Sơ đồ của quá trình truyền lây gồm 3 khâu: Nguồn bệnh – Yếu tố truyền lây – Súc vật cảm thụ
- Gia súc bệnh là nơi mầm bệnh sinh sôi nảy nở và được bài ra ngoài, được gọi với tên chung là
Nguồn bệnh.
- Mầm bệnh được bài ra ngoài và tạm thời tồn tại trên nhiều nhân tố ngoại cảnh, các nhân tố
này sẽ làm trung gian truyền bệnh cho gia súc khoẻ và được gọi là Yếu tố truyền lây hay Nhân tố trung
gian truyền bệnh.
- Gia súc khoẻ phải mắc bệnh thì quá trình truyền lây mới được thực hiện, nên đó là Động vật
Mầm bệnh
cảm thụ.
ĐỘNG VẬT CẢM THỤ
Dịch bệnh
Mầm bệnh
Mầm bệnh
NGUỒN BỆNH
YẾU TỐ TRUYỀN LÂY
Sơ đồ của quá trình truyền lây
2. Nguồn bệnh
Nguồn bệnh là khâu đầu tiên của quá trình truyền lây, Gramasepxki cho rằng: “nguồn bệnh là
nơi mầm bệnh cư trú, sinh sôi, nảy nở một cách tự nhiên và từ đó được bài ra bên ngoài”.
Xuất phát từ đặc điểm ký sinh của mầm bệnh, ta thấy nguồn bệnh phải là một sinh vật sống. Vì
ở đây đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của mầm bệnh trong quá trình sống, nhân lên, gây bệnh (trừ trường
hợp mầm bệnh chưa hoàn toàn biến thành ký sinh).
Nhận thức đúng về vấn đề nguồn bệnh là rất quan trọng trong dịch tễ học, có như vậy mới hiểu
được quy luật dịch, mới giúp đánh giá khâu đầu tiên, khâu xuất phát của quá trình sinh dịch.
Có nhiều loại nguồn bệnh: động vật đang mắc bệnh, động vật mang trùng, nguồn bệnh là người
hay gia súc, nguồn dịch thiên nhiên.
- Động vật đang mắc bệnh: người, gia súc, gia cầm, dã thú đang mắc ở các thể khác nhau.
- Động vật mang trùng: là những động vật không có triệu chứng bệnh, nhưng mang và bài
mầm bệnh, hiện tượng mang trùng có thể bao gồm: con vật đang thời kỳ nung bệnh, mới lành bệnh, lành
bệnh mang trùng, khoẻ mang trùng. Đây là loại nguồn bệnh nguy hiểm nhất vì chúng khó phát hiện, dễ
32
dàng làm cho dịch phát sinh và lây lan.
- Nguồn bệnh là người hay gia súc: có nhiều bệnh truyền nhiễm của gia súc có thể lây sang
người hoặc ngược lại: bệnh do Xoắn khuẩn, Lao, Dại, Sảy thai truyền nhiễm… Do vậy có lúc gia súc
đóng vai trò là nguồn bệnh, có lúc con người lại đóng vai trò là nguồn bệnh.
- Nguồn dịch thiên nhiên: là nguồn bệnh có sẵn trong thiên nhiên, ở những vùng nhất định, có
hệ sinh thái nhất định, ở đó người và gia súc chưa hề đi đến. Những vùng này thường là những vùng
hoang vu, mầm bệnh tồn tại chủ yếu ở thú rừng, loài gặm nhấm, bệnh thường xuyên lưu hành trong các
dã thú. Những con này có thể phát bệnh chết khi đói ăn, khi thay đổi thời tiết… chúng thường bị bệnh ở
thể ẩn hoặc khoẻ mang trùng.
+ Bệnh lây sang con khoẻ chủ yếu bằng sinh vật môi giới hút máu: côn trùng, tiết túc. Côn trùng
ở đó không phát bệnh mà chỉ đóng vai trò truyền lây hoặc nguồn bệnh và mầm bệnh tồn tại theo dây
truyền: Dã thú - Côn trùng - Dã thú hoặc có một số bệnh lại theo dây truyền: Dã thú - Ngoại cảnh - Dã thú.
+ Khi người hoặc gia súc đi qua vùng đó mầm bệnh sẽ từ dã thú, côn trùng, ngoại cảnh xâm
nhập và gây bệnh. Bệnh phát ra ở người và gia súc thường là nặng.
* Những bệnh có nguồn dịch thiên nhiên thường có đặc điểm dịch tễ học sau đây:
- Bệnh thường xuất hiện ở những vùng nhất định, những nơi có động vật nguồn bệnh và côn
trùng môi giới.
- Bệnh thường xuất hiện theo mùa nhất định do sinh thái của động vật nguồn bệnh và côn trùng
môi giới, do hoạt động có mùa của con người ở các vùng đó.
- Để cho bệnh có thể xảy ra ở người và gia súc, phải có nhiều sinh vật môi giới đang đói và
chứa nhiều mầm bệnh.
- Các bệnh Nhiệt thán, Xoắn khuẩn, Dại, Lao, Phó thương hàn, Lở mồm long móng… là những
bệnh có nguồn dịch thiên nhiên.
- Trong các hoạt động mở rộng chăn nuôi, khai hoang cần chú ý điều tra các nguồn dịch thiên
nhiên, từ đó đề ra các biện pháp phòng chống, thanh toán bệnh.
3. Yếu tố truyền lây
Yếu tố truyền lây là khâu thứ hai của trình sinh dịch nó đóng vai trò trung gian đưa mầm bệnh
từ nguồn bệnh tới động vật cảm thụ. Trên yếu tố truyền lây mầm bệnh chỉ tồn tại một thời gian nhất định
rồi sẽ bị tiêu diệt, thời gian tồn tại phụ thuộc vào loại mầm bệnh, loại yếu tố truyền lây.
Các yếu tố truyền lây gồm hai loại: Những yếu tố sinh vật và những yếu tố không phải là sinh
vật.
* Yếu tố truyền lây sinh vật
- Côn trùng, tiết túc: Côn trùng tiết túc đóng vai trò truyền lây theo hai cách là truyền lây cơ
học và truyền lây sinh học.
+ Truyền lây cơ học: côn trùng và mầm bệnh không có mối quan hệ sinh học, mầm bệnh chỉ
tồn tại mà không có biến hoá nào cả: mầm bệnh chỉ dính ở thân, vòi…
+ Truyền lây sinh học: mầm bệnh tồn tại và phát triển trong cơ thể con trùng trong suốt đời
33
sống của nó: nhân lên, hoặc biến đổi hình thái, hoặc chuyển sang ký chủ khác
- Các loài thú khác: cần đặc bệit chú ý tới các loài chim di cư, loại gặm nhấm nhím, chuột vì
chúng có thể mang và làm phát tán mầm bệnh đi xa.
- Người: Cũng là yếu tố truyền lây quan quan trọng trong các bệnh truyền nhiễm. Đặc biệt là
những người do nghề nghiệp mà phải tiếp xúc với gia súc, gia cầm. Mầm bệnh có thể dính vào tay, chân,
quần áo, dầy dép và lan truyền đi xa.
* Yếu tố truyền lây không phải là sinh vật
- Đất, nước, không khí: rất nhiều loại mầm bệnh có thể tồn tại ở ngoại cảnh rất lâu rồi từ đó lan
truyền đi xa. Hoặc xâm nhập vào cơ thể động vật qua vết thương, qua đường hô hấp, tiêu hoá…
- Đồ vật dụng cụ: Mọi đồ vật dùng cho động vật bệnh hoặc tiếp xúc với con bệnh đều có thể
mang và truyền bệnh, đây là yếu tố truyền lây khá phổ biến.
- Thức ăn, nước uống: là những yếu tố truyền lây phổ biến nhất vì đa số bệnh truyền nhiễm của
động vật nuôi lây qua đường tiêu hoá.
Thức ăn nước uống rất dễ nhiễm mầm bệnh từ chất thải của con vật, từ đất, không khí, dụng cụ
chế biến hoặc các động vật khác. Bản thân thức ăn bị hư hỏng có thể biến thành môi trường sinh sông
cho nhiều loại mầm bệnh, nước uống có thể chứa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng.
- Thú sản và xác chết: Mọi sản phẩm và chất bài tiết lấy từ động vật bệnh: thịt, trứng, sữa, da,
lông, phân, nước tiểu… Có thể chứa mầm bệnh và truyền bệnh cho động vật khác và con người, đặc biệt
trong điều kiện giao thông ngày nay. Do vậy cần chú ý đến công tác vệ sinh tiêu độc, kiểm soát giết mổ,
kiểm tra vệ sinh thú y để hạn chế sự lây lan của mầm bệnh.
4. Động vật cảm thụ
Đây là khâu thứ 3 không thể thiếu được của quá trình sinh dịch. Có nguồn bệnh và nhân tố
trung gian nhưng nếu cơ thể động vật không cảm thụ với bệnh (do có miễn dịch) thì dịch không thể phát
sinh. Vậy sức cảm thụ của động vật đối với bệnh là điều kiện bắt buộc để dịch phát sinh và phát triển.
Sức cảm thụ đối với bệnh phụ thuộc vào sức đề kháng của chúng. Do vậy ta phải chủ động làm
tăng sức đề kháng không đặc hiệu của động vật bằng cách chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh… và sức đề kháng
đặc hiệu bằng cách tiêm phòng vacxin, kháng huyết thanh… để dịch bệnh ít hoặc không xảy ra.
5. Cơ chế và phương thức truyền lây
Bệnh được truyền từ động vật bệnh qua động vật khoẻ bằng các yếu tố truyền lây theo những
quy luật nhất định, những quy luật truyền lây đó còn được gọi là cơ chế truyền lây.
Nơi khu trú đầu tiên của mầm bệnh trong cơ thể là nơi có đủ điều kiện cho mầm bệnh sinh sản,
nhân lên và đảm bảo cho nó được bài xuất ra ngoài. Hai điều kiện nói trên của nơi khu trú đầu tiên rất
cần thiết cho sự lưu tồn của mầm bệnh. (Cần phân biệt nơi khu trú đầu tiên với nơi khu trú thứ 2, bởi nơi
khu trú thứ 2 chỉ có ý nghĩa về mặt bệnh học ít có ý nghĩa về dịch tễ học).
Nơi khu trú đầu tiên quyết định con đường bài xuất và nơi lưu lại ngoại cảnh của mầm bệnh
(VD: nếu nơi khu trú đầu tiên là phổi thì mầm bệnh bài xuất qua đường hô hấp và tồn tại trong không
34
khí…).
Nơi lưu lại ngoài ngoại cảnh quyết định con đường xâm nhập vào cơ thể (VD: mầm bệnh nếu
có ở trong không khí thì phải qua đường hô hấp mà xâm nhập vào phổi là nơi khu trú đầu tiên để đảm
bảo cho quá trình truyền lây lại tiếp tục được thực hiện.)
Như vậy, từ khi bài xuất khỏi cơ thể cho đến lúc xâm nhập vào cơ thể quá trình truyền lây là
một dây truyền liên tục của các hiện tượng ràng buộc với nhau. Dây truyền đó đảm bảo cho mầm bệnh
tồn tại và bệnh được lưu hành trong thiên nhiên.
Căn cứ vào cơ chế truyền lây, Gramasepxki chia làm 4 phương thức truyền bệnh chính:
- Lây theo đường hô hấp: Nơi khu trú đầu tiên là phổi, đường truyền lây là không khí, mũi, yếu
tố truyền lây là bụi, bọt nước.
- Lây theo đường tiêu hoá: Nơi khu trú đầu tiên là ruột, đường truyền lây là phân, miệng, yếu tố
truyền lầy chủ yếu đối với động vật là thức ăn, nước uống…
- Lây theo đường máu: Nơi khu trú đầu tiên là máu, đường truyền lây là côn trùng, tiết túc, máu
động vật, đường truyền lây là côn trùng, tiết túc hút máu.
- Lây qua da và niêm mạc: Có nhiều nơi khu trú đầu tiên, do có nhiều đường truyền lây và
nhiều loại yếu tố truyền lây.
Khi nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm cần chú ý tới vấn đề truyền lây, bởi các bệnh này có
thể lây ngang giữa các cá thể với nhau (đại đa số các bệnh truyền nhiễm) hoặc lây dọc từ thế hệ này sang
thế hệ khác (Thương hàn gà, Sảy thai truyền nhiễm…) hoặc bệnh có thể lây trực tiếp hoặc gián tiếp.
Chính vì thế, cần dựa vào các phương thức truyền lây này để có thể phân loại các nhóm truyền
bệnh và đề ra những biện pháp phòng trừ bệnh.
6. Ổ dịch
6.1. Định nghĩa
“Ổ dịch là nơi đang có đầy đủ các khâu của vòng truyền lây, tức là có nguồn bệnh, có các yếu
tố truyền lây và động vật đang phát bệnh”.
Sự có mặt của động vật bệnh chứng tỏ mầm bệnh được bài thải, nhiễm vào các yếu tố của ngoại
cảnh.
Gramasepxki đã định nghĩa ổ dịch như sau: “Phàm nơi mà nguồn bệnh tồn tại và trong tình
hình cụ thể bệnh truyền nhiễm có thể reo rắc mầm bệnh, truyền cho ngoại cảnh và sinh vật xung quanh
thì được gọi là ổ dịch”.
Pháp lệnh thú y quy định: “Ổ dịch là nơi có một hoặc nhiều động vật ốm, chết vì bệnh truyền
nhiễm”.
Theo Dương Đình Thiện: “Một bệnh truyền nhiễm trở thành một vụ dịch, khi trong một thời
gian ngắn có tỷ lệ mắc hoặc chết vượt quá tỷ lệ mắc hoặc chết trung bình trong nhiều năm liền tại khu
vực không gian đó”.
Một ổ dịch ở gia súc thường lan rộng thành nhiều ổ dịch tiếp nối nhau được gọi là quá trình
sinh dịch, chủ yếu do con con bệnh, con nghi lây và sản phẩm của gia súc bệnh, trong đó nguy hiểm nhất
35
là con nghi lây và sản phẩm gia súc bệnh.
- Trong ổ dịch có thể có ít hay nhiều con bệnh, đây là trung tâm của ổ dịch vì nó là nguồn bệnh
và báo hiệu sự có mặt tiềm tàng của các nguồn bệnh khác. Do vậy biện pháp trước tiên nhằm dập tắt ổ
dịch là phải chú ý tới con vật bệnh.
- Những con tiếp xúc với con bệnh gọi là con nghi lây, những con vật này có thể nhiễm bệnh và
đang trong thời kỳ nung bệnh hoặc mang mầm bệnh và sinh vật môi giới trên cơ thể. Những con này cần
đặc biệt chú ý vì nó có khả năng làm cho ổ dịch ngày càng lây lan rộng và là đối tượng thứ 2 cần đối phó
tại ổ dịch.
Quá trình dịch của các bệnh truyền nhiễm là sự nối tiếp nhau liên tục với sự có mặt của các vi
sinh vật gây bệnh, xảy ra trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định.
Quá trình sinh dịch là một dãy những ổ dịch có liên quan với nhau, ổ dịch này phát sinh từ ổ
dịch khác với mối liên quan bên trong của chúng, được quyết định bởi các điều kiện sống của xã hội. Có
những quá trình dịch phát triển tương đối đơn giản, dễ thấy, nhưng cũng có quá trình dịch phát triển phức
tạp hơn, khó thấy hơn.
Chính vì vậy nhận thức, trình độ của người chăn nuôi, người làm công tác thú y, của toàn xã
hội nói chung và bao trùm là thể chế xã hội có thể làm cho dịch xảy ra ít hoặc nhiều, phát sinh hoặc
không phát sinh.
6.2. Đặc điểm của các ổ dịch
* Các loại mầm bệnh
Trong một ổ dịch có thể có một mầm bệnh nhưng thường có thể có từ 2 loại mầm bệnh trở nên.
Trong đó có loại mầm bệnh là tiên phát, các loại khác là những mầm bệnh thứ phát (VD: Trong
ổ dịch Dịch tả lợn, thường thấy lợn mắc thêm bệnh Phó thương hàn hoặc Tụ huyết trùng hoặc cả hai…).
Loại tiên phát gây ra bệnh, làm suy giảm sức đề kháng của động vật trên cơ sở đó các mầm
bệnh khác có sẵn trên hoặc trong cơ thể gia súc hay ở ngoại cảnh phát triển và gây thêm bệnh, đây là loại
thứ phát.
Khi trong ổ dịch chỉ có một loại mầm bệnh, công việc phòng trừ dịch bệnh dễ dàng hơn so với
khi có nhiều loại mầm bệnh.
* Các ký chủ (động vật mắc bệnh):
Trong một ổ dịch có thể chỉ có một loài động vật mắc bệnh, cũng có thể có nhiều loại động vật
mắc bệnh. Nếu có nhiều loại động vật mắc bệnh thì thông thường sẽ có nhiều nguồn bệnh hơn nên ổ dịch
phát triển mạnh hơn và công cuộc trừ dịch cũng khó khăn hơn.
Những động vật mắc bệnh vẫn có thể di chuyển được, thì nguy hiểm hơn những con ít di
chuyển, vì chúng có thể làm cho ổ dịch dễ mở rộng hơn.
Trong khi điều tra về ổ dịch cần chú ý đến vấn đề này để xác định đúng đối tượng của các biện
pháp chống dịch, đồng thời để dễ chẩn đoán bệnh hơn.
* Giới hạn của ổ dịch:
Phạm vi của một ổ dịch rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào loại bệnh, loài gia súc mắc bệnh, thời gian
36
có bệnh, mật độ gia súc trong vùng và những điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng.
Khái niệm giới hạn của một ổ dịch là một khái niệm dịch tễ học, không phải là một khái niệm
giới hạn theo đơn vị hành chính đơn thuần.
Ổ dịch thường chia làm ba vùng:
- Vùng dịch: là trung tâm của ổ dịch, nơi đang có gia súc chết và gia súc mắc bệnh.
- Vùng bị dịch uy hiếp: là vùng bao quanh vùng dịch, với phạm vi rộng hẹp tuỳ theo bệnh, loại
động vật mắc bệnh.
- Vùng an toàn: là vùng nằm ngoài vùng bị dịch uy hiếp, ở đó trước mắt gia súc hoàn toàn khoẻ
mạnh và không có dấu hiệu của bệnh. Pháp lệnh thú y quy định: “Vùng an toàn dịch bệnh là vùng, lãnh
thổ được xác định là không xảy ra bệnh trong danh mục do Bộ NN&PTNT công bố trong một giai đoạn
nhất định”.
Do tính chất dịch tễ học khác nhau của mỗi vùng, nên biện pháp thú y, biện pháp vệ sinh phòng
chống dịch được thực hiện trong mỗi vùng cũng khác nhau:
- Trong vùng dịch, chủ yếu là giải quyết nguồn bệnh
- Vùng bị dịch uy hiếp vừa phải giải quyết nguồn bệnh nếu có, vừa phải bảo vệ gia súc chưa
nhiễm bệnh
- Trong vùng an toàn dịch, chủ yếu là bảo vệ gia súc khoẻ mạnh.
Do đó xác định đúng phạm vi của ổ dịch và các vùng trong ổ dịch là hết sức quan trọng, nó
quyết định một phần sự thành công của công tác phòng chống dịch.
6.3. Các loại ổ dịch
* Về thời gian phát sinh có thể chia ra ổ dịch mới và ổ dịch cũ:
Ổ dịch mới: là nơi nguồn bệnh đang nhân lên, đang phát triển, số gia súc bệnh và chết tăng lên,
các triệu chứng bệnh tích đều điển hình, sự lây lan đang mạnh.
Ổ dịch cũ: là nơi trước mắt không có nguồn bệnh dưới dạng con bệnh, nhưng mầm bệnh vẫn tồn tại
trong gia súc mang trùng hoặc ở ngoại cảnh vì chưa qua đủ thời gian cần thiết để bị tiêu diệt, do đó sự đe doạ
nổ ra dịch vẫn còn.
* Về trình tự phát sinh có thể chia thành: ổ dịch tiên phát và ổ dịch thứ phát
Ổ dịch tiên phát xảy ra trước rồi do các yếu tố truyền lây làm bệnh lan rộng ra các nơi khác tạo
thành các ổ dịch thứ phát.
Trong quá trình này, với những điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi mầm bệnh có thể tăng cường
độc lực gây ra những ổ dịch ngày càng nặng hơn hoặc giảm độc làm dịch nhẹ đi.
* Về tần số xuất hiện và cường độ dịch:
Loại ổ dịch lẻ tẻ hoặc dịch vùng: là khi ổ dịch thỉnh thoảng mới xảy ra trong phạm vi hẹp và cố
định trong những vùng nhất định với một số ít động vật mắc bệnh và chết.
Loại ổ dịch rộng: là khi dịch lan ra nhiều vùng với một số lượng lớn động vật bị bệnh và chết.
Loại ổ dịch lớn: là khi dịch lây lan nhanh ra những vùng rộng lớn kèm theo số lượng động vật
37
ốm và chết rất cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế.
7. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình truyền lây
Ba khâu của quá trình truyền lây nguồn bệnh (mầm bệnh), yếu tố truyền lây (nhân tố trung gian
truyền bệnh), động vật thụ cảm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Đặc biệt là khâu thứ nhất và thứ ba là
những khâu sinh vật, những khâu này có nhiều biến đổi dưới tác động của các yếu tố làm ảnh hưởng đến
quá trình truyền lây, làm cho bộ mặt của dịch biến đổi qua thời gian và không gian.
Bệnh truyền nhiễm có thể xảy ra lẻ tẻ hay thành dịch địa phương (dịch vùng) hay thành dịch
lưu hành hoặc thành dịch đại lưu hành (đại dịch). Đặc tính đó thuộc về mỗi bệnh, về mối quan hệ giữa
động vật và mầm bệnh, nhưng vẫn chịu tác động của những yếu tố khác. Các yếu tố này được chia thành
yếu tố thiên nhiên và yếu tố xã hội.
7.1. Yếu tố tự nhiên
Các yếu tố tự nhiên bao gồm các yếu tố địa lý, địa hình, thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu, thảm thực
vật, môi trường ngoại cảnh… Các yếu tố này ảnh hưởng có lợi hoặc không có lợi tới một hoặc nhiều khâu của
quá trình truyền lây.
* Ảnh hưởng tới nguồn bệnh:
Đối với nguồn bệnh là động vật nuôi: Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến phương thức chăn
nuôi, sự sinh sản, sức đề kháng, làm cho dịch khó hoặc dễ phát sinh, phát triển. Do đó làm giảm hoặc
tăng nguồn bệnh và điều đó lại ảnh hưởng trở lại đến tính chất của dịch.
Đối với nguồn bệnh là dã thú, côn trùng, tiết túc: Ảnh hưởng của tự nhiên lại càng rõ rệt, những loài
này đòi hỏi những điều kiện tự nhiên nhất định để sống và phát triển. Do vậy bệnh thường có chiều hướng
tăng vào mùa sinh sản, phát triển của các loài đó, hoặc chỉ xuất hiện trong những vùng có các loài đó.
Như vậy, thông qua tác động đến nguồn bệnh, điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng tới mầm bệnh
đó là làm tăng hay giảm độc lực của mầm bệnh trong nguồn bệnh. Ảnh hưởng này càng rõ rệt khi mầm
bệnh được bài ra bên ngoài môi trường ngoại cảnh.
* Ảnh hưởng tới yếu tố truyền lây:
Đối với yếu tố truyền lây là sinh vật (nhất là đối với dã thú, côn trùng): điều kiện tự nhiên ảnh
hưởng tới sự phát triển của chúng, đến vùng cư trú của chúng, mùa hoạt động của chúng.
Đối với yếu tố truyền lây không phải là sinh vật: điều kiện tự nhiên làm cho thời gian tồn tại
của mầm bệnh trên những yếu này rút ngắn hay kéo dài, hoặc làm cho yếu tố truyền lây bị phân tán rộng
ra hay thu hẹp lại.
* Ảnh hưởng tới động vật cảm thụ:
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng tới sức đề kháng của động vật một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua ảnh hưởng tới cây thức ăn, tới mật độ đàn làm cho sức cảm thụ của đàn thay đổi, điều kiện lây
lan thay đổi và bộ mặt dịch cũng thay đổi theo.
7.2. Yếu tố xã hội
Bệnh truyền nhiễm của dã thú là một hiện sinh vật và chịu sự chi phối hoàn toàn của các quy
38
luật tự nhiên.
Bệnh truyền nhiễm của động vật nuôi xảy ra trong xã hội loài người nên bệnh dịch của động vật
nuôi cũng chịu sự chi phối, quyết định của các quy luật xã hội. Con người có thể thông qua các hoạt
động của mình mà có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến các khâu của quá trình sinh dịch.
Các yếu tố xã hội: mức sống trình độ văn hoá, trình độ dân trí, trình độ phát triển khoa học kỹ
thuật, các hoạt động kinh tế, phong tục tập quán, trình độ tổ chức xã hội, chiến tranh, hoà bình, nạn đói…
Đều ảnh hưởng đến quá trình truyền lây dịch bệnh ở động vật nuôi nhưng bao trùm lên tất cả các yếu tố
đó chính là thể chế xã hội.
8. Tính chất dịch do các yếu tố tự nhiên, xã hội gây ra
* Tính chất mùa
Nhiều dịch bệnh của gia súc có tính chất mùa rõ rệt, có bệnh chỉ lẻ tẻ quanh năm nhưng đến
một mùa nào đó lại rộ lên, có bệnh chỉ tới mùa nhất định mới phát sinh.
Nước ta miền Bắc thường xảy ra dịch nặng vào vụ Hè – Thu và vụ Đông – Xuân, ở miền Nam
thường xảy ra dịch vào đầu mùa mưa và đầu mùa khô. Do vào những mùa này cơ thể gia súc chịu ảnh
hưởng của thời tiết thay đổi đột ngột, sức đề kháng giảm sút. Trong cơ thể gia súc có những biến đổi về
hằng số sinh lý theo mùa. Cũng theo mùa mà các yếu tố truyền lây sinh vật thay đổi về loài, về số lượng,
về hoạt động.
Hoạt động xã hội cũng góp phần tạo ra tính chất mùa của dịch như: các lễ hội, phương thức
chăn nuôi thay đổi theo mùa, các sinh hoạt khác theo mùa, đều kết hợp với các yếu tố tự nhiên để tạo ra
tính chất mùa cho dịch bệnh của gia súc.
Nắm được tính chất mùa của dịch có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán bệnh, phòng bệnh và
nghiên cứu khoa học.
* Tính chất vùng
Nhiều dịch bệnh gia súc xuất hiện ở những vùng nhất định do các yếu tố tự nhiên như thời tiết,
khí hậu, đất đai, quần thể thực vật ở một vùng thường có liên quan tới sự phát triển của một loài gia súc
hoặc liên quan tới sự tồn tại của một loại mầm bệnh hoặc có liên quan đến sự phát triển của một loại yếu
tố truyền lây sinh vật nào đó. Vì vậy một số bệnh có khả năng phát sinh tồn tại trong những vùng nhất
định đó.
Các yếu tố xã hội, tập quán từng vùng, các cơ sở chăn nuôi tập trung từng vùng… cũng góp
phần tạo ra tính chất vùng của dịch bệnh.
Nước ta dịch bệnh động vật thường có 3 vùng rõ rệt vùng núi có các bệnh LMLM, Dịch tả lợn,
Nhiệt thán…; vùng trung du có các bệnh THT trâu bò, bệnh do Xoắn khuẩn, ký sinh trùng đường máu…;
vùng đồng bằng có các bệnh: Đóng dấu lợn, THT lợn, Newcastle…
Tuy nhiên cùng với việc mở rộng thông thương buôn bán gia súc và các sản phẩm thú sản ở
trong nước, cũng như với nước ngoài, có thể làm cho tính chất vùng có thay đổi trong một chừng mực
nào đó.
Nắm bắt được tính chất vùng của dịch bệnh cũng có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán, phòng
39
chống bệnh và NCKH.
* Tính chất chu kỳ
Trong điều kiện chưa có tác động của con người, một số dịch bệnh của động vật nuôi xuất hiện
theo chu kỳ nhất định. Đối với tiểu gia súc, thường là chu kỳ ngắn, dịch xảy ra trong phạm vi một năm,
nó trùng với tính chất mùa. Nhưng đối với đại gia súc, thường là chu kỳ dài, thường khoảng 3-5 năm
dịch bệnh lại tái phát một lần.
Cho đến nay, sự hiểu biết về nguyên nhân của tính chu kỳ chưa được đầy đủ. Một cách giải
thích đó là dựa vào sự biến đổi tính cảm thụ của quần thể động vật trong vùng dịch.
Tính chu kỳ cũng rõ rệt đối với dịch của dã thú, nhiều loại dã thú có chu kỳ phát triển và chu kỳ
chết dịch.
Tuy nhiên các tính chất nói trên không phải cố định, mà con người có thể bằng các hoạt động
của mình để xoá bỏ các tính chất ấy (VD: nước ta đã xoá bỏ tính chất chất vùng và chu kỳ của bệnh dịch
tả trâu bò).
9. Tiến hoá của bệnh truyền nhiễm
Nghiên cứu lịch sử tiến hoá của xã hội loài người cho nhận thấy bệnh truyền nhiễm của động
vật nói chung cũng trải qua một quá trình tiến hoá. Quá trình đó hiện nay vẫn đang diễn ra và còn tiếp tục
diễn ra lâu dài về sau. Sự tiến hoá diễn ra dưới 2 mặt loại bệnh và tính chất bệnh.
* Về loại bệnh:
Có nhiều bệnh được các sách cổ mô tả đến nay đã biến mất (bệnh đậu mùa), một số bệnh vẫn
còn tồn tại (bệnh sốt rét), một số bệnh xuất hiện cách đây vài nghìn năm (sốt phát ban, bệnh lỵ, bệnh tả,
sởi; vài trăm năm: bệnh cúm) nhưng cũng có bệnh mới xuất hiện (lao, hoa liễu, HIV).
Trên động vật ta cũng thấy một số bệnh đã không xuất hiện trên vật nuôi, hoặc đã được khống
chế ở một vùng, một nước nào đó.
* Về tính chất bệnh:
Những biểu hiện về đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đặc trưng đã có nhiều
biến đổi. Có thể nhận thấy bệnh truyền nhiễm có sự tiến hoá vì nó là kết quả của sự đấu tranh giữa cơ thể
và mầm bệnh, trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định.
Ngoại cảnh tự nhiên đã có sự thay đổi nên đời sống của con người thay đổi, nhiều giống vật
nuôi mới được tạo ra, phương thức, tập quán chăn nuôi thay đổi… Do vậy mầm bệnh cũng phải thay đổi
cho phù hợp để duy trì khả năng gây bệnh. Trong cuộc sống ký sinh đó, lại diễn ra cuộc đấu tranh không
ngừng giữa 2 sinh vật (động vật nuôi và mầm bệnh) lại dẫn đến những biến đổi khác. Có bệnh thì biến
mất, có những bệnh thì xuất hiện những đặc điểm mới, và cũng có thể tạo ra những bệnh mới với những
đặc điểm mới.
Như vậy tính chất của dịch sẽ thay đổi các bệnh mạn tính sẽ xuất hiện nhiều hơn với những
biểu hiện không điển hình. Vì vậy phải đứng trên quan điểm tiến hoá để nghiên cứu, chẩn đoán và phòng
40
chống bệnh truyền nhiễm.
VII. CÁC DẠNG HÌNH THÁI, MỨC ĐỘ DỊCH
Mỗi một dạng dịch có những trạng thái và tính chất khác nhau. Sự hiểu biết về các dạng hình thái dịch
của động vật có ý nghĩa rất lớn trong xây dựng phương án phòng trừ đối với các loại dịch bệnh ở động
vật.
1. Các dạng hình thái dịch
* Dịch lẻ tẻ (Sporadic):
Chỉ trạng thái dịch có tính chất lẻ tẻ, bệnh xảy ra không thường xuyên, dạng bệnh không rõ
ràng, không dự đoán trước được bệnh. Dịch thường xảy ra trong những trường hợp sau:
- Bệnh dịch vẫn tồn tại trong đàn, nhưng không có biểu hiện lâm sàng, nhưng trong một điều
kiện nào đó dịch mới xuất hiện.
- Trong đàn không có dịch bệnh tồn tại, dịch có thể xảy ra khi có một con mang mầm bệnh
nhập vào đàn.
- Mầm bệnh khu trú trong một loài động vật nào đó, cùng chung sống trong một môi trường với
nhiều loài động vật khác, nên đôi khi có thể truyền lây cho đàn động vật phơi nhiễm.
* Dịch địa phương (Endemic):
Dịch có tính chất địa phương, khi trong địa phương đó bệnh dịch này xảy ra đều đặn và có thể sự
đoán trước được về thời gian, địa điểm, có nghĩa là dịch bệnh xảy ra có hạn chế về không gian, nhưng không
hạn chế về thời gian.
Dịch địa phương có mức độ nhiễm rất khác nhau:
- Nếu hầu hết đàn gia súc mắc bệnh thì gọi là Holoendemic.
- Nếu đa số động vật trong đàn mắc bệnh thì gọi là Hyperendemic
- Nếu đàn động vật mắc với một tỷ lệ trung bình thì gọi là Mesoendemic.
- Nếu chỉ có một số nhỏ trong đàn mắc bệnh thì gọi là Hypoendemic.
* Dịch lưu hành (Epidemic):
Khi số lượng động vật mắc bệnh trung bình vượt quá con số mắc bệnh thường xảy ra như đã dự
đoán trước xảy ra ở một đàn động vật hoặc một địa phương mà đã từ lâu không có bệnh này. Số động vật
mắc bệnh tăng lên rõ rệt, có thể chỉ trong một thời điểm hoặc trong một thời gian, tức là bệnh phát tán
trong một khoảng không gian vào cùng một thời điểm
* Dịch đại lưu hành (Pandemic):
Là dịch phát tán, lan tràn trên diện rộng cùng một lúc nhưng không cùng một khoảng thời gian.
Tức là, dịch có thể xảy ra trong phạm vi một số nước không hạn chế về không gian.
VD: Đại dịch cúm gia cầm xảy ra ở Việt Nam và một số nước trên thế giới năm 2003 - 2005,
Đại dịch cúm Type A ở người các năm 1914 - 1918…
2. Mức độ dịch
Một bệnh truyền nhiễm trở thành một vụ dịch, khi trong một thời gian ngắn có tỷ lệ mắc hoặc
41
chết vượt quá tỷ lệ mắc hoặc chết trung bình trong nhiều năm liền tại khu vực không gian đó.
* Hệ số năm dịch:
Để xác định dịnh, người ta tính hệ số năm dịch (HSND):
Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong một năm
HSND = x 100
Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong nhiều năm
Trong đó:
- Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong một năm được tính bằng: Số mới mắc trong năm
đó/12 tháng
- Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong nhiều năm được tính bằng: Số mới mắc trong nhiều
năm đó/Số tháng trong thời kỳ nhiều năm đó.
Nếu năm nào có hệ số năm dịch lớn hơn 100 thì năm đó được coi là có dịch. Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là thời kỳ bao nhiêu năm là hợp lý?
Bởi đối với những bệnh truyền nhiễm có chu kỳ năm dịch rõ rệt thì rất dễ xác định, nhưng ít
nhất cũng phải có đủ số năm của một chu kỳ, nếu nhiều hơn sẽ có giá trị xác thực hơn, nhưng phải lấy
gọn trong một hay nhiều chu kỳ mới chính xác (Chú ý, tính chu kỳ này sẽ mất đi khi có sự can thiệp của
con người). Còn đối với những bệnh truyền nhiễm không biểu hiện chu kỳ theo quan điểm hiện nay của
dịch tễ học, thì thời kỳ nhiều năm kể trên phải dài, đôi khi rất dài, có khi hàng chục năm, dựa trên căn cứ
vào diễn biến của từng loại dịch bệnh.
* Hệ số mùa dịch
Với đa số các bệnh truyền nhiễm, dịch có những diễn biến khá đều đặn theo các tháng trong
năm. Dịch theo mùa chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố thiên nhiên, nhưng cũng có những can thiệp
của các yếu tố xã hội.
Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/tháng
HSMD = x 100
Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/năm
Trong đó:
- Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/tháng được tính bằng: Số mới mắc của một tháng/Số ngày
của tháng đó (28, 29, 30, 31 ngày)
- Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/năm được tính bằng: Số mới mắc bệnh của một năm/365
ngày
Nếu tháng nào có hệ số tháng dịch lớn hơn 100, được coi là tháng dịch. Nếu thấy có nhiều
tháng dịch liền nhau, được coi là mùa dịch.
Các bệnh truyền nhiễm cấp tính thường biểu hiện tính chất mùa dịch rõ ràng, những quy luật đó
42
thường gặp hàng năm, năm nào cũng xảy ra.
3. Ý nghĩa sinh thái học của các dạng hình thái dịch
Dạng dịch có tính chất lẻ tẻ có thể cho thấy tác nhân gây bệnh được bảo tồn trong một vật chủ
khác và không thường xuyên tiếp xúc với vật chủ.
Tác nhân được bảo tồn trong vật chủ, thường không thể hiện rõ sự nhiễm bệnh. Triệu chứng
lâm sàng của bệnh chỉ xuất hiện khi có yếu tố phá vỡ sự cân bằng giữa tác nhân gây bệnh và vật chủ, tạo
điều kiện để tác nhân gây bệnh.
Dạng dịch địa phương có thể cho thấy dịch xảy ra khi sự cân bằng giữa tác nhân, vật chủ và
môi trường trong một không gian nhất định bị phá vỡ. Sự khác nhau của điều kiện môi trường sinh thái,
có thể giải thích vì sao bệnh xuất hiện lẻ tẻ ở một vùng lại là dịch địa phương so với một vùng khác.
Dạng dịch lưu hành cho thấy có sự mất cân bằng trầm trọng có lợi cho “tác nhân” gây bệnh. Sự
mất cân bằng này thường phổ biến khi có một chủng vi sinh vật mới được sinh ra (thường là đột biến từ
một chủng vi sinh vật nào đó) hay trong sự tiếp xúc lần đầu giữa vật chủ và vi sinh vật.
4. Vẽ đồ thị và phân tích dịch lưu hành
* Ý nghĩa và cách vẽ đồ thị biểu diễn dịch
Khi vẽ đồ thị của một dịch lưu hành có thể cho ta những thông tin hữu ích về tính chất của tác
nhân gây bệnh, số ca bệnh, số ca bệnh mới, thời gian xảy ra bệnh, thời gian nung bệnh, chiều hướng của
dịch…
* Cách vẽ
Số ca bệnh mới xảy ra được vẽ trên trục tung Y
Thời gian của bệnh được vẽ trên trục hoành X.
Cách chia độ thời gian thực tế trên trục hoành càng ngắn thì đường biểu diễn xảy ra dịch càng rõ
* Điểm xuất phát dịch và sự lan truyền dịch
Bước đầu tiên phân tích một dịch bệnh là xác định điểm xuất phát dịch, sự lan truyền dịch. Giả
sử có một số lượng gia súc lớn tiếp xúc với một tác nhân gây bệnh (thức ăn, nước uống bị nhiễm
khuẩn…) sẽ sinh ra một điểm nguồn dịch.
Nếu đường biểu diễn trên đồ thị từ điểm xuất phát dịch đến quá trình xảy ra dịch có độ dốc lớn
chứng tỏ quá trình bệnh dịch xảy ra nhanh chóng đạt tới đỉnh điểm, nhưng sau đó cũng giảm nhanh
chóng.
Như vậy, nếu đã có một tiếp xúc “đồng loạt” với một tác nhân là nguyên nhân gây bệnh, thì đồ
thị sẽ xuất hiện rõ rệt một điểm nguồn dịch.
Khi một tác nhân gây bệnh được lan truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ vật chủ bị nhiễm (coi là
nguồn bệnh) tới vật chủ mẫn cảm (động vật cảm thụ), đó là kết quả của sự lan truyền dịch. Trong trường
hợp này, đường biểu diễn trên đồ thị từ điểm xuất phát dịch đến quá trình xảy ra dịch có độ dốc ít hơn.
Cần chú ý, trong các bệnh truyền nhiễm có một số bệnh có thời kỳ nung bệnh rất ngắn, nên có
thể coi nó giống như một điểm nguồn dịch. Ngược lại nếu sự nhiễm khuẩn dần dần không “đồng loạt” thì
43
có thể có một đồ thị giống như sự lan truyền dịch bệnh.
* Những nhân tố tác động đến dạng đường cong của đồ thị lan truyền dịch
Dạng đường cong của đồ thị phụ thuộc vào:
- Thời kỳ nung bệnh do thời kỳ này làm chậm sự mở đầu của dịch bệnh. Nếu thời gian nung
bệnh kéo dài, trong một số bệnh truyền nhiễm, đường biểu diễn có thể có dạng hình sóng tương ứng với
thời kỳ nung bệnh. Đánh giá độ dài của thời kỳ nung bệnh có thể giúp cho việc xác định nguyên nhân
của ổ dịch.
- Thời kỳ có khả năng lan truyền do ở giai đoạn này có liên quan tới số lần tiếp xúc giữa động
vật thụ cảm với động vật nhiễm bệnh nên nó cũng ảnh hưởng tới quá trình dịch bệnh.
- Khả năng gây nhiễm của tác nhân: những tác nhân gây bệnh (mầm bệnh) nếu có độc lực cao,
sức đề kháng lớn sẽ làm cho dịch bùng phát nhanh chóng hoặc ngược lại.
- Tỷ lệ gia súc mẫn cảm trong quần thể: Tỷ lệ động vật dễ nhiễm trong quần thể cũng ảnh
hưởng đến tốc độ lây lan bệnh rõ rệt. Nếu tỷ lệ này dưới 20-30% thì thường ít hoặc không thể làm bệnh
lây lan. Nếu gia súc dễ nhiễm tăng dần trong quần thể thì sự lan truyền của ổ dịch là tất yếu.
- Mật độ động vật: Mật độ động vật có liên quan tới số lần tiếp xúc và tính hiệu quả của những lần tiếp
xúc đều có ảnh hưởng tới sự lan truyền dịch bệnh.
- Hiệu quả theo dõi, giám sát: Công việc này cũng ảnh hưởng tới quá trình đánh giá dịch bệnh,
nếu giám sát sát sao, ghi chép đầy đủ, hiệu qủa công việc cao rõ rệt số ca bệnh.
Tuy nhiên có 2 vấn đề đặt ra nếu ghi chép làm tăng số ca bệnh tức là làm tăng tỷ lệ phát bệnh,
nếu ghi chép tỷ mỷ các ca bệnh để giúp cho việc phân tích đánh giá tình hình dịch bệnh thì đây lại là
44
phương pháp theo dõi giám sát.
CHƯƠNG 4
BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH TRUYỀN NHIỄM
I. NGUYÊN LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH
Bệnh truyền nhiễm xảy ra do mầm bệnh từ nguồn bệnh được truyền sang động vật thụ cảm,
Mầm bệnh
thông qua các mối liên hệ giữa nguồn bệnh, yếu tố truyền lây và động vật thụ cảm.
ĐỘNG VẬT CẢM THỤ
Bệnh truyền nhiễm
Mầm bệnh
Mầm bệnh
NGUỒN BỆNH
YẾU TỐ TRUYỀN LÂY
Sơ đồ quá trình truyền lây
Quá trình sinh dịch gồm có 3 khâu: nguồn bệnh, yếu tố truyền lây và động vật thụ cảm.
- Nguồn bệnh: Là khâu đầu tiên là xuất phát điểm của quá trình sinh dịch
- Nhân tố trung gian truyền bệnh: nối liền nguồn bệnh với động vật cảm thụ làm cho quá trình
sinh dịch được thực hiện thuận lợi.
- Gia súc thụ cảm: là nhân tố làm cho cho dịch biểu hiện ra, đồng thời nó lại biến thành nguồn
bệnh, làm cho quá trình sinh dịch được nhân lên, thúc đẩy mạnh hơn.
Dịch bệnh muốn xảy ra được cần phải có đủ 3 khâu của quá trình sinh dịch và sự liên hệ giữa 3
khâu đó. Nếu thiếu 1 trong 3 khâu, đặc biệt là thiếu nguồn bệnh thì dịch bệnh không thể xảy ra được.
Nếu có đủ cả 3 khâu nhưng không có sự liên hệ giữa 2 trong 3 khâu thì dịch bệnh cũng không xảy ra. Do
vậy nguyên lý của các biện pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm là xoá bỏ một hay nhiều khâu của quá
trình truyền lây hoặc xoá bỏ mối liên hệ giữa các khâu.
Trên cơ sở phân tích những yếu tố này cho thấy nếu xoá bỏ được khâu đầu tiên là biện pháp lý
tưởng nhất, tuy nhiên rất khó thực hiện. Nếu tác động đến động vật thụ cảm tức là đã gián tiếp tác động
đến nguồn bệnh, do vậy nếu giảm được số lượng động vật cảm thụ sẽ ngăn chặn hoặc hạn chế quá trình
sinh dịch, làm dịch ít hoặc không xảy ra. Nếu tác động đến cả 3 khâu cùng một lúc thì hiệu quả phòng
chống bệnh sẽ tăng lên.
Tuy nhiên chúng ta thấy cả 3 khâu của quá trình sinh dịch có liên quan ảnh hưởng tới nhau, tác
động đến khâu này sẽ ảnh hưởng đến khâu kia. Cho nên các biện pháp phòng chống dịch bệnh phải là
các biện pháp tổng hợp để mang lại hiệu quả cao nhất.
II. CÔNG TÁC ĐIỀU TRA DỊCH TỄ HỌC
1. Mục đích
Công tác này thường bắt đầu bằng giai đoạn mô tả, nhằm mục đích xác định cách phân bố bệnh
theo thời gian, theo địa điểm và theo các đặc điểm của đàn gia súc. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch để
45
dập tắt sự phát triển của dịch và đề phòng không cho dịch xảy ra.
Việc mô tả này cho phép xác định được trong toàn bộ quần thể đàn gia súc hay trong các nhóm
gia súc đặc biệt có nguy cơ mắc bệnh.
Nói cách khác điều tra dịch tễ học để nắm chắc hơn về mối quan hệ giữa vật chủ, tác nhân gây
bệnh và môi trường xung quanh. Trên cơ sở đó đưa ra những giả thuyết có thể giải thích về bản chất,
nguồn gốc và phương thức truyền lây của các bệnh đang nghiên cứu.
Như vậy, điều tra dịch tễ học là bước khởi đầu quan trọng cần phải được tiến hành đầu tiên
trước khi bắt tay vào thực hiện các biện pháp khác.
2. Công tác điều tra dịch tễ học
Điều tra dịch tễ học có thể tiến hành trong 2 trường hợp sau:
- Khi phải đối phó với một ổ dịch: Đây là một cuộc điều tra ngắn hạn, tập trung trong một phạm vi hẹp
vào một số ít chủ đề và phải hoàn thành trong một thời gian ngắn. Người nghiên cứu thường dựa vào
những kết quả của các cuộc điều tra trước và những dữ kiện thông tin mới thu được trong quá trình điều
tra hiện tại để có thể đưa ra những giả thuyết, những nhận định ban đầu hoặc những khuyến cáo cần thiết,
nhằm hạn chế trước mắt những tác hại của dịch bệnh, tiến tới ngăn chặn và dập tắt dịch.
- Khi muốn đặt kế hoạch tiêu diệt một bệnh nào đó: Cuộc điều tra này được tiến hành trên một phạm vi
rộng lớn, trong một thời gian dài, qua nhiều năm, có tính chất toàn diện. Nhưng cũng phải tham khảo kết
quả của những cuộc điều tra ngắn hạn trước đó để xây dựng được một kế hoạch phòng chống bệnh thích
hợp, tiến tới thanh toán và tiêu diệt bệnh.
Điều tra dịch tễ học phải tiến hành trên 3 mặt chính về thời gian, không gian và đàn động vật.
- Điều tra về thời gian có thể điều tra trong một thời gian ngắn hoặc kéo dài nhiều năm, thời gian điều tra
càng kéo dài càng tốt, càng cho kết quả chính xác.
Những vấn đề cần điều tra là thời gian có bệnh trong năm, thời gian nung bệnh, thời gian tiến triển của
bệnh, thời gian xuất hiện các yếu tố truyền lây sinh vật, thời gian xuất hiện miễn dịch và độ dài miễn
dịch sau khi tiêm phòng.
- Điều tra về không gian có bệnh cũng phải kéo dài trong nhiều năm. Những vấn đề cần điều tra là các
vùng có bệnh, các vùng không có bệnh, thời tiết, địa lý, địa hình, thổ nhưỡng, thảm thực vật, quần thể
sinh vật, loại vi sinh vật có mặt trong vùng, phong tục tập quán liên quan đến chăn nuôi trong vùng
- Điều tra về đàn gia súc nhằm đúc kết những biểu hiện chính của bệnh (triệu chứng, bệnh tích…), các
loài, giống, tuổi mắc bệnh, tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết, tỷ lệ chết/ốm, hiện tượng mang trùng, các sinh vật
làm môi giới truyền lây, đặc điểm sinh thái của các sinh vật đó…
3. Những yêu cầu cơ bản trong công tác điều tra một ổ dịch truyền nhiễm
3.1. Phân tích ban đầu
Thường bắt đầu với những công việc sau:
- Kiểm tra tra xác nhận chẩn đoán: Có thể xác nhận qua triệu chứng lâm sàng, bệnh tích đặc
trưng. Nếu cần thì phải dùng các xét nghiệm phi lâm sàng để chẩn đoán.
- Xác định xem đã ở mức độ dịch hay chưa bằng cách căn cứ vào số động vật mắc bệnh ở thời
46
điểm đó so với mức độ mắc ở thời gian trước.
- Mô tả dịch theo góc nhìn quen thuộc của dịch tễ sau khi chẩn đoán và mức độ dịch đã được
xác định. Cần mô tả dưới dạng các tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tuổi, giống, loài, thời gian, thời điểm phát bệnh,
địa điểm phát xảy ra dịch.
- Hình thành các giả thuyết: giả thuyết về sự xuất hiện và lan tràn của dịch, về dạng dịch, bệnh
dịch gì, quần thể có nguy cơ, nguy cơ cao nhất, nguồn truyền nhiễm, nguyên nhân, phương thức lây lan.
- Kiểm định các giả thuyết vừa được nêu: có thể kiểm định bằng cách chọn một nhóm đối
chứng để có thể so sánh với nhóm bệnh rồi tính nguy cơ tương đối của 2 nhóm bệnh và đối chứng.
3.2. Khai thác và phân tích sâu
Ta tiến hành tìm kiếm thêm các trường hợp bệnh chưa được phát hiện, chưa ghi chép hoặc chưa có báo
cáo của các nơi nằm trong vùng dịch. Chú ý khai thác các trường hợp động vật không có triệu chứng
hoặc ở thể nhẹ, bằng các xét nghiệm phi lâm sàng.
Sau đó tiến hành phân tích các dữ liệu dựa trên kết quả thu nhận được, xác nhận giả thuyết bằng cách tập
hợp các dữ liệu để đề ra các giả thuyết mang tính thuyết phục. Rồi từ đó tiến hành các nghiên cứu can
thiệp và theo dõi tuỳ từng trường hợp cụ thể.
3.3. Báo cáo kết quả
Khi tiến hành viết báo cáo cần chú ý đặc biệt đến phần biện luận về tác nhân gây bệnh, các yếu
tố xuất hiện làm lây lan dịch, đánh giá các biện pháp đã áp dụng để kiểm soát và hạn chế dịch, đồng thời
đề xuất những biện pháp phòng chống dịch sau này.
4. Thứ tự của các bước tiến hành điều tra
Công tác điều tra dịch dịch tễ học thường được tiến hành theo những bước sau:
- Bước 1. Khẳng định có dịch
Sự khẳng định có dịch dựa trên nhận xét khi thấy số trường hợp bệnh xảy ra cao hơn số trường
hợp bệnh xảy ra trong cùng một thời kỳ (tháng trước, quý trước, năm trước) ở trong cùng một quần thể.
- Bước 2. Xác định chẩn đoán
Có thể dựa vào quan sát triệu chứng lâm sàng, nếu như thể hiện của bệnh điển hình. Ngược lại
nếu bệnh không điển hình cần làm các xét nghiệm phi lâm sàng để chẩn đoán (không phải xác định tất
cả, mà chỉ xác định khoảng 15 – 20% số mẫu).
- Bước 3. Định nghĩa ca bệnh và tính số ca bệnh
Phải xác định được định nghĩa của một ca bệnh, đây là bước cơ bản, là nền tảng của cuộc điều
tra. Phải được dựa trên những tiêu chuẩn lâm sàng hoặc tiêu chuẩn sinh vật học, cũng như sự xác định về
thời gian địa điểm và đặc trưng của gia súc mắc bệnh.
Nói chung định nghĩa ca bệnh tốt nhất phải nêu được nhưng tiêu chuẩn đặc trưng, đơn giản
nhưng lại chính xác đối với bệnh đó.
Tính số ca bệnh bằng cách thống kê các ca bệnh trong quần thể điều tra, kèm theo thu thập
thông tin giúp cho việc mô tả lịch sử tự nhiên của dịch như: tuổi, giống, loài, tính biệt, các dấu hiệu lâm
sàng, thời gian khởi phát, thời gian nung bệnh, thời gian kéo dài, mức độ trầm trọng của bệnh và phương
47
pháp điều trị.
Song song với việc đếm số ca bệnh (tử số) đồng thời phải xác định được số lượng của quần thể
(mẫu số) mà ta đang tiến hành điều tra (trong đó có các ca bệnh ta đang nghiên cứu). Tử số và mẫu số
này này sẽ được dùng để tính tỷ lệ tấn công của dịch.
- Bước 4. Sắp xếp các số liệu theo thời gian, địa điểm và đặc thù của loài động vật mắc bệnh
Về thời gian: Lập đường biểu diễn dịch tễ, biểu thị sự phân bố của các ca bệnh của ổ dịch theo
thời gian, thường lấy ngày phát hiện bệnh hay ngày chẩn đoán bệnh đầu tiên làm ngày khởi phát bệnh.
Về địa điểm: Các ca bệnh thường xảy ra ở một hay nhiều nơi. Cần mô tả cách phân bố địa dư
của các ca bệnh hoặc tỷ lệ tấn công của bệnh, từ đó cho phép xác minh những vùng có nguy cơ, vùng bị
đe doạ. Ngoài ra cần mô tả thêm điều kiện sinh thái của môi trường mà loài động vật đó đang sống
Động vật mắc bệnh: Cần mô tả các đặc trưng về loài, tuổi, giống, tính biệt…, điều kiện, tập
quán, phong tục chăn nuôi. Tất cả những thông tin có đó sẽ giúp cho việc dựng lên một hình ảnh đặc biệt
của quần thể các ca bệnh.
- Bước 5. Xác định loài động vật có nguy cơ
Sau khi tập hợp xong các tư liệu mô tả từ B1 – 4, người điều tra có thể chỉ ra được trong quần
thể điều tra loài động vật nào, nhóm nào có nguy cơ mắc bệnh cao.
- Bước 6. Hình thành giả thuyết để giải thích nguyên nhân ổ dịch và kiểm định giả thuyết này
Sau quá trình điều tra, nêu nguyên nhân mà chúng ta nghi ngờ làm bệnh xuất hiện, sau đó tiến
hành kiểm định giả thuyết này.
Có 2 phương pháp thử nghiệm để kiểm định:
+ Phương pháp ca bệnh - đối chứng: Phương pháp này dựa vào sự so sánh một nhóm ca bệnh
với một nhóm đối chứng, hai nhóm này cùng phơi nhiễm với một nhân tố nào đó.
+ Phương pháp thuần tập: Theo phương pháp này người ta tính tỷ lệ tấn công ở động vật đã tiếp
xúc với tác nhân nghi gây bệnh.
Sau khi kiểm định giả thuyết, có thể kết luận nguyên nhân làm bệnh phát sinh.
- Bước 7. Đối chiếu giả thuyết đã được chấp nhận với những sự kiện đã mô tả và được xác định
ở các bước trên
Sau khi đã sử dụng các phương pháp dịch tễ học và phương pháp thử nghiệm thống kê để kết
luận nguyên nhân làm dịch bệnh phát sinh, thì bước này chỉ cần đối chiếu giả thuyết đó với các dữ kiện
về lâm sàng, về các kết quả xét nghiệm… để củng cố và làm rõ thêm cho nhận định của người điều tra.
Cần chú ý khi đối chiếu phải có sự liên kết chặt chẽ và logic với nhau thì kết luận mới có tính thuyết
phục.
- Bước 8. Soạn thảo báo cáo kết quả điều tra và đề xuất những biện pháp phòng chống dịch
Đây là bước quan trọng cung cấp tư liệu điều tra, kết quả điều tra và những khuyến cáo cần
thiết. Bản báo cáo này được coi là kết quả của một quá trình nghiên cứu nên lý lẽ phải xác đáng, phân
tích phải dựa trên cơ sở khoa học của những kết quả thu được về các dữ kiện, về lâm sàng, xét nghiệm,
dịch tễ học. Từ đó làm sáng tỏ nguồn gốc dịch, các yếu tố truyền lây, thời gian, địa điểm xảy ra dịch
48
cùng loài động vật có nguy cơ và các vấn đề quan tâm khác. Báo báo cũng phải đề xuất được các biện
pháp phòng và chống dịch một cách cụ thể dựa trên cơ sở khoa học và thực tễ điều tra của vùng xảy ra
dịch. Bản báo cáo này còn có thể giúp ích cho việc giảng dạy môn dịch tễ học và dùng làm tài liệu tham
khảo cho các nghiên cứu sau này.
Chú ý: Các bước điều tra ở trên có thể tiến hành thứ tự theo từng bước, nhưng cũng có thể tiến
hành nhiều bước cùng một lúc và thứ tự có thể khác đi, tuỳ theo điều kiện và quá trình dịch xảy ra
III. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI NGUỒN BỆNH
Khi dịch chưa phát ra, nguồn bệnh là động vật mang trùng bao gồm động vật lành bệnh mang trùng và
động vật khoẻ mang trùng. Khi dịch đã phát ra trong phạm vi ổ dịch, nguồn bệnh có thêm động vật bệnh
và động vật nghi lây
1. Động vật mang trùng
Phải tìm mọi cách phát hiện bằng cách xét nghiệm VSV học, huyết thanh học, phản ứng dị ứng.
Khi phát hiện những con vật vật này cần được cách ly, không cho tiếp xúc với động vật khoẻ.
Nếu số lượng động vật mang trùng ít thì xử lý theo hướng dẫn của cơ quan thú y và pháp luật
về thú y. Nếu mang trùng nhiều thì đem nuôi nhốt tập trung vào một chỗ riêng biệt.
2. Động vật bệnh
Động vật bệnh là trung tâm của ổ dịch vì nó là nguồn bệnh, nó báo hiệu sự có mặt của các
nguồn bệnh tiềm tàng khác. Muốn dập tắt ổ dịch cần phải nhằm đối tượng chủ yếu và trước tiên là động
vật bệnh, phải phát hiện sớm bằng mọi cách, nếu chưa xác định được hoặc nghi ngờ vẫn phải có biện
pháp đề phòng lây lan.
Nguyên tắc nếu một động vật bệnh sốt chưa rõ nguyên nhân phải được nghi là mắc bệnh truyền
nhiễm.
Động vật bệnh được phát hiện phải được cách ly tại chỗ, kịp thời và triệt để. Trường hợp thấy
điều trị khó có kết quả hoặc tốn kém, hoặc khi con vật lành bệnh nhưng không có tác dụng kinh tế hoặc
thành con mang trùng thì nên xử lý ngay.
3. Động vật nghi mắc bệnh
Động vật mắc bệnh là động vật có triệu chứng, bệnh tích chưa rõ và chưa xác định được nguồn
bệnh hoặc là động vật ở trong vùng dịch mà có biểu hiện bỏ ăn, sốt.
Những con vật này cũng phải được xử lý như động vật mắc bệnh.
4. Động vật nghi lây
Động vật nghi lây là động vật đã tiếp xúc với động vật bệnh hoặc với ngoại cảnh có mầm bệnh:
nuôi chung, chăn chung, dùng chung đồ vật, đã tiếp xúc với các môi giới, với người có nhiễm mầm
bệnh…
Về nguyên tắc, mọi gia súc nuôi có thể mắc bệnh ở trong ổ dịch phải coi là động vật nghi lây.
5. Điều trị động vật bệnh
Chữa bệnh truyền nhiễm là một biện pháp tích cực vừa có tác dụng chống vừa có tác dụng
49
phòng vì vừa tiêu diệt mầm bệnh vừa tiêu diệt nguồn bệnh, hạn chế lây lan, hạn chế hiện tượng mang
trùng và ngăn ngừa được một số bệnh mạn tính. Trong khi điều trị phải vừa tiêu diệt mầm bệnh và độc tố
vừa nâng cao sức đề kháng.
* Nguyên tắc điều trị là:
- Điều trị sớm để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan.
- Điều trị mọi mặt, bằng nhiều biện pháp.
- Điều trị căn nguyên cơ chế là chủ yếu, kết hợp điều trị triệu chứng
- Điều trị lành bệnh, còn những gia súc trở thành mang trùng thì không nên điều trị
- Điều trị phải có quan điểm kinh tế, nếu chữa lâu dài, tốn kém mà cuối cùng vẫn mất giá trị thì
không nên điều trị.
- Những bệnh nguy hiểm cho người thì không tiến hành điều trị
- Những cơ sở dùng để chữa bệnh truyền nhiễm phải được cách ly tốt với xung quanh.
* Các phương pháp điều trị bệnh truyền nhiễm
- Công tác hộ lý: Tạo thêm điều kiện để gia súc chóng khỏi, hạn chế biến chứng và lây lan cho
gia súc khác bằng cách cho gia súc nghỉ ngơi, chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, bổ sung vitamin và khoáng chất,
chuồng trại vệ sinh sạch sẽ…
- Điều trị bằng kháng huyết thanh: Kháng huyết thanh được sử dụng dưới dạng huyết thanh
hoặc γ - globulin hoặc dưới dạng máu của con vật đã phục hồi. Kháng huyết thanh tác động đến mầm
bệnh hoặc độc tố của mầm bệnh. Ngoài tác dụng đặc hiệu do kháng thể đặc hiệu có trong huyết thanh
kháng huyết thanh còn có tác dụng không đặc hiệu đó là kích thích và tăng cường sức đề kháng của cơ
thể do sự có mặt của phức hợp Protein - muối khoáng.
Nguyên tắc dùng kháng huyết thanh là phải chẩn đoán chính xác trước khi dùng, chỉ dùng để
chữa bệnh cấp tính, phải tiêm sớm, tiêm liều cao và tiêm chậm.
- Điều trị bằng kháng sinh: Các loại kháng sinh có tác dụng kìm hãm hoặc tiêu diệt vi khuẩn
khác nhau, người ta có thể chia ra các nhóm sau đây:
+ Nhóm tác dụng ức chế tổng hợp thành tế bào, đại diện là Penixinlin và trong đó PenixinlinG
là dạng thường dùng nhất, ngoài ra còn có một số dạng bán tổng hợp của Pelixilin như: Penixinlin V,
Ampixilin…
+ Nhóm làm tổn thương thành tế bào, các chất này bám vào thành tế bào và làm tổn thương tính
thẩm thấu của thành tế bào, chúng tác động mạnh đến vi khuẩn gram âm: trong nhóm này có Tylosin,
Gramixidin S…
+ Nhóm ức chế tổng hợp protein, AND, ARN, các kháng sinh này tác động đến một trong các
bước của quá trình tổng hợp: đại diện Cloramphenicol, Erythomycin, Streptomycin…
+ Trước khi dùng kháng sinh phải tiến hành chẩn đoán, lúc đầu dùng liều cao sau hạ dần, cần
tiêm lặp lại liều để giữ hàm lượng cao trong máu. Nên dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để tăng tác
dụng và giảm độc.
50
Chú ý: khi dùng kháng sinh có thể làm cho phản ứng miễn dịch của cơ thể yếu đi.
- Điều trị bằng hoá dược: Các hoá dược phần lớn được dùng để để chữa triệu chứng, một số có
tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh mà không có hại cho cơ thể gia súc. Đặc biệt một số có tác dụng đến ký
sinh trùng đường máu, tiêu diệt chúng và làm cho cơ thể động vật sinh kháng thể. Các hoá dược đó được
tiêm cho những con khoẻ mạnh có thể gây ra một loại miễn dịch hoá học trong một thời gian nhất định
(Naganin, Trypanxin). Khi dùng hoá dược để chữa bệnh truyền nhiễm nên phối hợp một số loại hoá dược
có tác dụng bổ trợ cho nhau để tăng hiệu quả điều trị và giảm tính độc.
Hoá dược thường được tiêm dưới da hoặc vào mạch máu của con vật, tiêm dưới da thường
dùng cho những thuốc không gây hoại tử và phản ứng tại chỗ.
- Điều trị bằng protein: Khi tiêm một protein lạ vào cơ thể theo một liều lượng thích hợp nó sẽ
gây một kích thích không đặc hiệu làm tăng thân nhiệt, tăng bạch cầu, tăng hoạt động của hệ thống võng
mạc nội mô, biến đổi tính chất lý hoá của máu, làm tăng tiết men và trao đổi chất trong tế bào. Nó còn
gây phản ứng cục bộ giúp cơ thể thanh toán nhanh chóng hiện tượng viêm bệnh lý, thúc đẩy quá trình
thực bào.
Trong thú y, người ta đã dùng máu bò để chữa bệnh lợn con tiêu chảy, dùng lòng trắng trứng để
chữa bệnh Đóng dấu lợn.
- Điều trị bằng Vacxin: Một số bệnh truyền nhiễm của gia súc có thể chữa bằng vacxin chế từ
mầm bệnh phân lập được trên gia súc bệnh. Phần lớn những vacxin này chữa những bệnh mạn tính, cho
con vật suy yếu không còn phản ứng bảo vệ.
Vacxin kích thích cơ thể sản sinh kháng thể đặc hiệu và có tác dụng như một protein kích thích
cơ thể, làm cho tính phản ứng của cơ thể gia súc biến đổi, các cơ năng tạo kháng thể được tăng cường.
IV. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI YẾU TỐ TRUYỀN LÂY
Các biện pháp này có mục đích làm cho yếu tố có khả năng truyền lây không mang mầm bệnh.
Đối với yếu tố truyền lây là cơ giới ta dùng biện pháp tiêu độc thường xuyên hoặc định kỳ. Đối với yếu
tố truyền lây là sinh vật phải tiến hành tiêu diệt, ngăn cản chúng tiếp xúc với động vật thụ cảm.
Tuỳ theo phương thức truyền bệnh mà có những biện pháp khác nhau:
- Với bệnh truyền qua đường tiêu hoá: giữ gìn vệ sinh thức ăn, nước uống, đồng cỏ, khu vực
chăn nuôi, nguồn nước, bảo quản thức ăn tốt…
- Với bệnh truyền qua đường hô hấp: tránh làm nhiễm bẩn không khí, chuồng trại phải thoáng,
sạch sẽ, có ánh sáng, tiêu độc chuồng trại thường xuyên…
- Đối với bệnh truyền qua đường máu: phải tiêu diệt côn trùng, tiết túc hút máu và ngăn chặn
chúng tiếp xúc với động vật nuôi.
Nói tóm lại đối với yếu tố truyền lây chúng ta phải thường xuyên thực hiện các biện pháp vệ
sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh thân thể, chuồng trại, khu vực chăn nuôi, tiêu độc ngoại cảnh xung
quanh động vật nuôi. Đồng thời phải tiến hành tiêu diệt dã thú, chuột, côn trùng, tiết túc và xử lý xác
51
chết.
1. Tiêu độc
Tiêu độc là biện pháp nhằm loại trừ và tiêu diệt mầm bệnh ở ngoại cảnh bên ngoài cơ thể động
vật như vệ sinh tiêu độc chuồng trại, phương tiện dụng cụ chăn nuôi và các dụng cụ khác có thể trực tiếp
hoặc gián tiếp làm lây lan bệnh cho động vật hoặc gián tiếp gây ô nhiễm cho sản phẩm động vật.
Thông thường có các phương pháp tiêu độc sau:
- Tiêu độc cơ giới gồm quét dọn, lau chùi, cọ rửa hoặc cạo lớp ngoài của dụng cụ, nền
chuồng… Mục đích giảm bớt số mầm bệnh, giảm bớt những chất thích hợp cho sự tồn tại của mầm bệnh
và giúp phát huy tác dụng của phương pháp tiêu độc khác. Vì vậy tiêu độc cơ giới phải đi trước các
phương pháp khác và phải đi sau các các chất tiêu độc hoá học.
- Tiêu độc vật lý: Có rất nhiều biện pháp vật lý để tiêu độc như dùng sức nóng khô (đốt, phơi
khô, hấp khô…), sức nóng ướt: đun sôi, hấp Pasteur, hấp ướt, dùng tia cực tím, tia tử ngoại…
- Tiêu độc hoá học: Là biện pháp thường dùng nhất, có chất sát trùng tác động bằng cách làm
vón protein của VSV hoặc phá huỷ protein hoặc hoá hợp protein làm thành những chất không hoà tan
được. Các chất sát trùng thường chia làm 3 dạng: dạng bột, dạng khí, dạng lỏng. Các chất sát trùng đòi
hỏi phải có một đậm độ nhất định và thời gian tác động nhất định mới có tác dụng và tác dụng tăng lên
khi nhiệt độ được nâng cao.
- Tiêu độc sinh vật học: thường dùng phương pháp nhiệt sinh vật học. Do trong phân, nước
tiểu, chất độn chuồng có nhiều loại VSV lên men, làm cho nhiệt độ của đống phân ủ lên cao, có khi tới
750C. Với nhiệt độ đó kéo dài khoảng 15 ngày, có thể tiêu diệt phần lớn các VK gây bệnh không có nha
bào, virut, trứng giun sán và ấu trùng của chúng.
2. Tiêu diệt côn trùng tiết túc
Côn trùng tiết túc đóng vai trò là yếu tố tryền lây, một số còn là nguồn bệnh. Chính vì vậy tiêu
diệt chúng hoặc ngăn cản chúng tiếp xúc với động vật nuôi có tác dụng lớn đề phòng và chống bệnh
truyền nhiễm.
3. Tiêu diệt chuột
Chuột vừa yếu tố truyền lây vừa là nguồn bệnh, do vậy cần có biện pháp tiêu diệt và ngăn cản
chúng tiếp xúc với động vật nuôi, thức ăn và các dụng cụ chăn nuôi.
4. Xử lý xác chết
Một trong những yếu tố truyền lây quan trọng của ổ dịch là xác chết của động vật mắc bệnh
truyền nhiễm. Do vậy, phải có những biện pháp xử lý thích đáng thì mới ngăn chăn dịch lây lan.
Xác động vật chết do bệnh truyền nhiễm phải đem chôn, đốt ở những nơi xa khu dân cư, xa
nguồn nước, bãi chăn…
V. BIỆN PHÁP BẢO VỆ ĐỘNG VẬT THỤ CẢM
Các biện pháp này đều nhằm mục đích tăng cường sức đề kháng của gia súc chống lại mầm
52
bệnh. Trong chăn nuôi và thú y ta thường dùng các biện pháp sau.
1. Tăng cường sức đề kháng không đặc hiệu
Bằng cách giải quyết tốt khâu vệ sinh, thức ăn, nước uống, chăm sóc, nuôi dưỡng, sử dụng hợp
lý…
2. Chọn lọc và tạo giống có sức đề kháng
Con người bằng các phương pháp khoa học và tiên tiến hiện nay đã và đang tìm ra những giống
động vật nuôi có năng xuất cao và sức chống chịu với bệnh tốt.
3. Tạo miễn dịch chủ động bằng vacxin
Đây là biện pháp chủ động, tích cực, mang lại hiệu quả cao đặc biệt là đối với những nơi hay
xảy ra dịch, nơi có nguồn dịch thiên nhiên. Tiêm vacxin được thực hiện khi chưa có dịch (tiêm phòng)
hoặc khi đã có dịch (tiêm chống dịch). Các loại vacxin được dùng phổ biến hiện nay là Vacxin sống
nhược độc, Vacxin vô hoạt, giải độc tố.
- Cách sử dụng vacxin: Dùng đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tiêm đúng liều, đúng
cách, bảo quản đúng quy cách, dụng cụ tiêm phòng phải vô trùng… Vacxin chỉ nên tiêm cho những gia
súc khoẻ mạnh vì hiệu quả của vacxin phụ thuộc nhiều vào đáp ứng miễn dịch, tình trạng sức khoẻ của
gia súc, những gia súc còn non, gầy yếu, mắc bệnh, sắp đẻ không nên tiêm vacxin vì lúc này đáp ứng
miễn dịch không tốt.
- Phản ứng sau khi tiêm vacxin: Sau khi tiêm vacxin có thể xảy ra phản ứng tại chỗ hoặc toàn
thân.
+ Phản ứng cục bộ: Có thể do chất bổ trợ có trong vacxin, loại phản ứng này là tất nhiên và cần
thiết cho cho sự hình hành và đáp ứng miễn dịch, nó sẽ mất đi sau một gian hoặc chỉ để lại một cục u tại
chỗ. Có thể xảy ra khi vacxin nhiễm tạp khuẩn, chỗ tiêm chưa sát trùng tốt, thao tác tiêm chưa đúng.
+ Phản ứng toàn thân: Thuộc loại phản ứng dị ứng xảy ra nhanh sau khi tiêm, con vật có thể bị
sốt, run rẩy, nôn mửa, thở gấp. Nếu nhẹ sau một thời gian con vật trở lại bình thường, nếu nặng có thể
chết. Để tránh các phản ứng dị ứng nặng, sau khi tiêm phải theo dõi con vật cẩn thận trong vòng 6-8 giờ
đầu. Nếu có hiện tượng dị ứng phải can thiệp ngay bằng các thuốc: phenegan, adrenalin, ephedrin…
- Hiện tượng mất miễn dịch sau khi tiêm: Là những trường hợp đã tiêm vacxin nhưng sau một
thời gian ngắn không còn miễn dịch nữa, hiện tượng này có hai loại nguyên nhân.
+ Do vacxin không gây được miễn dịch, hoặc vacxin chỉ gây miễn dịch yếu nên miễn dịch
không tồn tại lâu.
+ Do cơ thể gia súc chỉ có khả năng đáp ứng miễn dịch yếu, nên miễn dịch không tồn tại lâu
hoặc gia súc không có khả năng đáp ứng miễn dịch hoặc trong cơ thể gia súc không có tế bào limphô,
không sản sinh được γ - globulin hoặc các cơ quan limpho chủ yếu bị tổn thương hay bị huỷ hoại.
4. Tạo miễn dịch bằng kháng huyết thanh
Tiêm kháng huyết thanh để tạo miễn dịch bị động cho động vật bởi ngay sau khi tiêm kháng
huyết thanh, cơ thể gia súc đã có khả năng chống được bệnh. Vì vậy kháng huyết thanh thường được sử
dụng trong trường hợp phòng bệnh một cách khẩn cấp cho gia súc chưa phát bệnh ở trong ổ dịch, gia súc
53
ở vùng trực tiếp bị dịch uy hiếp.
Tuy nhiên do thời gian miễn dịch sau khi tiêm kháng huyết thanh ngắn (1 - 3 tuần), nên sau
khoảng 10 ngày cần tiêm vacxin để tạo miễn dịch chủ động, lâu dài. Tiêm kháng huyết thanh thường áp
dụng cho những giống gia súc quý, phòng bệnh gấp, hay trước khi vận chuyển sang vùng khác…
Khi sử dụng cần tiêm đúng cách, đúng liều lượng
5. Tổ chức tiêm phòng
Công tác tiêm phòng phải được tiến hành theo một kế hoạch dài hạn, nhằm hạn chế và tiến tới
thanh toán một số bệnh truyền nhiễm. Khi lập kế hoạch tiêm phòng cần dựa vào tình hình dịch đã điều
tra được qua nhiều năm và khả năng phát triển đàn gia súc, kế hoạch cần nêu lên được:
- Số lượng động vật nuôi cần tiêm phòng định kỳ theo kế hoạch chung của cả nước
- Tình hình dịch của địa phương và các vùng lân cận
- Số lượng và loại vacxin cần tiêm phòng.
- Các vùng cần tiêm phòng gồm: các ổ dịch cũ, vùng biên giới, nơi tập trung động vật nuôi, các
vùng bị dịch đe doạ, các trại chăn nuôi tập trung
- Lịch tiêm phòng căn cứ vào mùa phát bệnh, độ dài miễn dịch của vacxin, thời gian sử dụng
gia súc và thời vụ có biến động nhiều nhất của đàn gia súc.
Nói chung nên tiêm phòng trước 1 tháng vào mùa dịch bệnh của động vật thường xảy ra. Ngoài
các đợt tiêm phòng chính, còn có các đợt tiêm phòng bổ sung.
Các đợt tiêm phòng phải thực hiện nhanh gọn, làm xong trong một thời gian ngắn. Phải đạt tỷ
lệ tiêm phòng cao và đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật.
VI. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRONG Ổ DỊCH
Căn cứ vào Pháp lệnh thú y, trong vùng dịch cần thi hành các biện pháp kỹ thuật sau:
1. Báo cáo có dịch
2. Xác định bệnh, xác định phạm vi ổ dịch
Để có thể chẩn đoán chính xác và xác định được phạm vi của ổ dịch ta cần lấy mẫu, chẩn đoán,
xét nghiệm bệnh.
Từ đó ra quyết định công bố dịch (tên bệnh, phạm vi có dịch, các biện pháp cần thi hành)
3. Thi hành quyết định công bố dịch
Thành lập ban chống dịch
4. Bãi bỏ quyết định công bố dịch
VII. CÔNG TÁC KHỐNG CHẾ VÀ THANH TOÁN DỊCH BỆNH
1. Để tự nhiên
Có thể để bệnh phát triển tự nhiên, thì sự lưu hành của bệnh cũng sẽ tự giảm mà không cần tác
động gì bởi tỷ lệ bệnh có thể giảm do sự thay đổi của tổng đàn giảm vì những con mắc bệnh đã bị chết
hoặc bị diệt hoặc do môi trường ngoại cảnh thay đổi mà không cần sự can thiệp của con người. Nhưng
54
đây không phải là biện pháp hoàn chỉnh.
2. Cách ly
Đối với động vật nhiễm bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh hoặc chưa nhiễm bệnh, khi nhập đàn
cần có thời gian cách ly. Thời gian cách ly này phụ thuộc vào thời gian nung bệnh của từng bệnh. Phải
đủ thời gian để sự nhiễm bệnh được bộc lộ, để động vật nhiễm bệnh trở thành không nhiễm bệnh. Có thể
điều trị hoặc không đối với động vật này.
3. Có thể giết hoặc tiêu huỷ
Việc giết hoặc tiêu huỷ áp dụng cho những động vật mắc bệnh ở thể mạn tính, những động vật
mang trùng, những động vật mắc bệnh mà sự lây lan làm nguy hiểm cho người và các động vật khác,
những động vật tiếp xúc với bệnh nguy hiểm.
4. Tiêm phòng vacxin tạo miễn dịch
Đối với vacxin chết có thuận lợi là an toàn, sản xuất nhanh khi có mầm bệnh mới. Nhưng hạn
chế là giá thành cao, tạo miễn dịch chậm, thời gian miễn dịch ngắn, hiệu quả kinh tế không cao.
Đối với vacxin sống có ưu điểm là tạo miễn dịch nhanh, thời gian miễn dịch duy trì được lâu,
hiệu quả kinh tế cao, giá thành hạ. Nhưng nguy hiểm vì dễ làm lây lan bệnh, nếu không cẩn thận có thể
trở thành cường độc. Khi kiểm tra không phân biệt được chủng do vacxin hay do chủng cường độc gây
bệnh trong tự nhiên.
5. Điều trị dự phòng
Điều trị những động vật mang trùng bằng các loại thuốc để hạn chế sự lây lan của bệnh. Dùng
kháng sinh diệt mầm bệnh hoặc trộn vào thức ăn để tăng khả năng chống bệnh và tăng khả năng sản xuất
của động vật nuôi.
Điều trị các vết thương, các vết cắn có thể là nguyên nhân gây nên nhiễm trùng, dùng thuốc diệt
ký sinh trùng trên cơ thể động vật và chuồng trại. Nhược điểm là nếu sử dụng không đúng liều lượng
kháng sinh và thuốc diệt ký sinh sinh trùng có thể gây nên tính nhờn thuốc của vi sinh vật và ký sinh
trùng gây bệnh.
Dùng kháng huyết thanh để tạo miễn dịch nhanh và tăng khả năng miễn dịch của cơ thể, nhất là
đối với những bệnh nguy hiểm.
6. Vận chuyển động vật
Trong thời gian có dịch, tuyệt đối không được vận chuyển động vật ra vào vùng dịch.
Nếu bắt buộc phải vận chuyển cần chú ý tránh xa những vùng đang có dịch bệnh, tránh không
cho tiếp xúc với những nơi nghi có ô nhiễm mầm bệnh.
7. Bãi chăn thả
Không để động vật nghi mắc bệnh chăn thả chung với động vật khoẻ hoặc động vật đã có miễn
dịch.
Nên tách đàn nhỏ để chăn thả, vì động vật trưởng thành thường thích nghi và có miễn dịch cao
hơn so với động vật non, do đó không nên chăn thả chung giữa động vật non và động vật trưởng thành.
Áp dụng các biện pháp cơ học, sinh học, vật lý, hoá học để làm giảm sự ô nhiễm của bãi chăn,
55
đồng cỏ tới mức cho phép.
Có chế độ luân phiên bãi chăn thả theo mùa và theo thời gian, vì như vậy đồng cỏ sẽ có thời
gian phục hồi, lại vừa phòng bệnh tốt.
8. Khử trùng, tiêu độc
Đối với các bệnh truyền qua loài côn trùng hút máu, có thể diệt bằng các loại hoá chất diệt côn
trùng hoặc làm thay đổi môi trường ngoại cảnh.
Khử trùng, tiêu độc chuồng trại bằng các hoá chất, thường xuyên vệ sinh tiêu độc dụng cụ, đồ
dùng chăn nuôi, thức ăn, nước uống.
Thức ăn nước uống có thể xử lý bằng nhiệt hoặc bằng kháng sinh. Với nước uống có thể cho
chất sát trùng nhẹ vào để tiêu độc.
9. Chọn giống
Lựa chọn đàn giống tốt, vừa có tính sản xuất cao lại vừa có khả năng đề kháng với ngoại cảnh
và có tính chống bệnh tốt.
Hiện nay, do áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, con người đã chọn lọc, lai tạo
56
được nhiều giống gia súc, gia cầm mới có khả năng chống đỡ hoặc không mẫn cảm đối với một số bệnh