
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
BÀI GIẢNG
GIÁO DỤC HỌC
Phú Thọ, 2025

PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁO DỤC HỌC
Chương 1: Giáo dục học là một khoa học
1.1.Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.1.1.Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
a. Định nghĩa hiện tượng giáo dục: Là hiện tượng truyền đạt và lĩnh hội những kinh
nghiệm xã hội lịch sử giữa các thế hệ, (kết quả là làm cho thế hệ sau phát triển hơn thế
hệ trước)
b.Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì:
- Hoạt động giáo dục xuất hiện, phát triển và tiến bộ cùng với sự tiến bộ và phát triển
của xã hội loài người.
+ Giáo dục ra đời do nhu cầu của xã hội, nhu cầu đó là chuẩn bị cho thế hệ sau tham
gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống con người.
+ Sự phát triển và tiến bộ của các hoạt động giáo dục diễn ra từ thấp lên cao, từ đơn
giản đến phức tạp tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định (cộng sản
nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa...).
+ Ở mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội lại đòi hỏi cần có những “tiêu chuẩn” cụ thể về nhân
cách. Do đó xã hội lại hình thành những mô hình giáo dục tương ứng.
Giáo dục một mặt mang tính phổ biến, phản ánh những giá trị văn hoá - đạo đức -
thẩm mĩ... chung nhất của nhân loại. Song ở mỗi nước, mỗi dân tộc giáo dục lại chứa
đựng những yếu tố truyền thống mang bản sắc riêng. Do vậy, khó có thể tìm thấy sự
trùng lặp tuyệt đối giữa hai nền giáo dục ở hai quốc gia khác nhau.
- Động lực thúc đẩy giáo dục phát triển chính là lao động sản xuất
+ Lao động sản xuất phát triển trên bình diện : Công cụ lao động, vật liệu, tinh chất
các loại hình lao động, phương thức quản lý lao động. Lao động sản xuất đòi hỏi giáo
dục phát triển về mục đích , nội dung, phương pháp,hình thức để chuẩn bị cho người
lao động đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
+ Lao động sản xuất phát triển đồng thời tạo điều kiện để giáo dục phát triển
+ Mối quan hệ giữa giáo dục và lao động là một dạng của mối quan hệ giữa kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
- Xét đến cùng thì đặc điểm phổ biến của giáo dục là ở chỗ nó tồn tại trong bất cứ
thời kì lịch sử nào của lịch sử xã hội, dù cơ cấu xã hội như thế nào. Trong bất kỳ xã
hội nào thì mục đích giáo dục cũng nhằm chăm sóc bồi dưỡng con người ở lứa tuổi đi
học.
Tóm lại: Xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải có giáo dục. Giáo dục luôn tồn
tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, ở đâu có con
người thì ở đó có giáo dục... Với tất cả những ý nghĩa đó, chúng ta có thể khẳng định:

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Nói cách khác, giáo dục là một hiện tượng
xã hội đặc biệt biểu hiện ở các mặt sau:
+ Sự nảy sinh và phát triển của giáo dục – một nhu cầu đặc biệt của xã hội loài người.
+ Tính quy định của xã hội đối với giáo dục - tính lịch sử và tính giai cấp của giáo
dục Jacques Delors đã viết: “Ý kiến ngày càng phổ biến cho rằng, sự đóng góp cho xã
hội loài người của giáo dục là thiết yếu, và giáo dục là một trong những công cụ
mạnh nhất mà ta có trong tay để nhào nặn nên tương lai”
(“Giáo dục cho ngày mai” – Tài liệu tổng kết nhân dịp 50 năm thành lập
UNESSCO – Người đưa tin UNESCO tháng 04/1996)
1.1.2. Các chức năng xã hội của giáo dục
a) Chức năng kinh tế - sản xuất
- Chức năng quan trọng nhất của giáo dục là chức năng kinh tế - sản xuất. Với chức năng
này giáo dục nhằm thực hiện nhiệm vụ tái sản xuất sức lao động xã hội, đào tạo sức
lao động mới khéo léo hơn, hiệu quả hơn để thay thế sức lao động cũ bị mất đi bằng
cách phát triển tiềm năng trí tuệ và khả năng lao động sáng tạo của con người.
- Giáo dục không thực hiện trực tiếp chức năng này mà thông qua con người, thông qua
hệ thống nguồn nhân lực mà giáo dục đào tạo nên.
- Để thực hiện tốt chức năng này giáo dục cần phải thoả mãn các yêu cầu sau đây:
+ Giáo dục phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - sản xuất ở từng giai đoạn cụ thể.
+ Xây dựng hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp với sự phát triển kinh tế -
sản xuất.
+ Đảm bảo cân đối trong đào tạo giữa cán bộ khoa học, kỹ thuật công nhân đả tránh
hiện tượng thừa thầy thiếu thợ.
+ Đào tạo người lao động có chuyên môn cao và phẩm chất chính trị đáp ứng yêu cầu
của sản xuất hiện đại.
b) Chức năng chính trị - xã hội
- Ở mỗi quốc gia, giai cấp cầm quyền nhà nước đó sử dụng giáo dục như một công cụ
mạnh mẽ, lợi hại nhất để
+ Khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin, kích thích hành động của
tất cả các lực lượng xã hội thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách nhằm duy trì
củng cố chế độ chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Tác động sâu sắc tới các mối quan hệ xã hội, tới sự phân chia các nhóm, các tổ chức,
các giai tầng xã hội.
+ Giáo dục XHCN góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, nghĩa là góp
phần xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, làm cho các tầng lớp xã hội xích lại gần
nhau bằng cách nâng cao trình độ văn hoá cho toàn thể nhân dân lao động, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc lựa chọn nghề nghiệp, việc thay đổi các vị trí xã hội.

Ngược lại, giáo dục của xã hội Tư bản lại có tác dụng tái tạo cấu trúc xã hội mang tính
giai cấp và đẳng cấp, duy trì và gia tăng những sự khác biệt và đối lập giữa các đẳng
cấp và giai cấp trong xã hội, bằng cách thực hiện một chính sách giáo dục phân biệt,
bất bình.
- Chức năng chính trị - xã hội của giáo dục nước ta được cụ thể ở các nội dung sau:
+ Trang bị, giáo dục cho thế hệ trẻ, cũng như toàn thể xã hội lý tưởng phấn đấu vì một
nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo định
hướng XHCN.
+ Thông qua việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá toàn dân, thông qua việc
đào tạo nguồn nhân lực góp phần xoá đói, giảm nghèo, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay
đổi cấu trúc lao động xã hội và tạo bình đẳng trong các tầng lớp dân cư.
+ Góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần “ do dân, vì dân”.
c) Chức năng tư tưởng - văn hoá
- Văn háa: “Văn hoá là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân loại sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn, các giá trị ấy nói lên mức độ phát triển của loài
người”. Các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần tồn tại ngay trong xã hội. Hiểu theo hệ
thống cấu trúc, giáo dục là một bộ phận của văn hoá - xã hội. Nhưng hiểu theo cơ chế
vận hành, giáo dục có chức năng truyền thụ những giá trị văn hoá - xã hội từ thế hệ
trước cho thế hệ sau.
- Với chức năng tư tưởng - văn hoá, giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng
một hệ tư tưởng chi phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong toàn xã
hội, xây dựng một trình độ văn hoá cho toàn dân bằng cách thực hiện phổ cập giáo dục
phổ thông với trình độ ngày càng cao cho toàn thể thế hệ trẻ và nhân dân lao động. Với
một nền giáo dục phổ thông tốt được phổ cập rộng rãi sẽ làm xuất hiện và bồi dưỡng
được những nhân tài cho đất nước.
+ Với mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục góp
phần bỗi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, học vấn cho mọi người, cho toàn xã hội.
Giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức
và ý thức công dân.
+ Giáo dục có vai trò lớn trong việc hình thành và phát triển ở thế hệ trẻ bản sắc văn
hoá, truyền thống dân tộc như tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái,
hiếu học, cần kiệm liêm chính...
+ Giáo dục góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống đạo đức, thế
giới quan, ý thức hệ về các chuẩn mực xã hội.
Tóm lại: Giáo dục thực hiện các chức năng xã hội của mình như một công cụ, phương
tiện để tái sản xuất sức lao động, cải biến cấu trúc xã hội, xây dựng nền văn hoá và hệ tư
tưởng xã hội. Có như vậy giáo dục mới đáp ứng được những đòi hỏi về sự phát triển của

những hình thái kinh tế - xã hội, về các quan hệ xã hội , các lực lượng sản xuất, các hình
thái ý thức xã hội khác... Giáo dục cũng góp phần làm thoả mãn những nhu cầu cơ bản
của con người: Nhu cầu học hành, được lao động sáng tạo, được phát triển và hoàn thiện
nhân cách. Có thể nói, giáo dục là một phúc lợi cơ bản, là đời sống tinh thần, là hạnh phúc
và niềm tin to lớn của mỗi thành viên trong xã hội.
1.2.Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp của giáo dục học
1.2.1. Đối tượng của giáo dục học
a. Định nghĩa}:Là quá trình giáo dục theo nghĩa rộng: Là quá trình toàn vẹn hình thành
nhân cách con người. Nó bao quát toàn bộ các tác động giáo dục và dạy học theo một
mục đích, theo một định hướng xác định và được tổ chức một cách hợp lí, khoa học
nhằm hình thành và phát triển nhân cách của người học.
b. Đặc điểm của quá trình giáo dục nghĩa rộng
+ Là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng, tình huống giáo
dục, dạy học, được tổ chức theo những quy trình xác định.
+ Là một dạng vận động xã hội, có quan hệ mật thiết với các quá trình khác ( kinh tế,
chính trị, văn hoá... ) nhưng được tổ chức một cách chuyên biệt (theo qui luật của quá
trình giáo dục).
+ Trong quá trình giáo dục bao gồm nhiều thành tố: mục đích giáo dục, nội dung giáo
dục, phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, người giáo dục, người được
giáo dục... luôn luôn tác động và quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó nhà giáo dục
giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục là chủ thể tích cực tự chiếm lĩnh giá trị văn
hoá và phát triển nhân cách của mình.
c.Cấu trúc quá trình giáo dục tổng thể:
- Quá trình giáo dục hay Quá trình sư phạm tổng thể gồm hai quá trình bộ phận: quá
trình dạy học, quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp).
+ Các quá trình này lại được phân chia thành các quá trình nhỏ hơn, ví dụ: quá trình
dạy học là sự thống nhất của quá trình giảng dạy và quá trình học tập; quá trình giáo
dục (theo nghĩa hẹp) là sự thống nhất của các quá trình tác động giáo dục và quá trình
tự giáo dục.
+ Quá trình dạy học: Chức năng trội là trang bị tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và năng lực
hoạt động trí tuệ cho người học. (Năng lực - Tài)
+ Quá trình giáo dục: Chức năng trội là hình thành phẩm chất đạo đức thế giới quan,
nhân sinh quan, lý tưởng, niềm tin, tình cảm, hành vi, thói quen và những phẩm chất
đạo đức cần thiết cho người học. (Phẩm chất - Đức)
+ Mối quan hệ: Tuy mỗi quá trình bộ phận lại có chức năng trội riêng nhưng hai quá
trình này không tách rời nhau mà luôn đan xen, thâm nhập vào nhau tạo nên tính