
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:” Tìm hiểu về tư tưởng thân dân của
Nguyễn Ái Quốc so với các bậc tiền bối.
Vấn đề này ngày nay được Đảng và Nhà
nước ta giải quyết như thế nào.”
Người hướng dẫn:
Th.S Lê Thị Hoa
Sinh
viên thực hiện:
Vũ Huy Phong
Mã SV: CQ 512404
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh_01
Hà nội, ngày 30
tháng 10 năm 2010
MỤC LỤC

A/ Tư tưởng “Thân dân”
I-/ Khái quát chung về tư tưởng thân dân
1. Nguồn gốc tư tưởng
2. Tìm hiểu chung về tư tưởng
II-/ Tư tưởng “Thân dân” của các nhà tư tưởng trước Hồ Chí Minh
1. Dòng tư tưởng Nho Giáo
2. Tư tưởng của Nguyễn Trãi
III-/ Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Thân dân”
IV-/ So sánh tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh và các nhà tu tưởng đi
trước
1. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh và dòng tư tưởng Nho giáo
2. Tư tưởng thân dân của Hồ CHí Minh và Nguyễn Trãi
B/ Vấn đề giải quyết tư tưởng “Thân dân” của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay
I-/ Những mặt tích cực đáng ghi nhận
II-/ Hạn chế, cần khắc phục
1. Hạn chế
2. Giải pháp bản thân
A – TƯ TƯỞNG THÂN DÂN

I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN”
1. Nguồn gốc tư tưởng
Tư tưởng thân dân đã tồn tại rất lâu đời, nó được kế thừa và phát huy qua các
thời đại.
Đầu tiên chúng ta phải kể đến dòng tư tưởng Nho Giáo có tư thời Xuân Thu -
Chiến Quốc(722 – 221 TCN) của Trung Hoa cổ đại. Nó đã được vận dụng và
truyền bá qua nước ta từ thời lập quốc. Tiếp nối dòng tư tưởng đó, qua mỗi thời đại
cuả nước ta nó có sự chuyển biến phù hợp với lối sống, văn hoá và trình độ phát
triển của mỗi thời kì.
Luồng tư tưởng “Thân dân” đã được coi trọng và được xem như là một ưu
sách để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Các triều đại phong kiến Việt
Nam độc lập trong lịch sử đều coi trọng vấn đề này trong việc ban hành các chủ
trương, chính sách,, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, luật pháp đến an ninh, quốc phòng,
ngoại giao… Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách “Khoan, giản, an, lạc”, triều Lý
có chính sách “Ngụ binh ư nông”, triều Trần có “Khoan thư sức dân”, “Chung chí
thành thành” và nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng, triều Lê quan niệm “Dân như
nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền”, vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong
Bộ luật Hồng Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử, nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê)
tổng luận, các triều đại đó đã “Lấy nghĩa mà duy trì, lấy dân để cổ kết, lấy trí để
trông coi, lấy tín để ngăn phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm cho thế
nước vững như núi Thái Sơn, bàn thạch. Chăm lo cho nước trở nên văn minh, dân
đến chỗ giàu thịnh là mưu hay trị dân, giữ nước; là kế xa sửa nước, chăn dân".
Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày nay" của Giáo sư, Tiến sĩ
Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày
nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I nhan đề " Nước Việt Nam cổ xưa
hay sự chinh phục của tính cách Việt , một đoạn viết khá hấp dẫn về nhà Lê và nhà
văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ đất bình
thường là Lê Lợi sáng lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ
(1428-1433), được một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là

Nguyễn Trãi giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc
gia thật mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong
những triều đại được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn
làm được những việc hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông
(1470 - 1497) soạn thảo, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí "con
người Việt" trong tổng thể các mối quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã
thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong
kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường
xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm
cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình
quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan
làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Thân dân" được nêu trong
điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế kỷ sau đó, khi nổ
ra cách mạng tư sản .
Như vậy, tư tưởng thân dân đã tồn tại rất lâu đời, gắn liền với các trang sử trọng
đại của dân tộc ta, nó được xem là một truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc. Nó bắt
nguồn từ truyền thống nhân nghĩa của con người, từ những giá trị tốt đẹp đúc kết
từ thực tiễn.
2. Tìm hiẻu chung về tư tưởng thân dân
a/ Thân dân là gì?
Tuy mỗi thời đại, mỗi dân tộc có một cách nhìn nhận khác nhau về tư
tưởng thân dân. Nhưng nhìn chung chúng ta có thể nhận thấy điểm chung của tư
tưởng thân dân đó là: Đây là một tư tuởng tiến bộ, coi trọng vai trò của nhân dân,
lấy dân làm gốc, gần gũi, chia sẻ khó khăn, đau khổ cùng nhân dân, tiếp cận nhân
dân dưới góc độ xem nhân dân là sức mạnh của cả dân tộc.
b/ Ý nghĩa của tư tưởng thân dân
Tư tưởng thân dân là cái gốc căn bản để xây dựng nên các chủ trương, chính
sách xã hội, pháp luật, an ninh quốc phòng, bảo vệ tổ quốc… Các triều đại trong
lịch sử của nước ta đã nhận rõ điều này, tuỳ vào mỗi thời đại có lối sống, văn hoá,
tôn giáo, chính trị riêng… những người đứng đầu đất nước dã biết cách vận dụng
nó để đưa ra các chính sách phù hợp, đứng đắn, họ đã biết cách vận dụng tốt tư

tưởng thân dân vào quản lý xã hội, phát triển kinh tế, chống giặc ngoại xâm…
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc
chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của
toàn dân. Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên thời Lý - Trần là những
minh chứng hùng hồn.
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số nhân vật tiến
bộ trong giai cấp phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... đã nhận thức
khá sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh chống ngoại xâm
cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng Đạo cho rằng "vua tôi đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của kháng
chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành thành", chí dân là bức thành giữ nước.
Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn
đã đề ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức dân làm kế rễ bén gốc". Đó là
điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù. Ông đã thấy vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân đối với vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng
học bay được cao là nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì
cũng như chim thường thôi". Như vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là
nhờ sự ủng hộ của quần chúng nhân dân tộc.
* Thân dân và "khoan thư sức dân"
Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong việc giữ nước, cho nên
ngay từ thời Lý việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của
nhân dân đã được khẳng định là điều quan trọng hàng đầu trong đạo trị nước.
Trong bài văn lộ bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt có viết: "Trời sinh ra dân
chúng; vua hiền tất hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân". Rồi đến bài Minh
bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi công đức của Lý Thường Kiệt:
"...làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy.
Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính
trọng... Thái úy biết dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho
nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng đến người
già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc như vậy
có thể gọi là cái gốc trị nước; cái thuật yên dân; sự đẹp tốt đều ở đấy cả". Và một

