
Câu 1. Em hãy chứng minh nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự
thay đổi theo thời gian là kết quả của quá trình so sánh, tìm kiếm mô hình lý
tưởng của Việt Nam.
1. Khái niệm
- Nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết
tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ
để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. (Điều 13 -
BLTTHS 2015).
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. ( khoản
1, Điều 31 - Hiến pháp năm 2013)
2. Nguồn gốc và sự phát triển của nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc chủ yếu từ mô hình tố tụng tranh tụng
(adversarial system) - là mô hình tố tụng điển hình trong hệ thống pháp luật Common
law, đặc biệt tại Anh, Hoa Kỳ, Canada, Úc, ...
Nguồn gốc của thuật ngF “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng Latin “praesumptino” hay
trong tiếng Anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đKng đắn
cho đến khi chưa có lý do bác bM vấn đề, hiện tượng đó. Từ điển Longman nêu rõ
trong lĩnh vực pháp luật, “presump” được hiểu là “chấp nhận một điều gì đó là đKng
cho đến khi nó được chứng minh là không đKng”
Trong tiếng Anh, thuật ngF “suy đoán vô tội” được dịch từ “presumption of
innocence” trong các tài liệu khoa hTc hay cụm từ “the right to bepresumed innocent”
trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Cội nguồn của nguyên tắc này từ thời
La Mã cổ đại khi Hoàng đế La Mã Justinian (thế kỷ VI tr.CN) ban hành một bản tóm
lược Luật La Mã được gTi là “Digest of Justinian”, trong đó có quy định về nguyên
tắc chung liên quan đến chứng minh thuộc về bên tố tụng (dân sự) “Ei incumbit
probatio qui dicit, non qui negat”- có nghĩa là “chứng minh là công việc thuộc về anh
ta, người khẳng định, chứ không phải là người phủ định”. Theo đó, trách nhiệm chứng
minh thuộc về bên tố cáo và người nào đi kiện thì người đó chứng minh trước. Sau đó,
các triều đại La Mã đã áp dụng nguyên tắc này trong quá trình xét xử hình sự và bắt

đầu khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội và một hệ quả tất yếu là bị
cáo luôn được coi là vô tội.
3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự thay đổi theo thời gian là
kết quả của quá trình so sánh, tìm kiếm mô hình lý tưởng của Việt Nam
Tiêu chí
Việt Nam Common Law
BLTTHS 2003 BLTTHS 2015
Quy định
hiến định
Điều 9 BLTTHS 2003:
“Không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án
kết tội của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật”
nhưng chưa nêu rõ
“nguyên tắc suy đoán
vô tội” với tên gTi và
các nội dung chi tiết
như BLTTHS 2015.
Điều 13 BLTTHS
2015 quy định rõ tên
là “nguyên tắc suy
đoán vô tội”, bao
gồm: Người bị buộc
tội được coi là không
có tội cho đến khi
được chứng minh
theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy
định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và
không thể làm sáng
tM căn cứ để buộc tội,
kết tội theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật
này quy định thì cơ
quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố
tụng phải kết luận
người bị buộc tội
không có tội.

Trách
nhiệm
chứng minh
Trong BLTTHS 2003,
trách nhiệm chứng
minh tội phạm được
quy định tại Điều 10
“Xác định sự thật của
vụ án
Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Tòa án
phải áp dụng mTi biện
pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án
một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ,
làm rõ nhFng chứng cứ
xác định có tội và
chứng cứ xác định vô
tội, nhFng tình tiết tăng
nặng và nhFng tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị
cáo.
Trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về
các cơ quan tiến hành
tố tụng. Bị can, bị cáo
có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh
là mình vô tội.”
BLTTHS 2015, song
song với Điều 13 còn
có các quy định trong
Điều 15 về “Trách
nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về cơ
quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội có
quyền nhưng không
buộc phải chứng
minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của
mình, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải áp dụng
các biện pháp hợp
pháp để xác định sự
thật của vụ án một
cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ,
làm rõ chứng cứ xác
định có tội và chứng
cứ xác định vô tội,
tình tiết tăng nặng và
tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
của người bị buộc
tội” cũng như các
quy định về lời khai,
lời nhận tội, quyền
im lặng …
HTc hMi mô hình tố
HTc hMi từ hệ thống tố
tụng tranh tụng
Common Law, như
Anh, Mỹ: nghĩa vụ
chứng minh thuộc về
bên công tố, bị cáo
không có nghĩa vụ
chứng minh mình vô
tội.
Theo như Wilmington
v. DPP (1935, UK) - án
lệ chủ chốt của Luật
Anh (“Common law”)
nơi Tòa Lá (House of
Lords) xác định rõ ràng
trách nhiệm chứng
minh tội lỗi là thuộc
bên công tố, và bị cáo
được coi là vô tội cho
đến khi có chứng minh
vượt qua mTi nghi ngờ
hợp lý.
Nguyên tắc tranh tụng
(Common law ) - Cụ
thể là sự đối tụng lẫn
nhau một cách bình
đẳng giFa bên buộc tội
và bên gỡ tội.
Vai trò của Thẩm phán:
Xem xét và quyết định
chứng cử 2 bên đưa ra,
chứng cứ nào thuyết
phục hơn. GiF vai trò
trung lập, là trTng tài

tụng tranh tụng
nhưng Việt Nam vẫn
giF mô hình tố tụng
thẩm vấn, thẩm phán
vẫn giF vai trò trung
tâm, tại phiên tòa,
thẩm phán là người
điều hướng phiên tòa,
và cũng là người
kiểm tra nhân chứng
thay vì là luật sư hai
bên. Tại phiên tòa,
vai trò của kiểm sát
viên và người bào
chFa hạn chế hơn so
với thẩm phán.
phán xử trong việc
tranh tụng. Tại phiên
tòa, thẩm phán có
nhiệm vụ điều khiến
phiên tòa, không tham
gia thẩm vấn, điều tra
hoặc nếu có chỉ tham
gia một cách mờ nhạt.
NhFng người tiến hành
tố tụng gồm: Thẩm
phán, Bên bào chFa
(bên đưa ra chứng cứ
gỡ tội), Bồi thẩm đoàn -
Công tố viên (bên đưa
ra chứng cứ buộc tội).
Vai trò của Luật sư -
Bình đẳng với Thẩm
phán và Công tố viên,
đặc biệt với Công tổ
viên được quyền bình
đẳng trong việc thu
nhập chứng cứ.
Ở Mỹ - dòng hT pháp
luật Common Law với
mô hình tố tụng tranh
tụng, bản chất của
nguyên tắc tại Mỹ nhấn
mạnh gánh nặng chứng
minh hoàn toàn thuộc
về công tố, với tiêu
chuẩn rất chặt chẽ là
“beyond a reasonable
doubt” (vượt quá nghi
ngờ hợp lý). Nếu còn

tồn tại bất kỳ nghi ngờ
hợp lý nào, bị cáo phải
được tuyên vô tội.
Trong mô hình tố tụng
tranh tụng, thẩm phán
và bồi thẩm đoàn giF
vai trò trung lập, hai
bên công tố và bào
chFa đối kháng trực
diện, còn các quyền
như im lặng, không
buộc tội chính mình,
quyền đối chất nhân
chứng và quyền có luật
sư được Hiến pháp bảo
vệ chặt chẽ. Chính vì
vậy, Hoa Kỳ coi
nguyên tắc suy đoán vô
tội như một “lá chắn”
để ngăn chặn sự lạm
quyền của nhà nước.
Trong giai đoạn xét xử
chính thức thì bên
nguyên đơn và bị đơn
có quyền tìm ra chứng
cứ thuyết phục thẩm
phán và bồi thẩm rằng
mình sẽ thắng kiện ->
Từ đó đảm bảo được
việc chứng minh tội
phạm được chính xác
và khách quan, đảm
bảo được quyền bào
chFa.