Bài thảo luận: Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay
lượt xem 7
download
Bài thảo luận "Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay" trình bày các nội dung sau: Lí luận chung về lãi suất và thực trạng điều hành lãi suất, quá trình điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất và đánh giá thành tựu, tồn tại của cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài thảo luận: Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 MỤC LỤC TRANG LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................2 A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT...................................................................................3 I. Tổng quan về lãi suất .......................................................................3 1. Khái niệm lãi suất:................................................................................. 3 2. Phân loại lãi suất .................................................................................. 3 3. Vai trò của lãi suất...........................................................................4 II. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam........................................6 1.Điểm lại chặng đường 10 năm đổi mới.........................................4 2.Chính sách lãi suất của Việt Nam hiện nay...................................8 B. QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH TỰU, TỒN TẠI CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................9 I. Quá trình .............................................................................................9 II. Đánh giá thành tựu tồn tại của quá trình điều hành lãi suất ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay .................................................................13 1. Thành tựu............................................................................................... 13 2. Hạn chế ................................................................................................. 14 III. Giải pháp định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam................13 1
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 KẾT LUẬN............................................................................................... LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một đòn bẩy kinh tế hữu hiệu. Nó là công cụ để đo lường “sức khỏe” của nền kinh tế. Căn cứ vào sự biến động của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Dựa vào lãi suất trong một thời kì để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Vậy vai trò của lãi suất thể hiện trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để “sức khỏe” của nền kinh tế luôn được đảm bảo? Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới “sức khỏe” của kinh tế nhưng có thể khẳng định rằng Ngân hàng nhà nước chiếm một vị trí không hề nhỏ. Vì Ngân hàng nhà nước là cơ quan tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ, trong đó có các chính sách về cơ chế điều hành lãi suất. Vậy Ngân hàng nhà nước đã điều hành lãi suất như thế nào? Những chính sách đã áp dụng có những thành tựu và còn tồn tại hạn chế gì? Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay Ngân hàng nhà nước có thay đổi nào để phù hợp không? Để trả lời cho những câu hỏi này nhóm 9 đã cùng nhau thảo luận về đề tài” Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt Nam từ năm 1995 đến nay” 2
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận còn nhiều thiếu sót mong thầy và các bạn đóng góp ý kiến để nhóm 9 chúng em có cái nhìn sâu sắc hơn về đề tài này. A.LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT I. Tổng quan về lãi suất: 1. Khái niệm: Lãi suất là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan chặt chẽ đến các phạm trù kinh tế khác, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất được sinh ra là bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn đó để phục vụ các nhu cầu sinh lợi của mình (trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng) trong khi người cho vay đã hi sinh quyền đó. Đánh đổi cho sự hi sinh quyền được sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của người cho vay chính là lãi suất. 2. Phân loại lãi suất a. Theo nghiệp vụ tín dụng của các tổ chức tín dụng: Lãi suất huy động : Là lãi suất quy định tỷ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn :Là loại lãi suất áp dụng với những khoản tiền gửi không xác định cụ thể thời hạn gửi tiền và thông thường lãi suất này thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn : Là loại lãi suất áp dụng với những khoản tiền gửi có xác định rõ thời hạn gửi tiền (3 tháng,6 tháng,12 tháng...) 3
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Lãi suất cho vay (LSCV): Là lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay ( về nguyên tắc trong điều kiện bình thường lãi suất cho vay không được nhỏ hơn lãi suất huy động để đảm bảo cho tổ chức kinh doanh tín dụng có lãi ) Lãi suất cho vay thông thường :Là loại lãi suất áp dụng với những khoản tín dụng thông thường (vay để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ,bổ sung vốn sản xuất...) Lãi suất cho vay ưu đãi :Là loại lãi suất áp dụng đối với một số đối tượng hoặc các dự án nằm trong kế hoạch ưu tiên của chính phủ Lãi suất nợ quá hạn :Là loại lãi suất áp dụng đối với những khoản nợ vượt quá thời hạn nợ theo thỏa thuận song người này chưa có khả năng thanh toán Lãi suất chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với khách hàng dưới hình thức triết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng Trung ương (NHTƯ) ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ (CSTT) (Lãi này dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường) Lãi suất thị trường liên ngân hàng: Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho vay vốn trên thị trường liên ngân hàng b. Theo cơ chế điều hành của nhà nước: Lãi suất trần(lãi suất sàn) : Là mức lãi suất cao nhất (thấp nhất)trong một khung lãi suất nào đó mà NHTƯ quy định để can thiệp vào hoạt động tín dụng nhằm bảo vệ quyền của người cho vay và người đi vay. Lãi suất cơ bản : Là lãi suất do NHTƯ công bố làm cơ sở cho các NHTM và tổ chức tín dụng (TCTD) khác ấn định lãi suất kinh doanh. c. Theo ảnh hưởng của lạm phát: Lãi suất danh nghĩa : Là mức lãi suất được công bố trên bảng niêm yết lãi suất, trên các hợp đồng tín dụng và các công cụ nợ 4
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Lãi suất thực: Là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ 3. Vai trò của lãi suất: Là công cụ khuyến khích tiết kiệm đầu tư. Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các kho ản tiết kiệm của chủ thể kinh tế, tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình thu nhập sau:Thu nhập = tiêu dùng + tiết kiệm Phương trình trên không những đúng với đặc điểm của hộ gia đình, các doanh nghiệp mà còn đúng với cả nền kinh tế quốc gia. Giả sử trong điều kiện của một nền kinh tế bình thường, tỉ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý để tăng tỷ lệ tiết kiệm cho nền kinh tế quốc dân thì biện pháp hiệu quả là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi để tăng thêm khoản tiết kiệm cho tổng thu nhập. Sau từ khoản tiết kiệm này họ sẽ hướng đầu tư gửi vào ngân hàng, vào quỹ bảo hiểm hay đầu tư vào chứng khoán khi thấy có lợi hơn. Như vậy, lãi suất là công cụ có hiệu lực để phân chia tỉ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách lãi suất là một bộ phận trong tiền tệ của nhà nước nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất phải trả cho khoản vay là các khoản chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đầu tư của doanh nghiệp. Lãi suất là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả các ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung cấp tín dụng và thanh toán, là công cụ của nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. 5
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Lãi suất tạo chi phí của người đi vay, vì vậy sự biến động của lãi suất có tác động đến đầu tư, đến tiêu dùng qua đó tác động đến các mục tiêu của kinh tế vĩ mô biểu hiện trong các trường hợp: Lãi suất thấp kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng tăng tổng cầu sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ. Lãi suất cao hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng giảm tổng cầu sản lượng giảm giảm giá thất nghiệp tăng nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại tệ. Như vậy bằng cách giảm lãi suất, NHNN có thể tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển.Tương tự ngân hàng có thể tăng lãi suất khi muốn thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lương, khối lượng tiền cần thi ết cho việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Lãi suất là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nền kinh tế. Lãi suất có tác dụng trong việc phân phối vốn. Đối với các dự án có mức độ rủi ro như nhau, dự án nào có lãi cao hơn thường thu hút được vốn nhanh hơn, nhiều hơn. Còn những dự án nào chứa đựng nhiều rủi ro thì phải trả lãi suất cao mới có khả năng thu hút được vốn. Như vậy bằng cách đưa ra những mức lãi suất khác nhau có thể tạo được sự phân phối các luồng vốn theo mục đích mong muốn. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế. Lãi suất là biến cố thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biến động đó của lãi suất, người ta có thể dự báo được các yếu tố khác cùa nền kinh tế, như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt của ngân sách, người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. II. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam: 6
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 1. Điểm lại chặng đường 10 năm đổi mới: 2. Chính sách lãi suất của Việt Nam hiện nay: Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, là một chỉ số kinh tế tổng hợp, chịu tác động bởi nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô, tài chính tiền tệ ở trong nước và ngoài nước. Các ngân hàng thương mại (NHTM) ấn định lãi suất kinh doanh (huy động và cho vay vốn) dựa trên cơ sở cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương (NHTW), xu hướng cung – cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi ro và lãi suất thị trường quốc tế. Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn; giai đoạn chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất thực dương, Giai đoạn Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất thoả thuận, giai đoạn thực hiện trần lãi suất cho vay. Từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản: Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ (cho đến ngày 31/10/2010 là 8%Quyết định số 2281/QĐNHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam). Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung – cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 8% – 6%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Tuy nhiên không phải lúc nào NHNN cũng có thể duy trì được vai trò lãi suât 7
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 trầnsàn của lãi suất tái cấp vốnlãi suất chiết khấu. Số liệu www.sbv.gov.vn ngày 26/10/2010: (%/năm) Lãi suất cơ bản 8% Lãi suất tái chiết khấu 6% Lãi suất tái cấp vốn 8% Lãi suất QB liên ngân hàng Thời hạn %/ năm Qua đêm 8.38 1 tuần 9.60 2 tuần 9.84 1 tháng 10.09 3 tháng 11.08 6 tháng 11.07 12 tháng 11.33 Có thể thấy, việc áp dụng cơ chế điểu hành lãi suất lãi suất cơ bản mang lại các mặt tích cực; đó là: (1) ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng, (2) cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, (3) thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng quát ta có thể rút ra một số nhận xét sau: (1)LSCB do NHNN công bố có tính hành chính, nó được làm cơ sỏ để xác định trần lãi suất cho vay, nhưng NHNN không có công cụ bảo vệ hữu hiệu cho mức lãi suất đã công bố nên trên thực tế khi thị trường khan hiếm vốn, các NHTM tìm cách lách trần lãi suất. (2)Trong suốt 2 năm qua, việc điều chỉnh LSCB ngay lập tức tác động trực tiếp đến dân chúng và DN bởi nó tác động trực tiếp đến lãi suất cho vay chứ không tác động gián tiếp như cách điều hành lãi suất của một số nước phát triển. (3)LSCB do NHNN công bố chưa thật sự phù hợp với diễn biến thị trường. (4)Về 8
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 nguyên tắc có thể thấy NHNN đang sủ dụng lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần và lãi suất tái chiết khấu làm lãi suất sàn, qua đó điều tiết lãi suất liên ngân hàng nằm trong biên độ trần sàn, tù đó gián tiếp tác động đến lãi suất cho vay của NHTM. Tuy nhiên do việc xác định quy mô tổng hạn mức chiết khấu và tái cấp vốn chưa thật sự linh hoạt theo diễn biến thị trường, đòng thời công cụ thị trường mở chưa thật sự phát huy hết vai trò của nó, nên hai công cụ lãi suất này không hiếm lần trở nên lạc long, mất vai trò sàn/trần của mình khi nhiều lần lãi suất liên ngân hàng liên tục vượt trần; hay nói cách khác NHNN không hoàn thành đầy đủ vai trò người cho vay cuối cùng thông qua công cụ lãi suất. B. B. QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH TỰU, TỒN TẠI CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. Quá trình: 1. Cải cách trong chính sách lãi suất từ giữa năm 2000 trở về trước Giai đoạn từ năm 1995 đến tháng 7/2000( cơ chế điều hành lãi suất trần) Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 19971998 ở các nước Đông Nam Á. NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất: Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi, lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các 9
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Trong năm1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 99) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999. Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn 0,05%/tháng so lãi suất tái cấp vốn. Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. (Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng). Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính, có nguy cơ làm suy yếu năng lực tài chính 10
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 của TCTD. 2. Tự do hóa lãi suất từng bước từ giữa năm 2000 đến nay Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến 5/2002(cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ) Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới. tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. 11
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Một điểm đáng chú ý nữa là LSCV của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Như đã trình bày, các ngân hàng đã chủ động xác định LSTG và LSCV từ thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản. Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. LSTG tiếp tục gia tăng. Đồng thời, ngay sau khi ra quyết định tự do hóa, lãi suất cho vay của các ngân hàng đã lập tức nhích lên. Quan điểm hoài nghi về tự do hóa lãi suất cho rằng, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”. Các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. Đặc biệt, các NHTM cổ phần dường như không thể giảm LSTG để giảm LSCV vì sẽ ngay lập tức bị người tiết kiệm rút tiền. Ngược lại, khi không còn trần về lãi suất hay giới hạn lãi suất cơ bản + biên độ, họ có thể có xu hướng tăng lãi suất huy động rồi đầu tư rủi ro cao (do tác động của lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại) trước sức ép cạnh tranh. Trong khi đó, những người ủng hộ đưa ra các lập luận tương tự như các lý lẽ ủng hộ cơ chế lãi suất cơ bản trước đây. Các nhà hoạch định chính sách hy vọng rằng lãi suất giờ đây sẽ phản ánh cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thế nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chí phí cho vay và rủi ro. Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn trong điều hành chính sách tiền tệ. TCTD ấn định lãi suất cho 12
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không được vượt quá mức lãi suất cơ bản cộng biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ. Giai đoạn từ 6/2002 đến năm 2006 (cơ chế lãi suất thỏa thuận) Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định. NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Theo Thống đốc NHNN Lê Đức Thúy, đây là một bước chuyển căn bản của VN trong việc điều hành lãi suất, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp với quan hệ cung cầu vốn thị trường, đồng thời nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các TCTD VN. Với cơ chế này, Nhà nước chính thức không can thiệp vào hoạt động điều hành lãi suất bằng việc ấn định lãi suất cho vay mà chỉ gián tiếp điều tiết lãi suất nhằm có lợi nhất cho nền kinh tế. Cơ chế này cũng giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng và giúp các ngân hàng nới lỏng các biện pháp bảo đảm tiền vay (thế chấp) đối với khách hàng. Ngày 30 tháng 5 năm 2002, NHNN đưa ra Quyết định số 546/2002/QĐNHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng áp dụng từ 162002là 0,60%/tháng (7,2%/năm). Năm 2003,mức chênh lệch giữa lãi suất trần và lãi suất sàn đã được nới rộng từ 0,05%/tháng tức là 0,6%/năm (tháng 3/2003) lên 2,4%/năm(tháng 6/2003) và tháng 9/2003 là 2%/năm. Năm 2004,mức lãi suất cơ bản là 0,625%/tháng và 7,5%/năm. 13
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 Năm 2005,mức lãi suất cơ bản là 0,65%/tháng và 7,8%/năm Năm 2006,mức lãi suất cơ bản là 0,6875%/tháng và 8,25%/năm Giai đoạn từ 2007 đến nay ( cơ chế lãi suất tự do) Năm 2007 NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Mức lãi suất cơ bản: 8,25%/năm Lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm Lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. 1/3/2007 NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân. Đầu năm 2008NHNN đưa ra quyết định số 187/2008/QĐNHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền trong lưu thông để kiềm dẫn đến NHTM đối mặt với khó khăn thiếu nguồn cung tiền đồng do đó lãi suất huy động vốn tăng cao. 26/2/2008 NHNN ra công văn số 02/CĐNHNN quy định trần lãi suất là 12%/năm.17/5/2008 quyết đinh số 16/2008/QĐNHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng việt nam được ban hành. Trong năm 2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản ,lãi suất tái cấp vốn , lãi suất tái chiết khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. 23/1/2009 chính phủ đã công bố gói kích thích kinh tế với mức lãi suất 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng kết thúc vào 31/12/2009. 31/12/2009 chính phủ dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn tăng lãi suất cơ bản bằng Việt Nam đồng từ 7% lên 8%/năm Trong năm 2010 NHNN đã ban hành thông tư số 03/2010/TTNHNN thông tư 07/2010/TTNHNN thông tư 12/2010 /TTNHNN cho phép tổ chức tín dụng được thực hiện cho vay bằng đồng việt nam đồng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. 10 tháng đầu năm mức lãi suất cơ bản là 8% còn 2 tháng cuối năm là 9% nhằm kiềm chế lạm phát. 14
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 II. Đánh giá thành tựu tồn tại của quá trình điều hành lãi suất ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay 1. Thành tựu: Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi. Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Những phản ứng tích cực của thị trường là cơ sở khẳng định tính đúng đắn của Thông tư 07, 13. Và những phản ứng này là một tín hiệu tốt để NHNN thực hiện những bước tiếp theo nhằm tự do hóa hoàn toàn lãi suất. 2. Hạn chế: Hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành LS chưa cao - Nguyên nhân: Năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. - Trên thị trường có sự cạnh tranh không lành mạnh. Biểu hiện là tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các NHTM. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Những động thái tiêu cực đó là nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong hệ thống tài chính. Các dự án trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng. Điều này là 1 trở ngại đối việc phát huy hiệu lực, hiệu quả của các chính sách 15
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 do NHNN đưa ra. - Bên cạnh đó, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng. Mức độ tự do của LS còn hạn chế: Một trong những lý do là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó. Việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất rất dễ gây ra mất ổn định trong nền kinh tế và khó có thể đảm bảo các mục tiêu của CSTT. Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột. Những tác động không mong muốn trong cơ chế truyền dẫn - Lãi suất thực dương là 1 tất yếu trong cơ chế tự do hóa lãi suất. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Để thu hút nguồn vốn, các ngân hàng có thể bước vào 1 cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động. Với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát. - Xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các 16
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế. Tính kỷ luật trong hoạch định các chính sách vĩ mô chưa cao, tình trạng mâu thuẫn của các mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra. Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác ( như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này. III. Giải pháp định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam Để tháo gỡ khó khăn,đòi hỏi rất nhiều chính sách không chỉ là việc giảm lãi suất của hệ thống ngân hàng.Các bộ,Nghành chức năng khác cũng cần tích cực đưa ra các giải pháp đòng bộ và thiết thực hơn để tháo gỡ đúng những khó khăn của DN đang gặp phải,bao gồm chính sách thuế,chính sách tiêu thụ hàng tồn kho Kiểm soát lạm phát luôn là mục tiêu kiên định của NHNN,nên NHNN xác định không thể chủ quan trong điều hành chính sách tiền tệ.Do vậy,trong điều hành,NHNN hết sức thận trọng,sử dụng đồng bộ các công cụ bên cạnh công cụ lãi 17
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 suất để điều hành lượng cung ứng tiền một cách linh hoạt qua các kênh,đảm bảo kiểm soát các chỉ tiêu tiền tệ,tín dụng phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và mục tiêu chính sách tiền tệ đề ra từ đầu năm Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành cơ chế lãi suất: Chính sách lãisuất phải đảm bảo Ngân hàng Nhà nước thống nhất quản lý một cách ổn định theo cơ chế định hướng còn các lãi suất cụ thể phải đi cơ chế thị trường trong cơ chế định hướng ấy. Tuy nhiên, nền kinh tế có định hướng xã hội chủ nghĩa.Nhà nước mà cụ thể là Ngân hàng Nhà nước nên làm rõ phần chính sách lãi suất để thực hiện các mục tiêu xã hội như chính sách đối với dân tộc vùng sâu vùng xa, chính sách xoá đói giảm nghèo xong việc đầu tư phải được rạch ròi cũng đã đến lúc phải giao cho Ngân hàng chính sách làm việc này được Ngân hàng xử lý cụ thể, chỉ như là các tổ chức tín dụng mới hoạt động tốt được mà cũng đúng với cơ chế lãi suất thực có của nước ta Công cụ lãi suất có hai mặt rất nhạy cảm. Tăng lãi suất tiền gửi có lợi cho tiết kiệm bất lợi cho đầu tư và ngược lại. Các nước công nghiệp mới châu Á điều hành công cụ lãi suất trong phát triển kinh tế với các chính sách không giống nhau thậm chí trái ngược nhau. Nhiều nước thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất, các nước khác chính phủ lại can thiệp mạnh vào khung lãi suất có nước lại sử dụng chính sách lãi suất thấp như Hàn Quốc, có nước lại thực hiện một chính sách lãi suất cao như Đài Loan. Một chính sách lãi suất cao có sự can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước, trong đó Nhà nước ổn định trần lãi suất cho vay. Chính sách lãi suất này về cơ bản được đánh giá tích cực có đóng góp nhất định vào việc kiềm chế làm phát và huy động tiết kiệm cho đầu tư phát triển trong giai đoạn vừa qua. Nên hạ mức lãi suất xuống cho ngang bằng với mức trung bình quốc tế, thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất để cho cung cầu thị trường tự thiết lập. Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy tại giai đoạn phát triển của VN hiện nay vẫn rất cần có sự can thiệp từ phía Nhà nước và việc hình thành lãi suất vẫn cần duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao hơn so với mức trung bình trên thị trường quốc tế. Tiếp tục giảm lãi suất cho vay: Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay rất cần vay vốn để đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Thế 18
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 nhưng, yêu cầu đó gặp khó khăn là lãi suất quá cao so với tỷ suất lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng chưa huy động được hết. Muốn tăng sức hấp dẫn đối với dân cư ngoài lãi suất chưa hợp lý còn phải đảm bảo tính ổn định và an toàn của giá trị đồng tiền. Để đạt yêu cầu đó, vấn đề quan trọng nhất là sản xuất kinh doanh phát triển thu chi ngân sách cân đối, tài chính quốc gia lành mạnh và hoạt động của ngân hàng phải có hiệu quả. Xu hướng giảm lãi suất cho vay, lãi suất huy động có tính tích cực nhiều hơn và suy cho cùng hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại đồng thời tạo được tâm lý ổn định của khách hàng bao gồm cả người gửi và người vay Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng: tiềm lực kinh tế và dự trữ ngoại tệ chưa đạt đến trìnhđộ phát triển nên vấn đề ổn định lãi suất càng chỉ nên đặt ra trong một khoảng thời gian nhất định ít nhất là một năm. Lý do là: sau một năm tỷ lệ lạm phát đã thay đổi đó là căn cứ để điều chỉnh lãi suất tín dụng. Hơn thế giảm bớt khối lượng hạch toán của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ổn định tâm lý khách hàng. Phân định rõ hơn nữa chức năng xã hội trong hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng theo hướng xoá bỏ triệt để một số chính sách biểu hiện bao cấp qua lãi suất tín dụng: Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng chỉ làm chức năng kinh doanh tiền tệ theo luật ngân hàng. Chuyên chức xã hội cho các tổ chức tài chính khác nhau, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… Muốn vậy, cần phải hạn chế và tiến tới xoá bỏ bao cấp của Nhà nước qua lãi suất tín dụng của ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng của Nhà nước. Chừng nào còn tồn tại bao cấp của Nhà nước qua tín dụng thì các ngân hàng thương mại chưa thể thực hiện chức năng tiền tệ theo đúng Luật Ngân hàng. Tính chủ động trong sản xuất kinh doanh của các chủ nhà băng vẫn còn hạn chế hiệu quả hoạt động của ngân hàng không thể hoạch toán rõ được về kinh tế và xã hội. Cần nhanh chóng tạo sân chơi bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh với các ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng thương mại liên doanh với nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung – cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực hiện 19
- Bài thảo luận Nhập môn Tài chính Tiền tệ Nhóm 9 kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính – tiền tệ ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính Bên cạnh việc điều hành có hiệu quả thị trường liên ngân hàng, NHNN cũng cần mạnh dạn mở rộng thêm kênh tái cấp vốn trực tiếp đến những ngân hàng thương mại đáp ứng được các tiêu chí an toàn, cạnh tranh lành mạnh, kinh doanh có hiệu quả và có trách nhiệm với cộng đồng, thông qua đó góp phần động viên các nỗ lực tham gia bình ổn thị trường vốn và lãi suất KẾT LUẬN Qua việc phân tích và nghiên cứu đề tài ta đã thấy rõ được vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường. Nó là công cụ điều tiết vĩ mô chính sách tiền tệ quốc gia, điều chỉnh cơ cấu, điều tiết tăng trưởng thông qua điều tiết tổng đầu tư. Nó thu hút ngoại tệ và đầu tư nước ngoài, giúp phát triển thị trường tài chính chứng khoán. Đề tài còn mang lại cho ta cái nhìn tổng quan về vai trò của ngân hàng nhà nước trong quá trình điều hành lãi suất. Trong quá trình điều hành đó ngân hàng nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết. Và trong bối cảnh nền kinh tế nhiều biến động như hiện nay đòi hỏi nhà nước phải có các chính sách, cơ chế điều hành lãi suất hợp lí và có hiệu quả hơn nữa để góp phần giúp Việt Nam phát triển theo kịp 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài thảo luận nhóm về ngân hàng ACB (Phần 5)
8 p | 828 | 385
-
Thuyết trình Bài thảo luận môn Tài Chính Doanh Nghiệp đề tài: Vận dụng phương pháp xác định chi phí sử dụng vốn để xác định và đánh giá chi phí sử dụng vốn của 1 công ty cổ phần đã niêm yết
25 p | 1125 | 238
-
Bài thảo luận: Các nhân tố ảnh hưởng đến cung - cầu trên thị trường ngoại hối ở Việt Nam hiện nay
20 p | 812 | 113
-
PHÂN HẠNG ĐẤT ĐAI( LAND CLASSIFICATION )BÀI 1
5 p | 258 | 76
-
Bài giảng Quản trị tài chính công ty Đa quốc gia: Chương 6 - ĐH Thương Mại
5 p | 47 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn