
Bàn về tính chính đáng chính trị
Tính chính đáng trong chính trị là vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp đến
hiệu lực thực thi quyền lực chính trị, cũng như hiệu lực của một mệnh lệnh,
chỉ thị phát ra từ một cơ quan quyền lực, liên quan trực tiếp đến sự ổn định
chính trị, phát triển của xã hội, quyết định thời gian tồn tại của chủ thể cầm
quyền. Đòi hỏi nâng cao tính chính của xã hội đối với các chủ thể cầm quyền
là yêu cầu khách quan ở mọi thời dại chính trị nói chung và trong quá trình
đổi mới ở nước ta nói riêng.
Phạm trù tính chính đáng đã được đề cập trong tư tưởng chính trị từ thời cổ đại,
nhưng chưa được nghiên cứu sâu. Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về vấn đề
này. Dưới đây là nghiên cứu bước đầu về phạm trù tính chính đáng trong chính trị.
1. Quan niệm về tính chính đáng của các chủ thể chính trị
Có nhiều hướng tiếp cận khác nhau về tính chính đáng, do đó cũng có nhiều quan
niệm khác nhau về tính chính đáng trong chính trị. Chúng tôi thấy, tính chính đáng
chính trị nổi lên một số đặc điểm cơ bản :
- Tính chính đáng chính trị là một biểu hiện của quan hệ chính trị, giữa các chủ thể
trong quan hệ quyền lực, quan hệ giữa cai trị và bị cai trị.
- Tính chính đáng chính trị liên quan đến danh vị, quyền hạn (vị trí, vai trò, quyền
và lợi) được xác lập của chủ thể quyền lực đối với khách thể quyền lực (các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội).
- Trong quan hệ quyền lực, các mục tiêu của chủ thể quyền lực, ngoài lợi ích của
mình thì đồng thời phải đáp ứng được lợi ích của khách thể (cộng đồng, xã hội).

- Một chủ thể quyền lực chính trị được coi là chính đáng khi quan hệ quyền lực đó
dựa trên sự đồng thuận giữa khách thể và chủ thể quyền lực. Một chủ thể chính trị
được coi là chính đáng hay không tuỳ thuộc ở chỗ xã hội có thừa nhận hay không.
- Cầm quyền và thực thi quyền lực chính đáng tạo nên sự phục tùng hoàn toàn tự
nguyện của các khách thể thực hiện quyền lực trên cơ sở niềm tin, sự chấp thuận
hoàn toàn của khách thể quyền lực.
Từ đó, chúng tôi bước đầu đưa ra quan niệm về tính chính đáng chính trị như sau:
Tính chính đáng chính trị là một biểu hiện của quan hệ chính trị, quan hệ quyền
lực, trong đó, các chủ thể này có vị trí và quyền năng với các chủ thể khác dựa
trên sự thừa nhận và sự phục tùng tự nguyện của các khách thể quyền lực, nhờ đó
nâng cao hiệu quả thực hiện và củng cố địa vị của chủ thể quyền lực chính trị.
Các chủ thể quyền lực ở đây là tất cả các chủ thể chính trị trong xã hội nói chung:
đảng chính trị, đảng cầm quyền và các cơ quan công quyền, tổ chức chính trị - xã
hội, công dân, cán bộ, công chức.
Khó có thể định lượng tính chính đáng, phần lớn chỉ có thể định tính tính chính
đáng. Tình trạng, mức độ của tính chính đáng thể hiện ở chỗ khách thể quyền lực
quay mặt đi hay ngoảnh mặt lại với chủ thể; tình trạng ổn định hay bất ổn định,
mâu thuẫn, xung đột giữa chủ thể và khách thể quyền lực, thời gian tồn tại của
khách thể quyền lực…
2. Các tiêu chí chung đánh giá tính chính đáng của các chủ thể chính trị
Theo chúng tôi, tính chính đáng của các chủ thể chính trị biểu hiện dưới những
tiêu chí chung sau đây:

a. Tính chính đáng của các chủ thể chính trị là cái thể hiện sự cần thiết, tất yếu,
tất nhiên
Từ xa xưa, khi lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, con người sống thành bầy
đàn, “ăn lông ở lỗ”, con người đã cần phải hiệp đồng với nhau để chống chọi với
thiên nhiên, duy trì cuộc sống, từ đó hình thành nên các bộ tộc, bộ lạc. Trong điều
kiện đó, phải có những người thay mặt cộng đồng đứng ra duy trì, điều hành hoạt
động của cả cộng động, và do đó, xuất hiện các tù trưởng, tộc trưởng, già làng,
trưởng bản đứng ra thay mặt cộng đồng điều hành hoạt động chung của cả cộng
đồng. Như vậy, khởi đầu trong đời sống, con người đã quan niệm sự hiện diện,
hoạt động chính đáng của cơ quan quyền lực công là sự cần thiết, tất yếu, tất
nhiên, hợp lý, thậm chí là chân lý1 phải có.
Theo quan niệm truyền thống về tính chính đáng (traditional), thời phong kiến, xã
hội thừa nhận nguồn gốc của quyền lực nhà nước, quyền lực của vua chúa là thứ
quyền lực siêu nhiên. Vua không phải là người thay mặt cho đa số, nhưng vua là
con trời, là người thay mặt thiên tử hành đạo. Vua có quyền nắm tất cả các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp để thực hiện cai trị thiên hạ, vua cha truyền ngôi
cho vua con là đương nhiên, tất yếu. Sự tuân thủ đó là bổn phận tuyệt đối, không
cần suy nghĩ của muôn dân2. Max Weber cho rằng bất cứ một nhà nước nào cũng
gắn với sử dụng quyền lực, nhưng không phải việc sử dụng quyền lực nào cũng là
chính đáng. Theo ông, tính chính đáng trước hết thể hiện ở tính truyền thống,
Weber gọi tính chính đáng dựa trên truyền thống là quyền lực của “ngày hôm qua
bất diệt - eternal yesterday”. Người dân có bổn phận phải tuân thủ quyền lực của
vua chúa chính là bổn phận tuân thủ quyền lực của thượng đế.
Lão tử quan niệm tính chính đáng là hợp tự nhiên, là hợp đạo, là hợp với những
quy luật tự nhiên phổ quát của vũ trụ. Một khi là tự nhiên và hợp đạo lý thì việc
cai trị trở nên dễ dàng, mệnh lệnh được tuân thủ một cách tự nhiên và tự nguyện,
là “trị mà như không trị” - “vô vi nhi trị”.

Các nhà tư tưởng thời cận đại, như J. Locke, Mông-tec-xki-ơ, J.J. Rut-so đều cho
rằng, con người từ khi sinh ra đã có những quyền bất khả xâm phạm - quyền tự do
công dân - họ là những công dân chính trị. Bất cứ nhà nước nào cũng gắn với
quyền lực, nhưng quyền lực nhà nước là quyền lực của dân, do dân ủy quyền, dân
nuôi nhà nước và do đó, nhà nước phải phục vụ dân, cán bộ nhà nước phải là công
bộc của dân. Nhà nước thực hiện được những nguyên tắc đó thì sự tồn tại nhà
nước đó là chính đáng. Nếu nhà nước vi phạm hợp đồng, có thể dân sẽ thay nhà
nước đó bằng một nhà nước khác.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp là
kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế, khi xã hội có sản phẩm dư thừa và bộ
phận người này chiếm đoạt sản phẩm lao động của bộ phận người khác. Giai cấp
nắm quyền lực kinh tế tất yếu trở thành giai cấp nắm quyền lực thống trị và quyền
lực của giai cấp thống trị bao giờ cũng được tổ chức thành nhà nước.
Theo Chủ nghĩa Mác, sự xuất hiện nhà nước vô sản và đảng vô sản nắm quyền
trong thời đại ngày nay là hoàn toàn chính đáng. Điều đó là khách quan khi mâu
thuẫn cơ bản giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với lực lực lượng sản xuất trở
nên gay gắt, xung đột, trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất; nhà nước tư sản trở thành lực lượng thối nát, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa trở thành lạc hậu, lỗi thời, thì đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản, giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, tất yếu dẫn đến
cách mạng vô sản và sự chuyên chính của giai cấp vô sản, nhà nước vô sản.
b. Tính chính đáng đồng nghĩa với sự thừa nhận, niềm tin, sức cuốn hút xã hội
Sự thừa nhận quyền lực là chính đáng đối với chủ thể chính trị (thủ lĩnh chính trị,
người đứng đầu một cơ quan quyền lực, một tổ chức chính trị hoặc chính trị - xã
hội, địa vị chính trị của công dân…) đó là sự thừa nhận của xã hội đối với các chủ
thể quyền lực đó.

Sự thừa nhận xã hội đối với một chủ thể xã hội hay chủ thể chính trị nào đó là sự
thừa nhận về danh vị (địa vị, chức danh trong các thang bậc của quyền lực) và
quyền hạn được làm những gì và không được làm những gì (nhiệm vụ, bổn phận,
quyền và lợi) trong hành vi của mỗi chủ thể chính trị, xã hội. Sự thừa nhận xã hội
là cái tạo cho mỗi chủ thể chính trị tính chính đáng. Trong quan niệm của Nho
giáo, “chính” là một phẩm chất hàng đầu, là giá trị đầu tiên và có tính khái quát
nhất mà nền chính trị cần vươn tới.
Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh tính chính đáng theo tiêu chí sự thừa nhận xã hội.
Người cai trị được coi là chính đáng khi họ chính danh, nhân chính, vi chính. Theo
Khổng giáo, “Chính” có nghĩa là chính đáng. Để duy trì được quyền lực, điều
quan trọng nhất là nhà vua phải giữ được đức tín, giữ được lòng tin của dân. Nếu
dân không tin chính quyền thì chính quyền phải được thay thế. Người làm đế
vương tuy rằng có uy quyền rất lớn, thế lực rất mạnh, nhưng không được lạm dụng
uy quyền và thế lực ấy mà làm điều tàn bạo. Vì “vi thiện bất đồng, đồng qui vu trị;
vi ác bất đồng, đồng qui vu loạn, nhĩ kỳ giới tai!” (làm điều lành cũng không
giống nhau, nhưng kết quả là trị; làm điều ác cũng không giống nhau, nhưng kết
quả là loạn, người phải lấy làm răn vậy thay!). Trong ba yếu tố lương thực, binh
bị, và dân tin chính quyền thì nếu bất đắc dĩ phải bỏ thì bỏ binh bị, lương thực chứ
không được bỏ lòng tin của dân. Dân đã tin thì thành ra cái thế lực rất mạnh, làm
việc gì cũng được.
Sự thừa nhận của xã hội về vị trí, vai trò, quyền lực chính trị đối với mỗi chủ thể
chính trị bao giờ cũng thể hiện ở niềm tin chính trị, sự tín nhiệm xã hội đối với chủ
thể đó. Chính niềm tin, sự tín nhiệm của khách thể với chủ thể quyền lực, với đảng
cầm quyền là cái tạo nên sức cuốn hút (charismatic) họ thực hiện quyền lực. Đây
cũng là một trong ba sự lý giải mang tính nội tại của Max Weber về sử dụng
quyền lực chính đáng. Nhưng để có được niềm tin, để xã hội giao quyền cho một
chủ thể nào đó và để có sự phục tùng nghiêm túc của khách thể đối với chủ thể