BỘ CÔNG THƯƠNG
CỤC THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TỔNG QUAN VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA WTO
LIÊN QUAN TỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN T
Triển khai nhiệm vụ thực hiện các cam kết của Việt Nam
với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong lĩnh vực thương mại điện tử
Hà Nội, tháng 10 năm 2008
3
TỔNG QUAN
Thương mại điện tử và Internet
Thương mại điện t đã hình thành t cuối những năm 60 của thế k trước với
việc trao đổi d liệu điện t giữa các doanh nghiệp lớn trên các mạng riêng.1 Tiếp đó,
mạng Internet hình thành vào cuối thập k80 tại Hoa Kỳ và tới m 1995 được chính
thức công nhận là mạng toàn cầu. Số người sử dụng Internet trên toàn thế giới tăng lên
nhanh chóng: năm 1994 là 3 triệu, năm 1996 là 67 triệu và năm 1998 đã là 100 triệu.2
Lĩnh vực kinh doanh và thương mại đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội tiềm tàng
của Internet. Mt mặt, Internet môi trường tuyệt vời để tiến hành các hoạt động
thương mại. Mặt khác, chính các hoạt động thương mi đã góp phần quan trọng vào s
phát triển cực k mau l của Internet.3 Thương mại điện tử dựa trên nền tảng công
nghệ Internet đã trở thành Con - đường - tơ - lụa - mới của thời đại kinh tế tri thức.
Hoạt động của một số tổ chức quốc tế liên quan tới thương mại điện tử
Ch mt thời gian ngắn sau khi Internet ra đời được ứng dụng trong việc trao
đổi d liệu thương mại, người ta đã nhn thấy h thống pháp luật quốc tế v thương
mại t ra không phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Internet xoá nhoà các biên
giới quốc gia, rút ngắn thời gian giao dịch tới mức gần như tức thời và có th cung cấp
nhiều dịch v theo thời gian thực, rất khó phát hiện người gửi thông tin trong khi
thông tin lại th sao chép phát tán cực k d dàng, v.v... Nhiều t chức liên quan
tới thương mại ngay lập tức nhận ra s cần thiết phải sửa đổi, b sung các quy định
quốc tế v thương mại trong môi trường mới.
Nhiều t chức thuc Liên Hợp quốc đã đi tiên phong trong việc nghiên cứu, ph
biến các lợi ích rủi ro, đề xuất các chính ch quốc gia quốc tế nhằm thúc đẩy s
phát triển của thương mại điện tử. Các t chức này cũng tiến hành đàm phán y
dựng các tho thuận đa phương v thương mại điện t. Chẳng hạn, Diễn đàn Liên Hợp
quốc v Thương mại và Phát triển (UNCTAD) nghiên cứu đề xuất các vấn đề phát
triển đã nhiều nghiên cứu giá tr v thương mại điện tử, đồng thời hàng năm
xây dựng Báo cáo Thương mại điện t toàn cầu. U ban Liên Hợp quốc v Luật
Thương mại quốc tế (UNCITRAL) xem xét các vấn đề pháp ngay từ năm 1996
đã y dựng Luật mẫu v Thương mại điện t, tạo cơ s pháp cho thương mại điện
t trên phạm vi toàn cầu.4 y ban Liên Hợp quốc về tiêu chuẩn quy trình kinh
doanh (UNCEFACT) ban hành các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử trên môi trường
Internet. Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đã nghiên cứu ban hành các quy
định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với môi trường mới. UN/ECE xem t
1 Các mạng giá tr gia tăng (Value Added Networks)
2 Thương mại điện tử, trang 42, Bộ Thương mại, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1999.
3 Chẳng hạn, phần lớnc website hàng đầu thế giới trực tiếp hoc gián tiếp tiến hành kinh doanh thu lợi nhuận,
t l các doanh nghiệp s dụng email trong kinh doanh rất cao, báo điện t cạnh tranh gay gắt và dần dần chiếm
ưu thế so với báo giấy truyền thống, quảng cáo trực tuyến đang lấn lướt quảng cáo trên truyền hình và các hình
thức quảng cáo khác, v.v...
4 Luật Giao dịch điện t của Việt Nam và các luật tương t của nhiều nước khác cơ bản dựa trên Luật mẫu v
Thương mại điện t của UNCITRAL.
4
các vấn đề về thuận lợi hóa thương mại, Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế
(OECD) quan m nghiên cứu các vấn đề về thuế, ITU OECD nghiên cứu đề
xuất việc tiếp cận tới hạ tầng sở viễn thông. OECD, ISO ITU nghiên cứu
ban hành các tiêu chuẩn k thuật. OECD xem xét các vấn đề về quyền riêng an
toàn trong giao dịch điện tử. Đặc biệt, ngay tnăm 1980 OECD đã ban hành “Hướng
dẫn về bảo vệ quyền riêng trao đổi dữ liệu nhân qua biên giới” triển khai
nhiều hoạt động nhằm thúc đy phát triển thương mại điện tử trong môi trường Internet.
Hoạt động của các tổ chức kinh tế thương mại khu vực
Năm 1998, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã đưa ra 10 nguyên
tắc chỉ đạo về thương mại điện tử, trong đó nhấn mạnh tới việc chính phủ đóng vai trò
tạo dựng môi trường mang tính hỗ trợ cho thương mại điện tử. Cũng trong m 1998,
Hội nghị Thượng đỉnh các nhà lãnh đạo của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái
Bình Dương (APEC) đã công bố “Chương trình hành động APEC về thương mại điện
tử”. Chương trình hành động này nhấn mạnh tới sự cần thiết phải hợp tác chặt chẽ giữa
các nền kinh tế APEC theo hướng chính phủ tạo môi trường thuận lợi về pháp lý, điều
hành, y dựng lòng tin gương mẫu đi tiên phong trong việc phát triển chính phủ
điện tử.5 Hội nghÁ-Âu (ASEM) ng rất quan m tới thương mại điện tử, nhấn mạnh
tới tầm quan trọng của việc thiết lập Cổng tng tin thương mại (the Single Window).
Hoạt động của WTO
Từ năm 1998 Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã triển khai c hoạt động
nghiên cứu về thương mại điện tử. Theo yêu cầu của c nước thành viên, Ban Thư
WTO đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vai trò của WTO đối với pt triển thương mại
điện tử. Nhiều ớc thành viên, cả c nước phát triển cũng n đang phát triển, đã tích
cực nghiên cứu tham gia nhiều cuộc họp nhằm hỗ trợ tốt nhất cho sự pt triển của
thương mi điện tử thông qua hthng c quy tắc thương mi đa biên chặt ch của WTO.
Sự kiện nổi bật nhất của WTO về thương mại điện tử cho tới nay việc Hội
nghị Btrưởng WTO lần thứ hai tổ chức vào tháng 5 m 1998 đã thông qua Tuyên
b của các B trưởng WTO v Thương mại điện t toàn cầu. Tuyên bố này bao gồm
ba nội dung bản. Nội dung thứ nhất WTO thừa nhận thương mại điện tử toàn cầu
đang phát triển nhanh chóng tạo ra các hội mới cho thương mại. Nội dung thứ
hai là Đại Hội đồng sẽ xây dựng Chương trình làm việc về Thương mại điện tử để xem
xét toàn bộ các vấn đề liên quan tới thương mại của thương mại điện tử toàn cầu. Đại
Hội đồng cùng với c quan liên quan của WTO sẽ triển khai Chương trình làm
việc này và báo cáo tới Hội nghị Bộ trưởng tiếp theo các khuyến nghị cần thiết để thúc
đẩy sự phát triển của thương mại điện tử. Nội dung bản thứ ba các nước thành
viên WTO sẽ tiếp tục duy trì hiện trạng không áp đặt thuế nhập khẩu đối với các sản
phẩm được cung cấp trên mạng.
Tháng 9 năm 1998, Đại Hội đồng đã thông qua Chương trình làm việc về
Thương mại điện tử. Theo Chương trình m việc y, Đại Hội đồng sẽ đóng vai t
trung m trong toàn btiến trình liên tục đánh giá, soát Chương trình làm việc
5 APEC đã thành lập Nhóm công tác về Thương mại điện tử (ECWG) tập trung vào hai chủ đề chính là bảo vệ
dữ liệu cá nhân và thương mại phi giấy tờ.
5
tại các khọp của mình. Đại Hội đồng sẽ chịu trách nhiệm xem xét các vấn đề chung
liên quan tới thương mại điện tử, cân nhắc mọi vấn đề liên quan tới thương mại và liên
quan tới nhiều quan chuyên môn. Đặc biệt, mọi khía cạnh của Chương trình làm
việc liên quan tới việc áp thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm được cung cấp trên
mạng sẽ do chính Đại Hội đồng xem xét.
Với mục đích triển khai Chương trình làm việc, thuật ngữ “thương mại điện tử”
được hiểu việc sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hay cung cấp hàng hoá dịch vụ
thông qua các phương tiện điện tử. Tuy nhiên, toàn b các cuộc thảo luận tại Đại Hội
đồng cũng như các cơ quan chuyên môn cho thấy các thành viên WTO hiểu thương
mại điện t theo nghĩa hẹp hơn giới hạn việc cung cấp sản phẩm thông qua các
mạng điện t, ch yếu Internet. Các thành viên cũng còn mơ h với khái niệm then
chốt trong quyết định v việc tạm thời chưa áp dụng thuế nhập khẩu. Trong văn bản
chính thức khái niệm này được th hiện bằng cụm t “electronic transmissons”. Nhưng
không cách hiểu thống nhất giữa các thành viên v cụm t này. Dựa theo toàn b
các tài liệu thảo luận của các thành viên Đại Hội đồng cũng như các cơ quan
liên quan, cụm t này th hiểu các sản phẩm được cung cấp trên các mạng điện
t, đặc biệt là Internet.
Từ tháng 5 m 2001 tới tháng 11 năm 2005 Đại Hội đồng đã tổ chức sáu cuộc
họp chuyên đề. Hai vấn đề chủ đạo xuyên suốt các cuộc họp này là vấn đề phân loại
các nguyên tắc định hướng cho sự phát triển của thương mại điện tử.
Việc phân loại một sản phẩm hay giao dịch nhất định hàng hóa hay dịch vụ
ý nghĩa lớn trong việc thực thi các hiệp định của WTO sẽ thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại (GATT) hoặc Hiệp định
chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). Cho tới nay, toàn bộ hệ thống các hiệp định
của WTO dựa trên nguyên tắc bản sau: một sản phẩm bất ksẽ phải hàng h
hữu hình hoặc là dịch vụ vô hình. Không một sản phẩm nào vừa là hàng hoá lại vừa là
dịch vụ, hoặc không phải hàng hoá ng không phải dịch vụ. Nếu một sản
phẩm hàng hoá tsẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATT, trong trường hợp
ngược lại nó sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS.
Do sự phức tạp, mới mẻ thay đổi mau lẹ của thương mại điện tử nên cho tới
nay Đại Hội đồng vẫn chưa thống nhất được sản phẩm hay giao dịch trong thương mại
điện tử, đặc biệt các sản phẩm số hoá được cung cấp trên Internet, hàng hoá hay
dịch vụ, hay là một dạng nào khác. Từ đó, các thành viên không thống nhất được sẽ áp
dụng hiệp định nào của WTO đối với các sản phẩm hay giao dịch này. Hơn thế nữa,
sau nhiều tranh luận bất phân thắng bại, đã xuất hiện khuynh hướng cho rằng việc
phân loại không cần thiết: thương mại điện tử vẫn phát triển nhanh chóng cho
WTO không biết phân loại thế nào. EU thành viên tích cực nhất ủng hộ quan điểm
cho rằng các sản phẩm số hoá được cung cấp trên mạng điện tử là dịch vụ.
Từ sự bế tắc trong vấn đề phân loại, Đại Hội đồng đã bị động khi thảo luận vấn
đề mang tính thực tiễn hơn do Hoa Kỳ khởi xướng, đó WTO cần thống nhất được
các nguyên tắc định ớng cho sự phát triển thương mại điện tử. Nếu các thành viên
đều nhận thức được tầm quan trọng to lớn của thương mại điện tử đối với tăng trưởng
kinh tế và phát triển thì họ cần tạo ra môi trường tự do, không phân biệt đối xử, rõ ràng
6
minh bạch và cạnh tranh lành mạnh cho sự phát triển của nó. Một trong những nguyên
nhân quan trọng giúp cho thương mại điện tử toàn cầu phát triển nhanh chóng có rất
ít quy định điều chỉnh lĩnh vực này. Cần phải tiếp tục duy trì hiện trng đó tạo ra
môi trường tự do hơn nữa thông qua cắt giảm thuế quan tự do hoá thương mại dịch
vụ. Khi các biện pháp hạn chế thương mại ng hoá dịch vụ quốc tế liên quan tới
thương mại điện tử hầu như biến mất thì ý nghĩa của việc phân loại cũng không còn.
Đáng lưu ý hướng đi thứ hai y cũng i vào bế tắc Đại Hội đồng không đạt
được bất kthoả thuận nào đối với cả vấn đề phân loại cũng như nguyên tắc định
hướng cho sự phát triển của thương mại điện tử.
Do sự bế tắc của Đại Hội đồng về vấn đề phân loại, các cuộc thảo luận tại Hội
đồng Thương mại Hàng hoá (CTG) Hội đồng Thương mại Dịch vụ (CTS) diễn ra
khá sôi nổi trong giai đoạn 1998 - 2000, nhưng sau đó cũng rơi vào ngõ cụt. Đề xuất
chung của cả hai hội đồng y WTO cần phải tiếp tục tự do hoá thương mại đối với
các sản phẩm hàng hoá dịch vụ liên quan tới thương mại điện tnhằm tạo ra hạ
tầng tốt nhất cho sự phát triển của nó, bao gồm các sản phẩm công nghệ thông tin theo
Hiệp định ITA cũng như các dịch vụ viễn thông, dịch vụ y tính, dịch vụ phân phối
nhiều dịch vụ liên quan khác. Chai hội đồng này đều đề xuất phải nghiên cứu k
hơn tác động của quy định tạm thời chưa áp dụng thuế nhập khẩu đối với các sản
phẩm được cung cấp qua biên giới trên các mạng điện tử. Một số thành viên phát triển
mong muốn biến quy định tạm thời thành nh viễn với cam kết ràng buộc về pháp lý.
Mối quan m lớn của hai hội đồng m thế nào để không tạo ra sự phân biệt đối xử
giữa các sản phẩm số hóa được cung cấp trên mạng với chính các sản phẩm y được
chứa trong các vật thể hữu hình và nhập khẩu qua biên giới.
Theo Chương trình m việc về Thương mại điện tử, Hội đồng TRIPs nhiệm
vụ “xem xét báo cáo các vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại điện tử”.
Những vấn đề này bao gồm bảo vệ thực thi quyền tác giả các quyền liên quan;
bảo vệ thực thi thương hiệu; các công nghệ mới sự tiếp cận tới công nghệ. Hội
đồng TRIPs đã mời đại diện của WIPO tham dự một số cuộc họp để cung cấp thông
tin về các hoạt động của WIPO gắn với thương mại điện tử.
Hội đồng TRIPS đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của tài sản trí tuệ đối với sự
phát triển của thương mại điện tử. Hoạt động thương mại diễn ra trên mạng nói chung
nội dung tài sản trí tuệ khá cao. Việc tạo ra một môi trường pháp đảm bảo dễ
dự đoán đối với các quyền sở hữu trí tuệ sẽ nuôi dưỡng sự phát triển của thương mại
điện tử. Quan điểm chung của Hội đồng là các nguyên tắc cơ bản của tài sản trí tuệ vẫn
còn tồn tại mặc dù công nghệ đang thay đổi nhanh chóng, còn ngôn ngữ được sử dụng
trong Hiệp định TRIPs nói chung trung lập với công nghệ. Một điểm đáng lưu ý
Hiệp định TRIPs được đàm phán trước khi c tác động của các mạng số hóa toàn cầu
đối với việc bảo vệ thực thi các quyền sở hữu trí tuệ trở thành một vấn đề đối với
cộng đồng quốc tế. Quan điểm chung cũng nhất trí về tầm quan trọng của cách tiếp cận
đa phương đối với các vấn đề tài sản trí tuệ nổi lên gắn với thương mại điện tử trong
thời đại Internet.
Hội đồng TRIPs ng thảo luận về công việc đã đang được triển khai
WIPO, đặc biệt là việc tổ chức này thông qua hai hiệp ước mới về quyền tác giả và các
vấn đề liên quan vào tháng 12 năm 1996, đó là Hiệp ước Quyền tác giả và Hiệp ước về