Báo cáo tốt nghiệp

Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển

KTNQD ở nước ta

1

Mục lục

Lời nói đầu :

Chương I:

Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển KTNQD ở nước ta.

I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở

Việt nam

1/ Đặc điểm và vai trò của KT ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay.

1.1/ Sự phân chia KT nhà nước, KT tư nhân và KTQD, KTND.

1.2/ Đặc điểm KTNQD ở nước ta.

1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé, nghèo nàn.

1.2.2/ Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu.

1.2.3/ Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao

động thấp.

1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định.

1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường.

1.3/ Vai trò của KT ngoài quốc doanh.

1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp

phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.

1.3.2/ Kinh tế NQD đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu.

1.3.3/ Kinh tế NQD phát triển góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà

2

nước.

1.3.4/ Kinh tế NQD là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh tế Nhà nước

giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động.

1.3.5/ Kinh tế NQD là thị trường để Ngân hàng huy động vốn vốn tín dụng

góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.

2/ Xu hướng phát triển của KT NQD ở Việt nam.

2.1/ Khu vực KT NQD có vốn đầu tư trong nước.

2.2/ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

II/ Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.

1/ Tín dụng Ngân hàng vàvai trò của nó đối với sự phát triển KT NQD ở

nước ta.

1.1/ Tín dụng Ngân hàng.

1.2/ Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của KT NQD.

2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới sự mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân

hàng đối với KT NQD.

2.1/ Môi trường kinh tế.

2.2/ Nhân tố pháp luật.

2.3/ Những quy định của Nhà nước và Ngân hàng Trung ương.

2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng.

2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng.

III/ Khái quát cơ chế tín dụng đối với KT NQD.

1/ Cho vay ngắn hạn.

1.1/ Cho vay từng lần.

1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.

2/ Cho vay trung và dài hạn.

3

2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư.

2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn.

2.3/ Cho vay trả góp.

2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.

2.5/ Cho vay thông quan các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

chương II:

Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng

ninh với KT NQD.

I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh.

1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.

1.1/ Lịch sử hình thành.

1.2/ Quá trình phát triển.

2/ Một số đặc điểm kinh tế xã hội của Quảng ninh.

II/ Thực trạng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Ngoại thương Quảng

ninh với thành phần KT NQD trong thời gian qua.

1/ Tình hình cho vay KT NQD tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng

ninh thời gian qua.

1.1/ Phân tích sự mất cân bằng giữa cho vay KTQD và KT NQD.

1.2/ Phân tích tình hình thu nợ.

2/ Những tồn tại rút râ trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng

Ngoại thương Quảng ninh với KT NQD.

Chương III

GiảI pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối

với KT NQD tạI chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.

4

I/ Định hướng về mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với KT NQD tại

chi nhánh NHNT Quảng ninh.

II/ Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng

đối với KT NQD tại chi nhánh NGNT Quảng ninh.

1/ Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với KT NQD.

2/ Thực hiện biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng cường kiểm

tra trong và sau khi cho vay.

3/Thực hiện các biện pháp bảo đảm trong kinh doanh tín dụng.

4/ Chủ động tìm khách hàng và chú ý đầu tư vốn cho các doanh nghiệp viên

doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài có kỹ thuật công nghệ hiện đại.

5/ Chi nhánh cần tích cức giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi và

bảo toàn vốn.

6/ Công tác cán bộ.

7/ Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ,

thể lệ tín dụng của Ngân hàng đối với KT NQD.

III/ Kiến nghị

1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước.

1.1/ Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình.

1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp là

kinh tế NQD.

1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng.

1.4/ Cần chấn việc cấp giấy phép kinh doanh.

2/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.

2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

2.2/ Đối với đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng.

2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng.

2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.

5

3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Trung ương.

3.1/ Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn.

3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát hoạt động nội bộ hoạt động tín dụng.

3.3/ Qui định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc

6

thực hiện nghiệp vụ tín dụng.

Lời nói đầu

Đ ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam

tháng 12 năm 1986 và nghị quyết 16/BCT ngày 15 tháng 08 năm 1988 của

Bộ chính trị đã đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần theo định hướng XHCN. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng

trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới đất

nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ: Tốc độ tăng trưởng kinh

tế trung bình 8.2%/năm, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, hoạt

động sản xuất kinh doanh được chấn chỉnh và đi vào nề nếp, các nguồn tiền

tệ tích tụ trong nền kinh tế đã được động viên khai thác bằng nhiều hình

thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển ...

Từ những kết quả trên cho thấy chủ trương phát triển nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Từ chỗ thấy được

vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế

của đất nước, Đảng và nhà nước ta bằng nhiều chính sách, biện pháp khuyến

khích tạo điều kiện giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực

bên trong và bên ngoài cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất

nước. Hiện nay ở nước ta có trên 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh

hàng năm đóng góp khoảng 51% GDP của cả nước.

Mặc dù được khuyến khích và hỗ trợ nhưng cho đến nay kinh tế ngoài

quốc doanh vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vấn đề nan giải nhất là

thiếu vốn. Vì kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn có qui mô nhỏ, mới được

hình thành không có khả năng tự mình huy động vốn để mở rộng sản xuất

kinh doanh. Trong khi đó hiện nay các Ngân hàng thương mại đang bị ứ

7

đọng vốn tín dụng và nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh

chiếm tỷ lệ cao. Do đó, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín

dụng đối với một Ngân hàng thương mại là vấn đề được quan tâm nhất hiện

nay, đặc biệt đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên và qua thời gian nghiên cứu công

tác tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân

hàng ngoại thương Quảng ninh tôi chọn đề tài : “Giải pháp mở rộng và

nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh

tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh ” cho bản luận văn tốt

nghiệp của mình. Vì thời gian nghiên cứu có hạn, nên trong nội dung của

bản luận văn về công tác tín dụng mà tôi đề cập chủ yếu tập trung vào khía

cạnh Ngân hàng là người cho vay, các khách hàng là người đi vay. Mặt khác

về kiến thức lí luận và trình độ khảo sát thực tế có hạn mặc dù đã hết sức cố

gắng, nhưng bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng

nghiệp để bài viết được hoàn thiện hơn.

Nội dung đề tài được chia thành 3 phần chính

Chương I

Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở

nước ta.

Chương II

Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh với kinh tế ngoài quốc doanh.

8

Chương III

Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng

Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi n hánh Ngân

hàng ngoại thương Quảng ninh.

Kết luận

Chương I:

Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển

kinh tế ngoàI quốc doanh ở nước ta

I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt

nam.

1/ Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta :

1.1/ Sự phân chia kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế quốc doanh,

kinh tế ngoài quốc doanh:

Phát triển kinh tế nhiều thành phần không phải là đặc điểm riêng có ở nước ta

mà nó đã trở thành một qui luật phổ biến trong sự phát triển kinh tế trên toàn thế

giới. Tuy nhiên, mỗi nước có những đặc điểm riêng của nó. Phát triển kinh tế ngoài

quốc doanh ở nước ta là đường lối chiến lược quan trọng, nhất quán và lâu dài trong

giai đoạn đầu chuyển sang kinh tế thị trường. ở đó, người ta có thể phân chia thành

kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân, kinh tế quốc doanh hay kinh tế ngoài quốc

doanh. Dù cho các cách phân chia như thế nào thì tựu chung vẫn có hai khu vực

kinh tế, đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân dựa trên hai hình

thức sở hữu chính đó là: Sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Ngoài ra còn có loại

hình thức kinh tế hợp doanh được hình thành do sự kết hợp giữa hai hình thức sở

9

hữu này.

ở nước ta, đại hội VII của Đảng cộng sản Việt nam khẳng định nước ta có các

thành phần kinh tế sau: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư

bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh thực hiện tốt

vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc

dân.

Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước

về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ vốn thuộc về nhà

nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của thành phần

kinh tế này là các doanh nghiệp nhà nước, đó là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư

vốn thành lập và tổ chức quản lí hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm

thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.(Luật DNNN -Điều 1).

Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm những

đơn vị kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo

nguyên tắc tự nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt của loại hình này

là các HTX. Đây là các tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu,

lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để

phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có

hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp

phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có qui

mô kinh doanh nhỏ.

Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà

nước với tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài.

Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư nhân

để thành lập doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc

công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần được pháp luật qui định.

Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là

10

doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng

chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của

công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty.

Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn

pháp định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của

mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình thức

kinh tế khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên kết giữa

các chủ thể kinh tế trong nước cũng như trong nước với nước ngoài.

1.2/ Đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta :

Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình“quốc

doanh hoá”và“Tập thể hoá”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gần như bị

xoá bỏ . Kinh tế ngoài quốc doanh mới thực sự khởi sắc sau khi có luật doanh

nghiệp tư nhân và luật công ty được nhà nước ban hành năm 1991. Chính những

biến cố lịch sử trên nó đã quyết định nên đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài

quốc doanh ở nước ta.

1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn:

Đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các yếu tố của quá trình tái sản

xuất chỉ thuộc phạm vi sở hữu của một hoặc một số cá nhân, do đó đặc điểm đầu

tiên của kinh tế ngoài quốc doanh là sự hạn chế về qui mô nguồn vốn. So với kinh tế

quốc doanh được sự hỗ trợ của nhà nước về vốn thì kinh tế ngoài quốc doanh có một

lượng vốn tiền tệ nhỏ hơn rất nhiều. Đây là một hạn chế rất lớn cho kinh tế ngoài

quốc doanh trong quá trình cạnh tranh bởi vì đối với bất cứ một doanh nghiệp thuộc

loại hình kinh tế nào, hoạt động trên lĩnh vực nào của nền kinh tế thì vốn vẫn luôn

luôn là một yếu tố quan trọng hàng đầu.

Với một khối lượng vốn lớn, chủ doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện đầu tư

đổi mới dây truyền công nghệ, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình

11

sản xuất và khi cần thiết có thể nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh doanh.

Đây là một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp đứng vững trong quá trình

cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Do vậy, để có thể tồn tại và phát

triển cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta rất

cần có sự trợ giúp về vốn từ phía các tổ chức tín dụng mà cụ thể là từ các Ngân hàng

thương mại.

1.2.2/Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu:

Trình độ công nghệ quyết định năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh

của sản phẩm trên thị trường. Nhưng do qui mô nguồn vốn của kinh tế ngoài quốc

doanh nhỏ, nên dẫn đến sự hạn chế đáng kể trong việc tăng cường trang bị cơ sở vật

chất kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

có công nghệ tiên tiến, hiện đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh,

công ty có vốn đầu tư nước ngoài mới được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn

hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công nghệ thủ công,

dây chuyền thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Theo số liệu điều tra năm 1998 chỉ có

25% số doanh nghiệp và 20,5% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại ,

33,5% số doanh nghiệp và 18,7% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền

thống, 38,5% số doanh nghiệp và 60,5% số công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ

truyền thống và công nghệ hiện đại.

Hơn nữa, trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong nhiều

năm trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả năng tiếp

xúc với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc trong thời kỳ này

là tự sản xuất ở trong nước hoặc nhập khẩu từ đông âu, Liên xô cũ. Trong thời gian

gần đây nhà nước đã thành lập uỷ ban quốc gia về chính sách công nghệ, đã nhập

được một số dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, song còn hạn chế ở một số

lĩnh vực nhất định. Theo điều tra, hầu hết các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh đều

không chú ý tới việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vì phải đầu tư vốn lớn và sợ

12

giá thành sản phẩm cao.

1.2.3/Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao động thấp:

Ra đời từ một nền kinh tế hậu chiến và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung

khi chuyển sang cơ chế thị trường, các ông chủ và người lao động của khu vực kinh

tế ngoài quốc doanh phần lớn chưa qua các khoá đào tạo chính qui có tổ chức, chưa

có kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh, trình độ hiểu biết pháp luật thấp, đặc biệt

là hiểu biết về các qui định theo thông lệ quốc tế trong kinh doanh thương mại,

thanh toán còn nhiều hạn chế. Điều này làm hạn chế tầm nhìn chiến lược và tính

khoa học trong khâu tổ chức và thực hiện sản xuất kinh doanh, gây khó khăn cho

doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại quốc tế và trong trường hợp có điều

kiện áp dụng các kỹ thuật hiện đại và tiên tiến.

1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định:

Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế trì trệ không tạo

được động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc

doanh nói riêng phát triển. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế vận hành theo

cơ chế thị trường, các thể chế kinh tế và pháp lý chưa được xác lập, hoàn thiện và

phát triển một cách đầy đủ nên đã ảnh hưởng lớn đến các cơ sở kinh tế ngoài quốc

doanh trong việc xác lập phương hướng sản xuất kinh doanh và chiến lược đầu tư.

Phương hướng kinh doanh chủ yếu hiện nay là “đánh quả”. Các doanh nghiệp kinh

doanh trong các ngành kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ, vàng bạc chiếm trên 2/3

tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ gần 1/3 là lĩnh vực sản xuất. Đây là một

cơ cấu chưa cân đối, đặc điểm này gây trở ngại rất lớn cho các Ngân hàng trong việc

mở rộng cho vay vốn vì các Ngân hàng không muốn đầu tư vốn đối với các khách

hàng có phương hướng sản xuất kinh doanh không ổn định.

1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường:

Do quá trình ra đời, hoạt động và phát triển luôn gắn liền với nền kinh tế thị

trường nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhanh chóng nắm bắt và thích nghi

13

với những biến động của nền kinh tế, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời để

chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Mặt khác ở thành phần kinh tế này tính tự chủ

và khả năng quyết đoán cao là những điều kiện thuận lợi cho họ trong việc chủ động

khai thác nguồn nguyên vật liệu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá, tất cả đều

hướng tới một phương án sản xuất kinh doanh tối ưu nhất với chi phí đầu vào tối

thiểu và thu nhập đầu ra tối đa nhằm tối đa hoá lợi nhuận bằng cách thoả mãn kịp

thời và đầy đủ mọi nhu cầu của thị trường.

Tuy nhiên, do tính năng động và tự chủ cao, trong quá trình cạnh tranh dễ đẫn

đến mạo hiểm và gây ra rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Nếu thiếu sự

điều tiết, hướng dẫn của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp này có thể sẽ dễ

dàng bỏ qua những qui định, nguyên tắc do nhà nước đặt ra để chạy theo lợi nhuận

trước mắt, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế và xã hội của đất nước.

1.3/ Vai Trò của kinh tế ngoài quốc doanh:

Chính sách và chủ trương mới của Đảng và nhà nước trong việc chuyển

đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo

tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển nhanh chóng của kinh tế ngoài

quốc doanh ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể tham gia cho

dù là kinh tế quốc doanh hay là kinh tế ngoài quốc doanh đều chịu sự chi phối,

điều tiết bởi hàng loạt các qui luật của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế

thị trường đánh giá và chấp nhận các thành viên tham gia thị trường không phải

căn cứ vào tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất mà căn cứ vào kết quả sản xuất

kinh doanh của các thành viên, các thành viên đều bình đẳng trong sự sàng lọc

của cơ chế thị trường. Trong môi trường kinh doanh đó, kinh tế ngoài quốc

doanh có tính tự chủ, năng động và sáng tạo đã nhanh chóng thích nghi với

những biến đổi thường xuyên của thị trường và ngày càng khẳng định vai trò

không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế.

1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp

14

phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội:

Nếu nhìn từ góc độ tạo việc làm và thu nhập cho người lao động thì vai trò

đặc biệt quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh là đảm bảo việc làm, thu nhập và

nâng cao đời sống cho đại đa số người lao động. Với qui mô nhỏ vốn đầu tư không

lớn lắm, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình hay một số cổ đông

liên kết lại hoặc dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cùng với

việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động thì đây là nơi cung cấp

nhanh nhất giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp có

quy mô lớn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế tập thể bị thu hẹp

dần, kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng

và qui mô hoạt động thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh

vực sản xuất vật chất và dịch vụ như: sản xuất vật liệu xây dựng, điện tử, may mặc,

cơ khí, thủ công mỹ nghệ ...

Trong 4, 5 năm trở lại đây cùng với số lao động được giải quyết thêm việc

làm bằng nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước khoảng 40 - 50 vạn lao động

mỗi năm, còn có thêm 80 - 85 vạn lao động có thêm việc làm do các đơn vị kinh tế

tư nhân bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Đây là biểu hiện cụ thể của

phương châm đúng đắn “nhà nước và nhân dân cùng làm” do Đảng và Nhà nước ta

đề ra. Theo số liệu của bộ lao động thương binh xã hội tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị

giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994, hàng năm có khoảng gần một

triệu lao động có chỗ làm việc mới được tạo ra trong cả nước chủ yếu nhờ vào khu

vực kinh tế này.

BảngI: Số lao động được sử dụng trong ngành công nghiệp của

Kinh tế ngoài quốc doanh

Đơn vị : người

Thời kỳ 1995 1996 1997 1998

63.604 63.625 62.807 54.452 Tổng

5.237 5.246 4.968 4.376 1.Kinh tế tập thể

15

1.035 848 934 910 2.Kinh tế tư nhân

46.847 45.639 42.206 36.36 3.Kinh tế cá thể

10.488 11.892 14.694 12.806 4.Kinh tế hỗn hợp

1.3.2/ Kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch

vụ phục vụ tiêu dùng trong nưóc và xuất khẩu:

Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về ngành nghề về qui mô

và hình thức kinh doanh đã thực sự bù đắp những thiếu hụt, những lỗ hỗng của nền

kinh tế do sự phá sản, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của hàng loạt các doanh

nghiệp nhà nước, khơi dậy tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của nhân dân để phát

triển sản xuất tạo ra sự sống động cho nền kinh tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư

nước ngoài và đóng góp đáng kể cho quỹ hàng hoá tiêu dùng và một phần đáp ứng

cho nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp.

Đại bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản

xuất hàng tiêu dùng và cung ứng dịch vụ hoặc trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá.

Trong những năm vừa qua, khối lượng hàng hoá và dịch vụ do kinh tế ngoài quốc

doanh cung ứng cho nền kinh tế nước ta đã chiếm một tỷ trọng đáng kể so với tổng

sản phẩm của cả nước và khối lượng đó có xu hướng ngày càng tăng lên. Hàng hoá

do kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra không những góp phần bổ sung vào quỹ hàng

hoá tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới.

Trên lĩnh vực lưu thông hàng hoá, sự có mặt của tổ chức thương nghiệp ngoài quốc

doanh đã tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá được thông suốt, hàng hoá trên thị

trường luôn phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở

mọi nơi và mọi lúc.

1.3.3/ Kinh tế quốc doanh phát triển góp phần tăng nguồn thu Ngân sách nhà

nước :

Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề để tạo ra nguồn thu cho ngân sách

nhà nước. Do vậy, để tăng cường nguồn thu ngân sách lành mạnh biện pháp quan

16

trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước cần tạo

môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển, coi trọng vào việc đầu tư cơ sở hạ

tầng, điện nước, thông tin, giao thông vận tải một cách thuận tiện nhất để các thành

phần kinh tế có điều kiện sản xuất, mở rộng liên doanh liên kết với các doanh

nghiệp trong và ngoài nước. Trên cơ sở tăng doanh thu trong sản xuất và kinh doanh

dịch vụ từ đó nguồn thu của ngân sách nhà nước được tăng lên. Trên thực tế hàng

năm kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp từ 30 đến 45% vào ngân sách nhà nước.

1.3.4/ Kinh tế ngoài quốc doanh là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh

tế nhà nước giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động:

Thực tế những năm qua cho thấy sự tồn tại và phát triển của kinh tế

ngoài quốc doanh là cần thiết phù hợp với qui luật phát triển kinh tế ở nước

ta trong giai đoạn mới. Việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh chẳng

những không làm suy yếu kinh tế quốc doanh mà còn có tác dụng ngược lại

thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh hơn. Kinh tế ngoài quốc

doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế quốc doanh phát triển, giải quyết

những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế quốc doanh không

đảm nhận và nếu có đảm nhận thì hiệu quả không cao, thậm chí không có

hiệu quả.

Thực tế ở các nước XHCN trước đây cũng đã chứng minh rằng mặc dù

các nước này có chiến lược và mục tiêu kinh tế đúng đắn, song lại có sự độc

quyền của nhà nước về kinh tế nên đã trở thành lực cản kìm hãm sự phát

triển, nền kinh tế trở nên xơ cứng, kém năng động và không có hiệu quả. Kết

quả là dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt khi hoà nhập vào nền kinh tế thế giới mà

ở đó khu vực kinh tế tư nhân phát triển rất mạnh. Điều đó cũng chứng tỏ

rằng không có một khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh nếu sự phát triển của

nó biệt lập với khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm của hoạt động sản xuất

kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhạy bén, năng động

17

kịp thích ứng với tình hình biến động của thị trường, bộ máy sản xuất kinh

doanh gọn nhẹ. Hiệu quả kinh tế gắn liền với lợi ích kinh tế của người lao

động cho nên họ luôn tiết giảm được những chi phí trong các khâu của quá

trình sản xuất kinh doanh, sản xuất nhiều mặt hàng mẫu mã đẹp, chất lượng

cao, giá thành hạ, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đó là những yếu tố

đầy sức hấp dẫn với quy luật cạnh tranh thị trường. Ngược lại, với nền kinh

tế chỉ huy “người tìm hàng” thì ở đó họ sản xuất ra những gì mà thị trường

cần chứ không phải sản xuất ra những gì mà họ có.

1.3.5/ Kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để Ngân hàng huy động vốn tín

dụng góp phần ổn định lưu thông tiền tệ:

Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế hiện vật

tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá thì khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế

cũng tăng lên là điều tất yếu. Nếu trong điều kiện nền kinh tế chỉ huy do

kinh tế quốc doanh làm chủ và chỉ đạo thị trường, tình trạng sản xuất theo

mệnh lệnh, mua bán theo khuôn giá cứng nhắc làm cho sản xuất tách khỏi

thị trường, phần lớn thu nhập của người lao động được trả bằng hiện vật, do

đó làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông.

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã trở thành căn cứ trực tiếp

của kế hoạch, giữ vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các

doanh nghiệp. Khối lượng vật tư hàng hoá tăng nhanh đòi hỏi phải có sự

tăng lên của tiền tệ để đáp ứng nhu cầu của lưu thông hàng hoá và cung ứng

dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng

phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là thành phần kinh tế tư bản

tư nhân, cá thể.

Hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động dưới hình thức là doanh

nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đều mở tài khoản tiền gửi tại

các Ngân hàng thương mại. Kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển

18

nếu các Ngân hàng thương mại tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng

tiền mặt, thay đổi phong cách làm việc, khẩn trương, tôn trọng và có trách

nhiệm với các khách hàng thì đây là một thị trường rộng lớn cho việc huy

động vốn của các Ngân hàng thương mại với lãi suất thấp.

Phát triển sản xuất, củng cố lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng

tiền là tiền đề thu hút lượng tiền mặt vào Ngân hàng. Ngược lại nguồn thu

tiền mặt vào ngân hàng càng cao là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm

chế lạm phát. Kinh tế ngoài quốc doanh là điều kiện để tăng quỹ hàng hoá

trên thị trường, góp phần tạo nên sự cân bằng quan hệ cung cầu hàng hoá và

dịch vụ trên thị trường.

2/ Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam:

2.1/ Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước:

Với chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã kích thích phát huy nội

lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo qui định của

pháp luật. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước đã phát

huy được thế mạnh của nó, khu vực này bao gồm hai loại hình: Doanh nghiệp ngoài

quốc doanh và kinh tế hộ gia đình.

Loại hình doanh nghiệp: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không

thấp hơn mức vốn pháp định do nhà nước quy định, hoạt động theo luật doanh

nghiệp. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động dưới nhiều hình thức: Doanh

nghiệp tư nhân do một tư nhân làm chủ, Công ty trách nhiệm hữu hạn do một số

sáng lập viên lập nên và làm chủ, công ty cổ phần do những ngươì nắm giữ cổ phiếu

làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức hợp tác xã. Trong điều kiện nước ta hiện nay

phổ biến nhất là hai loại hình công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn bởi

nhiều lí do, trong đó lý do quan trọng nhất là số vốn cần thiết cho việc thành lập và

hoạt động nhỏ, còn sự phát triển của công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở

Việt nam.

Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên khá

19

nhanh, theo ước tính hiện nay có khoảng 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh

đang hoạt động. Trong khi đó số doanh nghiệp quốc doanh lại có xu hướng giảm

xuống do tiến hành cổ phần hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể,

phá sản của một loạt các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy một bộ phận lớn người lao

động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang làm việc ở khu

vực kinh tế tư nhân, do khu vực này đang làm ăn có hiệu quả.

Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở

nước ta là vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng

nhà xưởng, máy móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết

bị trở nên lỗi thời không còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và

phát triển thì phải đổi mới dây chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong

khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô và

tài sản đó. Như vậy trong tương lai không xa một xu hướng tất yếu xảy ra đối với

các doanh nghiệp này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó là

tiền đề cho sự phát triển của các công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần là có

thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu. Nhưng tốc

độ phát triển của công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của

các Ngân hàng. Khi các Ngân hàng phát triển đến một mức nhất định thì các

ngân hàng không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu công

ty mà còn có thể mua luôn các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ

nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Loại hình không phải doanh nghiệp ( kinh tế hộ gia đình ): Là khu vực

sản xuất kinh doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm

ngoài khu vực doanh nghiệp như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, thương mại vận tải và các dịch vụ khác. Theo thống kê hiện

nay có khoảng 1,1 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động. Trong giai đoạn đầu

của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế này phát triển rất nhanh, thu hút mọi

đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn lực sản xuất của xã hội nhằm

20

tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đối với nước ta hiện nay ngành

nông lâm nghiệp giữ vai trò quan trọng thì sự phát triển của khu vực này

hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với công cuộc công nghiệp hoá và hiện

đại hoá đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần chuyển sang lao

động trong các ngành công nghiệp hiện đại.

Theo cơ chế mới nền kinh tế thị trường đa thành phần đã có những

chuyển biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt nam và thế

giới, nếu tốc độ phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn tốc độ

phát triển của kinh tế quốc doanh bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động

về tỷ trọng các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩn xã hội nước ta

trong 10 - 20 năm nữa là : Kinh tế quốc doanh 10%, kinh tế ngoài quốc

doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế tư bản nhà nước không quá 30%,

kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, kinh tế cá thể và gia đình 30%.

Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với đặc

điểm kinh tế ngoài quốc doanh. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản

tư nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi trường cạnh

tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong

nước và hợp tác quốc tế.

2.2/ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:

Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các

quan hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào

Việt nam, hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần

chuyển giao công nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong

nước với mức lương cao, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách

lao động công nghiệp hoá.

Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được

nhiều người quan tâm và trên thực tế hoạt động đầu tư nước ngoài đã và

21

đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước mở

rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế từng bước hội nhập vào nền

kinh tế thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt nam được bắt đầu từ

cuối năm 1987 và được đánh dấu bằng sự ra đời luật đầu tư nước ngoài. Từ

đó tới nay hoạt động đầu tư nước ngoài ngày một tăng lên cả về tổng số vốn

đầu tư, số lượng dự án đầu tư, số nước tham gia và các lĩnh vực đầu tư. Tuy

vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt động đầu tư nước ngoài có phần giảm sút so

với các năm trước, đây đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà

kinh tế. Phải thừa nhận rằng đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm qua

có nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

ở châu á, môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính

sách thuế thiếu ổn định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi

dào, có trình độ tay nghề cao, chịu khó, có nguồn nguyên liệu dẻ, cùng với

thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài của chính phủ như

cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, giảm giá cho thuê đất. Chắc

chắn trong tương lai khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển

một cách nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều những dự án kinh doanh có

hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao động.

II /Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoàI quốc doanh.

1/Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế

ngoài quốc doanh ở nước ta:

1.1/Tín dụng Ngân hàng:

Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình

thức xã hội khác nhau. Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những

cách hiểu khác nhau. Theo quan niệm truyền thống tín dụng là mối quan hệ

kinh tế trong đó một người chuyển giao cho người khác, tổ chức kinh tế khác

22

quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện

được hai bên thoả thuận trước, những điều kiện đó thường là về số lượng,

chất lượng, thời gian hoàn trả và lượng giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác

tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu

sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị

lớn hơn giá trị ban đầu.

Theo luật các tổ chức tín dụng: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng

thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả

bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân

hàng và các nghiệp vụ khác.

Hoạt động tín dụng có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội

khác nhau. Tín dụng nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và

hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số vùng nông thôn, một đặc điểm của hình

thức tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao từ vài chục đến hàng trăm %.

Tín dụng nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ nhằm mục

đích phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người.

Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh

doanh tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới

chi phí vay vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay

vốn với lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức tín

dụng phù hợp hơn đó là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là hình

thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương

nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với các thương nhân. Theo C. Mác “

Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng

tiền của hàng hoá đem bán chịu ”. Quan hệ mua bán chịu này chỉ diễn ra

trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên quan trực

tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức tín dụng này

cũng không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất

23

hàng hoá.

Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời.

Hoạt động tín dụng này có liên quan đến một chủ thể rất quan trọng đó là

Ngân hàng. Khi nói về vấn đề này C.Mác nhận xét “ Ngân hàng ra đời với

vai trò môi giới tài chính trung gian và tập trung các khoản tiền nhàn rỗi

trong nền kinh tế đem cho các nhà doanh nghiệp và công chúng vay. Bằng

cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không làm giảm sức mua của bất kỳ ai.

Đó chính là nét nổi bật trong vai trò của Ngân hàng tạo điều kiện và thúc đẩy

nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ”.

1.2/Vai trò của tín dụng Ngân hàng với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc

doanh:

Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh

doanh. Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ

một loại hình kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Vốn ở

đây có thể hiểu bao gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kiến thức kỹ năng

của người lao động, tiền bạc, tiếp đến khi doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng

qui mô sản xuất thì yêu cầu đầu tiên đặt ra là phải có vốn. Từ đó cho thấy

vốn là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ giai đoạn sản xuất kinh doanh

nào, nó quyết định sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của một loại hình doanh

nghiệp.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn

là điều không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự

thiếu hụt vốn trước mắt và lâu dài thì doanh nghiệp đứng trước ba con đường

lựa chọn: Tự bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua

con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu; vay vốn các Ngân hàng thương

mại; vay vốn từ người thân bạn bè hoặc vay nặng lãi ngoài thị trường “ Chợ

24

đen ”.

Tự bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con

đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô

lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa

phải có một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính

trung gian đủ mạnh có khả năng đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ

phiếu, trái phiếu của công ty và nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân

trí và sự sôi động của thị trường thứ cấp.

ở nước ta hiện nay hình thức này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà vẫn

chỉ dừng lại ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ một số công ty cổ phần.

Vì thị trường chứng khoán chưa được thành lập do còn hạn chế ở hệ thống

pháp luật, hệ thống Ngân hàng còn non yếu, trình độ dân trí thấp. Kinh tế

ngoài quốc doanh với qui mô nhỏ mới được hình thành, chưa có uy tín trên

thị trường, chưa có quá trình tích luỹ.

Chính vì lẽ đó, đối với kinh tế ngoài quốc doanh tín dụng Ngân hàng

luôn được coi là một điểm tựa vững chắc về vốn. Nhờ có tín dụng ngân hàng

kinh tế ngoài quốc doanh sẽ có một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng các yêu

cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh, có điều kiện cần thiết để cạnh tranh với

các thành phần kinh tế khác và phát huy vai trò của mình đối với nền kinh tế

quốc dân.

Thông qua quan hệ cho vay vốn, để đảm bảo tiền vay được sử dụng

đúng mục đích và có hiệu quả ngân hàng đi sâu nghiên cứu phương án sản

suất kinh doanh, các dự án về kinh tế kỹ thuật và tài chính của doanh nghiệp

để cùng với doanh nghiệp xác định những hướng đi đúng đắn, nghiên cứu

nhu cầu vốn cần thiết, hiệu quả của quá trình sử dụng vốn cũng như khả

năng hoàn trả của người vay qua đó đóng góp cho doanh nghiệp những ý

kiến đúng đắn và thích hợp. Khi đó, vì lợi ích kinh tế và xã hội của cả hai

bên ngân hàng đóng vai trò là một cơ quan tư vấn cho các doanh nghiệp có

25

quan hệ tín dụng với Ngân hàng.

Bên cạnh đó tín dụng Ngân hàng còn có tác dụng điều tiết, hướng

dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo một định hướng chung của nhà nước,

hạn chế tính tự phát chạy theo lợi nhuận của kinh tế ngoài quốc doanh, đảm

bảo một nền kinh tế phát triển lành mạnh và đồng đều, không có những mất

cân đối nghiêm trọng xảy ra.

Trên đây là toàn bộ vai trò kinh tế quan trọng của tín dụng ngân hàng

đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên, tất cả các vai trò đó vẫn còn nhiều tiềm

ẩn, trong thực tế hiện nay không ít những hộ sản xuất kinh doanh, doanh

nghiệp ngoài quốc doanh phải trang trải sự thiếu vốn của mình thông qua

hình thức tín dụng không chính thức, sự nhanh chóng trong thủ tục vay vốn,

chủ yếu thông qua hình thức tín chấp, đã làm cho các ông chủ doanh nghiệp

tư nhân sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất cao hơn để khỏi làm mất cơ hội

kinh doanh. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại vẫn còn quá thận trọng

trong cho vay đối với thành phần kinh tế này. Trước tình hình đó đòi hỏi các

Ngân hàng phải có nhiều hình thức cho vay phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu

cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân

hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh:

Hoạt động tín dụng Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng đối

với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là những hoạt động liên quan đến các

dịch vụ về tiền tệ, vì vậy đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, nó trực tiếp tác động

đến sự ổn định, cũng như tình hình an ninh, chính trị quốc gia, chính vì lí do

đó mà nó luôn được đặt dưới sự kiểm soát khắt khe của nhà nước mà trực

tiếp là Ngân hàng nhà nước Việt nam thông qua hệ thống pháp luật và những

cơ chế chính sách của nhà nước. Bên cạnh đó còn có sự tác động ngược trở

26

lại của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động

kinh doanh của Ngân hàng từ đó dẫn tới việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng

Ngân hàng.

Chính vì vậy, khi xem xét hoạt động Ngân hàng chúng ta phải đặt nó

trong mối quan hệ với những qui định của pháp luật và điều kiện kinh tế xã

hội từng giai đoạn cụ thể. Dưới đây là một số nhân tố chủ quan và khách

quan ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng

đối với kinh tế ngoài quốc doanh:

2.1/ Môi trường kinh tế:

Mọi hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế đều chịu

sự chi phối của môi trường kinh tế. Bất kỳ một sự biến động nhỏ nào của

môi trường kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của

Ngân hàng. Trong một nền kinh tế ổn định và tăng trưởng, các doanh nghiệp

sẽ có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh, người đầu tư sẽ yên tâm

hơn khi vay vốn Ngân hàng để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh

của mình và bản thân các Ngân hàng thương mại cũng sẵn sàng và yên tâm

hơn khi cho vay trong một môi trường kinh tế ít biến động. Sự ổn định ở đây

bao hàm cả yếu tố chính trị, an ninh và xã hội.

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt đầu từ tháng 7/1997 đã

cho chúng ta thấy một thực tế rằng khi một nền kinh tế bị mất ổn định

cả về kinh tế và chính trị sẽ dẫn đến sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư

trong nước và quốc tế, số lượng những doanh nghiệp bị phá sản tăng lên,

chất lượng tín dụng trong các Ngân hàng thương mại giảm đi, nhiều Ngân

hàng rơi vào tình thế hoặc phải sát nhập hoặc phải tuyên bố phá sản.

27

2.2/ Nhân tố luật pháp:

Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt

động của Ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, tạo môi trường hành

lang pháp lí cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao

gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các

văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp

và trình độ dân trí trong xã hội. Nếu không có một môi trường pháp lí kinh

doanh rõ ràng, sòng phẳng để tất cả các doanh nghiệp thực hiện. khung pháp

luật điều chỉnh kinh doanh không có tính hệ thống, lùng bùng và đặc biệt là

không phải là một khối “trong suốt”. Thì việc mở rộng và nâng cao chất

lượng tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là đối với thành phần kinh tế ngoài quốc

doanh khó có thể thực hiện được.

2.3/ Những qui định của nhà nước và Ngân hàng Trung ương:

Với mục tiêu đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh,

an toàn và có hiệu quả, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời

phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí

của nhà nước theo định hướng XHCN, luật các tổ chức tín dụng, chính phủ và Ngân

hàng nhà nước Việt nam có những qui định buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ

theo như:

- Những quy định về bảo đảm tiền vay:

Tổ chức tín dụng chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi,

có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. Tổ chức tín dụng có quyền lựa

chọn quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm

và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước

cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ, thì tổn thất do

nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý.

Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm

28

bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, Ngân hàng phát hiện khách hàng

vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng

các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.

- Giới hạn cho vay đối với một khách hàng:

Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự

có của tổ chức tín dụng. Vốn tự có của Tổ chức tín dụng bao gồm vốn điều lệ và quĩ

dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Trường hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng quá lớn

vượt mức 15% thì áp dụng hình thức cho vay hợp vốn hoặc được Thủ tướng chính

phủ quyết định mức cho vay tối đa đối với từng trường hợp .

Mục đích của việc quy định giới hạn này nhằm: Tránh rủi ro trong hoạt động

Ngân hàng, vì một phần vốn cho vay sẽ tham gia vào quá trình đầu tư, sản xuất, kinh

doanh của doanh nghiệp cho nên khi doanh nghiệp gặp rủi ro, khó khăn thì Ngân

hàng sẽ khó thu hồi vốn. Mặt khác khống chế mức cho vay tối đa sẽ hạn chế việc

dồn vốn vào một số ít khách hàng và lĩnh vực kinh doanh. Bên cạnh đó mức khống

chế cho vay tối đa đối với một khách hàng còn thúc đẩy Ngân hàng đa dạng hoá

khách hàng, lĩnh vực đầu tư, tránh rủi ro.

- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản có

được điều chỉnh theo mức độ rủi ro. Hiện nay qui định đối với các tổ chức

tín dụng ( trừ chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là

8% giữa vốn tự có so với tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều

chỉnh theo mức độ rủi ro. Qui định giới hạn này nhằm đảm bảo an toàn trong

hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.

- Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài

hạn đối với các tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng liên doanh và

chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 25%.

- Ngoài ra những quy định về lãi suất trần, lãi suất sàn và mức chênh

lệch bình quân giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay cũng ảnh

29

hưởng rất lớn tới việc mở rộng cho vay của Ngân hàng.

2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng

Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao

hiệu quả tín dụng của Ngân hàng:

- Năng lực pháp lí của khách hàng:

Khách hàng vay vốn là doanh nghiệp phải có tư cách pháp nhân, đối

với cá nhân phải là những người có đầy đủ năng lực pháp lí và năng lực

hành vi, có hộ khẩu thường trú trên cùng địa bàn với ngân hàng cho vay.

Năng lực pháp lí là điều kiện tiên quyết để Ngân hàng xem xét cho vay

nhằm xác định trước pháp luật về việc trả nợ vay cho ngân hàng.

-Uy tín của khách hàng:

Đây là yếu tố hết sức quan trọng mà Ngân hàng cần phải đánh giá.

Phần lớn các thông tin của khách hàng đều đã được Ngân hàng biết đến. Đối

với một khách hàng cũ, những giao dịch trước đó của Ngân hàng với họ sẽ

đưa lại một lượng lớn thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và

năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện

nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng

mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, vào các doanh nghiệp khác có

quan hệ với khách hàng đó và sự thông báo thực trạng từ Ngân hàng khác.

- Tình hình tài chính của khách hàng:

Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo

tính tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh

tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương

lai. Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để Ngân hàng xem xét có cho vay

hay không? và mức cho vay là bao nhiêu ?

Khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính Ngân hàng phải so sánh kỳ này với

kỳ trước, so sánh số thực tế với kế hoạch để thấy được mức độ phát triển của

30

doanh nghiệp. So sánh với các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng

của ngành để đánh giá doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh

nghiệp khác, Trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình sản xuất, kinh

doanh, tình hình tài chính và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, tạo điều

kiện để Ngân hàng lựa chọn chính xác đối tượng đầu tư.

- Năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh

nghiệp:

Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều

vào tư chất và năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi cho vay

Ngân hàng phải xem xét phân tích đánh giá họ về năng lực chuyên môn,

năng lực tài chính và uy tín của người lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn

hiện nay cần khẳng định tư cách đạo đức họ như thế nào ? Có nhạy bén nắm

bắt được những cơ hội mới không? Có thực hiện các điều chỉnh kịp thời

trong kinh doanh không ? Có uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng

không ?

2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng:

- Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp

với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, đồng thời phải đảm

bảo sự kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng. Muốn

vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở

khoa học. Đối với Ngân hàng thương mại phải đảm bảo khả năng sinh lời

của hoạt động tín dụng trên cơ sở tuân thủ những quy định của pháp luật và đường

lối chính sách của Đảng và nhà nước. Mặt khác đối với khách hàng phải đảm bảo lãi

suất tiền vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân mà họ thu được, nhu cầu vay vốn

được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi đúng qui định.

- Thông tin tín dụng:

Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lí tín dụng của Ngân hàng. Nhờ

31

có thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định nhanh chóng,

chính xác trong hoạt động tín dụng. Thông tin tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác

và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân

hàng càng lớn. Trong tương lai khi cơ cấu tổ chức và các hình thức hoạt động của

trung tâm thông tin tín dụng được hoàn thiện thì việc thu thập phân tích các báo cáo

về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ hơn và chính

xác hơn.

- Nhân tố con người:

Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại hoạt động Ngân hàng nói

chung và công tác tín dụng nói riêng. Nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển đòi

trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng ngày càng cao để có thể sử dụng được các

phương tiện làm việc hiện đại. Đặc biệt đối với cán bộ tín dụng ngân hàng phải có

phẩm chất đạo đức tốt, có các nghiệp vụ về tiếp cận với khách hàng và giỏi về

nghiệp vụ phân tích tín dụng, phân tích tài sản thế chấp, kiểm tra tín dụng, thẩm

định các dự án cho vay, xây dựng hợp đồng tín dụng, giải quyết vấn đề nợ khó đòi,

phải am hiểu kiến thức và qui luật trong nền kinh tế thị trường, kiến thức về luật

pháp. Thực tế đã chứng minh rằng Ngân hàng có cán bộ tín dụng có trình độ đại học

và trên đại học cao thì tỷ lệ nợ quá hạn ở Ngân hàng đó luôn ở mức thấp. Do đó có

thể khẳng định rằng trình độ và phẩm chất cán bộ tín dụng trong các ngân hàng

thương mại là điều kiện tiên quyết trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay

của Ngân hàng.

2.6/ Các nhân tố khác:

Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng còn phụ thuộc rất nhiều vào

môi trường tự nhiên như: Thời tiết, khí hậu, lũ lụt, sự ảnh hưởng này rất lớn đối với

những Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình liên

32

quan đến lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và các hoạt động khác có tính thời vụ.

Môi trường tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh

của Ngân hàng và khách hàng, trường hợp này phải có biện pháp để khai thác các

yếu tố thuận lợi .

Môi trường tự nhiên tạo ra những khó khăn cho cả khách hàng và hoạt động

kinh doanh của Ngân hàng, làm cho rủi ro của kinh doanh Ngân hàng tăng, Ngân

hàng phải dự báo được để cùng với khách hàng của mình giảm thiểu rủi ro, đo lường

được những rủi ro có khả năng xẩy ra để phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro, có được

những quyết định kinh doanh đúng đắn.

III / Khái quát cơ chế tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.

Ngày 30 tháng 09 năm 1998, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam ra

quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ban hành qui chế cho vay của tổ chức tín dụng

đối với khách hàng. Quyết định này đã thay thế một loạt các quyết định có liên quan

ban hành trước đó.

Tại quyết định này qui định tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết

định cho vay của mình, không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp

luật vào quyền tự chủ trong cho vay của tổ chức tín dụng.

Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc: Sử

dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Phải hoàn trả

nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; việc bảo

đảm tiền vay thực hiện theo quy định của chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng

nhà nước.

1/ Cho vay ngắn hạn:

Tối đa là 12 tháng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch

vụ, đời sống của khách hàng.

33

1.1/ Cho vay từng lần:

Phương thức cho vay từng lần hiện nay được áp dụng phổ biến, mỗi lần có

nhu cầu vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn và ký kết hợp

đồng tín dụng, có giải trình về mục đích vay vốn, tổng nhu cầu đã trừ đi số vốn đơn

vị đã có, hoạch định quá trình chu chuyển vốn của đối tượng xin vay vốn với khả

năng trả nợ vốn vay.

Việc giải ngân có thể giải ngân theo tiến độ thực hiện kế hoạch của khách

hàng. Nếu khách hàng vay cho từng phương án, từng thương vụ Ngân hàng giải

ngân một lần.

Thu nợ: Tiến hành thu nợ theo kỳ hạn hoặc theo thời hạn cuối cùng đã được

thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.

Đây là một phương thức cho vay đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực quản

lý và tổ chức của các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã, công ty trách nhiệm

hữu hạn và cũng rất thích hợp kể cả những trường hợp khi tổ chức kinh tế vốn là

những khách hàng lớn nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất

tín nhiệm trong quan hệ giao dịch. Hoặc đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay

vốn không thường xuyên buộc các Ngân hàng thương mại phải cho vay từng món

theo từng lần có nhu cầu.

1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng:

Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy

trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Phương thức cho vay này được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay

vốn thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm với Ngân hàng .

Căn cứ vào nhu cầu vay vốn theo hạn mức của khách hàng, giá trị tài sản thế

chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh ( Nếu có ), khả năng nguồn vốn của Ngân hàng và các

giới hạn để đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng theo qui định, tổ chức tín dụng và

khách hàng xác định hạn mức tín dụng theo đó ngân hàng tham gia theo phần, có

34

tính chất bổ sung vốn lưu động. Hạn mức tín dụng phải phù hợp với nhu cầu vốn

cần thiết, hợp lí trong khoảng thời gian nhất định phù hợp với đặc điểm chu kỳ sản

xuất kinh doanh, vòng luân chuyển đối tượng vay.

Nhu cầu vay vốn Nhu cầu VLĐ bình quân Vốn tự có

Của khách hàng = để thực hiện KH SXKD - và vốn khác

Của khách hàng

Ngân hàng sử dụng tài khoản cho vay thông thường để quản lý tiền vay. Sau

khi hợp đồng tín dụng theo hạn mức đã có hiệu lực, mỗi lần rút vốn vay, khách hàng

không phải ký hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ, cùng các chứng từ, tài liệu

chứng minh mục đích sử dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín

dụng, khách hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền

vay trên tài khoản tiền vay không được vượt hạn mức tín dụng.

Việc thu nợ thực hiện theo kế hoạch khách hàng đã thoả thuận trước với

Ngân hàng, khách hàng căn cứ vào nguồn thu để xác định kế hoạch trả nợ phù hợp.

Nếu thực tế phát sinh không theo kế hoạch, Ngân hàng và khách hàng có thể thoả

thuận lại kế hoạch trả nợ về mặt thời điểm nhưng không được thay đổi thời hạn cho

vay đã cam kết.

2. Cho vay trung và dài hạn: ( Thời hạn cho vay trung hạn từ 1 năm đến 5 năm,

cho vay dài hạn trên 5 năm )

Ngân hàng cho khách hàng vay trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu

tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.

2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư:

Ngân hàng lựa chọn cho vay đối với những dự án sản xuất, kinh doanh, Dịch

vụ có hiệu quả kinh tế trực tiếp, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Ngân hàng dựa vào

nhu cầu vốn thực hiện dự án để tính toán mức cho vay cho phù hợp:

35

Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của DA - Vốn tự có tham gia

và vốn huy động khác

Trong thời hạn rút vốn qui định của hợp đồng tín dụng, Ngân hàng phát tiền

vay đầy đủ, kịp thời theo khối lượng hoàn thành của dự án.

Khối lượng hoàn thành có thể là sản phẩm xây dựng cơ bản đã hoàn thành;

các hạng mục công trình hoàn thành hoặc từng phần công việc thực hiện theo tiến độ

được phê duyệt.

Nguồn trả nợ là khấu hao cơ bản và lợi nhuận của dự án hoặc là các nguồn

thu khác.

2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn:

Cho vay hợp vốn là một số các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự

án hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó có một tổ chức tín dụng làm

đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.

2.3/ Cho vay trả góp:

Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền

vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời

hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ

gốc và lãi.

2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:

Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn

trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng

thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả

cho hạn mức tín dụng dự phòng.

2.5/ Cho vay thông qua các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín

36

dụng:

Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay

trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và

rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ

chức tín dụng.

Chương II :

Thực trạng quan hệtín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoạithương Quảng

ninhvới kinh tế ngoàI quốc doanh

I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh:

1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển:

1.1/ Lịch sử hình thành:

Trước yêu cầu của một Ngân hàng đối ngoại để phục vụ cho hoạt động kinh

37

tế ngày một phát triển theo hướng mở cửa của Quảng ninh - khu công nghiệp,

thương mại và du lịch, được sự ủng hộ của các cấp,các ngành, chi nhánh Ngân hàng

hàng ngoại thương Quảng ninh được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1991, có

tên gọi giao dịch đối ngoại là VIETCOMBANK Quảng ninh. Sự ra đời của chi

nhánh là nằm trong kế hoạch tổ chức lại hệ thống Ngân hàng từ một cấp thành hai

cấp và để đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt

nam cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Quảng ninh.

Tiền thân của Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh là phòng quản lý ngoại

hối trực thuộc Ngân hàng nhà nước tỉnh Quảng ninh, với chức năng quản lý ngoại

hối, ngoại tệ, kim khí quý và đá quý. So với một số chi nhánh Ngân hàng khác trên

địa bàn thì lịch sử phát triển của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh

chưa phải là đáng kể, song từ khi ra đời đến nay VIETCOMBANK Quảng ninh đã

không ngừng phát triển, đóng góp phần không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế vùng

và ngày càng khẳng định được uy tín, thu hút được nhiều khách hàng tới giao dịch.

Cho đến nay ngoài trụ sở chính tại 172 Lê Thánh Tông thành phố Hạ long, Chi

nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh đã có phòng giao dịch thị xã Móng cái

(Thành lập tháng 11 năm 1992)và trong kế hoạch sẽ khai trương tiếp theo phòng

giao dịch tại Bãi cháyvào năm 2000.

Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh là cơ sở trực thuộc Ngân

hàng ngoại thương Việt nam, Thực hiện các chức năng nhiệm vụ chủ yếu: huy động

vốn, cho vay bằng đồng Việt nam và ngoại tệ đối với các thành phần kinh tế và thực

hiện các dịch vụ Ngân hàng theo qui định.

1.2/Cơ cấu tổ chức:

Trụ sở của chi nhánh cũng như các phòng giao dịch đều được đặt tại trung

tâm kinh tế năng động là điều kiện để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Về

đội ngũ cán bộ công nhân viên của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh

rất gọn nhẹ, chất lượng nhân sự ngày càng được nâng cao. Bên cạnh các cán bộ trẻ

được đào tạo chính qui và tuyển chọn kỹ lưỡng còn có những anh chị em thuộc thế

38

hệ đi trước dày dạn kinh nghiệm trên thương trường.

Cơ cấu phòng ban:

Giám đốc

Phó giám

Phó giám đốc

Phòng kế

Phòng kế hoach tín

Phòng HC,NQ,NS

Phòng giao dịch Móng Cái

Đội ngũ cán bộ công nhân viên: Tổng số 59 người

- Trình độ chuyên môn: Đại học 33 chiếm 56%, trung cấp 09 người chiếm 15%,

sơ cấp 17 người chiếm 29%.

- Trình độ ngoại ngữ Anh văn: Đại học và trình độ C 18 người, trình độ B 10

người và trình độ A 20 người .

- Trình độ tin học: Đại học 01 người, trình độ B 10 người, trình độ A 20 người.

1.3/ Quá trình phát triển:

Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh ngay sau khi mới ra đời

thuận lợi có nhiều nhưng khó khăn cũng thật là lớn và phức tạp. Không nản lòng

39

trước khó khăn, Cán bộ công nhân viên chi nhánh đã đoàn kết một lòng tranh thủ

thuận lợi vươn lên “gặt hái” những kết quả ban đầu để rồi từ đó lớn lên không ngừng

cùng với sự phát triển của đất nước và giờ đây đã trở thành một trong những Ngân

hàng có qui mô hoạt động lớn và đa dạng...

So với các Ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng ninh,

VIETCOMBANK Quảng ninh luôn đi đầu trong công nghệ Ngân hàng, trang bị và

nối mạng vi tính, mạng SWIFT ( mạng viễn thông tài chính liên Ngân hàng quốc tế

), mạng thẻ tín dụng quốc tế và triển khai một số công nghệ phù hợp với nhu cầu của

khách hàng. Quá trình phát triển của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng

ninh chưa phải là dài song với trang thiết bị, công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ

nhân viên tinh thông nghiệp vụ, tận tâm với nghề nghiệp, lịch thiệp với khách hàng

và với chính sách khách hàng ưu việt “ luôn coi khách hàng là người bạn đồng

hành”. VIETCOMBANK Quảng ninh đã cung cấp cho tất cả khách hàng các loại

sản phẩm dịch vụ Ngân hàng có chất lượng cao, giữ vững niềm tin và uy tín đối với

khách hàng, do đó đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng đến giao dịch, hiện

nay đã có 764 khách hàng đến có quan hệ giao dịch tiền gửi, tiền vay, có 45 khách

hàng thường xuyên vay vốn, trong đó 27 khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, 18

khách hàng là doanh nghiệp tư nhân và cá thể.

Xác định được vị trí và vai trò của mình, Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh từng bước ổn định và phát triển vươn lên trong cơ chế thị trường đầy

biến động, đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà, giúp cho nhiều

doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có lãi, tạo công ăn việc làm, từng bước cải thiện

đời sống của người lao động.

Kịp thời chuyển dịch cơ cấu đầu tư phục vụ chủ chương phát triển kinh tế

nhiều thành phần theo định hướng XHCN, dưới sự quản lí của nhà nước góp phần

đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Kết quả kinh doanh

năm sau cao hơn năm trước, uy tín của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng

ninh ngày càng được củng cố và nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên ngày

40

càng được cải thiện. Sau nhiều năm hoạt động, Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ, cụ thể ở một số mặt

nghiệp vụ như sau:

Bảng II : Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn thực hiện

( Trích một số chỉ tiêu cơ bản )

Đ/vị: Tỉ đồng; Triệu USD

So sánh So sánh Chỉ tiêu 31/12/97 31/12/98 31/12/99 4/2 4/3

1 2 5 6 4 3

I- Tổng nguồn vốn 474 115% 105% 546 518

- VND 273 102% 77% 278.8 360

- Ntệ 15.5 123% 156% 19 12.2

1, Vốn huy động 215 175% 153% 375.9 246

- Ngắn hạn 214.47 180.6

- Dài hạn 0.529 195.3

- VNĐ 77.5 177% 132% 137 104

- Ngoại tệ 10.6 160% 155% 17 11

1.1 Tiền gửi KH 106.6 82% 133% 87.5 66

- VNĐ 32.4 45.9 49

- Ntệ 5.73 2.9 1.3

1.2 TK, kỳ phiếu 96.6 288.4 299% 167% 173

- VNĐ 43.97 91.1 55

- Ntệ 4.067 14 9.1

* VNĐ/ Tổng NV 45.36% 47.49% 68.8%

2. Vay T.Ư 177.6 103.7 58% 44% 234

II- Sử dụng vốn

1.Tổng dư nợ 274.8 94% 76% 258.2 338

- Dư nợ ngắn hạn 176.5 185.5 278

41

- Dư nợ dài hạn 98.29 72.7 60

* Dài hạn/Tổng DN 35.76% 21.58% 28.17%

* Dư nợ QH 0.95 6.4 5.2

- Ngắn hạn 0.7 6.2 0.124

- Dài hạn 0.25 0.2 0.5

* NQH/ Tổng DN 0.35% 1.9 2.01

Thu nhập > chi phí +37.36 +42.27 +10.5 28% 25%

36.586 35.005 48.6 133% 139% Thu nhập

42

-32.850 -30.779 38.1 -116% -124% Chi phí

Về công tác huy động vốn :

Chức năng cơ bản, tạo nuồn thu chủ yếu của Ngân hàng là nhận tiền gửi để

cho vay. Trên cơ sở nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, dân cư ngân hàng tiến

hành cho vay, thu phần chênh lệch lãi suất sau khi trừ đi các chi phí.

Để đạt được mục tiêu đề ra trong công tác huy động vốn là mỗi năm phấn đấu

tăng 15 đến 20% tổng nguồn vốn huy động so với năm trước. Chi nhánh Ngân hàng

ngoại thương Quảng ninh đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn như phát hành

kỳ phiếu, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm đồng Việt nam và ngoại tệ... Đồng thời đa

dạng hoá về mặt thời hạn huy động, áp dụng lãi suất huy động vốn một cách linh

hoạt, phù hợp với thị trường và đúng qui định; đồng thời tổ chức phục vụ khách

hàng nhanh chóng, thuận lợi. Tổng nguồn vốn huy động cả đồng Việt nam và ngoại

tệ ( Qui đổi ) qua các năm đều đạt kế hoạch đã đề ra, tăng nhanh về số lượng và tăng

lành mạnh về cơ cấu. Đặc biệt là năm 1999 đạt 375,9 tỷ đồng ( cả ngoại tệ qui đổi )

tăng 52,8% so với cùng kỳ năm 1998 và tăng 17% so với kế hoạch đề ra, trong đó

nguồn vốn huy động dài hạn đạt 195,3 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 51,96% và tăng gấp

65 lần so với năm 1998.

Tuy nhiên, nguồn vốn huy động tại chỗ của chi nhánh Ngân hàng ngoại

thương Quảng ninh chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn, vẫn phải vay Ngân

hàng ngoại thương Trung ương với số lượng tiền tương đối lớn. Mặc dù lãi suất huy

động vốn của VIETCOMBANK Quảng ninh thường linh hoạt và cao hơn các Ngân

hàng khác trên địa bàn từ 0,02 đến 0,05%, nhưng công tác huy động vốn vẫn còn

thấp chưa tương xứng với tiềm năng vì điều kiện về mạng lưới huy động vốn chưa

rộng, chưa thuận lợi, mạng lưới huy động vốn còn quá mỏng mới chỉ có 02 địa điểm

đó là chi nhánh tại thành phố Hạ long và phòng giao dịch thị xã móng cái.

Vốn vay Trung ương của chi nhánh chiếm tỷ lệ cao. Trong nguồn vốn vay

của Trung ương ngoài khoản được “ưu tiên” trong hạn mức tín dụng với lãi suất hợp

lý, thì những khoản vay trên hạn mức tín dụng đều phải chịu lãi suất vay khá cao

43

(Chênh lệch với lãi suất đầu ra không đáng kể), do đó sẽ giảm đi phần lợi nhuận của

chi nhánh. Hơn nữa là sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vay của Trung ương như vậy

sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự cân đối vốn và tăng trưởng của chi nhánh.

Về công tác sử dụng vốn:

Trong thời gian qua, do đặc điểm của kinh tế tỉnh Quảng ninh có nhiều

biến động: Ngành than phải giãn sản xuất, tiêu thụ khó khăn; phần lớn các

doanh nghiệp thương mại xuất nhập khẩu gặp khó khăn trong sản xuất kinh

doanh, chưa tìm được lối thoát. Song, chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh với phương châm “an toàn và hiệu quả” trong đầu tư tín dụng,

VIETCOMBANK Quảng ninh luôn hướng tới chính sách tín dụng lành

mạnh, có tính chất chiến lược lâu dài, sao cho có hiệu quả, đảm bảo an toàn

vốn như: Chú trọng đầu tư cho những ngành sản xuất, khai thác trọng điểm,

những ngành phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh như ngành

công nghiệp than, xi măng, bưu chính viễn thông, ngành tiểu thủ công

nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; ngành du lịch, dịch vụ và thương mại xuất

nhập khẩu ... Do đó, Dư nợ bình quân tăng trưởng qua các năm. Dư nợ bình

quân năm 1999 đạt 354 Tỷ đồng tăng 15,4% so với năm 1998. Trong năm

tiến độ cho vay, thu nợ vẫn tiến triển tốt đẹp có những giai đoạn dư nợ cho

vay đạt trên 400 tỷ đồng, cụ thể doanh số cho vay năm 1999 đạt 674 tỷ đồng

tăng 21,7% so với năm 1998; doanh số thu nợ năm 1999 đạt 754 tỷ đồng

tăng 67,55%so với năm 1998. Phân theo thành phần kinh tế: cho vay quốc

doanh đạt 251,6 Tỷ đồng chiếm tỷ trọng 97,4%; kinh tế ngoài quốc doanh

đạt 6,6 Tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2.6%.

Ngoài cho vay ngắn hạn,VIETCOMBANK Quảng ninh đã đầu tư

chiều sâu để đổi mới tài sản cố định cho các ngành khai thác và sản xuất,

thực hiện đồng tài trợ với các Ngân hàng thương mại khác để xây dựng nhà

máy xi măng, sản xuất nhựa... Do vậy, cơ cấu tín dụng đã có sự thay đổi theo

hướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, năm 1999 chiếm tỷ lệ 28,17%

44

so với tổng dư nợ ( Năm 1998 là 21,58%).

Tỷ lệ đầu tư ngoại tệ tổng dư nợ còn thấp ( Trong khi tỷ lệ này tại

Ngân hàng ngoại thương Trung ương thường cao ). Nguyên nhân là do thời

gian qua tỷ giá giữa VND và ngoại tệ biến động thất thường nên các doanh

nghiệp trên địa bàn ít vay ngoại tệ .

Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng hiện nay khá đảm bảo, phần lớn

chỉ chuyển nợ quá hạn tạm thời, sau một thời gian ngắn là các doanh nghiệp

trả hết nợ gốc và lãi. Với các khoản nợ quá hạn, Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh đã sử dụng nhiều giải pháp tích cực đôn đốc thu nợ. Trong năm

1999 doanh số chuyển nợ quá hạn là 1,9 tỷ đồng, nhưng doanh số thu nợ quá

hạn đạt 3,15 tỷ đồng, nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 2,01% so với tổng dư nợ. Để có

chất lượng tín dụng khá như trên chi nhánh đã có những biện pháp triển khai

thực hiện nghiêm túc luật Ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng,

các qui định cụ thể dưới luật như quyết định 324/ QĐ-NHNN1, qui chế cho

vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Quyết định 240/QĐ NHNT

QLTD về hướng dẫn cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt nam.

Tóm lại, có thể kết luận rằng hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân

hàng ngoại thương Quảng ninh thời gian qua là khá hiệu quả, thể hiện qua

tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn vốn, của nguồn huy động và dư nợ tín

dụng bình quân hàng năm. Đồng thời chất lượng của các khoản vay tương

đối tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đó cũng còn một số

hạn chế tồn tại như tỷ lệ cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn quá

thấp trong tổng dư nợ( chiếm 2,6%) chưa tìm được giải pháp hữu hiệu để mở

rộng , nâng cao hiệu quả cho vay đối với thành phần kinh tế này; tỷ lệ nợ

quá hạn ở mức chấp nhận được. Song, làm ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt

động tín dụng nói riêng và cả hoạt động của Ngân hàng nói chung. Là một

vấn đề quan trọng và khá nhạy cảm, nợ quá hạn tại VIETCOMBANK

Quảng ninh cũng không tách rời nền tảng là hoạt động và chất lượng tín

45

dụng.

Những thành công trong hoạt động tín dụng, nâng cao chất lượng tín

dụng sẽ là nguyên nhân quan trọng để giảm tỷ lệ nợ quá hạn và ngược lại

những tồn tại hiện thời là dự báo cho xác xuất xảy ra những rủi ro làm cho

phát sinh nợ quá hạn trong thời gian tới.

Công tác kế toán thanh toán và dịch vụ Ngân hàng :

Để có được qui mô như ngày nay là nhờ chi nhánh Ngân hàng ngoại

thương Quảng ninh luôn coi công tác kế toán thanh toán, đặc biệt là công tác

thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ trọng tâm của ngân hàng, nhất là hiện

nay yêu cầu nghiệp vụ ngày càng đa dạng và gia tăng.

Từ chỗ trang bị và nối mạng vi tính, đến nay VIETCOMBANK

Quảng ninh đã tham gia vào công nghệ thanh toán hiện đại nhất đó là

SWIFT ( mạng viễn thông tài chính liên Ngân hàng quốc tế ) và qua SWIFT

đã giành được những kết quả tốt đẹp như: Truyền tin nhanh chóng, giải

quyết kịp thời các vấn đề phát sinh trong quan hệ đại lý, mở và thanh toán

thư tín dụng, đảm bảo độ chính xác cao và bí mật nhất cho các thông tin

truyền đi. Với công nghệ mới và ứng dụng những ưu thế kinh nghiệm, kỹ

năng pháp lý trong việc thực hiện chế độ, đảm bảo tốc độ giao dịch với

khách hàng nhanh chóng, thuận lợi và an toàn nên số lượng khách hàng và

doanh số tăng nhanh.Tổng doanh số thanh toán VND trong năm 1999 đạt

3.022 tỷ đồng tăng 31% so với năm 1998; thanh toán xuất nhập khẩu đạt

51,4 triệu đồng tăng 27 triệu so với năm 1998. Thanh toán quốc tế chiếm

90% tỷ trọng thanh toán trên địa bàn.

Nhìn chung thanh toán quốc tế cũng như thanh toán trong nước luôn

đảm bảo an toàn, chính xác, nhanh chóng thuận tiện cho khách hàng. Chi

nhánh đã hoàn thiện chương trình đổi mới công nghệ bán lẻ không gây ách

46

tắc trong giao dịch.

Các hoạt động dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền đồng Việt

nam và ngoại tệ, đổi séc du lịch, nhờ thu, chiết khấu, nhận tiền ký quỹ vào

tài khoản đảm bảo thanh toán và các dịch vụ thanh toán khác được đẩy

mạnh. Doanh thu phí dịch vụ năm 1999 đạt 4,4 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 9% trong

tổng thu nhập.

Công tác Ngân quỹ:

Số lượng thu chi tiền mặt VND và ngoại tệ qua quỹ nghiệp vụ của chi

nhánh rất lớn. Đặc biệt là việc nhận tiền mặt ngoại tệ chứa đựng nhiều rủi ro,

vì có nhiều loại ngoại tệ giả rất tinh vi. Song bộ phận Ngân quỹ của

VIETCOMBANK Quảng ninh với kỹ thuật nghiệp vụ thành thạo, nắm vững

cách phân biệt bạc thật, bạc giả. Do đó công tác thu chi tiền mặt đảm bảo

nhanh chóng, an toàn, chính xác tuyệt đối, không thu nhầm tiền giả, trả lại

nhiều món tiền thừa cho khách hàng. Trong năm 1999 tổng doanh số thu chi

tiền mặt VND qua quỹ hơn 1.000 tỷ đồng và hơn 150 Triệu USD tăng

11,59% so với năm 1998.

Kết quả hoạt động nghiệp vụ:

Kết quả chênh lệch thu chi nghiệp vụ năm sau cao hơn năm trước,

đảm bảo thu nhập từ tiền lương của cán bộ công nhân viên ổn định. Tổng

doanh thu năm 1999 đạt 48,6 tỷ đồng tăng 38,8% so với năm 1998; Chênh

lệch thu > chi là 10,5 tỷ đồng tăng 48,4% so với năm 1998.

2/ Một số đặc điểm kinh tế xã hội của Quảng ninh:

Là một trong những tỉnh biên giới phía bắc, với diện tích 5938.6 Km2

giáp với Trung quốc, Lạng sơn, Bắc giang, Hải dương, Hải phòng và Vịnh

bắc bộ. Với vị trí địa lý như vậy tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế

thương mại trong nước và nước ngoài. Bên cạnh những đầu mối lớn như cửa

47

khẩu Móng cái, cảng biển cái lân, cảng Vân đồn... Quảng ninh còn những vị

trí trung tâm khác để phục vụ cho phát triển kinh tế vùng. Ngoài sự thuận lợi

về mặt địa lý, Quảng ninh còn có lợi thế về tài nguyên, khoáng sản, về cảnh

quan thiên nhiên để phát triển các ngành công nghiệp và du lịch, đặc biệt là

công nghiệp khai khoáng và công nghiệp xây dựng, ngành nuôi trồng, khai

thác chế biến lâm thuỷ sản.

Trong sự nghiệp đổi mới chung, công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế,

Quảng ninh cũng đã chuyển mình hoà nhập vào xu hướng đó và cũng đạt được

những thành tựu đáng kể. Kinh tế tăng trưởng cao, tổng sản phẩm trên địa bàn

(GDP) năm 1997 tăng 13,5%, năm 1998 tăng 11,9% và ước tính năm 1999 sẽ tăng

10%. Thu nhập bình quân trên đầu người khá cao: 290,16 USD ( năm 1997); 313,95

USD ( năm 1998). Hệ thống cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện và mở rộng đáp

ứng nhu cầu đi lại, giao lưu cũng như cho sự phát triển kinh tế xã hội. Một số dự án

liên doanh đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động có hiệu quả như: Dầu thực vật Cái

lân, công ty du lịch Hoàng gia, liên doanh Kec...

Những kết quả đã đạt được, có sự đóng góp không nhỏ của kinh tế ngoài

quốc doanh ở Quảng ninh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, du lịch và dịch vụ.

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng ninh đã thu hút hơn 200 ngàn lao động,

chiếm tỷ lệ 20,68 % trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; chiếm tỷ lệ 77,14%

trong tổng doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh, hàng năm nộp Ngân sách nhà nước

gần 100 tỷ đồng. Có thể nói rằng đầu tư cho khối kinh tế này phát triển cũng chính

là phát huy nội lực.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình phát triển và

tăng trưởng kinh tế của Quảng ninh cũng gặp không ít khó khăn và hạn chế:

Do điều kiện thuận lợi của mình sự phát triển kinh tế Quảng ninh chủ yếu dựa

vào ngành than, du lịch, thương mại, thuỷ sản. Song trong khó khăn chung của sự

suy thoái kinh tế và tác động của cuộc khủng hoảng, làm cho hoạt động sản xuất

48

kinh doanh của hầu hết các ngành trọng điểm đều bị suy giảm, thậm chí bị đình đốn.

Doanh thu ngành than năm 1998 và năm 1999 đã giảm 10 đến 15% so với

năm 1997. Năm 1999 ngành than đã phải dãn tiến độ sản xuất, tiêu thụ khó khăn.

Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong vòng một năm trở lại đây

hoạt động kinh doanh kém hiệu quả do sự biến động của thị trường, sự thay đổi của

chính sách và do nhu cầu trong dân giảm sút. Hiện nay các doanh nghiệp này đang

được tổ chức, sắp sếp lại cho phù hợp, một số doanh nghiệp đã cổ phần hoá hoặc

phải giải thể.

Ngành du lịch: Đang được xác định sẽ là ngành mũi nhọn của kinh tế Quảng

ninh trong thời gian tới. Song hiện tại do cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, do còn thiếu

những chính sách khai thác có hiệu quả, chưa thật sự chú ý tới sự tiện nghi và thuận

lợi cho du khách, do sức ép cạnh tranh của ngành du lịch các nước trong khu vực, và

một phần còn do tình trạng ô nhiễm đang được đặt ra khá gay gắt nên lượng khách

du lịch hàng năm tăng lên không đáng kể, chủ yếu vẫn là khách nội địa và lưu lại

không lâu. Song gần đây cùng với sự hợp tác của các công ty du lịch Trung quốc,

Đài loan, Thái lan...Bộ mặt du lịch của Quảng ninh đã có những chuyển biến

tốt hứa hẹn nhiều về một tương lai khả quan.

Ngành nuôi trồng khai thác và chế biến lâm thuỷ sản: Khoảng 4 - 5 năm về

trước lĩnh vực này hoạt động rất kém hiệu quả. Khi mới chuyển đổi sang cơ chế thị

trường, với công nghệ lạc hậu và trình độ kinh doanh hạn chế, các doanh nghiệp này

không thể trụ nổi đã giải thể hàng loạt, bế tắc hoặc phát triển một cách manh mún.

Nhưng trong vòng 2 năm gần đây nhiều mô hành phát triển đã được ứng dụng và

hoạt động có hiệu quả như nuôi cá lồng, cá bè; nuôi tôm, cua; liên doanh nuôi trai

lấy ngọc...Đồng thời được sự quan tâm của các ban ngành liên quan, một thị trường

tiêu thụ khá rộng lớn, với điều kiện thuận lợi về tự nhiên sẽ là một triển vọng lớn

cho lĩnh vực này.

Kinh tế cảng biển: Quảng ninh có một hệ thống cảng biển khá dày đặc gồm

49

cả những cảng lớn nhỏ khác nhau, và đặc biệt cảng biển Cái lân được xây dựng với

quy mô là cảng biển lớn nhất phục vụ cho phát triển kinh tế phía bắc. Phát triển kinh

tế cảng biển của Quảng ninh nằm trong qui hoạch không chỉ của tỉnh mà của cả kinh

tế phía bắc.

Tình hình xã hội : Trong mấy năm đầu chuyển đổi cơ chế phát triển kinh tế

thị trường, Quảng ninh bùng nổ nhiều tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc,

đề, lô tô. . . nhiều doanh nghiệp tư nhân, nhiều gia đình khánh kiệt đã phải bỏ trốn đi

nơi khác làm ăn. Đây là một sự phát triển không cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và

phát triển xã hội, nó sẽ không tạo ra được một sự phát triển bền vững cho Quảng

ninh.

Vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên cấp thiết đòi hỏi sự quan tâm

thích đáng của các cấp, các ngành. Đặc biệt là trong các dự án kinh tế, quy hoạch

phát triển cần phải trú trọng tới các chỉ tiêu hiệu quả xã hội, các chỉ tiêu liên quan

đến ô nhiễm môi trường.

Về con người: Dân số Quảng ninh không nhiều ( 970.439 người ) kể cả về số

lượng và chất lượng ( cao đẳng và đại học là 17.936 người; trung học và sơ cấp là

36.250 người, công nhân kỹ thuật có bằng là 39.141 người, công nhân kỹ thuật

không có bằng là 11.505 người ). Đây chính là khó khăn nổi bật đối với Quảng ninh.

Con người vừa là mục đích nhưng đồng thời cũng là động lực của sự phát triển, và

là một nhân tố được đánh giá là quan trọng hàng đầu trong các nhân tố đầu vào. Là

một trung tâm công nghiệp phía bắc, trong tam giác kinh tế Hà nội - Hải phòng -

Quảng ninh, mặc dù được thiên nhiên ưu đãi song Quảng ninh chưa thực sự phát

triển tương xứng với những gì nó có.

II / Thực trạng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh với thành phần kinh tế ngoàI quốc doanh trong thời gian

qua:

1/ Tình hình cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại

50

thương Quảng ninh thời gian qua:

1.1/ Phân tích sự mất cân đối giữa cho vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài

quốc doanh:

Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế của đất nước, ngành Ngân hàng nói

chung, Ngân hàng thương mại nói riêng đang từng bước thay đổi cơ cấu tín dụng để

đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều loại hình doanh nghiệp

khác nhau. Trước đây tín dụng tập chung đầu tư vào kinh tế quốc doanh là chủ yếu,

tiếp đó là kinh tế tập thể, riêng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có giai đoạn gần

như không có đầu tư tín dụng, sau đó có đầu tư nhưng tỷ trọng không đáng kể. Đến

nay tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh đang được quan tâm, Song cũng phải

thừa nhận một thực tế rằng có sự mất cân đối tương đối lớn giữa tổng doanh số cho

vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Bảng III dưới đây sẽ chứng

minh rõ điều đó:

Bảng III: Tình hình cho vay qua các thời kỳ ( 1996 - 1999 )

Đơn vị : Triệu đồng

Thời kỳ 1996 1997 1998 1999

Tổng % Tổng % Tổng % Tổng % Chỉ tiêu

Tổng DS CV 717.658 100 658.099 100 556.090 100 676.800 100

680.668 94.8 638.143 96.9 540.706 97.5 667.159 98.6 Kinh tế QD

*Ngắn Hạn 626.698 92.1 599.188 93.9 539.462 99.7 639.459 95.9

*Trung hạn & DH 53.970 7.9 38.955 6.1 1.244 0.3 27.700 4.1

36.990 5.2 19.956 3.1 14.140 2.5 9.641 1.4 Kinh tế NQD

*Ngắn Hạn 36.990 100.0 19.956 100. 14.140 100 9.641 100

*Trung hạn & DH 0.000 0.0 0.000 0.0 0.000 0.0 0.000 0.0

Với 4 năm liên tiếp từ năm 1996 đến năm 1999. chúng ta thấy tỷ trọng của

doanh số cho vay kinh tế quốc doanh trong tổng doanh số cho vay của chi nhánh

luôn ở mức trên 90% điều đó chứng tỏ khách hàng chủ yếu của chi nhánh vẫn là

51

thành phần kinh tế quốc doanh. Ngược lại doanh số cho vay ngoài quốc doanh chỉ

chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số cho vay và xu hướng ngày càng giảm trong

những năm gần đây. Năm 1999 tỷ lệ cho vay ngoài quốc doanh của chi nhánh chỉ là

1,4%, hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế này gần như chững lại chủ yếu

tập chung vào công tác thu nợ. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là:

Biểu đồ cho vay qua các thời kỳ từ năm 1996 đến năm1999

800

700

600

500

400

300

200

100

0

1996 1997 1998 1999

Tổng doanh số cho vay

Doanh số cho vay quốc doanh

Doanh số cho vay ngoài quốc doanh

Thứ nhất, Thành phần kinh tế quốc doanh đến giao dịch với chi nhánh chủ

yếu là các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ thường xuyên như các công ty than,

công ty du lịch, công ty thương mại, công ty thuỷ sản, công ty xuất nhập khẩu...có

vốn tự có lớn, có uy tín trên thị trường vì vậy rất khó bị phá sản, giải thể dẫn đến

không trả được nợ cho Ngân hàng. Do đó, việc quan hệ tín dụng đối với các doanh

nghiệp này có hệ số an toàn vốn tương đối cao, rất nhiều ngân hàng thương mại coi

đây là đối tượng khách hàng chính của mình. Những khách hàng này vay vốn ngân

hàng ngoại thương Quảng ninh được tiến hành với thủ tục rất nhanh gọn vì đã có

52

quan hệ tín dụng thường xuyên khá hiểu về nhau, đồng thời có sự ưu đãi về lãi suất,

về phí dịch vụ thanh toán...Từ đó chi nhánh không những giữ được khách hàng

truyền thống của mình mà còn có thêm nhiều khách hàng mới đến đặt quan hệ tín

dụng, làm doanh số cho vay ngày một tăng.

Thứ hai, Những doanh nghiệp nhà nước thường vay vốn với khối lượng lớn,

vì vậy chỉ cần một số món vay được thực hiện thì tổng doanh số cho vay đã tăng lên

một cách đáng kể. Thí dụ như năm 1999 công ty du lịch Quảng ninh đã vay 16,1 tỷ

đồng, Xí nghiệp tuyển than cửa ông vay 26,5 tỷ đồng, công ty than Đông bắc vay 63

tỷ đồng ... Một sự tăng lên trong tỷ trọng cho vay đối với kinh tế quốc doanh tương

ứng với nó là một sự sụt giảm trong cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh.

Tuy nhiên,hiện nay trong cơ cấu dư nợ củaVIETCOMBANK Quảng ninh thì

10 khách hàng lớn chiếm tỷ lệ cao (70,8% trong tổng dư nợ ). Có thể nói với đối

tượng khách hàng khá đơn điệu, lại tập trung lớn vào một số doanh nghiệp như vậy

ẩn chứa rủi ro cho VIETCOMBANK Quảng ninh, nhất là khi một trong các khách

hàng lớn này gặp khó khăn.

Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước từ chỗ vay vốn Ngân hàng phải thế chấp tài

sản như các loại doanh nghiệp và hộ sản xuất khác (Quy định tại quyết định số198-

QĐ/NH1 ngày 16/09/94 về việc ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn, quyết định số

367-QĐ/NH1 ngày 21/12/95 về việc ban hành thể lệ tín dụng trung và dài hạn và

quyết định số 217/QĐ-NH1 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ) đến năm 1998 và

1999 không phải thế tài sản khi vay vốn các Ngân hàng thương mại quốc doanh (

điểm 1.2 công văn 417/CV-NH14) tuy biện pháp trên chỉ là giải pháp tình thế,

nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng đã tạo ra sự bất bình

đẳng giữa các thành phần kinh tế trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.

Các doanh nghiệp nhà nước phần lớn được vay bằng tín chấp và được

vay với khối lượng lớn, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay vốn

phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc được bảo lãnhvà chỉ được vay không

quá 70% giá trị tài sản thế chấp cầm cố và tài sản bảo lãnh đã ghi trên hợp

53

đồng, còn riêng tài sản cầm cố là những giấy tờ có giá đang còn thời hạn

hiệu lực thanh toán như: sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi

do Ngân hàng hoặc chính phủ phát hành hoặc các vật quý bằng vàng, đá quí

và đồ trang sức thì mức tối đa mà doanh nghiệp được xét duyệt vay là 80%

giá trị tài sản cầm cố.

Từ chỗ đó cho thấy đây là điều bất lợi lớn của kinh tế ngoài quốc

doanh so với kinh tế quốc doanh trong việc vay vốn tín dụng Ngân hàng, bởi

vì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường có quy mô nhỏ, máy móc

thiết bị lạc hậu, cũ kỹ, giá trị tài sản thấp vì vậy khi đem những tài sản này đi

thế chấp vay vốn Ngân hàng thì tối đa 70% giá trị của chúng cũng chỉ nhận

được một số vốn ít ỏi, không đủ cho nhu cầu vốn cần thiết cho sản xuất, kinh

doanh của họ, còn một khi họ đã có tài sản có tính “lỏng”như giấy tờ có giá,

vàng bạc, đá quí...để được vay 80% giá trị cầm cố từ Ngân hàng thì nếu họ

vay Ngân hàng thường chỉ vay trong một thời gian rất ngắn hoặc họ không

chọn hình thức vay ngân hàng, vì để làm xong các thủ tục cầm cố vay vốn

Ngân hàng, cơ hội kinh doanh của họ không còn. Trong khi đó họ có thể

bán chúng ra thị trường một cách không khó khăn gì.

Thứ tư, Thời gian qua hoạt động kinh doanh của khối kinh tế ngoài

quốc doanh chững lại và suy giảm, việc thành lập công ty trách nhiệm hữu

hạn, doanh nghiệp tư nhân diễn ra tự phát, chưa có sự tư vấn và hỗ trợ từ các

cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền. Việc điều tra thị trường, xác định

mục tiêu kinh doanh rất hạn chế dẫn đến các doanh nghiệp ra đời có tính khả

thi không cao. Bước vào hoạt động nhiều doanh nghiệp đã vấp phải khó

khăn, trở ngại dẫn đến kinh doanh thua lỗ.

Ngoài những doanh nghiệp phải giải thể (đã thu hồi giấy phép đăng

ký kinh doanh ). Số còn lại đều hoạt động cầm chừng. Số doanh nghiệp phát

triển vững mạnh không đáng kể nhưng lại chính là những doanh nghiệp đã

chọn một ngành nghề kinh doanh được coi là phù hợp. Đó cũng chính là sự

54

đào thải tự nhiên, từng bước đưa doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng

ninh phát triển đúng hướng trên cơ sở cơ cấu ngành nghề hợp lý. Bước sang

năm 2000 khi áp dụng luật doanh nghiệp mới, doanh nghiệp ngoài quốc

doanh ở Quảng ninh có nhiều triển vọng phát triển, hoạt động sản xuất, kinh

doanh ngày càng có hiệu quả...

Thứ năm, Những vướng mắc trong thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản

vay vốn tại Ngân hàng như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ

đỏ ) và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở Quảng ninh tiến hành rất chậm,

hiện nay mới cấp được 15%. Các loại giấy tờ này hiện nay rất nhiều chủng

loại, được cấp qua nhiều thời kỳ khác nhau, không đảm bảo tính duy nhất,

do vậy rất dễ dẫn đến tiêu cực, lừa đảo. . . khi nhận thế chấp loại tài sản này.

Theo qui định của pháp luật đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu khi thế

chấp để vay vốn Ngân hàng bên thế chấp phải đăng ký thế chấp và xoá đăng

ký thế chấp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trên thực tế hiện nay

vẫn chưa xác định rõ ràng cơ quan quản lí có thẩm quyền là cơ quan nào,

chưa triển khai thực hiện được việc này. Do đó, nhiều doanh nghiệp ngoài

quốc doanh, hộ gia đình có nhu cầu vay vốn Ngân hàng, có dự án, phương

án kinh doanh khả thi nhưng Ngân hàng không thể giải quyết cho vay được.

Cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thường chứa đựng những mức rủi ro cao,

thế nhưng pháp luật lại chưa có những qui định cụ thể để bảo vệ Ngân hàng

khi khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, không trả được nợ, phải sử lý,

phát mại tài sản thế chấp. Thậm chí các cơ quan bảo vệ pháp luật còn hình

sự hoá các mối quan hệ kinh tế này. chính vì vậy mà cán bộ tín dụng cũng

như lãnh đạo Ngân hàng có tâm lí ngại cho vay đối với kinh tế ngoài quốc

doanh.

Thứ sáu, do những nguyên nhân khách quan, kể từ khi cuộc khủng

hoảng tài chính tiền tệ khu vực xảy ra vào tháng 07/1997 thì tình hình sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng gặp nhiều

55

khó khăn hơn, nhiều doanh nghiệp bị mất thị trường tiêu thụ sản phẩm do

không cạnh tranh nổi với hàng hoá của các nước trong khu vực dẫn đến gặp

khó khăn trong sản xuất kinh doanh, thậm chí phá sản, vỡ nợ .

Để đảm bảo an toàn vốn vay hiện nay chi nhánh Ngân hàng ngoại

thương Quảng ninh chỉ cho vay đối với những khách hàng ngoài quốc doanh

có tình hình tài chính lành mạnh, mục đích vay vốn rõ ràng, phương án kinh

doanh khả thi và tài sản thế chấp, cầm cố đầy đủ tính pháp lí. Qua bảng

III ta thấy rõ hơn sự suy giảm doanh số cho vay ngoài quốc doanh. Thông

qua việc so sánh từ năm 1996 đến 1999 .

Bảng IV: Tình hình suy giảm doanh số cho vay qua các năm (1996-1999)

Đơn vị : 1.000.000 đ

Thời kỳ 1996 1997 1998 1999 97/96 98/97 99/98

Chỉ tiêu +/- % +/- % +/- %

680.66 638.14 541.95 667.15 125.20 - KTQD -42.525 -6.3 -15.1 23.1 8 3 0 9 96.193 9

626.69 599.18 540.70 639.45 - Ngắn hạn -27.510 -4.4 -9.8 98.753 18.3 8 8 6 9 58.482

- Trung, d h 53.970 38.955 1.244 27.700 -15.015 -27.8 96.8 26.456 2.13 37.711

KTNQD 36.930 19.956 14.140 9.641 -16.974 -46.0 -5.816 -29.1 -4.499 -31.8

Xét trên toàn bộ khoảng thời gian từ năm 1996 đến năm 1999 thì doanh số

cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh giảm đi một cách rõ rệt, đặc biệt năm 1999

doanh số cho vay giảm 31,8 % so với năm 1998 và chiếm tỷ trọng rất thấp (1,4 % )

56

trong tổng doanh số cho vay.

DS cho vay NQD ( tû ®ång)

40,000

35,000

30,000

25,000

20,000

15,000

10,000

5,000

0

1 1996

2 1997

3 1998

4 1999

Biểu đồ biểu hiện sự suy giảm doanh số cho vay KTNQD

Một yếu tố nữa cũng phải quan tâm tới đó là từ năm 1996 đến năm 1999 khối

lượng tín dụng chi nhánh Ngân hàng ngoại thương cung cấp cho thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh đều là tín dụng ngắn hạn, không có món nào cho vay trung và dài

hạn đối với thành phần kinh tế này. Có thể liệt kê hai nguyên nhân chính dẫn đến

tình trạng trên là:

Thứ nhất, nhiều dự án vay vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ

điều kiện vay vốn trung dài hạn (vay vốn theo dự án) theo qui định của Ngân hàng

nhà nước và Ngân hàng ngoại thương Việt nam . Tỷ lệ dự án không được vay vốn

do không đảm bảo đủ các điều kiện cần thiết là không nhỏ. Có ba điều kiện mà các

57

doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường không thoả mãn được là không đảm bảo vốn

tự có tham gia tối thiểu bằng 20 % tổng mức đầu tư dự án đối với dự án mới và 15%

đối với dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lí hoá sản xuất ; thiếu tài sản

thế chấp với đầy đủ giấy tờ pháp lý và tổ chức hạch toán kế toán không theo đúng

pháp lệnh kế toán thống kê.

Thực tế hiện nay cho thấy vấn đề tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng vẫn còn

là một trở ngại rất lớn không chỉ đối với người vay mà còn đối với cả các Ngân

hàng, theo thống kê thì hơn 80% tài sản của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và

gần 100% tài sản của các doanh nghiệp nhà nước là không có đầy đủ giấy tờ bảo

đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Do đó, Ngân hàng không thể linh động giải

quyết cho vay được.

Bên cạnh đó, hiện nay do lợi ích cục bộ của các ông chủ doanh nghiệp và

trình độ kế toán viên của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn

còn nhiều hạn chế, từ đó dẫn đến tình trạng chưa thực hiện hoặc cố tình thực hiện

thiếu nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê, sổ sách ghi chép của các đơn vị này

phần lớn còn theo hình thức “sổ chợ”, thiếu minh bạch .

Thứ hai, Trình độ lập dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn

nhiều hạn chế, số liệu thiếu chính xác. hơn nữa khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là

khu vực hay có những biến động mạnh, kinh doanh không ổn định trong một lĩnh

vực cụ thể nên cho vay trung, dài hạn đối với thành phần kinh tế này hệ số rủi ro

cao.

Nhìn chung cơ cấu cho vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh

tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh vài năm qua là chưa hợp lí cần

phải có biện pháp thiết thực để mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài

quốc doanh để thực hiện phương châm “bán lẻ”, cho vay từng mán nhỏ, phân tán rủi

ro, đảm bảo an toàn vốn, góp phần thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh địa phương

phát triển và giải quyết công ăn, việc làm.

58

1.2/Phân tích tình hình thu nợ:

Doanh số thu nợ là tổng số tiền cho vay được hoàn trả trong một thời gian

nhất định. Doanh số thu nợ phản ánh được tình hình thu hồi nợ và là cơ sở để xác

định vòng chu chuyển của vốn cho vay. Một chu kỳ kinh doanh được coi là kết thúc

và đạt hiệu quả cao chỉ khi nào vốn được bảo toàn đầy đủ và kinh doanh có lãi cao.

Do vậy nghiệp vụ cho vay chỉ được coi là hoàn thành khi Ngân hàng thu hồi được

toàn bộ vốn gốc và lãi cho vay. Phân tích doanh số thu nợ chính là phân tích một

giai đoạn hoàn thành của quá trình cho vay vốn, để đánh giá chính xác hơn hiệu quả

của quá trình cho vay.

Doanh số thu nợ và doanh số cho vay như hai mặt của một quá trình, doanh

số thu nợ là nguồn vốn bổ sung ảnh hưởng đến doanh số cho vay, ngược lại doanh

số cho vay là cơ sở để thu hồi nợ nhiều hay ít.

Bảng V: Tình hình thu nợ qua các thời kỳ ( 1996-1999 )

Đơn vị :1.000.000 đ

Thời kỳ 1996 1997 1998 1999

Chỉ tiêu Tổng % Tổng % Tổng % Tổng %

Doanh số thu nợ 711.677 100.0 635.29 100.0 492.89 100.0 754.700 100.0

9 0

KT quốc doanh 676.214 95.0 611.47 96.3 474.67 96.3 743.175 98.5

7 7

KTNQD 35.463 5.0 23.822 3.8 18.213 3.7 11.525 1.5

Thu nợ/chovay NQD 95.9 119.4 128.8 119.5

Tổng thu nợ / Tổng 99.2 96.5 89 112.0

Cho vay

Qua bảng trên ta thấy song song với công tác cho vay thì công tác thu

nợ cũng được chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh tiến hành

59

một cách rất có hiệu quả .

Nhìn chung tỷ lệ doanh số thu nợ / doanh số cho vay trong năm của

chi nhánh đối với cả kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh trong

các năm qua là khá cao, đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh tỷ lệ này

trong ba năm gần đây đều đạt tỷ lệ trên 119%, điều đó chứng tỏ việc thu hồi

nợ của chi nhánh thuận lợi, nhanh chóng, đảm bảo quay vòng vốn tín dụng

nhanh, đồng thời thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của cán bộ tín dụng trong việc

thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng thanh toán nợ cho Ngân hàng,

nhất là đối với khách hàng là kinh tế ngoài quốc doanh .

Tuy nhiên, tỷ lệ thu nợ / doanh số cho vay đối với kinh tế ngoài ngoài

quốc doanh cao còn do nguyên nhân là mấy năm qua chi nhánh hạn chế cho

vay đối với thành phần kinh tế này mà chủ yếu tập chung vào công tác thu

nợ vì thời gian qua kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Quảng ninh giảm

uy tín. Trước hết trong con mắt người cho vay, bộ phận khách hàng này đã

tự làm giảm uy tín của mình. Cùng với sự chuyển đổi theo hướng thị trường

của nền kinh tế, một môi trường đầy biến động và không kém phần khắc

nghiệt, một số doanh nghiệp, tư nhân làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật,

vay tiền chơi hụi, chơi số đề ... không những ngân hàng mà cả xã hội lên án.

Một bộ phận không nhỏ khác lại bung ra theo “phong trào” không biết lượng

sức mình về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý ... làm ăn theo

kiểu “được ăn cả ngã về không”, dẫn đến một loạt cơ cở sản xuất kinh doanh

thuộc loại này làm ăn thua lỗ, phá sản không trả được nợ ngân hàng, làm

cho con số nợ quá hạn cho vay ngoài quốc doanh của các ngân hàng thương

mại Quảng ninh qua các năm tăng cả về con số tương đối và tuyệt đối.

Mặt khác tỷ lệ thu nợ / doanh số cho vay cao còn do cơ cấu cho vay

của chi nhánh qui định. Cụ thể là những món cho vay đối với kinh tế ngoài

quốc doanh của chi nhánh là cho vay ngắn hạn, do vậy phần lớn các món

60

vay phát sinh và kết thúc trong năm đó.

Biểu đồ mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ của

40,000

35,000

30,000

25,000

20,000

15,000

10,000

5,000

0

2 1997

1 1996

3 1998

4 1999

Doanh so cho vayNQD

KTNQD tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh( thời kỳ 96 -99

Series1

Series2

Doanh so thu no vay NQD

Để đánh giá một cách chính xác hơn về công tác tín dụng của VCB

Quảng ninh trong thời gian qua ta hãy tiến hành nghiên cứu cơ cấu dư nợ và

nợ quá hạn tại chi nhánh được trình bày ở bảng sau :

Bảng VI: Chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương QN

Đơn vị : 1.000.000,00 đ

Thời kỳ 31/12/96 31/12/97 31/12/98 31/12/99

Chỉ tiêu Tổng % Tổng % Tổng % Tổng %

252.000 274.800 338.000 258.200 1.Dư nợ

Quốc doanh 235.562 93.5 262.228 95.4 329.501 97.5 251.585 97.40

61

Ngoài QD 16.438 6.5 12.572 4.6 8.499 2.5 6.615 2.60

1.430 949.0 6.453 5.200 2.Nợ quá hạn

Quốc doanh 816 57.0 654.0 69.0 6.134 95.0 4.833 93.90

Ngoài QD 614 43.0 295.0 31.0 319.0 317.0 6.10 5.0

0.6 0.35 1.9 2.01 3.NQH/dư nợ

0.4 0.25 1.9 1.93 Quốc doanh

3.7 2.35 3.8 4.79 Ngoài QD

Qua bảng trên ta thấy dư nợ của kinh tế quốc doanh luôn chiếm một tỷ

trọng lớn trong tổng dư nợ và có xu hướng ngày một tăng, từ 93,5% tổng dư

nợ năm 1996 tăng lên 97,4 % năm 1999. Trong khi đó tỷ trọng dư nợ của

kinh tế ngoài quốc doanh lại liên tục giảm qua các năm cả về số tuyệt đối và

số tương đối, từ 6,5% tổng dư nợ năm 1996 (tương ứng với 16,4 tỷ đồng )

giảm xuống còn 2.6% năm 1999 (tương ứng với 6,6 tỷ đồng ). điều này

chứng tỏ rằng chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh chưa tìm được

giải pháp hữu hiệu để mở rộng cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh.

Nợ quá hạn / Tổng dư nợ là chỉ số đo lường chất lượng nghiệp vụ tín

dụng, các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín

dụng cao của mình và ngược lại. Các Ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào

tình hình và đặc điểm hoạt động của mình mà qui định tỷ lệ nợ quá hạn có

thể chấp nhận được khác nhau. Nhưng hiện nay theo quy chế đánh giá chung

thì tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại dưới 5% là chấp nhận được.

Là chi nhánh của Ngân hàng ngoại thương Việt nam, một Ngân hàng

thương mại quốc doanh đang có nợ quá hạn thuộc loại cao trong các tổ chức

tín dụng của Việt nam ( hơn 10%), song tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh

Ngân hàng Quảng ninh cao nhất chỉ là 2,01%, vậy đây là một tỷ lệ nợ quá

hạn có thể chấp nhận được. Điều này phải chăng là do điều kiện phát triển

kinh tế tại Quảng ninh là tốt ? Câu trả lời không hoàn toàn như vậy. Vì nếu

62

đem ra so sánh với các chi nhánh Ngân hàng công thương Quảng ninh, Ngân

hàng nông nghiệp Quảng ninh...thì tỷ lệ nợ quá hạn của họ đều trên hoặc xấp

xỉ 10%. Có được kết quả trên là do chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh đã tiến hành thẩm định kỹ trước khi cho vay, tăng cường kiểm

tra trong và sau khi cho vay. Do đó, hầu hết các món vay đều đảm bảo thu

hồi gốc và lãi đúng hạn, phát huy hiệu quả kinh tế, góp phần hỗ trợ phát triển

sản xuất, thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn.

Tuy nhiên, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tỷ lệ nợ quá

hạn (nợ quá hạn / dư nợ )so với kinh tế quốc doanh luôn cao hơn và có chiều

hướng tăng lên, năm 1999 là 4,79%. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng

trên là:

Bảng VI : Nợ quá hạn theo các nguyên nhân của thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh

Chỉ tiêu 31/12/96 31/12/97 31/12/98 31/12/99

NQH % NQH % NQH % NQH %

KD thua lỗ 290 47.3 125 42.4 150 47 173 54.6

thiên tai,chính sách 244 39.7 170 57.6 114 35.7 144 45.4

Ngân hàng 80 13 55 17.3

Tổng 614 3.7 295 2.3 319 3.7 317 4.8

Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến

tình trạng nợ quá hạn Ngân hàng. Đa số các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách

nhiệm hữu hạn ở nước ta nói chung và ở tỉnh Quảng ninh nói riêng được thành lập

và hoạt động với số vốn tương đối nhỏ, bình quân chưa đến 150 triệu đồng đối với

doanh nghiệp tư nhân, và dưới 700 triệu đồng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.

Với số vốn ít ỏi như vậy các doanh nghiệp này hầu như là thiếu vốn, hoạt động chủ

yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, cộng với sự lạc hậu về máy móc thiết bị dẫn đến

63

năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao không đủ sức

cạnh tranh trên thị trường. Cộng với trình độ quản lí, kỹ năng kinh doanh còn hạn

chế của nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình. Trong quá trình kinh doanh có doanh

nghiệp còn dựa vào sự may rủi mang lại hoặc kinh doanh ở lĩnh vực có đâù tư lớn

song lại dễ rủi ro như kinh doanh bất động sản, kinh doanh khách sạn...

Ngoài ra phải kể đến nguyên nhân phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh, hộ gia đình, cá thể đầu tư nhằm mục tiêu thu được lợi nhuận tối đa với bất kỳ

giá nào và bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh để đạt được mục tiêu đó, từ

thực tế đó dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp xem thường pháp luật, lừa đảo chiếm

dụng vốn của ngân hàng và của bạn hàng, sử dụng vốn sai mục đích, không đảm bảo

độ an toàn trong sử dụng vốn, gây lãng phí, thậm chí mất vốn. Khả năng trả nợ của

khách hàng với Ngân hàng gặp khó khăn, gây chậm trễ hoặc không thể trả được nợ.

Thứ hai, về phía chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh thời gian

qua chưa thực sự chú trọng, “ tâm đắc” đối với cho vay kinh tế ngoài quốc doanh,

do đó thiếu thông tin chính xác, toàn diện về khách hàng, cán bộ tín dụng chưa am

hiểu sâu về ngành kinh doanh mà mình cho vay, trong khi ngân hàng không có đủ

các số liệu thống kê các chỉ tiêu để phân tích, so sánh đánh giá vai trò vị trí của

doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng

đời sản phẩm ... dẫn đến xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, lựa chọn sai

khách hàng. Việc kiểm tra trong và sau khi cho vay của Ngân hàng đối với kinh

ngoài quốc doanh là rất khó khăn. Vì sổ sách kế toán của họ thiếu độ tin cậy, khi rút

tiền vay khách hàng thường rút bằng tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán, không trả

thẳng cho người hưởng bằng chuyển khoản, séc hay phương tiện thanh toán khác

qua Ngân hàng. Do đó Ngân hàng khó mà kiểm soát tiền đầu tư của mình được

khách hàng sử dụng như thế nào.

Thứ ba, Nguyên nhân do thiên tai hoả hoạn cũng góp phần đáng kể

phát sinh nợ quá hạn tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.

Chẳng hạn như công trình đắp đập nuôi tôm của công ty trách nhiệm hữu

hạn Cửa lục là một thí dụ. Khi xin vay vốn, dự án đưa ra, theo ngân hàng

64

đánh giá là tính khả thi cao, thị trường tiêu thụ tốt. Song trong quá trình thi

công, thực hiện chẳng bao lâu, lũ lớn phá vỡ phần hệ thống đê... Một số

trường hợp lại do thiên tai, hoả hoạn làm hư hỏng giảm chất lượng hàng hoá

gây tổn thất cho doanh nghiệp, không trả được nợ ngân hàng đúng hạn, thậm

chí có doanh nghiệp không có khả năng trả nợ .

Thứ tư, do thế chấp, cầm cố tài sản thực hiện không tốt. Thế chấp,

cầm cố tài sản là một phương thức đảm bảo khoản vay, là nguồn trả nợ thứ

hai khi người vay không còn khả năng thanh toán. Trong những năm qua

việc thế chấp, cầm cố tài sản ở các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng

ngoại thương Quảng ninh nói riêng hầu hết thực hiện chưa được tốt, có

những khoản vay việc thế chấp chỉ là hình thức. Trường hợp phổ biến là giấy

tờ sở hữu không đầy đủ tính pháp lí. Tài sản không đảm bảo tính dễ bán, dễ

chuyển nhượng. Trong khi đó chế độ cho vay cho phép một khách hàng có

thể vay vốn tại nhiều Ngân hàng thương maị. Như vậy khách hàng có thể

tiến hành đồng thời hai món vay hoặc nhiều hơn cho cùng một mục đích sử

dụng, có trường hợp sử dụng cùng một tài sản thế chấp. Đây là một khó

khăn cho ngân hàng trong việc quản lý sử dụng vốn vay của khách hàng, và

đồng thời đây là một kẽ hở lớn cho khách hàng vay vốn đảo nợ giữa các

Ngân hàng.

Thứ năm, đó là những nguyên nhân khách quan liên quan đến môi

trường kinh tế, môi trường pháp lí cho kinh doanh của khách hàng và của

ngân hàng chưa được thuận lợi và hoàn chỉnh. Nền kinh tế nước ta cũng như

các nước trong khu vực từ năm 1996 đến năm 1999 ở tình trạng trì trệ, tốc

độ tăng trưởng GDP không cao, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các

nước trong khu vực và trên thế giới cùng với nguy cơ suy thoái toàn cầu đã

tác động tiêu cực đến nước ta. Các doanh nghiệp sản xuất đình trệ, hàng tồn

kho gia tăng nên càng gây khó khăn cho việc trả nợ Ngân hàng.

Môi trường pháp lí kinh doanh Ngân hàng chưa đầy đủ, chưa đồng bộ.

65

Thể hiện ở việc hướng dẫn ban hành và thực hiện các qui định, thông tư,

hướng dẫn chưa được thống nhất giữa các ngành liên quan dẫn đến khi thực

hiện tại Ngân hàng cơ sở có lúc bị vi phạm ( Điển hình như thông tư 01 liên

bộ tài chính - Tư pháp - Ngân hàng về thế chấp, công chứng và bảo lãnh vay

vốn Ngân hàng ). Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa cao, chưa nhất

quán trong việc thực thi những vấn đề có liên quan đến hoạt động Ngân

hàng. Quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, nhà nước

cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng

nhiệm vụ vượt quá trình độ năng lực quản lí, qui mô hoạt động quá lớn so

với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp ... dẫn đến vay vốn gấp

nhiều lần so với nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, làm nảy sinh những điều

kiện đưa đến rủi ro.

Mặc dù nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân

hàng ngoại thương Quảng ninh về số tuyệt đối là không lớn lắm ( Năm 1999

là 317 triệu đồng ) song nó lại gây ra không ít những vấn đề phức tạp gây

khó khăn cho Ngân hàng trong vấn đề sử lí. Hầu hết các món nợ loại này là

không có khả năng thu hồi vốn trong khi đó ngân hàng lại không thể khởi

kiện doanh nghiệp được vì đã quá thời hạn hiệu lực. Thêm vào đó do có sự

thay đổi về thủ tục giấy tờ quyền sử dụng, chuyển nhượng đất, tài sản...nên

một số giấy tờ pháp lí đem thế chấp tại Ngân hàng trước đây không còn phù

hợp để làm căn cứ cho toà án xét sử. Ngoài ra do biến động của thị trường

bất động sản những tài sản thế chấp cầm cố nay đã giảm giá trị đáng kể nên

cho dù có phát mại được thì Ngân hàng cũng không thu hồi đủ vốn chưa nói

gì đến những khó khăn trong việc phát mại như tâm lí sợ rủi ro, hay tài sản

quá lớn không có người đủ tiền mua... Bên cạnh đó sự giảm giá tài sản thế

chấp còn do sự tác động huỷ hoại của môi trường tự nhiên, hay có những

thay đổi trong chính sách qui hoạch phát triển vùng... Cuối cùng một lí do

khá tế nhị làm khó khăn cho Ngân hàng là thái độ thiện chí hợp tác với bên

cơ quan luật pháp. Nhiều khi, và vì lí do khác nhau mà những vụ án kinh tế

66

chỉ mang tính dân sự thuần tuý thì họ cũng hình sự hoá, nên vì do e ngại mà

Ngân hàng không dám khởi kiện. Hơn nữa những tốn kém về thời gian, chi

phí để Ngân hàng có thể giải quyết có khi còn làm tổn thất thêm cho Ngân

hàng.

Tóm lại, Kinh tế ngoài quốc doanh là những đối tượng rất khó quản lí

của Ngân hàng, với phương thức kinh doanh lời ăn, lỗ chịu kinh tế ngoài

quốc doanh đã xây dựng cho mình những chiến lược phát triển kinh tế riêng

như người ta đã đúc kết, đó là: “ Vốn ít, lãi nhiều, giải thể nhanh”. Vì

vậy nếu đầu tư vốn vào khu vực này Ngân hàng không có những giải pháp

hữu hiệu thì sẽ dẫn đến tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi thậm chí bị mất

vốn trong kinh doanh.

2. Những tồn tại rút ra trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại

thương Quảng ninh với kinh tế ngoài quốc doanh :

Mặc dù mới bước vào kinh doanh tín dụng Ngân hàng đối với thành

phần kinh tế ngoài quốc doanh trong một vài năm gần đây, phải chịu sự cạnh

tranh mạnh mẽ cùng với các Ngân hàng thương mại khác đã có bề dày kinh

doanh tín dụng đối với thành phần kinh tế này trên địa bàn tỉnh Quảng ninh

nhưng chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh trong 5 năm qua đã

đạt được những kết quả đáng khích lệ. Chi nhánh đã góp phần thúc đẩy các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kinh tế hộ gia đình phát triển.

Nhưng, bên cạnh những kết quả mà chi nhánh đã đạt được trong

những năm qua phải kể đến một số mặt còn hạn chế, tồn tại trong công tác

cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, bởi vì như đã nói ở trên nghiệp vụ

cho vay ngoài quốc doanh vẫn còn đang là nghiệp vụ khá mới mẻ ở chi

nhánh và trên bước đường vừa làm vừa học hỏi để không ngừng bổ sung và

hoàn thiện thì rất khó tránh khỏi những khuyếm khuyết, những tồn tại.

67

Nhưng phần lớn các hạn chế của chi nhánh cũng là tình trạng chung của toàn

hệ thống Ngân hàng. Có thể đưa ra những tồn tại chính cần phải khắc phục

trong thời gian tới như sau:

Thứ nhất, trong thời gian qua chính sách đầu tư tín dụng tại chi nhánh

chưa thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, có sự phân biệt giữa

doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà sự khác biệt

rõ nét nhất là điều kiện để vay vốn Ngân hàng.Các doanh nghiệp nhà nước

phần lớn được vay bằng tín chấp và được vay với khối lượng lớn, còn các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố

hoặc được bảo lãnh.

Vấn đề tài sản thế chấp luôn cản trở khả năng vay vốn của kinh tế

ngoài quốc doanh từ ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp khi ngân hàng đánh

giá các điều kiện trước khi cho vay. Nếu so sánh với doanh nghiệp nhà nước

không phải thế chấp thì kinh tế ngoài quốc doanh đã rất thiệt thòi, không

những thế bộ phận khách hàng này còn bị ảnh hưởng gián tiếp thông qua

những vấn đề tâm lí khác nhau. Đã có tài sản thế chấp thì ít nhiều sẽ có sử lí

tài sản thế chấp. Trong thực tế việc xử lí tài sản đạt hiệu quả rất thấp, thực tế

giá trị thu được từ bán tài sản thế chấp hầu như rất nhỏ so với giá trị mà nó

bảo đảm, như vậy ngân hàng dễ bị tổn hao vốn liếng đã đành mà có khi còn

“mất” cả người. Điều này đã tạo ra một trở ngại tâm lí không nhỏ khi người

cho vay nói “được”. Về phía người cho vay, còn có vấn đề tâm lý không

kém phần quan trọng, đó là khi người “làm công ăn lương” nói “đồng ý” nếu

trôi chảy thì lợi ích của món vay trước hết và cơ bản thuộc về tấp thể, nhưng

nếu món vay gặp “trục trặc” thì trách nhiệm cá nhân rất nặng nề, cùng lúc đó

nếu trả lời “không” trong hầu hết các trường hợp quyền lợi cá nhân không bị

ảnh hưởng, điều này cũng đã làm một bộ phận cán bộ ngân hàng có tâm lí

thẩm định cực kỳ khắt khe, máy móc bỏ sót dự án hoặc phương án khả thi là

không tránh khỏi. Bên cạnh đó ai cũng biết rằng trong kinh tế thị trường thời

68

cơ rất quan trọng và không phải lúc nào cũng xuất hiện, nhưng thường thì

ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu này khi phải thực hiện đầy đủ một

loạt các bước theo qui trình. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói rằng

họ không xin, không cần ưu đãi mà chỉ cần sự trợ giúp đúng lúc, đúng mức,

bình đẳng và công bằng.

Vấn đề lãi suất cũng là một trở ngại không nhỏ, các doanh nghiệp nhà

nước thường được vay vốn với lãi suất ưu đãi do đã có quan hệ thường

xuyên, có uy tín và vay vốn với khối lượng lớn. Còn các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh thường có độ tin cậy chưa cao, vay vốn với khối lượng nhỏ nên

phải chịu mức lãi suất cao hơn. Ngoài ra còn phải chịu một số khoản chi phí

khác như lệ phí công chứng, lệ phí xác nhận đơn xin vay, phương án kinh

doanh ở chính quyền địa phương và một loạt các thủ tục phức tạp khác trước

khi đưọc Ngân hàng cho vay. Vì vậy, trong thời gian qua đã hạn chế rất

nhiều các khách hàng ngoài quốc doanh đến chi nhánh vay vốn.

Thứ hai, tỷ lệ nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh mặc dù ở mức

chấp nhận được, nhưng cao hơn kinh tế quốc doanh và có xu hướng ngày

càng tăng. Đây là vấn đề báo hiệu chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc

doanh tại chi nhánh cần phải xem xét, đòi hỏi phải có giải pháp để nâng cao hiệu

quả cho vay đối với thành phần kinh tế này. Song, hiện nay việc thẩm định trước khi

cho vay và kiểm tra việc sử dụng vốn vay của kinh tế ngoài quốc doanh gặp nhiều

khó khăn.Vì: Hiện nay nhiều cơ sở ngoài quốc doanh được nhà nước cấp giấy phép

thành lập và cho đăng ký kinh doanh với những chức năng và nhiệm vụ vượt quá

năng lực tài chính, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý quá trình sản xuất kinh doanh.

Quá trình cấp giấy phép thành lập, giấy đăng ký kinh doanh có liên quan đến nhiều

ngành, nhiều cấp khác nhau nên sau khi đã ra đời hàng loạt các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh thì công việc của phần sau là kiểm tra xem xét tình hình chấp hành các

chế độ chính sách quản lý kinh tế của nhà nước đối với doanh nghiệp lại chưa được

chú trọng đúng mức do trách nhiệm đó chưa được phân công cụ thể cho một cơ

69

quan chức năng nào của nhà nước. Điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc

phối kết hợp với cơ quan chính quyền địa phương và các cơ quan hữu trách để cùng

kiểm tra và quản lí khoản nợ vay.

Pháp lệnh kế toán thống kê chưa có đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp

thực hiện chế độ hạch toán kế toán, chính xác kịp thời, đồng thời công tác quản lí

nhà nước về việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với doanh nghiệp ngoài

quốc doanh chưa được thực sự chú ý đúng mức. Cơ quan kiểm toán của nhà nước

mới ra đời, phạm vi và quy mô hoạt động còn nhiều hạn chế và chưa đủ khả năng để

quản lý được toàn bộ mọi tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt là các tổ chức thuộc

kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy đa số các doanh nghiệp này chưa chấp hành

nghiêm chỉnh các qui định trong pháp lệnh về kế toán và thống kê, không thực hiện

chế độ hạch toán, quyết toán theo qui định, sổ sách ghi chép không đầy đủ và thiếu

rõ ràng, số liệu quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế

độ kiển toán bắt buộc nên các số liệu phản ánh không chính xác thực trạng tình hình

sản xuất kinh doanh và tài chính của khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong

việc thu thập thông tin và sự thiếu tin cậy trong các số liệu kế toán sẽ dẫn đến những

đánh giá và kết luận thiếu chính xác của Ngân hàng đối với doanh nghiệp từ đó đưa

ra những quyết định sai lầm gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh tín dụng.

Ngoài ra còn một khó khăn nữa là hiện nay hệ thống thông tin của Ngân

hàng về khách hàng chưa hoàn thiện. Mặc dù đã có sự hoạt động của hệ thống CIC

của Ngân hàng nhà nước song vẫn còn mang tính hình thức, các thông tin không

được cập nhật thường xuyên, vừa chậm, vừa thiếu không đáp ứng được yêu cầu. Các

kênh thông tin khác như phương tiện báo chí thì chỉ dừng lại ở mức độ chung chung

không thể phản ánh được thực trạng của các doanh nghiệp, hoặc khi phản ánh được

thì sự việc “đã rồi”, không sử lí kịp.

Thứ ba, Trong thời gian qua nhiều cơ sở kinh doanh có nhu cầu vay vốn để

sản xuất kinh doanh, đầu tư trang thiết bị, đổi mới công nghệ có phương án kinh

doanh, dự án khả thi nhưng chi nhánh không thể giải cho vay được, do những

70

vướng mắc về thủ tục, qui chế thế chấp tài sản khi vay vốn mà chủ yếu hiện nay là

việc chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất. Trên địa bàn tỉnh Quảng

ninh hiện nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà còn

rất hạn chế từ đó gây khó khăn cho cả khách hàng và Ngân hàng trong và sau khi

vay vốn. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng sự sơ hở, thiếu chặt chẽ giữa các cơ

quan nhà nước, dùng một tài đem đi thế chấp nhiều Ngân hàng vay tiền rồi bỏ trốn,

Ngân hàng lâm vào tình trạng không phát mại được tài sản thế chấp do giấy tờ giả,

hoặc có phát mại được thì cũng qua nhiều thủ tục, công đoạn phức tạp liên quan đến

khởi kiện... rất mất thời gian. Đây là vấn đề hết sức nan giải mà bản thân Ngân hàng

không tự mình giải quyết được. Ngân hàng cần có sự giúp đỡ và phối hợp chặt chẽ

của các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt

động Ngân hàng, đặc biệt là các văn bản có liên quan đến vấn đề thế chấp, cầm cố,

bảo lãnh vay vốn Ngân hàng.

Ngoài ra trong hoạt động thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng cũng còn xuất

hiện một nghịch lý đó là: Những doanh nghiệp mạnh thì tài sản thế chấp đáp ứng

đầy đủ giá trị để đảm bảo vay vốn và thực ra những dư nợ này tài sản thế chấp chỉ là

“thứ yếu” thậm chí là không cần thiết , trong khi đó những doanh nghiệp yếu thì

Ngân hàng yêu cầu bắt buộc phải có tài sản thế chấp, nhưng tài sản thế chấp của

những khách hàng này lại không đảm bảo yêu cầu về mặt giá trị nên mặc dù phương

án kinh doanh của họ rất có hiệu quả nhưng Ngân hàng không thể cung ứng đủ vốn

cho họ được, dẫn đến doanh nghiệp thực hiện dự án với số vốn không đủ, nguy cơ

thất bại cao dẫn đến không trả được nợ Ngân hàng. Còn ngược lại những doanh

nghiệp có tài sản thế chấp nhưng không có dự án khả thi cũng không được vay vốn.

Thứ tư, trong thực hiện cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc

doanh, chi nhánh còn thiếu thông tin về tình hình tài chính, về mức độ rủi ro

của khách hàng vay vốn, về năng lực quản lí đồng vốn vay của họ như thế

nào, dẫn đến việc không kiểm soát được chặt chẽ vốn cho vay, doanh nghiệp

hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, không trả được nợ đúng hạn. Nhìn

71

chung trình độ nhận thức, năng lực quản lý tín dụng của cán bộ tín dụng cho

vay ngoài quốc doanh còn nhiều hạn chế khi giải quyết cho vay chưa thực sự

phân tích kỹ càng về các chỉ tiêu cơ bản như phương án có khả thi hay

không, các điều kiện kinh tế xã hội tự nhiên có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh

tế của phương án không ? Trong thực tế việc trả nợ tiền vay Ngân hàng của

khách hàng đầy đủ, đúng hạn hay không phụ thuộc vào tính khả thi của

phương án sản xuất kinh doanh. ở đây có một vấn đề xuất phát từ sự hiểu

biết vừa đòi hỏi phải có chiều rộng lẫn chiều sâu về kinh tế kỹ thuật của đối

tượng vay vốn mà cán bộ tín dụng Ngân hàng hiện nay đáp ứng còn hạn chế.

Bởi vì trong thời gian qua công tác đào tạo cán bộ còn chắp vá và chưa có hệ

thống. Một số cán bộ tuy đã có kinh nghiệm trong nghề song do công tác

đào tạo trước đây, nên một số những vấn đề mới chưa được nhạy bén và

tường tận, và nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường, cán bộ Ngân hàng cần

phải am hiểu mọi qui luật và sự vận động của nó và có chuyên sâu về lĩnh

vực sản xuất, kinh doanh mà mình quản lí vốn vay. Tuy thời gian qua chi

nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đã có kế hoạch thường xuyên

đào tạo lại, nâng cao trình độ cán bộ song việc đào tạo vẫn còn nhiều vấn đề

bất cập.

Thứ năm, vấn đề thủ tục vay vốn hiện nay còn nhiều doanh nghiệp

ngoài quốc doanh và hộ gia đình phàn nàn rằng để vay được một đồng vốn

của Ngân hàng họ phải thoả mãn quá nhiều điều kiện và thủ tục giấy tờ quá

phức tạp và mất nhiều thời gian. Theo qui định hiện nay khách hàng vay vốn

ngân hàng phải thoả mãn 5 điều kiện: Có năng lực pháp luật dân sự, năng

lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật;

có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; mục đích sử

dụng vốn vay hợp pháp; có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh

doanh khả thi, có hiệu quả; thực hiện các qui định về bảo đảm tiền vay theo

qui định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước. Để đáp ứng được các điều

kiện trên thì các doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh cần có nhiều loại

72

giấy tờ, mất nhiều thời gian và chi chí như: công chứng hợp đồng thế chấp,

cầm cố hoặc bảo lãnh bằng tài sản hiện nay mất rất nhiều thời gian và mất lệ

phí là 0,2% trên tổng số tiền vay; phải xác nhận đơn xin vay và phương án

vay vốn tại chính quyền địa phương, theo qui định của Ngân hàng ngoại

thương Việt nam thời gian thẩm định và xét duyệt cho vay ngắn hạn không

quá 10 ngày, cho vay trung dài hạn tối đa là 45 ngày làm việc kể từ khi nhận

đủ hồ sơ của khách hàng. Trong thực tế Ngân hàng giải quyết một món vay

ngắn hạn nhanh nhất cũng phải mất 03 ngày, trung và dài hạn phải mất hàng

tháng. với thời gian dài như vậy đôi khi làm lỡ cơ hội kinh doanh của khách

hàng. Đây không chỉ là vấn đề riêng của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương

Quảng ninh mà còn là vấn đề chung của toàn hệ thống Ngân hàng ngoại

thương Việt nam. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ sản xuất kinh

doanh đến chi nhánh vay vốn nhưng vì thủ tục quá rườm rà nên đã chuyển

sang vay vốn trên thị trường tín dụng không chính thức.

Thứ sáu, Những vướng mắc của người cho vay. Khi các doanh nghiệp,

hộ tư nhân cá thể vay vốn ngân hàng thường phàn nàn“ thủ tục vay vốn của

ngân hàng phiền hà phức tạp quá”có thể đúng với khách hàng nhưng những

người cho vay lại cho rằng điều đó là hợp lí khi họ phải chịu trách nhiệm bảo

toàn vốn cho ngân hàng và cả xã hội, đồng thời họ còn phải có nghĩa vụ thực

hiện đầy đủ các qui trình, thể lệ được qui định trong các văn bản hiện hành.

Thực ra, ngân hàng rất muốn cho vay vì ngoài trách nhiệm cung cấp vốn cho

khách hàng còn là vấn đề thu nhập, nhưng quyết định cho vay hay không là

cả một sự cân nhắc kỹ càng, nhiều khi còn cần cả lòng dũng cảm. Chẳng hạn

đối với số ít các doanh nghiệp đầy đủ điều kiện thì lúc này, chính doanh

nghiệp lại là người lựa chọn ngân hàng; hoặc những dự án mà ngân hàng cho

rằng không có hiệu quả thì rất dễ quyết định, nhưng với bộ phận khá đông

các doanh nghiệp không thật đầy đủ điều kiện trong khi ngân hàng xét thấy

dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả thì rất khó nói “không được”

73

hay “ được”, nếu máy móc không cho vay ngân hàng mất thu nhập và nhiều

quyền lợi khác đã đành nhưng lại mất cơ hội kinh doanh của khách hàng.

Nếu vận dụng cho vay kịp cơ hội làm ăn của doanh nghiệp thì ngân hàng

không yên tâm bởi vì sản xuất kinh doanh là có rủi ro, trình độ thẩm định có

giới hạn, nếu dự án thất bại người cho vay và ngân hàng “lãnh đủ” trách

nhiệm.

Thứ bảy, chiến lược khách hàng ở Ngân hàng chưa được quan tâm một

cách toàn diện bởi vì chiến lược khách hàng không chỉ đơn thuần là những

hoạt động nhằm mở rộng qui mô tín dụng và tăng số lượng khách hàng mà

về mặt bản chất đó là những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng tín dụng

bởi vì về nguyên tắc, lượng chỉ có thể phát triển và gia tăng một cách bền

vững trên cơ sở của chất. Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh tuy đã từng

bước nghiên cứu và triển khai thực hiện chính sách khách hàng nhưng vẫn

chưa chú trọng áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu quả cho vay đối với

kinh tế ngoài quốc doanh, để tạo ra mối quan hệ thân tín, chưa chú trọng

thống kê phân loại khách hàng để có các biện pháp cải thiện quan hệ giữa

Ngân hàng với khách hàng, chưa làm tốt việc tuyên truyền giác ngộ ý thức

của nhân dân trong quá trình sử dụng vốn vay Ngân hàng và chưa khai thác

triệt để thế mạnh của các sản phẩm tín dụng mới ( Thí dụ như cho vay đảm

bảo bằng lương đối với cán bộ công nhân viên ) nhằm mở rộng và nâng cao

74

chất lượng tín dụng ở Ngân hàng mình.

Chương III

GiảI pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với

kinh tế ngoàI quốc doanh tạI chi nhánh Ngân hàng ngoạI thương Quảng

ninh.

I / Định hướng về mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với kinh tế ngoài

quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng ninh có vai

trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã

hội. Hiện nay tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP của Quảng

ninh chiếm khoảng 48,5%, thu hút hơn 200 ngàn lao động, hàng năm nộp

ngân sách nhà nước gần 100 tỷ đồng. Đầu tư cho khối kinh tế này phát triển

cũng chính là phát huy nội lực, làm giàu từ mỗi cá thể, tiểu chủ. Kinh tế

ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng ninh đang thay đổi theo hướng

tích cực, những khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời khi các luật

định đang từng bước hoàn thiện và gần gũi với thực tế hơn, vai trò quan

trọng của kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng được khẳng định, xã hội đang

thay đổi cách nhìn với họ theo hướng quan tâm hơn, tạo điều kiện hơn.

Chính phủ đã có những biện pháp cụ thể nhằm cải thiện môi trường hoạt

động kinh doanh như: Cho ra đời luật doanh nghiệp mới, khuyến khích

thành lập quỹ bảo lãnh vay vốn... Tuy nhiên, kinh tế ngoài quốc doanh hiện

nay đang gặp không ít khó khăn trong sản xuất, kinh doanh như: do sức mua

của thị trường giảm sút nên hàng hoá tiêu thụ chậm; kỹ thuật, công nghệ lạc

hậu, tốc độ tăng trưởng giảm. Nhưng khó khăn nổi cộm nhất đối với họ hiện

nay vẫn là thiếu vốn .

Công tác tín dụng Ngân hàng là một “kênh”rất quan trọng để cung

75

cấp vốn cho các doanh nghiệp, trong đó có cả doanh nghiệp ngoài quốc

doanh và các hộ sản xuất kinh doanh. Thời gian qua chi nhánh Ngân hàng

ngoại thương Quảng ninh đã có những tích cực trong vấn đề này, song phần

vốn cung cấp cho kinh tế ngoài quốc doanh thực sự chưa tương xứng với

tiền năng, với tầm vóc và vai trò của họ đối với xã hội. Năm 1999 tỷ lệ cho

vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ ở mức 2,6% so với tổng dư nợ.

Có thể nói rằng đây là một hạn chế lớn trong công tác tín dụng tại chi nhánh

Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh trong thời gian qua. Để khắc phục

những mặt còn tồn tại, căn cứ vào chiến lược hoạt động kinh doanh của

Ngân hàng ngoại thương Việt nam và mục tiêu phát triển kinh tế của địa

phương. Định hướng công tác tín dụng của chi nhánh Ngân hàng ngoại

thương Quảng ninh trong thời gian tới là:

Về công tác huy động vốn:

Tuyên truyền rộng rãi thường xuyên tới mọi đối tượng khách hàng về

các hình thức huy động vốn và lãi suất. Tổ chức phục vụ khách hàng nhanh

chóng, thuận lợi để thu hút được nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư.

Tổng nguồn vốn huy động năm 2000 tăng 34% so với năm trước .

Công tác tín dụng:

Thực hiện cho vay bình đẳng đối với mọi đối tượng khách hàng,

không phân biệt thành phần kinh tế. Mở rộng thị trường đầu tư, bên cạnh

việc tiếp tục phát huy đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước thuộc các lĩnh

vực kinh tế trọng điểm, chi nhánh còn chú trọng vào việc mở rộng và nâng

cao hiệu quả cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì thị

trường tín dụng này còn nhiều nhu cầu về vốn thực hiện những dự án hoặc

phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhưng chưa được đáp ứng.

Trong năm 2000 chi nhánh đặc biệt quan tâm mở rộng đầu tư tín dụng cho

những đối tượng khách hàng sau:

- Đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp liên doanh, vì thực tế cho

76

thấy rằng các doanh nghiệp này ở Quảng ninh đều hoạt động khá hiệu quả,

việc chấp hành các qui định của pháp luật, các chế độ kế toán, báo cáo tài

chính rất triệt để và rõ ràng, đây là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng khi đầu

tư vốn.

- Đối tượng là doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh doanh: một

số mô hình phát triển kinh tế như kinh tế trang trại, trồng rừng tại thị xã Cẩm

phả, Uông bí, Móng cái, nuôi cá bè, cá lồng đang bắt đầu được áp dụng có

kết quả tốt.

- Cho vay các đơn vị trúng thầu xây dựng: Hiện nay việc xây dựng

một số công trình hạ tầng quan trọng đang được tiến hành nên chi nhánh

đang tích cực tiếp cận với những đối tượng khách hàng này.

Với mục tiêu đặt ra của chi nhánh là dư nợ cho vay đạt : 405 tỷ đồng

tăng 56,9% so với cuối năm 1999 và dư nợ bình quân tăng 15% so với dư nợ

bình quân năm 1999. Trong công tác cho vay cán bộ tín dụng phải chủ động

tìm khách hàng, lựa chọn những phương án kinh doanh có hiệu quả, mở rộng

cho vay đối với các thành phần kinh tế, nhưng đảm bảo an toàn vốn, phát

huy được hiệu quả kinh tế xã hội.

Đa dạng hoá sản phẩm: Chính sách sản phẩm cũng đóng vai trò quan

trọng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng, nếu ngân hàng có được những

sản phẩm đa dạng có chất lượng và phù hợp với nhu cầu của khách hàng thì

không những huy động được nhuều hơn mà cho vay cũng sẽ tăng. Tuy nhiên

trong thời gian tới chi nhánh sẽ tập trung vào:

- Đơn giản hoá thủ tục cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu,

đây là những món vay có bảo đảm tương đối chắc chắn vì Ngân hàng đã giữ

tài sản cầm cố có tính lỏng cao.

- Xúc tiến nghiệp vụ Thuê mua: Vì thực trạng kinh tế Quảng ninh cho

thấy các doanh nghiệp công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, nhu cầu về máy móc

77

thiết bị, tài sản cố định là khá cao. Tuy nhiên để tiến hành đòi hỏi Ngân hàng

phải có những chuyên viên kỹ thuật và am hiểu sâu lĩnh vực máy móc thiết

bị, hoặc Ngân hàng có thể liên doanh với một số đại lý cung cấp.

Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra phụ thuộc hàng loạt vào

các vấn đề như: Cơ chế chính sách và pháp luật của nhà nước, nghệ thuật

quản lý và điều hành của bản thân Ngân hàng, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ của cán bộ tín dụng và tình hình kinh tế xã hội của địa phương cũng như

lĩnh vực mà Ngân hàng đang hoạt động, đó là chưa kể đến những biến động

do điều kiện thiên nhiên đem lại. Vì vậy, để có thể mở rộng và nâng cao chất

lượng tín dụng Ngân hàng nhằm sử dụng nó một cách hữu hiệu nhất phục vụ

cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đòi hỏi cần phải giải quyết một cách

đồng thời các vấn đề về quản lí kinh doanh tác nghiệp và những vấn đề về

quản lý kinh tế vĩ mô.

II/ Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với kinh

tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.

1.Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh:

Kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về qui mô, ngành nghề sản xuất kinh

doanh vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời gian vay, phương thức trả

vốn và lãi... là không giống nhau. Chính vì vậy mà Ngân hàng với phương

châm “ lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu phục vụ”, phải

đưa ra được loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu cầu của khách hàng.

Ngoài cách cho vay truyền thống thông qua việc thế chấp, cầm cố tài sản chi

nhánh nên tiến hành các hình thức cho vay mới như:

Chiết khấu các chứng từ có giá:

Các doanh nghiệp sở hữu các giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu

trái phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu

đột xuất thì có thể đem những chứng từ có giá này đến Ngân hàng xin chiết

78

khấu. Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng

chuyển nhượng quyền sở hữu những chứng từ có giá chưa đến hạn thanh

toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá

trừ đi lợi tức và phí hoa hồng (nếu có).

Công thức chiết khấu:

R.T

K = A ( 1 - --------- )

100.30

Trong đó : K là số tiền phải trả cho khách hàng khi chiết khấu

A Là giá trị của kỳ phiếu tại thời điểm đến hạn

R là mức lãi suất chiết khấu ( % tính theo tháng )

T là thời gian chiết khấu ( Thời gian xin rút trước hạn )

Phương pháp này hiện nay chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng

ninh chưa áp dụng, mà chủ yếu vẫn dừng lại ở hình thức cầm cố giấy tờ có

giá để được vay vốn Ngân hàng với số tiền tối đa là 80% giá trị tài sản cầm

cố. Trong thời gian tới pháp lệnh về thương phiếu có hiệu lực thì hình thức

này sẽ được áp dụng một cách phổ biến hơn. Việc chiết khấu trái phiếu, kỳ

phiếu, thương phiếu tạo điều kiện cho Ngân hàng chuyển dần từ hình thức

cho vay ứng trước ( nhiều rủi ro ) sang cho vay chiết khấu ít rủi ro hơn.

Đồng thời Ngân hàng nhà nước có thể táí chiết khấu các trái phiếu này khi

cần đưa thêm tiền vào lưu thông.

Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với khách hàng.

Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho khách hàng

vay vốn của mình mà có thể lựa chọn trong số khách hàng của mình xem

79

doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tồn tại và phát triển lâu

dài thì Ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với

những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy Ngân hàng

không những mở rộng được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm

nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh mặt yếu của khách hàng,

đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa có thu nhập cao

do trực tiếp là người đầu tư vốn. Hơn nữa do có sự tư vấn, cộng tác của

chuyên gia Ngân hàng chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn,

hạn chế được rủi ro cho khách hàng và Ngân hàng.

Cho vay bảo lãnh và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với

CBCNV:

Trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, có những doanh

nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình, cán bộ công nhân viên thiếu vốn phục

vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc phục vụ đời sống nhưng không có

tài sản hoặc không đủ tài sản làm bảo đảm. Chi nhánh có thể tư vấn cho

khách hàng nhờ một tổ chức hoặc cá nhân nào đó có tài sản hoặc có đủ uy

tín đứng ra bảo lãnh để vay vốn Ngân hàng hoặc đối với cán bộ công nhân

viên thì tiến hành cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng được cơ

quản quản lí cam kết đảm bảo trả bằng nguồn thu nhập từ tiền lương, trợ

cấp...

Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu:

Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua mua

chịu dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp

doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ

thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cho vay

này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của doanh

80

nghiệp tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên.

2. Thực hiện các biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng cường kiểm

tra trong và sau khi cho vay:

Trước khi phát ra một khoản tiền vay, Ngân hàng cần phải biết rõ mọi chi tiết

có liên quan đến khách hàng của mình nhằm đảm bảo cho món vay của mình được

sử dụng một cách có hiệu quả và có khả năng được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi.

Tức là Ngân hàng phải tiến hành các biện pháp phân tích và đánh giá khách hàng

của mình. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng bởi vì khi đã giao tiền cho người

vay thì Ngân hàng chỉ còn quyền sở hữu còn quyền sử dụng khoản tiền đó hoàn toàn

phụ thuộc vào khách hàng. Việc phân tích đánh giá khách hàng ít nhất cần đảm bảo

các nội dung: Tính khả thi của phương án hoặc dự án kinh doanh, tình hình tài chính

và khả năng thanh toán của khách hàng, tìm hiểu về trình độ, uy tín và đạo đức của

người đứng đầu doanh nghiệp cũng như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Cụ

thể, trong khâu phân tích đánh giá khách hàng trước khi cho vay, Ngân hàng cần chú

ý tới các nội dung sau đây:

Sàng lọc , điều tra và giám sát:

Sàng lọc là việc Ngân hàng lựa chọn những khách hàng vay tín dụng có

triển vọng tốt ra khỏi những khách hàng có xu hướng xấu nhờ đó mà các món vay

đảm bảo thu hồi được vốn và sẽ đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Để thực hiện việc

sàng lọc một cách có hiệu quả, Ngân hàng cần phải tập hợp đầy đủ các thông tin

đáng tin cậy về khách hàng định có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Ngân hàng cần

khai thác triệt để các mối quan hệ rộng rãi của mình với các tổ chức và cá nhân

trong xã hội để tập hợp thông tin, cụ thể là từ phía các khách hàng khác của ngân

hàng đồng thời cũng là khách hàng hoặc bạn hàng của đơn vị xin vay vốn; từ cơ

quan lãnh đạo chính quyền địa phương nơi khách hàng sinh sống hoặc hoạt

động sản xuất kinh doanh; t ừ các trung tâm thông tin về rủi ro tín dụng; từ các ngân

hàng bạn... Nhưng quan trọng nhất vẫn là các thông tin điều tra tại chỗ để lập

nên hồ sơ của người vay, bao gồm các chi tiết hết sức cụ thể như: Tài liệu chứng

minh tư cách pháp nhân hoặc thể nhân của người xin vay ( Quyết định thành lập,

81

điều lệ doanh nghiệp, nếu khách hàng là một pháp nhân; giấy chứng minh nhân dân,

sổ đăng ký hộ khẩu, nếu khách hàng là một thể nhân ), bảng cân đối tài khoản hiện

tại và những năm trước đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nhiều năm liên tục,

tình hình cung cấp nguyên vật liệu cũng như tình hình tiêu thụ sản phẩm của người

vay đó, trên cơ sở có so sánh và liên hệ với những nhà sản xuất và kinh doanh cùng

loại sản phẩm đó.

Về lâu dài Ngân hàng cần có các chính sách khách hàng thích hợp để tạo lập

và duy trì mối quan hệ lâu dài và bền vững với các khách hàng của mình. Đối với

các khách hàng đã có quan hệ lâu dài, ngân hàng sẽ dễ dàng thu thập được các thông

tin cần thiết với độ tin cậy cao, đồng thời tạo điều kiện cho việc giám sát khách hàng

được tốt hơn. Ngân hàng cần phân tích cho khách hàng thấy rằng mối quan hệ lâu

dài sẽ đem lại những thuận lợi đáng kể cho không chỉ ngân hàng mà cả khách hàng

bởi vì đối với một khách hàng quen thuộc thì việc giải quyết cho vay sẽ dễ dàng

hơn, nhanh chóng hơn, và mức lãi suấtcho vay sẽ có nhiều ưu đãi do Ngân hàng đã

hiểu về khách hàng và có tín nhiệm không mất nhiều thời gian và chi phí cho việc

thu thập thông tin và đánh giá khách hàng. Đây cũng là một trong những nội dung

quan trọng trong chiến lược khách hàng của các Ngân hàng thương mại, giúp các

Ngân hàng trong cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác không bị mất

khách hàng truyền thống. Về phía Ngân hàng các khách hàng có quan hệ lâu dài sẽ

giúp Ngân hàng có thể đối phó với những rủi ro bất ngờ mà bản thân họ cũng không

thể lường trước được vì khi đó khách hàng muốn gìn giữ những quan hệ lâu dài với

ngân hàng để được hưởng những ưu đãi trong quá trình vay vốn.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của các công

ty cổ phần thì phương pháp hữu hiệu nhất để tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa khách

hàng và ngân hàng là việc ngân hàng tham gia nắm giữ một số cổ phần của công ty

mà Ngân hàng cho vay tiền và có thành viên trong ban giám đốc của công ty là

người đại diện của ngân hàng. Sự gắn bó này hiện nay đang được áp dụng mạnh mẽ

82

trong hệ thống tài chính của các nước phát triển như Nhật bản, Đức...

Nói tóm lại, việc duy trì quan hệ khách hàng lâu dài cũng là một trong

những biện pháp nhằm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng vì qua

đó, ngân hàng giảm bớt được chi phí tập hợp thông tin về khách hàng, có cơ

sở sàng lọc khách hàng một cách chính xác nhất, bên cạnh đó Ngân hàng còn

có thể triển khai các nghiệp vụ có lợi cho cả hai bên, ngăn ngừa được sự lựa

chọn đối nghịch và sự rủi ro đạo đức từ phía khách hàng.

Sau khi đã điều tra đầy đủ các thông tin chứng minh tư cách pháp

nhân của khách hàng, ngân hàng cần tiến hành thẩm định một cách kỹ lưỡng

phương án sản xuất kinh doanh do khách hàng lập, phải đặt ra và trả lời các

câu hỏi: Khách hàng đến vay tiền sử dụng vào mục đích gì và khoản tiền đó

sẽ được sử dụng như thế nào, làm thế nào để tiền cho vay ra tạo ra được tỷ

suất lợi nhuận cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng. Nhiệm vụ của ngân

hàng là đánh giá xem kế hoạch sử dụng vốn của người vay có khả năng thực

hiện được hay không. Nếu như Ngân hàng đánh giá đúng thì sẽ hạn chế được

rất nhiều nguy cơ rủi ro có khả năng xảy ra đối với nguồn vốn của

mình.

Tuy nhiên, để phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thật

sự có tính khả thi và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao thì ngân hàng không

chỉ đơn giản dừng lại ở mức đánh giá mà quan trọng và cần thiết hơn cả là

sự tham gia đóng góp ý kiến của ngân hàng vào việc thiết lập và xây dựng

các phương án đó. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ sản

xuất, kinh doanh điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn, xuất phát từ

những yếu kém và hạn chế của doanh nghiệp trong khâu tổ chức quản lí quá

trình sản xuất kinh doanh và tầm nhìn chiến lược của thành phần kinh tế này.

Để có thể đảm nhiệm tốt chức năng này, ngân hàng cần có được một khả

năng phán đoán năng động và nhạy cảm với những biến động trong nền kinh

tế thị trường, phải am hiểu luật pháp và các quy định đang hiện hành để

83

tránh những rủi ro do thiếu hiểu biết mang lại. Sau khi đã nghiên cứu kỹ

phương án sản xuất , kinh doanh của khách hàng, nếu có tính khả thi cao,

ngân hàng sẽ chuyển sang khâu phân tích tình hình tài chính và khả năng

hoàn trả nợ vay của khách hàng.

Tình hình tài chính của khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp, mang tính

quyết định đến việc thu hồi các khoản nợ của Ngân hàng. Những khách hàng

có tình hình tài chính vững chắc là khách hàng có khả năng đáp ứng các

khoản nợ phải trả bằng các biện pháp tài chính bình thường, tức là có thể tự

cân đối về tài chính. Trong trường hợp không tự cân đối được về mặt tài

chính, khách hàng buộc phải sử dụng biện pháp kéo dài thời gian trả nợ

người cung cấp hoặc tăng thêm khối lượng tín dụng ngân hàng, khi đó rất dễ

dẫn đến tình trạng nợ nần dây dưa ảnh hưởng không tốt tới khả năng thu hồi

vốn của ngân hàng.

Khi đánh giá tình hình tài chính của các khách hàng thuộc thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh, để có thể đảm bảo chính xác, người ta thường

phân khách hàng kinh tế ngoài quốc doanh ra làm hai loại: Các khách hàng

là pháp nhân và các khách hàng là thể nhân kinh tế. Việc phân loại này sẽ

thuận lợi cho ngân hàng trong khâu đánh giá khách hàng. Thực tế mỗi loại

khách hàng đều có một đặc điểm riêng về sản xuất, kinh doanh và quản lí tài

chính.

Đối với các khách hàng là thể nhân kinh tế thì việc đánh giá khả năng

tài chính của khách hàng thường là rất khó khăn bởi vì rất khó có được

những số liệu chính xác và ổn định về khách hàng nhất là đối với chủ thể

vay vốn là các hộ tư thương vay vốn. Tất cảc số liệu từ nguồn vốn, doanh

thu hàng tháng đến lợi nhuận thu được... đều không rõ ràng vì vậy đối với

những khách hàng thuộc loại hình này ngân hàng cần hết sức coi trọng khâu

84

xen xét, đánh giá chung về đạo đức và ý định trả nợ của họ.

Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh

pháp lệnh kế toán thống kê thì ngân hàng có thể căn cứ vào rất nhiều chỉ tiêu

kinh tế và tài chính để đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán

của họ. Trong số đó cần chú ý xem xét một số chỉ tiêu quan trọng như:

Hệ số tài trợ:

Hệ số tài trợ của doanh nghiệp là một chỉ tiêu khái quát phản ánh khả năng tự

đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp đó. Hệ số này được tính như sau:

Nguồn vốn doanh nghiệp hiện có

Hệ số tài trợ = -----------------------------------------------------

Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng

Qua công thức trên ta thấy, nguồn vốn của doanh nghiệp càng nhỏ so

với tổng số nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng thì khả năng rủi ro

trong tín dụng càng lớn vì điều này thể hiện doanh nghiệp đang bị phụ

thuộc lớn vào các nguồn vốn khác mà không phải của bản thân doanh

nghiệp, do vậy rất khó chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh và

thanh toán các khoản nợ khi đến hạn. Nếu một khâu nào đó trong quá

trình cung cấp - sản xuất và tiêu thụ bị trục trặc sẽ ảnh hưởng rất lớn tới

việc chu chuyển vốn của doanh nghiệp và do đó ảnh hưởng không tốt tới

khả năng hoàn trả các khoản nợ vay trong đó có nợ vay ngân hàng.

Ngược lại nếu hệ số tài trợ càng lớn thì tình hình tài chính của doanh

nghiệp càng vững chắc. Trên thực tế theo kinh nghiệm của một số ngân

hàng trên thế giới cho biết, nếu hệ số tài trợ của doanh nghiệp nhỏ hơn

0,5 thì khả năng tài chính của doanh nghiệp là rất tồi tệ và dễ bị vỡ nợ.

Một doanh nghiệp được đánh giá là có tình hình tài chính tốt khi hệ số

tài trợ của nó tăng lên liên tục qua các kỳ và đều lớn hơn hoặc bằng 0,5.

Tỷ xuất lợi nhuận: ( khả năng sinh lời tài chính ) là khả năng sinh

85

lời của một đồng vốn trong năm của một doanh nghiệp. Tỷ xuất lợi

nhuận có thể được tính chung cho cả vốn cố định và vốn lưu động hoặc

tính riêng cho từng loại vốn. Nếu một doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận

lớn hơn lãi xuất tiền vay ngân hàng, thể hiện trong năm doanh nghiệp đó

làm ăn có lãi, có khả năng hoàn trả tiền vay ngân hàng cả vốn và lãi, có

tích luỹ. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận nhỏ hơn lãi suất tiền

vay ngân hàng là những doanh nghiệp có nhiều khả năng không hoàn trả

được nợ vay bởi tất cả lợi nhuận doanh nghiệp tạo ra trong kỳ cũng

không đủ để trả lãi tiền vay chưa nói đến việc tạo ra lợi nhuận thuần tuý

cho bản thân doanh nghiệp. Do vậy, để bảo đảm an toàn vốn, các ngân

hàng không nên cho vay đối với các doanh nghiệp loại này.

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp:

Khả năng thanh toán phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt

hay xấu. Để đánh giá chính xác khả năng thanh toán của một doanh nghiệp

cần xem xét, phân tích các chỉ tiêu:

+ Khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp: Là chỉ tiêu tổng hợp, phản

ánh khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó, chỉ tiêu này được tính bằng

công thức:

Số tiền doanh nghiệp dùng để thanh toán

Khả năng thanh Toán = -----------------------------------------------------

của doanh nghiệp Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán

Trong đó :

- Số tiền có thể dùng để thanh toán gồm toàn bộ số vốn bằng tiền, các

khoản phải thu và thành phẩm, hàng hoá còn tồn kho và đang gửi đi tiêu thụ.

- Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán gồm các khoản phải trả người bán,

86

người mua, các khoản nợ ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác.

Nếu một doanh nghiệp có hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ

doanh nghiệp đó có khả năng thanh toán và tình hình tài chính bình thường

và khả quan. Nhìn chung hệ số càng lớn thì khả năng thanh toán càng tốt.

Cần chú ý rằng để đánh giá được chính xác khả năng thanh toán của doanh

nghiệp, khi tính toán số tiền doanh nghiệp có thể dùng để thanh toán cần xét

tới khả năng chuyển hoá thành tiền của sản phẩm hàng hoá và các khoản

phải thu để xác định một cách chắc chắn về nguồn vốn của doanh nghiệp.

Ngoài ra ta còn có thể sử dụng các chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn hạn,

khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán cuối cùng để đánh giá về tình

hình tài chính cuả doanh nghiệp. Nhìn chung việc phân tích các chỉ tiêu tài chính

càng được tiến hành một cách cụ thể và sâu sắc bao nhiêu thì càng phòng ngừa được

những rủi ro có thể xảy ra cho nguồn vốn cho vay của ngân hàng bấy nhiêu.

Sau khi đã hoàn thành đầy đủ các bước phân tích tín dụng đối với một khách

hàng, nếu xét thấy phương án sản xuất kinh doanh đưa ra là hợp lý, mang tính khả

thi và hiệu quả kinh tế cao đồng thời khả năng tài chính của khách hàng lành mạnh

và ổn định, có khả năng hoàn trả tốt nợ gốc và lãi vay, ngân hàng sẽ tiến hành xác

định số lượng, thời hạn và lãi suất cho khoản tín dụng đó. Để đảm bảo cho khoản

tiền vay được sử dụng một cách có hiệu quả kinh tế cao nhất, ngân hàng cần căn cứ

vào nội dung và đối tượng xin vay của khách hàng để xác định các chỉ tiêu trên.

Về tính toán và xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng nó ảnh hưởng trực

tiếp đến nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng phải tính toán sao cho thời

hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho bên vay trả

nợ đúng hạn, nếu thời hạn cho vay ngân hàng xác định quá dài sẽ dễ xảy ra hiện

tượng khách hàng thu được tiền bán hàng rồi nhưng chưa đến hạn phải trả nợ ngân

hàng sẽ sử dụng tiền vào hoạt động kinh doanh khác mà nếu không được tính toán

cẩn thận rất dễ xảy ra rủi ro đối với phần vốn này. Ngược lại nếu thời hạn quá ngắn

thì doanh nghiệp có thể không có nguồn trả nợ khi đến hạn làm cho hiệu quả kinh

87

doanh không đạt mức đề ra.

Về mặt lãi suất, Ngân hàng phải áp dụng mức lãi suất hợp lý, kết hợp hài hoà

giữa lợi ích của ngân hàng và lợi ích cuả khách hàng tức là lãi suất phải đảm bảo cho

ngân hàng bù đắp đủ chi phí và có lãi nhưng phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình

quân mà doanh nghiệp thu được và phải đảm bảo không vượt lãi suất trần của ngân

hàng nhà nước qui định.

Lãi suất là một vấn đề không chỉ có ngân hàng quan tâm mà các chủ thể kinh

tế cũng luôn để ý tới, nó là điểm hội tụ của rất nhiều mối quan hệ, liên quan trực tiếp

đến lợi ích vật chất của các bên. Nếu lãi suất được sử dụng đúng đắn, uyển chuyển,

linh hoạt phù hợp với những điều kiện tình hình kinh tế từng thời kỳ thì sẽ có tác

dụng trực tiếp và sẽ rất quan trọng trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cũng như

có tác dụng kích thích đâù tư phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, tạo việc làm

và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác nếu sử dụng lãi suất một cách cố định cứng nhắc

thì sẽ có thể trở thành nhân tố kìm hãm sản suất. Hiện nay, cũng như các ngân hàng

thương mại khác trên địa bàn, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh cũng

xác định cho mình một mức lãi suất huy động và cho vay theo những qui định của

ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay lãi suất mà chi nhánh áp dụng đối với

thành phần kinh tế quốc doanh vay vốn thường xuyên và với số lượng lớn sẽ được

lãi suất ưu đãi hơn, lãi suất áp dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh thường cao

hơn. Để đảm bảo sự bình đẳng trong thời gian tới chi nhánh cần áp dụng lãi suất

không phân biệt thành phần kinh tế,điều này không phải một sớm, một chiều mà

thay đổi được ngay. Nhưng trong thời gian trước mắt để khắc phục tình trạng trên,

khuyến khích hoạt động vay vốn từ phía khách hàng ngoài quốc doanh thì không

nên áp dụng một mức lãi suất đối với tất cả các khoản vay mà cần phải có sự linh

hoạt giữa các đối tượng khách hàng, có thể giảm lãi suất cho vay đối với những

khách hàng đã quen biết, có quan hệ tín dụng thường xuyên và làm ăn có hiệu quả

để giữ khách hàng, đưa họ trở thành khách hàng truyền thống của chi nhánh. Ngoài

ra chi nhánh cần đa dạng hoá các loại hình lãi suất tuỳ thuộc vào thời gian vay để

88

trên cơ sở đó khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn loại hình lãi suất nào phù hợp với

tình hình sản xuất kinh doanh của mình, từ đó đem lại hiệu quả kinh doanh cao đảm

bảo trả được nợ cho ngân hàng. Chi nhánh cũng cần có chính sách ưu đãi về lãi suất

đối với các ngành kinh tế có lợi nhuận thấp nhưng có ý nghĩa lớn đôí với nền kinh

tế, ưu tiên những đơn vị có vòng quay vốn nhanh, trả đúng hạn cả gốc và lãi.

Trong hoạt động tín dụng đôi khi ngân hàng cũng cần phải áp dụng biện pháp

hạn chế tín dụng. Việc hạn chế tín dụng có xảy ra dưới hai dạng:

Dạng thứ nhất là, Ngân hàng từ chối một món vay với số lượng bất kỳ đối với

người vay ngay cả khi họ sẵn lòng trả với mức lãi suất cao hơn nếu qua điều tra, thu

thập thông tin mà thấy người vay là một người mạo hiểm hoặc thiếu tin cậy trong

các quan hệ vay mượn.

Dạng thứ hai là, Ngân hàng đồng ý cho vay nhưng hạn chế mức cho vay đó

dưới mức mà người vay yêu cầu. Bởi vì món tiền vay càng lớn thì khả năng gặp rủi

ro càng cao. cho nên Ngân hàng sẽ thay việc cho một người vay một khoản tiền lớn

bằng việc cho nhiều người vay. Đây chính là một trong những biện pháp để phân tán

rủi ro của ngân hàng.

Khi quyết định mức vốn cho vay đối với một khách hàng ngân hàng cần thực

hiện nghiêm chỉnh các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Cụ

thể, theo quy định hiện nay Tổng dư nợ cho vay của một tổ chức tín dụng đối với

một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Trường

hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng quá lớn vượt mức 15%, thì áp dụng hình thức

cho vay hợp vốn giữa các tổ chức tín dụng hoặc thủ tướng chính phủ quyết định

mức cho vay tối đa đối với từng trường hợp.

Việc quyết định cho vay nên thông qua hội đồng tín dụng, một tập thể bao gồm

cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đủ thẩm quyền và một số chuyên gia thuộc các lĩnh

vực liên quan để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Về vấn đề này những ngân hàng

quốc tế tầm cỡ còn sử dụng tư vấn của chuyên gia nhiều lĩnh vực như pháp chế, kỹ

89

thuật, chuyên ngành nông, công nghiệp, môi trường điện toán, điện tử...

Khi cho người vay rút vốn phải tôn trọng nguyên tắc rút tiền theo tiến độ dự án

và hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, chủ yếu thực hiện thanh toán bằng chuyển

khoản qua ngân hàng. Điều này được thực hiện chặt chẽ là cơ hội giảm bớt rủi ro,

ngăn ngừa hiện tượng gian lận như hợp đồng mua bán giả dối, chuyển tiền vòng vo

gây thất thoát vốn.

Thực hiện kiểm tra chặt chẽ thường xuyên và định kỳ giám sát bên vay sử

dụng tiền vay đúng mục đích đề phòng những bất trắc có thể xảy ra. Qua kiểm tra

sẽ phát hiện ra được những việc kinh doanh không bình thường để có biện pháp sử lí

kịp thời ngăn ngừa rủi ro.

Trên cơ sở kết quả công tác kiểm quản lí tín dụng, ngân hàng cần tiến hành

phân loại chất lượng các khoản vay để từ đó có biện pháp thu hồi nợ và lãi cho phù

hợp:

- Đối với các khoản vay có chất lượng tốt đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi

tiền vay đúng hạn, thì phải chú ý đôn đốc việc trả nợ khi thời điểm đáo hạn sắp đến.

- Đối với các khoản nợ vay có dấu hiệu bị “đe doạ” không được hoàn trả đúng

hạn do những khó khăn phát sinh từ điều kiện khách quan đối với hoạt động sản

xuất kinh doanh của khách hàng thì cần có những biện pháp điều chỉnh tình huống

kịp thời để đảm bảo khả năng thu hồi được vốn, tránh nợ quá hạn phát sinh. Sau đây

là một số biện pháp xử lí:

+ Cán bộ ngân hàng có thể tư vấn cho doanh nghiệp về các vấn đề bán sản phấm,

thu nợ, tiếp tục sản xuất kinh doanh... hoặc mời chuyên gia về tư vấn cho doanh

nghiệp, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hồi và bảo toàn vốn,

đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn.

+ Giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp bằng cách đề ra các biện pháp

thu hồi các hoá đơn chậm trả giúp doanh nghiệp, giúp họ thanh toán hàng tồn kho

90

hoặc giảm bớt dự trữ quá mức hoặc sử dụng để vay tín chấp, vay cầm cố.

+ Sắp xếp, kết cấu lại các khoản nợ cho người vay bằng cách kéo dài kỳ hạn nợ,

rút bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian nếu có thể được.

+ Gia tăng khối lượng của khoản cho vay đối với các điều kiện do ngân hàng ấn

định thêm nếu như thấy được khả năng người vay sẽ phục hồi được sản xuất kinh

doanh.

- Đối với những hợp đồng tín dụng vay với số tiền lớn thời hạn dài phải có

điều khoản “tình huống thay đổi” ở đó phải quy định một số tình huống bất ngờ có

thể xảy ra và cách sử lí kèm theo. Ví dụ như chính sách thuế, chính sách đầu tư,

quản lí ngoại hối, quản lí địa sản, của nhà nước khi có thay đổi thì quan hệ tín dụng

được điều chỉnh như thế nào để bảo vệ cho quyền lợi của ngân hàng và người đi vay

tiền.

- Đối với những khoản khách hàng có sự vi phạm hợp đồng tín dụng một

cách nghiêm trọng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản trong kinh doanh dẫn đến khả

năng thu hồi nợ vay rất khó khăn, Ngân hàng buộc phải tuyên bố nợ đến hạn và tìm

mọi cách thu hồi nợ ngay cả trong trường hợp khoản vay chưa đến thời điểm đáo

hạn như đã qui định.

3/Thực hiện các bảo đảm trong kinh doanh tín dụng:

Ngày 29 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã ban nghị định số

178/1999/NĐ- CP qui định về bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình

thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo qui định của luật

các tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lí quan trọng có hiệu lực từ ngày 13 tháng

01 năm 2000 hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng

ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lí để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách

hàng vay.

Nghị định 178 ra đời đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt nam về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. So với các

91

qui định trước đây của pháp luật thì nghị định 178 có nhiều điểm thông

thoáng và cởi mở hơn trong việc nhận thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và sử lí tài

sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, là nguyên tắc tự do

bình đẳng trong kinh doanh được tôn trọng: các doanh nghiệp nhà nước cũng

như các thành phần kinh tế khác vay vốn ngân hàng thương mại quốc doanh

đều phải thế chấp cầm cố tài sản hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh bằng

tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ngoại trừ trường hợp khách

hàng được tổ chức tín dụng cho vay có bảo đảm tài sản được hình thành từ

vốn vay hoặc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo qui định của pháp

luật. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn , quyết định việc cho vay có bảo

đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm theo quy định của pháp luật và

tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trong trường hợp khách hàng

không trả được nợ theo cam kết, Ngân hàng có quyền chủ động sử lí tài sản

bảo đảm tiền vay thu hồi nợ; trước tiên, tài sản bảo đảm tiền vay được sử lí

theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên không

sử lí được tài sản bảo đảm tiền vay theo thoả thuận, thì tổ chức tín dụng có

quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố thế chấp để thu hồi nợ hoặc

chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba xử lí tài sản bảo

đảm tiền vay.

Tuy nhiên, mục đích của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế nói

chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng đó là: Phát triển kinh tế

có lợi nhuận hợp lý, an toàn vốn, tuân thủ pháp luật. Hiệu quả tín dụng ngân

hàng phải dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy

đứng trước một nhu cầu xin vay vốn của ngân hàng thì đầu tiên cán bộ tín

dụng cần phải quan tâm đến không phải là tài sản bảo đảm tiền vay của

khách hàng mà chính là dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của

khách hàng,

Tính khả thi của dự án, phương án là nhân tố quyết định đến việc khách

92

hàng có khả năng trả được nợ Ngân hàng hay không. Tài sản bảo đảm tiền vay

chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ thứ hai để giúp ngân hàng không

bị mất vốn khi chẳng may rủi ro xảy ra. Một điều chắc chắn rằng trước khi cho

vay không một tổ chức tín dụng nào lại muốn phải sử lí tài sản bảo đảm nợ vay

của doanh nghiệp để thu hồi nợ, đây là điều bất đắc dĩ. Vì vậy, trong thực tế có

những vướng mắc trong việc nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để bảo đảm

nợ vay thì ngân hàng một mặt tiến hành kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để

cùng tháo gỡ theo mức độ bức xúc của từng vấn đề. Mặt khác, chúng ta cần có

biện pháp linh hoạt và mềm dẻo hơn trong vấn đề nhận tài sản bảo đảm nợ vay để

mở rộng được vốn cho vay đồng thời vẫn bảo đảm được sự an toàn vốn cho ngân

hàng.

Thực tế, ở Quảng ninh phần lớn nhà ở, cửa hàng của các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh, hộ gia đình chưa có giấy tờ về quyền sử dụng đất và sở

hữu nhà hợp pháp hoặc có giấy tờ nhưng chưa đúng qui định hiện hành. Mặc

dù nhà xưởng, cửa hàng, nhà ở do các cơ sở hoặc các hộ xây dựng bằng vốn

tự có của mình, hoặc mua lại từ người khác, đã có thời gian ở và kinh doanh

lâu năm ở đó được sự xác nhận của chính quyền địa phương. Các trường hợp

này nếu cứng nhắc trong việc nhận tài sản thế chấp theo qui định thì chi

nhánh không thể cho vay được. Nhưng ở đây chi nhánh có thể dựa vào các

giấy tờ của chính quyền địa phương và các loại giấy tờ khác chứng minh

được nguồn gốc nhà sở hữu chính chủ, không phải nhà đi thuê, nhảy dù,

hoặc nhà vắng chủ bị lấn chiếm , nhà có tranh chấp... Nhiều trường hợp phải

tìm hiểu tại các cơ quan chức năng như sở thiết kế, sở nhà đất, sở địa chính

để loại trừ không cho vay đối với thế chấp nhà, đất thuộc khu vực đã được

quy hoạch hoặc khu vực giải toả.

Sau khi xác định được tính hợp pháp về quyền sở hữu nhà và quyền sử

dụng đất của người vay để ngân hàng nắm được căn cứ pháp lý, tất cả các

món vay đều yêu cầu người vay tự viết đơn theo hướng dẫn của cán bộ tín

93

dụng. Trong đơn phải ghi rõ nội dung: Chúng tôi ( vợ, chồng, con) xin cam

đoan trước ngân hàng và các cơ quan pháp luật tài sản ( nhà xưởng, nhà ở,

cửa hàng ) thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình chúng tôi, chưa

chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh hoặc cho tặng người khác...

Nếu nợ đến hạn chúng tôi không trả được tiền gốc và lãi thì ngân hàng có

toàn quyền sử lí tài sản trên để thu hồi nợ gốc và lãi. Chúng tôi xin chịu

mọi trách nhiệm trước pháp luật về những lời cam kết trên... Người vay và

những người đồng sở hữu có tên trên hộ khẩu phải ký vào đơn trước sự

chứng kiến của cán bộ tín dụng và chính quyền địa phương.

Đối với tài sản là máy móc thiết bị dây truyền sản xuất, khi thế chấp

ngân hàng niêm phong máy móc dây truyền sản xuất , làm như vậy thì đảm

bảo được tài sản thế chấp, nhưng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, như

vậy cơ sở để hoàn trả vốn ngân hàng là không có hoặc hạn chế. Còn để máy

móc dây truyền tiếp tục hoạt động thì việc hỏng hóc nặng nhiều khi xảy ra

làm máy móc thiết bị hết giá trị. Để khắc phục được vấn đề này thì ngân

hàng tiến hành phân loại, lựa chọn khách hàng của mình, tìm những khách

hàng đủ tin cậy, tạo điều kiện cho họ được tiếp tục khai thác trên dây truyền

thiết bị đó, nhưng phải cam kết bảo quản sửa chữa máy móc thiết bị khi có

sự cố xảy ra và bắt buộc khách hàng phải gửi tiền khấu hao tài sản thế chấp

vào ngân hàng hàng tháng và cam kết phải trả cho ngân hàng nếu nếu rủi ro

xảy ra.

Ngân hàng sẽ lập cho khách hàng một tài khoản riêng để quản lí khoản

tiền này dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và trả lãi lãi cho khách hàng như mức

huy động vốn trên thị trường làm như vậy thì mặc dù ngân hàng cho phép

khách hàng có thể tiếp tục sử dụng tài sản thế chấp để không làm gián đoạn

công việc sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến việc trả nợ ngân hàng, nhưng

ngân hàng vẫn đảm bảo an toàn được vốn ở chỗ ngân hàng vẫn có thêm

được một nguồn tiền gửi ổn định hàng tháng ( nếu dây truyền thiết bị là có

94

giá trị và với nhiều khách hàng được áp dụng thì nguồn tiền này mỗi tháng là

không nhỏ ), trong trường hợp khách hàng làm hư hại nghiêm trọng không

thể phục hồi lại tài sản thế chấp thì ngân hàng sẽ lấy số tiền phát mại tài sản

thế chấp và có thể lấy toàn bộ hoặc một phần số tiền từ nguồn tiền gửi khấu hao đã

cam kết trong hợp đồng trên ( trong trường hợp còn thiếu), đây là biện pháp đảm

bảo tương đối chắc chắn là ngân hàng sẽ thu hồi được vốn. Tuy nhiên, như đã nói ở

phần trước việc ngân hàng có thu được gốc và lãi hay không phải căn cứ vào tính

khả thi của dự án chứ không nên đặt vấn đề tài sản thế chấp lên hàng đầu như là một

cái lá chắn để bao bọc đồng vốn của ngân hàng.

Bên cạnh đó, chi nhánh áp dụng hình thức mới để tạo ra một lối thoát cho các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp đó là việc thế chấp bằng hàng hoá

mua về cơ sở sản xuất, kinh doanh:

Có thể nói thủ tục về tài sản thế chấp hiện nay vẫn còn là rào cản các doanh

nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Hiện nay các doanh nghiệp này có vốn và tài

sản rất thấp nên khi sử dụng tài sản để thế chấp thì vay được một lượng vốn rất thấp

so với năng lực sản xuất kinh doanh của họ. Do đó các doanh nghiệp này thường

phải tham gia vay “nóng” trên thị trường tự do điều đó sẽ làm giá thành, chi phí sản

xuất của doanh nghiệp cao, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường,

từ đó dẫn tới chỗ phá sản, giải thể, ngân hàng không thu hồi được nợ, gây mất ổn

định cho nền kinh tế.

Thực tế cho thấy năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ của kinh tế ngoài quốc doanh thường lớn hơn nhiều so với tài sản thực có của

họ. Bởi vậy muốn mở rộng được tín dụng ngân hàng đồng thời tạo ra được lối thoát

cho các doanh nghiệp, Ngân hàng nghiên cứu áp dụng hình thức cho vay có thế chấp

bằng hàng hoá, nghiệp vụ này được tóm tắt như sau: Doanh nghiệp cần một khối

lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất hoặc mua

95

hàng hoá dự trữ để bán... Ngân hàng có thể giải quyết cho vay hay không căn cứ

vào số vốn mà doanh nghiệp cần vay, tính khả thi của việc sản xuất, kinh doanh

hàng hoá và mức độ tiêu thụ sắp tới của nó trên thị trường. Khi ngân hàng đánh giá

là dự án khả thi thì sẽ tiến hành cấp vốn và cử một hoặc hai cán bộ tín dụng có trình

độ chuyên môn phụ trách ( tuỳ thuộc vào khối lượng công việc và tính chất của

phương án sản xuất kinh doanh ).

Khi hàng hoá được nhập kho thì ngân hàng và doanh nghiệp cùng

kiểm duyệt niêm phong. Ngân hàng có thể giữ chìa khoá hoặc thoả thuận với

doanh nghiệp thuê địa điểm ở một nơi thứ ba và giao cho nơi này quản lý,

bảo vệ số hàng hoá nói trên . Khi doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng, tiêu thụ

hàng hoá thì phải có sự giám sát, quản lí của ngân hàng ( Khi nguyên vật

liệu hoặc hàng hoá xuất kho phải được sự đồng ý của ngân hàng ), tiền bán

hàng thu được hàng ngày cán bộ tín dụng phụ trách phải theo dõi thường

xuyên, yêu cầu khách hàng gửi vào một tài khoản riêng tại ngân hàng mình

để đảm bảo thu hồi lại được vốn đã cho vay. Cuối đợt bán hàng ngân hàng

thu hồi nợ gốc và lãi đồng thời trả lại tiền thừa từ tài khoản cho khách hàng

rõ ràng với cách làm này thì ngân hàng không lo bị mất vốn. Với cách làm

trên ngân hàng vẫn có thường xuyên một khối lượng tiền gửi vào hàng ngày

để tiếp tục tiến hành cho vay tiếp, đồng thời doanh nghiệp vẫn duy trì được

sản xuất, mà không phải lo thiếu nguyên liệu đầu vào, các doanh nghiệp

thương mại dịch vụ vẫn không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Tóm lại đây là một

cách làm có triển vọng, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh cần

nghiên cứu đưa vào áp dụng để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối

với kinh tế ngoài quốc doanh.

4/ Chủ động tìm khách hàng và chú ý đầu tư vốn cho các doanh nghiệp liên

doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài, có kỹ thuật công nghệ hiện đại:

Lâu nay trong thực tế thường xuất hiện tình trạng là khách hàng lựa chọn

Ngân hàng, Ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng với hầu hết khách hàng đến với

96

mình. Thực ra đây phải là quan hệ hai chiều: Khách hàng lựa chọn ngân hàng và

ngân hàng cũng phải chủ động lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó

hạn chế rủi ro của Ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra được thu hồi đầy đủ, đúng

hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng.

Việc lựa chọn khách hàng phải được Ngân hàng tiến hành một cách chủ động

( Nghĩa là biết đơn vị khách hàng nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Ngân

hàng có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với đơn vị đó ) chứ không phải bị

động ngồi chờ khách hàng đến gõ cưả xin vay, khi đó ngân hàng mới xem xét duyệt

cho vay hay không.

Việc chủ động tìm và lựa chọn khách hàng phải áp dụng với mọi

thành phần kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng ninh có rất

nhiều công ty liên doanh với nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh có

hiệu quả như: Công ty dầu thực vật Cái lân, Hoàng gia, liên doanh nuôi

ngọc trai... Phần lớn những công ty này họ đang cần vốn để mở rộng sản

xuất, kinh doanh, đổi mới dây chuyền công nghệ, chi nhánh cần phải chủ

động tìm những khách hàng này, nếu đủ điều kiện thiết lập quan hệ tín dụng

với họ, bởi lẽ những doanh nghiệp này sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh

cao, có phương pháp quản lý tiên tiến, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và

thực hiện chế độ kế toán, báo cáo tài chính rõ ràng đúng qui định, do đó,

đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này dễ quản lý và hệ số an toàn vốn cao.

5/ Chi nhánh cần tích cực giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi và bảo

toàn vốn :

Như đã đề cập tới ở chương II, tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ của kinh

tế ngoài quốc doanh những năm qua là khá cao so với kinh tế quốc doanh và

có xu hướng ngày một tăng lên. Điều này cho thấy phải sớm tìm ra những

97

biện pháp hữu hiệu để cải thiện tình hình trên:

- Đối với các khách hàng có ý định lừa đảo, cố tình trây ì không trả nợ

ngân hàng cần phối hợp với cơ quan pháp luật sử lý nghiêm minh tiến hành

xiết nợ, bắt nợ làm trong sạch chất lượng tín dụng cho những năm sau.

- Đối với khách hàng kinh doanh thua lỗ hoặc do tồn đọng hàng hoá ,

do sắp sếp lại doanh nghiệp, mất ổn định trong một khoảng thời gian không

trả được nợ đúng hạn cho chi nhánh thì có thể gia hạn và cho vay mới để

khắc phục tình trạng trên, tư vấn cho khách hàng giúp khách hàng trả nợ

được trong thời gian gia hạn.

- Đối với các khoản nợ khó đòi cần phải tiến hành thúc giục thường

xuyên cần có biện pháp tâm lí “hứa hẹn”với khách hàng cho những lần vay

tiếp theo, nếu những giải pháp như trên được tiến hành mà tình hình không

tiến triển thì phải chủ động, tích cực, nhanh chóng tiến hành bắt nợ, xiết nợ.

Đây là biện pháp phải tiến hành kiên quyết tránh tình trạng nể nang của cán

bộ tín dụng đối với khách hàng mình đã quen, bởi vì khi khách hàng đã cố

tình chuyển từ nợ quá hạn sang nợ khó đòi với những lý do không hợp lí thì

điều đó có nghĩa là khách hàng đã không có ý định quan hệ tín dụng với ngân

hàng trong những lần vay tiếp theo, vì vậy phải tiến hành thu nợ với một đội ngũ

cán bộ tín dụng kết hợp với các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức

năng chứ không nên để một mình cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm cho vay phải

tiến hành đi đòi nợ, điều này rất khó đạt được mục đích cho dù cán bộ tín dụng đó

có nhiệt tình và có trách nhiệm với ngân hàng. Ngân hàng cần tiến hành mua bảo

hiểm tín dụng để san sẻ rủi ro với các công ty bảo hiểm, tránh tổn thất toàn bộ cho

ngân hàng .

- Chi nhánh cần phải thường xuyên đánh giá chất lượng của một

khoản thế chấp vay vốn ngân hàng bằng chỉ tiêu đảm bảo dư nợ có thế

98

chấp(LTV) được tính bằng cách:

Dư nợ thế chấp

LTV ( %) = ------------------------------------------- * 100

Giá trị thị trường hiện tại của TSTC

Tỷ lệ này càng thấp thì mức độ an toàn đối với món nợ cho vay của

ngân hàng càng cao, tỷ lệ này thấp là do dư nợ có tài sản thế chấp được

khấu trừ hoặc giá trị tài sản thế chấp trên thị trường tăng lên. Chỉ tiêu này

nếu được đánh giá thường xuyên sẽ theo dõi được độ an toàn của món vay

trong từng thời kỳ biến động của giá cả thị trường. Nếu như giá thị trường

của tài sản giảm, chỉ tiêu LTV cao do đó độ an toàn vốn của ngân hàng

giảm đi, nếu giá trị tài sản thế chấp tiếp tục giảm thấp thì ngân hàng phải có

kế hoạch sớm thu hồi nợ gốc, tránh việc gia hạn nợ thêm cho khách hàng

nếu không sẽ dễ dẫn đến mất vốn.

6. Công tác cán bộ:

Tất cả giải pháp mục tiêu nêu trên sẽ không thể đạt được nếu bản thân

mỗi cán bộ ngân hàng không có trình độ chuyên môn cao, không có lòng yêu

nghề và đức tính trung thực thẳng thắn trong công việc đặc biệt là trong giai

đoạn hiện nay. Yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định đến hiệu quả công

việc vì vậy, tiếp tục nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong

công tác tín dụng nhằm sử lí công việc được nhanh hơn, đảm bảo hiệu quả

cao trong công tác tín dụng. Ngoài đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng cần phải

quan tâm đến đào tạo chuyên ngành kỹ thuật khác như: Xây dựng, sản suất

công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản... để cán bộ tín dụng có kiến

thức phụ trợ cho việc thẩm định.

Cán bộ tín dụng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với chất

lượng và hiệu quả công tác tín dụng ở ngân hàng. Đối với những cán bộ có

trình độ lý luận vững vàng, dày dạn kinh nghiệm và tinh thông nghiệp vụ thì

99

tất yếu sẽ đánh giá khách hàng một cách chính xác hơn và quản lí vốn vay

chặt chẽ, hiệu quả hơn so với những người có trình độ chuyên môn kém. Vì

vậy, để không ngừng nâng cao chất lượng công tác tín dụng, ngân hàng cần

phải quan tâm trước tiên tới trình độ cán bộ tín dụng ở cơ sở mình bằng cách

thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và qui định rõ ràng trách nhiệm,

quyền hạn, chế độ thưởng phạt đối với cán bộ tín dụng. Phải triển khai các

chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn hàng năm cho tất cả

cán bộ tín dụng trong cơ quan, bố trí sử dụng hợp lí và có hiệu quả cán bộ

tuỳ theo năng lực chuyên môn và trình độ của từng người nhằm phát huy tối

đa sở trường của các cán bộ tín dụng đồng thời phải kết hợp với công tác qui

hoạch đào tạo lâu dài theo chiến lược phát triển của Ngân hàng ngoại thương

Việt nam. Hàng năm cần tổ chức các đợt thi tay nghề , nghiệp vụ cho cán bộ

tín dụng để qua đó có chế độ khen thưởng, nâng lương, đề bạt kịp thời và

chính xác nhằm khuyến khích cán bộ tự trau rồi nghiệp vụ và trình độ

chuyên môn, lý luận, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay

vốn, đảm bảo thực hiện đúng qui trình tín dụng, lựa chọn khách hàng đảm

bảo an toàn và hiệu quả trong đầu tư vốn, chấp hành nghiêm chỉnh các chế

độ thể lệ tín dụng đã ban hành, gắn trách nhiệm và chế độ thưởng phạt cán

bộ tín dụng với hiệu quả vốn vay.

Bên cạnh việc tăng cường trình độ chuyên môn cho cán bộ, ngân hàng

cần hết sức coi trọng tới việc bồi dưỡng đạo đức, phẩm chất cho cán bộ ở cơ

sở mình bởi vì trong công tác tín dụng đạo đức luôn được coi là một phẩm

chất quan trọng nhất. Cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, bảo vệ lợi ích chung của

đơn vị, đề cao lương tâm trách nhiệm của những người làm công tác tín dụng.

Hướng dẫn cán bộ thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững

kịp thời những biến động về phía khách hàng trên cơ sở đó giúp ngân hàng chủ động

trong việc quản lí và điều tiết các hoạt động tín dụng ở đơn vị mình.

Trong kế hoạch đào tạo cán bộ phải chú ý tới yếu tố hiệu quả và chất lượng

100

đào tạo, đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng cán bộ mang lại hiệu quả thiết thực

tránh đào tạo tràn lan, chương trình đào tạo phải phù hợp với công việc và nhiệm vụ

được giao.

Công tác đào tạo cán bộ cũng cần phải chú ý đến mặt tư tưởng của cán

bộ tín dụng. Cần tránh tối đa tâm lí chủ quan hoặc quá tin tưởng vào mối

quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và nới lỏng qui chế cho vay, không

thực hiện và tuân thủ đúng trình tự để tạo ra sơ hở cho các khách hàng lợi

dụng. Cũng như vậy với tâm lý cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng

địa bàn. Cán bộ tín dụng cần phải xác định rằng cạnh tranh ở trong giá cả và

chất lượng mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng, ở sự thuận tiện và thái

độ phục vụ nhiệt tình tận tuỵ, ở những thông tin tư vấn có giá trị chứ không

phải là bỏ qua trình tự của qui chế. Và khi cho vay cán bộ tín dụng không

được chỉ chạy theo số lượng mà quên đi yếu tố quan trọng khác đó là chất

lượng của khoản vay. Ngược lại cũng cần phải tránh tâm lý co cụm của các

cán bộ tín dụng. Tức là nhiều khi do sợ phải gánh chịu trách nhiệm với

những khoản mình cho vay, khi tổn thất thì cán bộ tín dụng phải bồi thường

hoặc chuyên đi đòi nợ, nghỉ việc... nên các cán bộ tín dụng tỏ ra quá cứng

nhắc và không dám cho vay.

Tuyển dụng đầu vào tốt, ngoài tuyển dụng cán bộ có trình độ chuyên ngành

có thể tuyển dụng các kỹ sư giỏi thuộc các ngành khác sau đó đào tạo về nghiệp vụ

ngân hàng để làm cán bộ tín dụng. Mặt khác phối kết hợp chặt chẽ với các ngành

kinh tế, kỹ thuật của tỉnh, thành lập các tổ hoặc phòng tư vấn đầu tư với mục đích

thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.

Tăng cường công tác thẩm định cho cán bộ tín dụng, tuân thủ chặt chẽ

và có hiệu quả hơn nữa qui chế tín dụng ( Hướng dẫn qui trình nghiệp vụ tín

dụng của Ngân hàng ngoại thương ban hành kèm theo quyết định 240 tháng

09/98), đặc biệt đối với cả ba giai đoạn cho vay. Yêu cầu đối với mỗi cán bộ

tín dụng phải nắm vững thực trạng và xu hướng biến động của ngành mình

101

đang phụ trách cho vay. Khi thẩm định dự án hoặc phương án các con số

phải phản ánh được hết các chi phí kinh tế của dự án, phương án xem nó có

hợp lý với điều kiện thực tế hay không. Trong các lần đi khảo sát tại cơ sở

đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có được các đánh giá sát thực và khách quan

tình trạng kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa nghiệp vụ cho vay không

chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Muốn hiểu được

khách hàng thì không thể chỉ qua các báo cáo hay những trình bày của khách

hàng mà đôi khi còn cần dựa vào khả năng mẫn cảm của nghề nghiệp, những

kinh nghiệm trong nghề ...

7. Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ,

thể lệ tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh :

Tình hình chung của nước ta hiện nay là những hiểu biết về hoạt động

tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường của các từng lớp dân cư vẫn còn

hạn chế. Do đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các doanh

nghiệp, hộ tư nhân cá thể nắm vững được các chủ trương chính sách đổi mới

của Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế cho khách hàng biết được

ngân hàng đã áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế

thị trường để họ thấy được những thiện chí của Ngân hàng, thấy được những

lợi ích của mình trong quan hệ với Ngân hàng. Mặt khác quảng cáo làm cho

khách hàng hiểu được cơ chế hoạt động, nghiệp vụ của ngân hàng để có

được sự thông cảm trong quan hệ giữa hai bên, thấy được quyền lợi cũng

như trách nhiệm của họ đối với ngân hàng.

Trong thời gian tới chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh

nên tiến hành một số biện pháp quảng cáo sau:

- Quảng cáo qua quan hệ giao dịch trực tiếp với khách hàng trong quá

trình giải quyết nghiệp vụ cho vay. Đây là hình thức quảng cáo đơn giản

nhất và cũng là hình thức ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả tương đối cao. Do

102

đó, phong cách làm việc của cán bộ tín dụng trong giao dịch với khách hàng

là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà

còn phải có thái độ tận tình lịch thiệp với khách hàng. Từ chỗ thoả mãn một

cách tốt nhất những nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng không chỉ giữ được

những khách hàng quen thuộc mà còn thu hút thêm được những khách hàng

mới tới đặt quan hệ giao dịch từ đó mở rộng được công tác tín dụng.

- Ngoài ra hình thức quảng cáo tương đối phổ biến hiện nay là quảng

cáo qua hệ thống thông tin đại chúng như đài, báo, vô tuyến truyền hình...

hình thức này tỏ ra rất có hiệu quả trong việc tuyên truyền các thể thức giao

dịch, các đợt phát hành kỳ phiếu, áp dụng các hành thức cho vay mới... Đây

là một công cụ cạnh tranh tương đối mạnh của ngân hàng trên thế giới nhằm

khuyếch trương uy tín cũng như sản phẩm của mình trên thị trường, tuy

nhiên ở Việt nam hình thức này còn rất hạn chế, chủ yếu được tiến hành ở

một số ngân hàng nước ngoài. Để làm được những công việc trên thì chi

nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh cũng cần phải có một tổ chuyên

nghiên cứu, thu thập những thông tin về thị trường, chi nhánh cần phải biết

được hiện nay khách hàng đang cần hình thức tín dụng nào, loại lãi suất nào

là phù hợp nhất, phương thức thu nợ gốc và lãi như thế nào được ưa chuộng

hơn cả... chỉ có làm như vậy thì Ngân hàng mới có thể là người bạn đồng

hành của doanh nghiệp trong thương trường kinh doanh.

- Tiến hành đổi mới chính sách khách hàng: Việc đổi mới này thu hút

hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín

dụng của ngân hàng trên địa bàn Quảng ninh. Trên cơ sở đó việc đổi mới là

phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh chóng bằng công nghệ

hiện đại các tiện ích nhằm giúp các khách hàng có điều kiện cạnh tranh lành

mạnh, đem lại hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Ngân hàng phải có chính

sách ưu đãi về vật chất đối với khách hàng ngoài quốc doanh, phù hợp với

103

chiến lược kinh doanh từng thời kỳ. Những khách hàng có uy tín, có quan hệ

tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì được giảm lãi suất tiền

vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ.

III/ Kiến nghị:

Xuất phát từ những hạn chế tồn tại trong công tác cho vay đối với kinh tế

ngoài quốc doanh không chỉ do chủ quan của Ngân hàng mà còn bao gồm cả môi

trường kinh tế chính trị văn hoá xã hội trong khu vực và cả những chính sách chế độ

của nhà nước của các ban ngành, nên để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối

với kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết

công ăn việc làm thì không những đòi hỏi sự nỗ lực của chính Ngân hàng mà còn

cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành các cấp. Từ thực trạng những khó khăn

vướng mắc trong công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân hàng

ngoại thương Quảng ninh nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung, bài viết xin có

một số kiến nghị sau:

1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của nhà nước :

1.1.Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình:

- Trong thời gian qua nhà nước đã có những chủ chương chính sách nhằm

phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước thông qua việc khuyến khích phát

triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua cơ chế

chính sách thay đổi thường xuyên ( chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai

...) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược

kinh doanh của các doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân

hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng

thương mại còn đang phải khắc phục. Vì vậy nhà nước cần ban hành các chính sách

vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

cũng như của Ngân hàng, chẳng hạn như : Sớm ban hành các chính sách cụ thể liên

104

quan đến việc cho thuê đất hoặc có thể giao đất trong thời gian dài, ổn định đối với

doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này yên tâm đầu tư vào sản

xuất kinh doanh , tạo môi trường hoạt động tín dụng lành mạnh, giúp ngân hàng yên

tâm đầu tư vốn hỗ trợ kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Bên cạnh đó nhà nước

cũng cần có chính sách hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, tư vấn về cơ cấu ngành nghề...

cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh trong những lĩnh

vực ít sinh lời nhưng giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động.

- Tạo lập pháp chế bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng thương mại thành

lập công ty chuyên trách về bảo hiểm tín dụng để kịp thời bù đắp những rủi ro tổn

thất không thu được nợ do các nguyên nhân khách quan như bị thiên tai, hoả hoạn,

mất mùa... và các nguyên nhân do thay đổi cơ chế chính sách về quản lý kinh tế.

Trước mắt, trong khi chưa có cơ quan bảo hiểm tín dụng thì việc trích lập quỹ đề

phòng rủi ro tín dụng nên lấy căn cứ vào mức dư nợ tín dụng. Dư nợ tín dụng được

phân loại trên cơ sở đó xây dựng tỷ lệ trích cho phù hợp để phản ánh đúng tính chất

của phòng ngừa rủi ro. Việc trích quỹ nên tiến hành vào cuối các quý trên cơ sở dư

nợ tín dụng phát sinh trong các quý, và vào sự đánh giá thực trạng dư nợ tín dụng.

Số trích quỹ tuyệt đối phải tính cả tới phần chênh lệch ( thừa hoặc thiếu) của các

khoản trích quý trước.

- Để các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay đối với kinh tế ngoài quốc

doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không

nên hình sự hoá hoạt động Ngân hàng, những cá nhân cán bộ Ngân hàng tiêu cực

tham nhũng cần phải được sử lí thích đáng, nghiêm minh kể cả bằng pháp luật.

Nhưng đối với những rủi ro trong kinh doanh thì các ngành chức năng cần tạo điều

kiện hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ, tranh chấp thì xử lý theo luật dân sự.

1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp là

kinh tế ngoài quốc doanh:

- Cần gắn trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép thành lập , giấy phép

đăng ký kinh doanh với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy mới

105

có được sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả từ phía các cơ quan hữu quan tới

toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và có cơ sở

pháp lý cho Ngân hàng có các biện pháp phối hợp khi cần thiết.

Qui mô nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác

định trong giấy phép phải phù hợp với qui mô nguồn vốn và năng lực sản

xuất kinh doanh cũng như trình độ quản lí của doanh nghiệp. Điều này sẽ

giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách hữu hiệu nhất nhằm bảo đảm

tính an toàn và hiệu quả kinh tế cho không chỉ nguồn vốn tự có của doanh

nghiệp mà cả nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó đối với các

hành vi vi phạm pháp luật như: Buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, lừa

đảo... cần thẳng thắn nghiêm trị, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy

phép kinh doanh, giấy phép thành lập để kiên quyết loại ra khỏi thị trường

những phần tử kinh doanh không lành mạnh, gây lũng đoạn cho nền kinh tế,

đó cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn rủi ro cho tín dụng Ngân

hàng, đồng thời Ngân hàng có điều kiện mạnh dạn mở rộng hoạt động tín

dụng.

Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc chấp hành pháp lệnh kế toán

thống kê đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:

- Một thực trạng rất phổ biến trong những năm qua là tình trạng không

tuân thủ một cách nghiêm túc pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh

nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Những doanh nghiệp này

thường có từ hai đến ba quyển sổ ghi số liệu tình hình sản xuất kinh doanh

rất trái ngược nhau. Đối với cơ quan thuế thì họ đưa ra những số liệu chứng

minh rằng doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, để tránh phải nộp thuế cho

nhà nước, còn khi vay vốn Ngân hàng thì hoàn toàn ngược lại, những số liệu

của họ chỉ ra rằng doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, tình hình sản xuất kinh

doanh ổn định và họ tìm đủ mọi cách để vay được vốn của Ngân hàng. Từ

đó cho thấy Ngân hàng khó có thể đánh giá một cách chính xác thực trạng

106

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nếu như không có sự hỗ trợ từ

phía nhà nước. ở nước ta hiện nay có một số công ty kiểm toán đang hoạt

động nhưng mới chỉ dừng lại ở một số thành phố lớn như thành phố Hà nội,

thành phố Hồ Chí minh và mới chỉ kiểm toán được một số doanh nghiệp nhà

nước lớn chứ chưa đáp ứng được với tình hình thực tế hiện nay. Do vậy,

Ngân hàng cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định khả năng

tài chính của khách hàng. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần có các

biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục buộc doanh nghiệp phải chấp hành

nghiêm chỉnh các chế độ về kế toán và thống kê do Bộ tài chính qui định.

Chuẩn bị các điều kiện và sớm có các qui định thực hiện chế độ kiểm toán

bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp

ngoài quốc doanh. Cần có các qui định chính thức, chẳng hạn như doanh

nghiệp và tổ chức nào không tuân thủ theo chế độ kế toán qui định sẽ bị thu

hồi giấy phép đăng ký kinh doanh, đình chỉ sản xuất kinh doanh... Nhằm

từng bước đưa các doanh nghiệp đi vào qũy đạo hoạt động chung của một

nền kinh tế có tổ chức và có pháp luật.

1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng:

Thủ tục công chứng hiện nay đang là một nhân tố chính kìm hãm việc

vay vốn Ngân hàng của các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài

quốc doanh nói riêng. Tình trạng quá tải và chỉ có ở trung tâm thành phố, thị

xã của các cơ quan công chứng nhà nước, việc thu lệ phí công chứng (0,2%

trên tổng số tiền vay) quá lớn, đây là những nguyên nhân gây phiền hà, mất

thời gian và tiền của của khách hàng. Vì vậy, để giải quyết được thực trạng

trên trong thời gian tới nhà nước phải có chính sách cơ cấu lại bộ máy tổ

chức của cơ quan công chứng nhà nước sao cho vừa tiết giảm được chi phí

quản lý, đồng thời vừa tiến hành được nhanh gọn và đạt hiệu quả cao các

hoạt động của mình và giảm lệ phí công chứng chỉ nên ở mức 0,05% trên

tổng số tiền vay là hợp lí nhằm giúp cho người vay không bỏ lỡ cơ hội kinh

107

doanh và giảm được chi phí trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Đồng thời nhà nước cũng cần qui định rõ trách nhiệm cụ thể của

công chứng viên nhà nước trong hoạt động công chứng. Điều này đặc biệt

quan trọng trong trường hợp xảy ra tranh chấp, kiện tụng, đồng thời cũng

thông qua đó các công chứng viên nhà nước sẽ phải có trách nhiệm hơn

trong công việc của mình.

1.4/ Cần chấn chỉnh việc cấp giấy phép kinh doanh:

Hiện nay việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp

tư nhân vẫn diễn ra tự phát chưa có được tư vấn và hỗ trợ từ các cơ quan có

chuyên môn và thẩm quyền. Việc điều tra thị trường, xác định mục tiêu kinh

doanh rất hạn chế dẫn đến các doanh nghiệp ra đời tính khả thi không cao.

Bước vào hoạt động nhiều doanh nghiệp đã vấp phải không ít khó khăn trở

ngại dẫn đến thua lỗ, phá sản. Do đó, trước khi thành lập doanh nghiệp nhà

nước cần có các tổ chức tư vấn về cơ cấu ngành nghề, mô hình doanh nghiệp

để chủ doanh nghiệp chọn loại hình doanh nghiệp và cơ cấu ngành

nghề cho phù hợp. Đồng thời nhà nước sớm ban hành những văn bản hướng

dẫn, chỉ đạo việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh phù hợp

với khả năng đầu tư của chủ đầu tư. Việc cấp giấy phép một cách ồ ạt đã dẫn

đến tình trạng nhà nước không quản lí được các hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong những

lĩnh vực không có trong giấy phép kinh doanh nhưng vẫn không bị ngăn chặn kịp

thời, chỉ tới khi doanh nghiệp làm ăn đổ bể rồi thì mới bị các cơ quan nhà nước phát

giác nhưng lúc đó thì đã quá muộn. Những ngưòi chịu thiệt hại ở đây không ai khác

là Nhà nước, các Ngân hàng và người dân. Vì vậy việc cấp giấy phép thành lập và

đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp phải được kiểm soát một cách chặt chẽ và

phải căn cứ vào khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng như nhưng kiến thức tối

thiểu cần phải có trong lĩnh vực kinh doanh được chọn.

108

1/ Những kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước:

2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng:

Ngày 30/09/1998 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt nam đã ban hành

quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1về qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với

khách hàng. Nhìn chung nội dung của qui chế này phù hợp với luật Tổ chức tín dụng

cũng như phù hợp với tình hình kinh tế Việt nam hiện nay. Tuy nhiên, có một số qui

định trong quy chế theo tôi trong giai đoạn trước mắt là chưa phù hợp cần phải điêù

chỉnh để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng:

Theo qui chế cho vay đối với khách hàng thì một khách hàng được vay nhiều

tổ chức tín dụng hay nhiều Tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng. Nhờ cơ

chế cho phép mà các khách hàng vay vốn có quyền lựa chọn Tổ chức tín dụng phù

hợp để quan hệ giao dịch, quan hệ vay vốn để thực hiện các dự án hoặc phương án

sản xuất kinh doanh. Điều này còn có tác động tích cực đến sự cạnh tranh của các

Ngân hàng thương mại, đó là việc đổi mới phong cách làm việc, mở rộng các nghiệp

vụ đầu tư cho vay, tăng cường mở rộng các dịch vụ Ngân hàng nhằm thu hút khách

hàng nhờ đó mà hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển, khẳng định là

ngành tiên phong trong cơ chế thị trường. Nhưng, trong điều kiện hiện nay ở Việt

nam, do điều kiện thông tin chưa phát triển để được cung cấp một cách đầy đủ và

kịp thời và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, khi

được Ngân hàng cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Các doanh

nghiệp sử dụng số tiền vay này nhằm mục đích mua nguyên vật liệu, thuê nhân công

... có tính chất ngắn hạn phục vụ cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh, kết thúc sẽ

giải phóng vốn trả lại cho Ngân hàng. Đối với Ngân hàng đây lại là tài sản có mang

tính ngắn hạn. Đặc điểm của nó là không lớn, rất nhiều món vay khó quản lý, việc

điều tra cho vay phức tạp vì không có dự án để thẩm định. Thời gian cho vay lại

ngắn nên dễ bị chiếm dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. đây cũng chính là

khâu cho vay có nhiều sơ hở gây nên nợ quá hạn cao đối với thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh hiện nay. Chính vì vậy hiện nay cần khống chế một doanh nghiệp

109

chỉ được vay vốn lưu động ngắn hạn tại một Ngân hàng trên địa bàn mà doanh

nghiệp đóng trụ sở chính. Tất nhiên doanh nghiệp vẫn có quyền lựa chọn Ngân hàng

để vay.

2.2/ Đối với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng:

Ngày 29 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã ban hành nghị định

178/1999/NĐ-CP quy chế về đảm bảo tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình

thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo quy định của

luật tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lí quan trọng hướng dẫn các tổ chức tín

dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lí

để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay. Theo quy định của nghị định này,

tổ chức tín dụng có quyền chủ động sử lí tài sản đảm bảo tiền vay thu hồi nợ. Cụ

thể là khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện

không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng thì tài sản đảm bảo tiền vay được sử

lí theo phương thức đã thoả thuận trên hợp đồng. Trường hợp các bên không sử lí

được tài sản bảo đảm tiền vay theo phương thức đã thoả thuận, thì tổ chức tín dụng

có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ và uỷ quyền

cho bên thứ ba sử lí tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không

sử lí được do không thoả thuận được giá bán thì tổ chức tín dụng có quyền định giá

bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ sử lí tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ đi các

chi phí sử lí thì tổ chức thu theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác

( nếu có ).

Tuy nhiên, trong thực tế việc ngân hàng lấy được tài sản thế chấp thu hồi nợ

đã gặp nhiều trở ngại như: bên đi vay không tự nguyện bàn giao tài sản cho ngân

hàng, thân nhân bên thế chấp tài sản thường đe doạ cán bộ ngân hàng trong khi làm

nhiệm vụ phát mại tài sản... Do vậy, những quy định trên đây của nghị định 178

phải được Ngân hàng Nhà nước Việt nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan

như: Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục Địa chính ... sớm có thông

tư hướng dẫn thì nghị định bảo đảm tiền vay mới có thể thực hiện trên thực tế một

110

cách đồng bộ và có hiệu quả trong cuộc sống.

2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng:

Ngân hàng thương mại khi cho bất cứ một khách hàng nào vay thì đều cần

phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay

được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào

cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các nguồn vốn vay. Đó là chưa nói tới

những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng

Comment [M1]:

vốn bất hợp pháp, gây rủi ro, tổn thất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng

muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ

cho công tác này. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín

dụng và kinh doanh ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ

trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở

thành hệ thống thông tin tín dụng ( gọi tắt là CIC ) của ngành Ngân hàng.

Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục

vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên

do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và

hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập

thông tin và xử lí thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến động của

CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy

thấp đã khiến cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài

liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng

trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng

cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực

hiện đúng và đầy đủ Pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không

kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía

các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, xác

nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách

hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền

111

lợi riêng cho mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho

Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư

nợ của doannh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến

cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng thương mại Việt nam chiếm tỷ

lệ cao, vượt mức cho phép. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện

pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt

động cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các

Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC

coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình.

2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt:

Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng là một trong những

chức năng quan trọng của các Ngân hàng, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ

khác, các ngân hàng phải luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ thanh toán để

thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng, phát triển.

Khi công nghệ thanh toán phát triển, đủ điều kiện cung cấp các tiện ích và lợi

ích cho khách hàng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng nhà

nước cần qui định không phát tiền vay bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán mà

phải giải ngân tiền cho vay bằng các phương thức chuyển khoản để thanh toán theo

tiến độ thực hiện hợp đồng giữa bên vay tiền và bên cung ứng hàng hoá hay dịch

vụ. Xin đừng cho rằng việc này là do Ngân hàng làm khó dễ mà nó chính là cái chìa

khoá bảo vệ an toàn Ngân hàng và các bên liên quan, hướng tiền vay được sử dụng

đúng mục đích.

3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng ngoại thương Trung ương:

3.1/Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn:

Để thu được lợi nhuận cao, ngân hàng phải mở rộng được tín dụng của mình

đối với các thành phần kinh tế. Để làm được điều đó thì trước tiên ngân hàng phải

tiến hành cải cách thủ tục vay vốn. Hiện nay rất nhiều khách hàng là các doanh

112

nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng

để vay được vốn của ngân hàng thì cần phải có quá nhiều điêù kiện liên quan đến

nhiều loại giấy tờ và tốn rất nhiều thời gian. Mặc dù nước ta đã chuyển từ nền kinh

tế, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước được

hơn 10 năm nhưng những lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn

còn mang nặng những nét đặc trưng của thời kỳ bao cấp, vẫn còn tình trạng nhiều

cửa gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, vẫn còn cảnh phải xếp hàng để chờ

được công chứng giấy tờ do cơ quan nào cũng đòi hỏi phải công chứng giấy tờ mà

đôi khi không thật sự cần thiết dẫn đến tình trạng quá tải, có hiện tượng tiêu cực,

mất lòng tin vào nhà nước. Vì vậy, để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận

lợi nhanh chóng. Đề nghị ngân hàng ngoại thương Trung ương cho phép bỏ những

thủ tục giấy tờ thực sự không cần thiết như : không yêu cầu khách hàng phải có

chứng thực của công chứng “ sao y bản chính” các quyết định thành lập, giấy phép

kinh doanh, báo cáo tình hình tài chính... khi đến vay vốn khách hàng xuất trình

bản chính để ngân hàng kiểm tra xem xét sau đó trả lại bản chính cho khách hàng,

ngân hàng chỉ cần lưu hồ sơ tín dụng là bản sao không cần có chứng thực của công

chứng, chỉ yêu cầu khách hàng công chứng hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo

cho món vay có giá trị trên 50 triệu đồng còn những hợp đồng cầm cố tài sản là

giấy tờ có giá hoặc hợp đồng thế chấp tài sản để bảo đảm cho món vay có giá trị

dưới 50 triệu đồng hệ số rủi ro thấp thì không nhất thiết phải có chứng thực của cơ

quan công chứng.

Đối với phương án kinh doanh và đơn xin vay vốn không đòi hỏi khách hàng

phải có xác nhận của chính quyền địa phương vì đối với khách hàng là thể nhân thì

họ chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và phương án hoặc dự án

kinh doanh là đủ điều kiện để xem xét cho vay còn việc xác nhận của chính quyền

địa phương là thừa và “ không nói lên điều gì ”.

Về điều kiện vay vốn, khách hàng chỉ cần có những điều kiện cơ bản sau:

- Có giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh hợp pháp

113

- Tình hình tài chính lành mạnh,có dự án hoặc phương án kinh doanh khả thi

- Có tài sản bảo đảm nợ vay theo qui định của pháp luật .

Để chủ động trong cho vay vốn, hạn chế những sơ xuất không đáng có Ngân

hàng Ngoại thương Trung ương cần xây dựng và qui định mẫu các hợp đồng tín

dụng và hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản, các qui định trong hợp đồng mẫu vừa

phải đảm bảo đúng các qui định của pháp luật vừa phù hợp với thực tiễn của hoạt

động tín dụng và tình hình cụ thể từng địa phương nhưng lại phải vừa chặt chẽ, dễ

hiểu và ngắn gọn. Đây thật sự là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và giải

quyết.

Đặc biệt đối với cho vay cầm cố và chiết khấu chứng từ có giá, Ngân hàng

ngoại thương trung ương phải có hướng dẫn riêng, cụ thể với thủ tục gọn nhẹ, giải

quyết cho vay nhanh chóng để thu hút những khách hàng này đến vay vốn, vì

những món vay này tài sản bảo đảm nợ vay có tính lỏng cao, đảm bảo an toàn vốn

vay.

3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng:

Cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ hơn nữa công tác kiểm soát trong nội

bộ ngân hàng nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác

tín dụng. Nội dung kiểm tra hoạt động tín dụng bao gồm: Kiểm tra hồ sơ cho vay,

thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ, mức tín dụng được cấp, tài sản bảo đảm nợ vay.

Ngoài việc kiểm tra cần phải đi vào xem xét về mục đích sử dụng tiền vay,

khả năng trả nợ trực tiếp của một số khách hàng vay vốn để có ý kiến với lãnh đạo

và cán bộ tín dụng có liên quan.

Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng, song

ở đây Ngân hàng chỉ nên tập trung vào một số những vấn đề mà hay có những sai

sót trong thực hiện. Đây cũng là nội dung mà ngân hàng cần quan tâm trong công

tác kiểm soát nội bộ.

Cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích tín dụng và phân loại khách

114

hàng nhằm tìm ra những biện pháp cho vay, đầu tư và quản lý vốn cho vay có hiệu

quả. Bên cạnh đó, cần tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng hiện hành

qua đó rút ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan phát sinh nợ quá hạn, nợ

khó đòi để đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả. Kiến nghị tập trung thu hồi dứt

điểm các loại nợ khê đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn; tiến hành sử lý các rủi ro phát

sinh từ trước đến nay theo chế độ hiện hành.

Mỗi lần Ngân hàng tiến hành kiểm tra về toàn bộ hoặc một phần công tác tín

dụng phải có biên bản ghi rõ những việc đã kiểm tra và các ưu đIểm, khuyết điểm

của đơn vị. Giám đốc chi nhánh phải chịu trách nhiệm sử lý những kiến nghị của

kiểm soát và baó cáo kết quả với Ngân hàng ngoại thương Trung ương.

3.3/ Qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc

thực hiện nghiệp vụ tín dụng:

Để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với các thành phần kinh tế,

Ngân hàng ngoại thương Trung ương cần qui định rõ trách nhiệm và quyền hạn của

cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt rõ ràng nghiêm minh. Trong trường hợp cho

vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với Ngân

hàng, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm, sử phạt hành chính, tuỳ từng trường hợp

cụ thể mà ngân hàng quy mức trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ ngân hàng làm mất

vốn như: Đối với cán bộ tín dụng có nợ khó đòi thì đình chỉ cho vay mới để thu nợ,

không được tiền thưởng, chuyển công tác khác, tìm nguyên nhân để qui trách nhiệm

đền bù vật chất ...tuy nhiên phải được miễn trừ trách nhiệm đối với những khoản nợ

quá hạn phát sinh do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ và

do thay đổi cơ chế chính sách... Không nên đề nghị quy trách nhiệm hình sự trong

trường hợp này, sẽ dẫn đến nhiều cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm nặng không giám

giải quyết cho vay, trở nên khắt khe trong việc xét duyệt cho vay, dẫn đến hoạt

động tín dụng bị co lại.

Đưa ra quy chế khoán định mức cho vay hàng năm đối với cán bộ tín dụng.

Dựa vào kết quả kinh doanh của các năm và chiến lược thị trường, các nhà lãnh đạo

115

phân bổ định mức tín dụng cho cán bộ phụ trách từng khu vực. Sự phân bổ này

nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng tích cực hơn, tự tìm đến các đơn vị, chủ thể có

yêu cầu về vốn để cho vay, giúp doanh nghiệp phát triển. Việc khoán định mức cho

vay nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm cho cán bộ hoạt động tín dụng. Tin rằng

nếu làm được vấn đề trên chúng ta sẽ tìm được ra những cán bộ tín dụng có đức, có

tài và đó là điều lý tưởng mà các nhà lãnh đạo Ngân hàng mong đợi. Đồng thời khi

cán bộ tín dụng có thành tích thì phảI khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh thần

một cách kịp thời, như thưởng tác nghiệp, nâng lương trước thời hạn, tặng giấy

khen...

Kết luận

Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng đối với

kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng và mang tính

sống còn đối với các Ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện

nay. Cùng với sự phát triển đi lên nó đã và đang tiếp tục khẳng định về sự cần thiết

và tầm quan trọng đối với nền kinh tế, vấn đề này ngày càng được quan tâm một

cách sâu sắc đối với sự ổn định và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại, hơn thế

nữa, vấn đề này không chỉ liên quan tới sự tồn tại và phát triển của bản thân các

ngân hàng mà quan trọng hơn là tới sự phát triển về mặt kinh tế của mỗi quốc gia,

trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc mở rộng và nâng cao chất lượng

công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh là một đòi hỏi mang tính cấp

thiết đặt ra cho các nhà kinh tế, đặc biệt là những người làm công tác Ngân hàng.

Qua thời gian nghiên cứu và phân tích quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân

hàng ngoại thương với kinh tế ngoài quốc doanh, đề tài đã chỉ rõ được những nội

116

dung cơ bản sau đây:

1/ Khái quát hoá được những vấn đề lí luận về kinh tế ngoài quốc doanh, vị

trí của nó đối với nền kinh tế và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài

quốc doanh ở nước ta hiện nay.

2/ Đã đi sâu nghiên cứu phân tích thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh

Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh tế ngoài quốc doanh, tìm ra được

những mặt còn tồn tại: Chính sách đầu tư tín dụng chưa đảm bảo bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế; tỷ lệ nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng ngày

càng tăng; những vướng mắc về thế chấp, cầm cố tài sản đảm bảo nợ vay; thủ tục

vay vốn rườm rà; chiến lược khách hàng chưa được quan tâm toàn diện.

Trên cơ sở phân tích thực trạng, những tồn tại và nguyên nhân rút ra trong

quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh

tế ngoài quốc doanh, đề tài đã đưa ra được 7 giải pháp và 11 kiến nghị nhằm mở

rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại

chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.

Hoàn thành bản luận văn này tôi hy vọng rằng với những kiến thức đã được

trang bị tại trường, cùng với những nhận thức mới thu nhận được của bản thân về lý

luận, thực tiễn hoạt động Ngân hàng nói chung và Ngân hàng ngoại thương Quảng

ninh nơi tôi công tác nói riêng, những giải pháp và kiến nghị tôi đưa ra sẽ đóng góp

một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối

với kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.

Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất mới mẻ, phức tạp và rộng lớn, do đó mặc dù

đã hết sức cố gắng nhưng khả năng nghiên cứu, tìm hiểu và kinh nghiệm thực tế của

bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết và có

nhiều vấn đề đưa ra chưa được giải quyết thoả đáng. Vì vậy, tôi rất mong nhận được

ý kiến đóng góp của các Thầy cô giáo và các đồng chí đồng nghiệp để bản luận văn

117

của mình được hoàn chỉnh hơn.

Tài liệu tham khảo

- Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính , tác giả FREDERIC S.MISHKIN

- Tiền tệ Ngân hàng và thanh toán quốc tế , tác giả: TS. Trần Hoàng Ngân

- Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại , tác giả DAVID COX

- Thẩm định dự án , tác giả Nguyễn Tuấn

- Ngân hàng thương mại Edward và Edward.

- Maketing Dịch vụ tài chính của TS. Nguyễn Thị Minh Hiền và TS.

Nguyễn Thế Khải.

- Thanh toán và tín dụng quốc tế , tác giả : PGS Phan Quang Tuệ

- Một số nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Tác giả : TS. Nguyễn Văn Ngôn

- Tiền tệ và ngân hàng - Hoàng Kim.

- Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao, tác Giả: TS. Tô Ngọc Hưng

TS.Nguyễn Kim Anh

- Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI , VII, VIII .

- Tạp chí cộng sản năm 1998 và 1999.

118

- Tài trợ dự án , tác giả : TS. Tô Ngọc Hưng và ThS. Trương Quốc Cường

- Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mới do Trần Thanh Sơn

và Đào Thiên Hải sưu tầm.

Luật giải thể và phá sản doanh nghiệp. -

Giáo trình toán tài chính. -

Tạp chí Ngân hàng năm 1997,1998,1999. -

- Tạp chí nghiên cứu kinh tế.

119

- Tập san Ngân hàng Ngoại thương Việt nam.