
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
"Vận động hành lang trong vụ kiện
bán phá giá cá BASA "

2
MỤC LỤC
Lời nói đầu 3
Chương 1: Ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa. 4
1.1 Tổng quan về vụ kiện cá tra, cá basa của Mỹ đối với Việt Nam
4
1.2 Quá trình vận động hành lang trong vụ kiện 8
Chương 2: Phân tích ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa.
13
2.1 Khái niêm về vận động hành lang 13
2.1.1 Định nghĩa vận động hành lang 13
2.1.2 Phương thức vận động hành lang trên thị trường Mỹ 13
2.1.3 Tác dụng và ý nghĩa của vận động hành lang 15
2.1.3.1 Tác dụng 15
2.1.3.2 Ý nghĩa 17
2.1.4 Sự cần thiết của vận động hành lang 18
2.2 Vận động hành lang trong vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam 19
2.2.1 Sự vận động hành lang của vụ kiện cá tra, cá basa 19
2.2.2 Ảnh hưởng của vận động hành lang trong vụ kiện 24
2.3 Nguyên nhân, ưu điểm, nhược điểm của Việt Nam trong vụ kiện 26
2.3.1 Ưu điểm 26
2.3.2 Nhược điểm 26
2.3.3 Nguyên nhân 27 Chương
3: Bài học kinh nghiệm và giải pháp về vận động hành lang đối với chính phủ và các
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế 29
3.1 Bài học kinh nghiệm 29
3.2 Giải pháp 31
Kết luận 33
Danh mục tài liệu tham khảo 34

3
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng
thông qua các hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia. Trong quá trình này,
hợp tác kinh tế quốc tế là khía cạnh quan trọng nhất và giành được sự ưu tiên nhiều nhất
trên các bàn đàm phán.
Cũng giống như các nước khác, Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu
hoá này. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với khoảng 170 nước trên thế giới, là thành
viên của khu vục mậu dịch tự do ASEAN, đã kí kết nhiều hiệp định song phương với nhiều
nước trên thế giới và chúng ta vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh quá trình hợp tác hoá cả về chất
lượng và số lượng, đặc biệt là về kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta mới chuyển đổi từ nền kinh
tế tập chung hoá sang nền kinh tế thị trường được một thời gian ngắn vì vậy nền kinh tế thị
trường của chúng ta còn nhiều nhược điểm và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các
doanh nghiệp còn hạn chế. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành
công nhưng chúng ta cũng gặp không ít các thất bại trên thị trường quốc tế mà lí do chính
là chúng ta không nắm rõ luật chơi trên các thị trường này. Một trong các ví dụ điển hình
là vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa của Hiệp hội các nhà
nuôi cá nheo Mỹ (CFA). Trong vụ kiện này CFA đã tận dụng hoạt động Vận động hành
lang và đây là lí do quan trọng để họ giành được chiến thắng.
Vì vậy để làm rõ về vận động hành lang và tác động của vận động hành lang đối với
hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt là đối với các tranh chấp kinh tế quốc tế tôi xin viết
đề án này với đề tài “ Ảnh hưởng của vận động hành lang tới vụ kiện cá tra, cá basa
của Việt Nam”. Do trình độ hạn chế nên đề án còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự
góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn bè để nâng cao chất lượng của đề án này và rút kinh
nghiệm cho các bài viết sau.
Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Tạ Lợi đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.

4
CHƯƠNG 1: ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN
CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
1.1 TỔNG QUAN VỀ VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm 1996. Năm
1998, lượng cá lát catfish không xương đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có
260 tấn. Nhưng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ hơn từ
0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây ảnh
hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra
của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000
xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản
phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra
khỏi thị trường Mỹ.
9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với sản
phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. CFA dựa vào Luật Ngân
sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam được nhập vào nước
này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho các
loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin,
quảng cáo... trong vòng 5 năm. Chưa dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của
đạo luật An ninh nông trại và Đầu tư nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối
trên thương hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội
Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có
catfish của Mỹ mới được gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải được gọi bằng tên basa
hay tra. Sau khi dự luật được thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ
của dư luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của dư luận thế giới. Thượng nghị sĩ Phil
Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những người kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá
gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi”. Ông Gramm
cùng thượng nghị sĩ John Mccain đưa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm

5
Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai ông đã bị bác bỏ (theo báo
Washington Post ngày 27/122001).
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA)
tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá
tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết “Ngành nuôI cá catfish Mỹ tiếp tục
chiến đấu” đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch mới chính là những ngư dân ở
thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm
catfish của toàn bộ miền Nam nước Mỹ). Nhóm ngư dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên
gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng tư vấn luật của bang, nhằm nỗ lực
chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA
Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ
tiền, kém chất lượng mà người ta không thể tìm thấy ở một xưởng sản xuất cỡ gia đình như
các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm
tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhưng “ những nhà hàng, khách
sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lượng của sản phẩm”. Phóng viên
Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những người nuôI cá catfish Mỹ không thể
chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc biệt là về
nhân công và thuế ) quá cao. Trước sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ
đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ
khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren: “ Mức giá như vậy không đủ bù cho
chi phí sản xuất. ít nhất phải bán được 65-70 cent/ pound, may ra người nuôi cá mới có thể
hoà vốn”.
Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương Quốc tế Mỹ (ITC). Họ
đã tính toán rất kĩ lưỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng được thể hiện ngay từ cách
nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng trong tuần
(thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện sẽ phải điều
trần trước ITC. Như vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3 ngày để chuẩn bị. Là đơn kiện nhưng
khối lượng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về
tình hình thị trường cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ